1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN
ĐỀ TÀI:
TẠI SAO NGƯỜI VIỆT NAM CÓ TÂM LÝ
THÍCH SINH CON TRAI
GVHD: TS. LÊ THỊ MINH HẰNG
SVTH:
1. HUỲNH THỊ KIỀU DIỄM LỚP 36K01.1
2. NGUYỄN PHAN MINH HẰNG LỚP 36K01.1
3. NGUYỄN PHƯỚC HOÀI NAM LỚP 36K01.1
4. NGUYỄN THỊ HƯƠNG LỚP 36K1.1
2. “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” (có một con trai là đã có con, có 10 con gái
coi như vẫn chưa có con). Bây giờ, nước ta không còn bị đế quốc đô hộ và bọn quan lại
phong kiến áp bức nữa nhưng tư tưởng ấy vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của nhiều
người, từ nông thôn tới thành thị, từ những người không có học đến những người trí thức
mà biểu hiện của nó là tâm lí thích có con trai hơn con gái.
Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại hàng ngàn năm nay, dựa trên ảnh hưởng
của tư tưởng Nho giáo và nhận thức của người dân về thực tiễn cuộc sống: Người đàn
ông có trách nhiệm nối dõng dòng họ, sẽ trông nom chăm sóc mồ mả tổ tiên; không có
con trai là một điều bất kính với tổ tiên dòng họ. Nam giới là nguồn lao động chính, là trụ
cột gia đình, được truyền nghề và kế thừa tài sản của gia đình và có trách nhiệm chăm sóc
cha mẹ lúc về già. Khi hệ thống phúc lợi xã hội đối với người già còn chưa phát triển,
nhất là tại các vùng nông thôn, con cái chăm sóc cha mẹ già vẫn là hết sức quan trọng.
Người già vẫn đa phần phải dựa vào sự hỗ trợ trong gia đình, đặc biệt là con trai, vì “con
trai là con mình”, còn con gái lấy chồng rồi thì là “con người ta”. Việc những gia đình,
dòng họ không có con cháu trai nối dõi hiện nay vẫn bị xem là tuyệt tự và khi bố mẹ hoặc
ông bà chết đi sẽ không có người và nơi thờ cúng là một thực tế. Thế nên phần lớn các
gia đình hiện nay vẫn phải cố đẻ cho được con trai.
Đa số người Việt đều thích “có nếp có tẻ”. Khi đã có con gái đầu lòng rồi họ càng
mong muốn có con trai. Hơn nữa, theo quy định của pháp luật, mỗi cặp vợ chồng chỉ
được phép có từ 1-2 con và điều này đã gây sức ép cho họ trong việc phải sinh được con
trai.
Thực tế, về mặt tình cảm, không ít đàn ông thích có con gái. Họ cũng thừa nhận
rằng, sự dễ thương, tình cảm của cô bé con khơi gợi vai trò người đàn ông mạnh mẽ chở
che trong họ. Ở nhiều gia đình có cả trai lẫn gái thì thường các ông bố hay chiều chuộng
và gần gũi cô con gái hơn nhưng thực ra trong vô thức họ vẫn thích có con trai. Nhiều
ông bố từng thổ lộ rằng họ thấy vui vẻ và yên tâm vô cùng khi vợ sinh được hoàng tử,
còn không ít người đón nhận tin vợ sinh công chúa, nhất là đến cô thứ hai thì lại cảm thấy
hụt hẫng, thiếu thốn.
3. Làm cha làm mẹ, ai cũng muốn con mình sung sướng. Không ít phụ nữ đã chịu
quá nhiều thiệt thòi, bất công nên họ không muốn sinh con gái vì sợ nó khổ giống mình.
Còn con trai sau này ra xã hội sẽ được ưu ái hơn về nhiều mặt. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến tâm lí muốn sinh con trai của người mẹ.
Hãy cùng nghiên cứu các các sơ đồ sau đây để hiểu rõ vấn đề:
1. Biểu đồ tương đồng
Tâm lí thích sinh con trai
Quan niệm Gia đình Xã hội
Trọng nam khinh nữ Nỗi dõi tông đường Sau này con trai
đc ưu tiên hơn trong XH
Ct là con mình, Có người hương khói Chính sách KHH GĐ
Cg là con người ta
Có nếp có tẻ Nối nghiệp
Sợ sinh CG sẽ khổ Trụ cột gia đình
Biểu đồ tương đồng
2. Biểu đồ quan hệ
4. Biểu đồ quan hệ
3. Biếu đồ cây
Trọng nam khinh nữ
Quan niệm CT là con mình,CG là con người ta
Chủ quan Có nếp có tẻ
Sợ sinh CG sẽ khổ
Nối dõi tông đường
Hệ thống
Yếu tố a/h Gia đình Có người hương khói
Tâm lí thích
Sinh CT Nối nghiệp
Trụ cột gia đình
CT được ưu tiên hơn trong XH
Khách quan
Chính sách KHHGĐ
Biểu đồ cây
5. 4. Sơ đồ thủ tục ra quyết định:
Cân bằng tâm lí
Chủ quan Khách quan
Quan niệm Gia đình
Trực tiếp thay đổi Tuyên truyền, GD Thực hiện nam nữ Đề cao
quan điểm bình đẳng giới bình đẳng vtrò
phụ nữ
X O O O
Sơ đồ thủ tục ra quyết định
Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam đã có rất nhiều hành động nhằm giảm bớt sự
kỳ thị và bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Những hành động này thậm chí đã được
thể chế hóa thành chính sách nhà nước, thành văn bản luật, chẳng hạn như Luật Bình
đẳng giới được ban hành năm 2006, và mới đây là Luật Phòng chống bạo lực gia đình.
Địa vị của phụ nữ đã được nâng cao trong các mặt của đời sống xã hội, bình đẳng giới đã
được tăng cường trong lĩnh vực lao động và việc làm, giáo dục và đào tạo cũng như trong
bộ máy chính quyền các cấp.
Mặt khác, một trong những biện pháp hết sức cần thiết và hiệu quả là tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho thế hệ trẻ nhằm giúp họ nâng cao
nhận thức và từng bước thay đổi định kiến về vấn đề này. Bên cạnh đó, cần có biện pháp
khuyến khích các gia đình quan tâm, chăm sóc hơn nữa tới phụ nữ và con gái nhiều hơn
nữa.