1. 33
L.A.Sưtramianhikôv, các động cơ điện đồng bộ có os =1dmc xét về mặt giá thành và
tổn hao năng lượng luôn ưu việt hơn so với các động cơ điện không đồng bộ có dùng
kết hợp với tụ điện để bù hệ số công suất đến os =1c . Khi 300dmP kW dùng các động
cơ điện đồng bộ có os =0,9dmc làm việc ở chế độ quá kích thích là có lợi; còn khi
1000dmP kW - dùng với os =0,8c . Các động cơ điện đồng bộ được chế tạo có công
suất đến 50000dmP kW .
Ngày nay, các động cơ điện đồng bộ được sử dụng ngày càng rộng rãi.
3.3.2. Các phương pháp mở máy động cơ điện đồng bộ
3.3.2.1. Mở máy theo phương pháp không đồng bộ
Đa số các động cơ điện đồng bộ sử dụng phương pháp mở máy này.
Quá trình mở máy không đồng bộ động cơ điện đồng bộ được chia thành hai
giai đoạn.
Giai đoạn I: khi mở máy, dây quấn phần ứng của động cơ điện đồng bộ (hình
3.8b) được nối với lưới điện. Từ trường quay phần ứng được sinh ra tác dụng tương hỗ
với dòng điện trong dây quấn mở máy (hình 3.8a), tạo nên lực điện từ F và mômen
điện từ không đồng bộ, làm quay rôto.
Dây quấn mở máy có cấu tạo kiểu
lồng sóc đặt trong các rãnh ở mặt cực, hai
đầu nối với hai vành ngắn mạch (hình 8a)
và được tính toán để mở máy trực tiếp. Ở
một số động cơ điện, các mặt cực bằng
thép nguyên khối được nối với nhau ở hai
đầu rô to bằng hai vòng ngắn mạch, thay
thế cho rôto lồng sóc để mở máy. Còn đối
với các động cơ điện đồng bộ cực ẩn, việc
mở máy theo phương pháp không đồng
bộ có khó khăn hơn, vì dòng điện cảm
ứng ở lớp mỏng mặt ngoài rô to nguyên
khối sẽ gây nóng cục bộ đáng kể. Trong
trường hợp đó, để mở máy được dễ dàng,
cần phải hạ thấp điện áp bằng cách dùng
biến áp tự ngẫu hoặc cuộn kháng.
Giai đoạn II: Ở cuối quá trình mở máy
không đồng bộ, khi 0,05s rơ le tốc độ
tác động, tiếp điểm 7 của công tắc tơ
đóng lại, còn tiếp điểm 8 bị mở ra. Kết
quả là dây quấn 2 được cấp dòng điện
kích thích và rôto của động cơ điện được
lôi vào đồng bộ sau một vài quá trình dao
động.
Hình 3.8. Cấu tạo dây quấn mở máy
của động cơ điện đồng bộ (a) và sơ đồ
mở máy không đồng bộ (b,c).