1. 34
Máy kích từ của động cơ điện đồng bộ đặt ngay trên trục của nó, thường là máy
phát điện một chiều kích thích song song (hình 3.9).
Khi mở máy theo sơ đồ hình 3.9a tiếp điểm 7 mở, còn tiếp điểm 8 đóng. Khi đó
dây quấn kích thích 2 của động cơ điện đồng bộ được nối tắt qua điện trở 6, nhờ vậy
quá trình mở máy được diễn ra trong những điều kiện thuận lợi nhất. Sở dĩ phải nối tắt
dây quấn kích thích 2 với điện trở 6, là vì nếu để hở mạch dây quấn kích thích thì lúc
bắt đầu mở máy từ trường quay phần ứng quát qua đó với tốc độ đồng bộ sẽ sinh ra
s.đ.đ cảm ứng rất lớn có thể phá hỏng cách điện dây quấn.
Động cơ điện đồng bộ được lôi vào đồng bộ một cách chắc chắn, nếu hệ số
trượt ở cuối giai đoạn I chưa kích thích thỏa mãn điều kiện:
2 2
0,04 m dm tdb
od
tdmdm
k P i
S
iGD n
(3.4)
Trong đó. odS mk -bội số mômen cực đại ở chế độ đồng bộ, khi dòng điện kích
thích định mức tdmi ; dmP là công suất định mức của động cơ điện, kW; tdbi là dòng điện
kích thích khi hòa đồng bộ; 2
GD là mômen động lượng của động cơ điện và cơ cấu nối
trục với nó, 2
.kG m ; 2
dmn - tốc độ quay định mức của động cơ điện, vg/ph.
Hình 3.9. Sơ đồ mạch kích thích của động cơ điện
đồng bộ với máy kích từ lúc mở máy có dây quấn
kích thích được nối tắt qua điện trở triệt từ (a)
và được nối thẳng vào máy kích từ (b)
Mở máy theo sơ đồ hình 3.9b diễn ra trong những điều kiện kém thuận lợi hơn:
- Thứ nhất, vì động cơ điện đồng bộ được kích thích quá sớm sẽ tạo nên dòng
điện ngắn mạch:
2 2 2
(1 )
(1 )
n
u d
s E
I
r s x
(3.5)
Trong đó
E-s.đ.đ cảm ứng bởi dòng điện kích thích ti ; dx - điện kháng đồng bộ dọc trục,
khi s=0.
Do đó, động cơ điện phải tải thêm công suất:
2
un nP mI r (3.6)
Và trên trục động cơ điện có thêm momen cản: