Kinh nghiệm của ASEAN về giải quyết tranh chấp lãnh thổ biển
Toa an quoc te ve luat bien
1. VÀI NÉT VỀ TOÀ ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN
Ngày 16/11/1994, Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 (sau đây
gọi là Công ước 1982) đã có hiệu lực. Với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục, một
bản hiến chương đồ sộ điều phối hoạt động của con người trên 70% bề mặt của trái đất
bị bao phủ bởi các biển và đại dương đã bước vào đời sống của nhân loại. Trong lịch sử
loài người, sự kiện này có thể so sánh với việc Christopher Columbus phát hiện ra châu
Mỹ 500 năm trước đây, ngày 12/10/1492.
Ngày nay, do sự cạn kiệt tài nguyên đất liền, sự bùng nổ dân số, sự phát triển của
luật pháp, các nước đều có nhu cầu mở rộng quyền lực của mình ra các vùng biển tiếp
liền với lãnh thổ. Mâu thuẫn giữa hai nguyên tắc nền tảng trong luật biển là chủ quyền
quốc gia và tự do trên biển ngày càng trở nên gay gắt. Để giải quyết các tranh chấp có
thể xảy ra giữa các quốc gia thành viên về việc giải thích hay áp dụng Công ước 1982,
Công ước quy định các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ giải quyết mọi tranh chấp
giữa họ bằng các phương pháp hòa bình theo đúng điều 2 khoản 3 của Hiến chương
Liên hợp quốc. Bất kỳ một quốc gia thành viên nào tham gia vào một vụ tranh chấp liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đều có thể yêu cầu quốc gia khác hay
các bên khác đưa vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục mà Công ước đã quy định tại
Mục 1 của Phụ lục V. Trong trường hợp khi tranh chấp không thể giải quyết được bằng
thủ tục hoà giải thì theo yêu cầu của một bên tranh chấp, vụ việc có thể được đưa ra
trước các toà án có thẩm quyền, trong số đó có Toà án quốc tế về Luật biển, cơ quan tài
phán quốc tế mới được lập ra trong khuôn khổ của Công ước.
Cuộc bầu cử đầu tiên để thành lập Toà án quốc tế về Luật biển, theo quy định của
Công ước, phải được diễn ra chậm nhất là sáu tháng sau ngày Công ước có hiệu lực, tức
là tới ngày 16/5/1995. Tuy nhiên, phải tới ngày 1/8/1996, cuộc bầu cử các quan toà của
Toà án quốc tế về Luật biển mới được tổ chức. Điều này cũng có những lý do riêng của
nó. Tại Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển (1973-1982), trước việc các
quốc gia đang phát triển đòi hỏi phải xây dựng lại một trật tự pháp lý trên biển mới
công bằng, Mỹ và một số nước tư bản phát triển chống đối, đòi xét lại Phần XI của dự
thảo Công ước về chế độ pháp lý của Vùng - di sản chung của loài người (Vùng là đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển của biển cả nằm ngoài các vùng biển thuộc quyền tài
phán quốc gia) và thể thức điều hành của Cơ quan quyền lực Vùng. Thái độ này của Mỹ
đã cản trở việc đầu tư kỹ thuật cao vào khai thác Vùng. Để Công ước thực sự có tính
phổ thông, tạo điều kiện cho các cường quốc tham gia, phát huy được sức mạnh của các
khu vực và các hệ thống pháp lý khác nhau trên thế giới, trên cơ sở có sự nhân nhượng
của các nước đang phát triển, theo sáng kiến của Tổng thư ký Liên hợp quốc, một Thoả
thuận mới đã được ký kết vào ngày 29/7/1994 cho phép thay đổi nội dung Phần XI của
Công ước, đồng thời kéo dài thời gian chuẩn bị thành lập các cơ quan quốc tế do Công
ước quy định như Toà án quốc tế về Luật biển, Cơ quan quyền lực Vùng. Tới nay các
cường quốc lớn như Đức, úc, Nhật, Anh, Trung Quốc đều đã phê chuẩn Công ước.
Toà án quốc tế về Luật biển đặt trụ sở chính thức tại Hăm buốc thuộc Cộng hoà
Liên bang Đức.
1
2. Số thành viên của Toà án gồm 21 quan toà độc lập được tuyển chọn trong số các
nhân vật nổi tiếng nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực rõ ràng trong lĩnh vực
luật biển.
Việc lựa chọn được tiến hành trên các nguyên tắc:
- Thành phần của Toà án phải bảo đảm có sự đại diện của các hệ thống pháp lý
chủ yếu của thế giới và một sự phân chia công bằng về mặt địa lý.
- Mỗi quốc gia thành viên có quyền chỉ định nhiều nhất là hai người. Các thành
viên của Toà án sẽ được tuyển lựa trên danh sách đề cử. Tuy nhiên, Toà án không thể có
quá một công dân của cùng một quốc gia.
- Các thành viên của Toà được bầu bằng bỏ phiếu kín, là những ứng cử viên đạt
được số phiếu bầu cao nhất và phải được 2/3 số quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu.
Trên cơ sở này, cuộc bầu cử đầu tiên đã chọn được 21 thành viên đầu tiên chia
cho 5 nhóm nước. Khu vực châu Phi: Engo (Camơrun), 3 năm; Warioba (Tandania), 3
năm; Ndiaye (Xênêgal), 6 năm; Mensah (Gana), 9 năm; Marsit (Tuyndi), 9 năm. Khu
vực châu Á: Rao (ấn Độ), 3 năm; Akl (Li Băng), 3 năm; Zhao (Trung Quốc), 6 năm;
Yamamoto (Nhật Bản), 9 năm; Park (Triều Tiên), 9 năm. Khu vực Đông Âu: Kolodkin
(Nga), 3 năm; Yankov (Bungari), 6 năm; Vukas (Crôatia), 9 năm. Khu vực Mỹ La tinh
và vùng biển Caribê: Marotta Rangel (Braxin), 3 năm; Caminos (achentina), 6 năm;
Laing (Bêlidơ), 6 năm; Nelson (Grênađa), 9 năm. Khu vực châu Âu và các khu vực
khác: Wolfrum (Đức), 3 năm; Eiriksson (Aixơlen), 6 năm; Treves (Italia), 6 năm và
Anderson (Anh), 9 năm. Nhiệm kỳ của các thành viên là 9 năm và họ đều có quyền tái
cử. Tuy nhiên, để duy trì tính liên tục của Toà án không bị ảnh hưởng khi các thành
viên mãn hạn nhiệm kỳ, ở cuộc bầu cử đầu tiên này 7 người sẽ mãn nhiệm sau 3 năm, 7
người sẽ mãn nhiệm sau 6 năm và họ được chỉ định qua rút thăm do Tổng thư ký Liên
hợp quốc thực hiện ngay sau cuộc bầu cử đầu tiên. Điều đó có nghĩa là cứ ba năm thì
thành phần của Toà án lại được đổi mới một phần ba.
Theo nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán, một thành viên của Toà án không
thể đảm nhiệm bất kỳ một chức vụ chính trị hay hành chính nào, cũng không được chủ
động tham gia hay có liên quan về tài chính trong một hoạt động nào của một xí nghiệp
đang tiến hành thăm dò hoặc khai thác các tài nguyên ở biển hay ở đáy biển hoặc một
việc sử dụng biển, đáy biển vào mục đích thương mại khác. Thành viên của Toà cũng
không được làm những nhiệm vụ đại diện, cố vấn hay luật sư trong bất kỳ một vụ kiện
nào.
Một phiên Toà được coi là hợp lệ khi nó có đủ ít nhất 11 thành viên được bầu
ngồi xử án. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm quá trình xét xử của Toà án pháp lý quốc tế,
nhằm giải quyết nhanh các vụ kiện mỗi năm, Toà án lập ra một viện gồm 5 thành viên
được bầu để xét xử theo thủ tục rút gọn. Nếu thấy cần thiết, Toà cũng có thể lập ra các
viện gồm ít nhất là ba thành viên được bầu để xét xử các loại vụ kiện nhất định. Các
phán quyết của một trong số các viện này đều được coi như phán quyết của Toà án quốc
tế về Luật biển, chúng đều có tính chất tối hậu mà tất cả các bên trong vụ tranh chấp
phải tuân theo.
2
3. Về thẩm quyền của Toà án, Toà được để ngỏ cho tất cả các quốc gia thành viên
cũng như cho các thực thể không phải là quốc gia thành viên trong tất cả các trường hợp
liên quan đến việc quản lý và khai thác Vùng - di sản chung của loài người - hay cho
mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thoả thuận khác giao cho Toà án một thẩm quyền
được tất cả các bên trong vụ tranh chấp chấp nhận. Theo điều 297, Toà có thẩm quyền
giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước về việc
thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với
các quyền tự do của các quốc gia khác về hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn
ngầm; đối với nghiên cứu khoa học biển; đối với các tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc
quyền kinh tế.
Công ước mở rộng khả năng tự lựa chọn các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết
định bắt buộc. Điều 287 quy định khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công
ước hay ở bất kỳ thời điểm naò sau đó, để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước, quốc gia được quyền tự do lựa chọn, dưới hình
thức tuyên bố bằng văn bản một hay nhiều biện pháp sau:
a) Toà án quốc tế về Luật biển,
b) Toà án pháp lý quốc tế,
c) Một Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước,
d) Một Toà Trọng tài đặc biệt để giải quyết các tranh chấp trong từng lĩnh vực
riêng biệt như nghiên cứu khoa học biển, nghề cá, giao thông biển,... được thành lập
theo đúng Phụ lục VII của Công ước.
Quyền tự do lựa chọn cũng có thể hàm ý tồn tại tình huống không lựa chọn một
biện pháp nào. Khi đó, theo điều 287, khoản 3 của Công ước, một quốc gia thành viên
tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn có hiệu lực bảo vệ thì
được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài trù định ở Phụ lục VII. Ngược lại, quyền tự
do lựa chọn cũng dẫn tới tình huống một quốc gia có thể tuyên bố chấp nhận một thủ
tục duy nhất, hoặc hai hay nhiều thủ tục cùng lúc. Trong số 15 nước đã ra tuyên bố chấp
nhận thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc này, Vương quốc Bỉ vào lúc ký Công ước
ngày 5/12/1984 đã chấp nhận theo thứ tự: Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ
lục VII của Công ước; Toà án quốc tế về Luật biển; Toà án pháp lý quốc tế. Nga,
Ucraina và Bielorus chọn Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công
ước nhưng bảo lưu một số vấn đề cho thủ tục trọng tài đặc biệt. Cap Ve, Ôman và
Uruguay chọn Toà án quốc tế về Luật biển và thứ hai là Toà án pháp lý quốc tế. Như
vậy, sẽ có vấn đề cạnh tranh giữa danh nghĩa xét xử dựa trên điều 287 của Công ước và
danh nghĩa khác phù hợp với điều 36 khoản 2 Quy chế của Toà án pháp lý quốc tế. Trên
thực tế, điều 298 của Công ước đã loại bỏ khỏi các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết
định bắt buộc này một số loại tranh chấp sau: các tranh chấp liên quan tới việc phân
định các vùng biển giữa các quốc gia; các tranh chấp về vịnh hay danh nghĩa lịch sử;
các tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự; các tranh chấp liên quan đến các
hành động bắt buộc chấp hành đã được thực hiện trong việc thi hành các quyền thuộc
chủ quyền; các tranh chấp mà Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khi thi hành các chức
năng của mình do Hiến chương Liên hợp quốc giao phó có trách nhiệm phải giải quyết.
3
4. Là một quốc gia ven Biển Đông, nước đầu tiên thiết lập vùng đặc quyền về kinh
tế 200 hải lý trong khu vực Đông Nam Á và cũng là nước đầu tiên trong khu vực phê
chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982, nếu không kể Indonexia và
Philippin là hai quốc gia quần đảo, Việt Nam hoan nghênh sự ra đời của Toà án quốc tế
về Luật biển, đồng thời nhận thức rõ trách nhiệm sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong nước phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, điều chỉnh thống nhất các hoạt
động nhằm bảo vệ tốt nhất chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta
trên biển. Chúng ta luôn tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế giải quyết mọi
tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, đồng thời phải nâng cao năng lực của các thẩm
phán, các toà án trong việc xét xử các vụ việc liên quan đến biển và mong rằng trong
tương lai không xa, Việt Nam sẽ sớm có những người đủ năng lực trở thành các thành
viên của Toà án quốc tế về Luật biển cũng như của các cơ quan tài phán quốc tế khác,
góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam, một quốc gia ven biển quan trọng trong khu
vực và trên thế giới, góp phần bảo vệ trật tự pháp lý trên biển, giữ cho biển Việt Nam
luôn vẹn toàn, trong lành cho hôm nay và cho mai sau./.
TS. Nguyễn Hồng Thao
4