SlideShare a Scribd company logo
1 of 136
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ HƢỜNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
Tải miễn phí kết bạn zalo 0917 193 864
Dịch vụ viết luận văn chất lượng
Website: luanvantrust.com
Zalo/Tele: 0917 193 864
Mail: baocaothuctapnet@gmail.com
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ HƢỜNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƢƠNG
Hà nội – 2011
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài Luận văn Thạc sĩ, bên cạnh sự nỗ lực của bản
thân, tôi đa nhân đươc sư hương dân , giúp đỡ quý báu của các thầy cô , gia đình,
đồng nghiệp và bạn bè trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện Luận
văn Thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tơi Ban chủ nhiệm, Phòng đào tạo sau đại
học, Bô môn Luật Kinh doanh Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đa tao moi
điêu kiên thuân lơi giup đơ tôi trong qua trinh hoc tâp va hoan thanh luân văn.
Đặc biệt, vơi long kinh trong va biêt ơn sâu săc tôi xin gửi lời cam ơn chân
thành đến TS. Ngô Huy Cương, ngươi thây kinh mên đa hêt long giup đơ , đông
viên va tao moi điêu kiên thuân lơi cho tôi trong suôt qua trinh nghiên cứu và thực
hiện luân văn . Xin gửi lời tri ân nhất của tôi đối với những điều mà thầy đã dành
cho tôi.
Xin chân thanh bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể cac thây cô trong Khoa luật
– Đại học Quốc Gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng
như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và
quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
Xin gưi lời cam ơn tơi gia đình , đồng nghiệp và ban be đã luôn ơ bên canh
đông viên va giup đơ tôi trong suốt quá trình hoc tâp , làm việc và hoàn thành luận
văn.
Tác giả Luận văn
Ngô Thị Hƣờng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả Luận văn
Ngô Thị Hƣờng
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ
NHÂN .......................................................................................................................7
1.1 Tổng quan về Doanh nghiệp tƣ nhân ................................................................... 7
1.1.1 Lịch sử phát triển của Doanh nghiệp tư nhân ..................................................... 7
1.1.2 Vai trò và ýnghĩa của Doanh nghiệp tư nhân................................................... 10
1.1.3 Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân...................................................................... 15
1.1.4 Đặc trưng pháp lýcủa Doanh nghiệp tư nhân .................................................. 21
1.2 Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân ........................................................ 26
1.2.1 Khái niệm và bản chất pháp lýcủa Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư
nhân.................................................................................................................... 26
1.2.2 Pháp luật điều chỉnh Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ..................... 32
1.2.3 Hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân................................ 34
1.2.4 Đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ............................... 36
1.2.5 Chủ thể trong Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ................................ 41
1.2.6 Nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ..................... 46
1.2.7 Vi phạm Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và các chế tài.................. 49
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA
BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN................................................................. 56
2.1 Cấu trúc và nguồn pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp tƣ nhân và Hợp
đồng mua bán Doanh nghiệp tƣnhân ................................................................ 56
2.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tƣ nhân.................................................................................................... 62
2.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tƣợng của Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tƣ nhân.................................................................................................... 71
2.4 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể của Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tƣ nhân.................................................................................................... 80
2.5 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán
Doanh nghiệp tƣ nhân ........................................................................................ 84
2.6 Thực trạng pháp luật Việt Nam về vi phạm nghĩa vụ Hợp đồng mua bán
Doanh nghiệp tƣ nhân và các chế tài ................................................................. 86
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN .... 105
3.1 Những định hƣớng cơ bản................................................................................ 105
3.1.1 Chỉnh sửa và xây dựng những quy phạm pháp luật có tính chặt chẽ và phù
hợp trên cơ sở rà soát và nghiên cứu thực trạng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
tại Việt Nam ............................................................................................ 105
3.1.2 Đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp luật ........................106
3.1.3 Đảm bảo sự quản lý, điều phối của cơ quan quản lý nhà nước ......................107
3.2 Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng mua bán
Doanh nghiệp tƣ nhân ...................................................................................... 108
3.2.1 Về cách tiếp cận doanh nghiệp tư nhân........................................................... 108
3.2.2 Về hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ......................... 108
3.2.3 Về đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ......................... 109
3.2.4 Về chủ thể của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ............................. 109
3.2.5 Về nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân .............. 111
3.2.6 Về vấn đề lao động trong Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ............ 112
3.2.7 Về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và các chế tài.... 113
3.2.8 Về lựa chọn luật áp dụng ................................................................................. 114
KẾT LUẬN ................................................................................................................ . 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 118
PHỤ LỤC 01 - CÁC BẢNG SỐ LIỆU......................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CT TNHH : Công ty Trách nhiệm Hữu hạn
CTCP : Công ty Cổ phần
DNTN : Doanh nghiệp tƣ nhân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 01: Số lƣợng doanh nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình
Bảng 02: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của doanh nghiệp phân theo
loại hình doanh nghiệp (Tỷ đồng)
Bảng 03: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp phân theo loại hình (ngƣời)
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) đã mở ra cho các
Doanh nghiệp trong nƣớc nhiều cơ hội đầu tƣ, kinh doanh nhƣng cũng đem lại
không ít những khó khăn, thách thức trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp
nƣớc ngoài có quy mô và tiềm năng về vốn, về kỹ thuật, về năng lực quản lý...Trên
thực tế, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc những doanh nghiệp quản trị kém
không thể tiếp tục “chèo lái” con thuyền của mình đã phải bán doanh nghiệp hoặc
bán phần vốn góp của mình trong công ty hay sáp nhập vào công ty khác. Điều đó
đồng nghĩa với việc, có những doanh nghiệp sẽ ngày một mạnh lên nhờ công nghệ,
nhờ quản trị, nhờ sản phẩm chiến lƣợc…và sẽ luôn tìm kiếm cơ hội mở rộng hoạt
động kinh doanh của mình. Ngƣợc lại, có những doanh nghiệp ngày một suy kém
và buộc phải rút lui khỏi thị trƣờng. Một trong những hình thức tƣơng đối hữu hiệu
mà các doanh nghiệp mạnh thƣờng nghĩ đến là mua lại các công ty khác đang “hấp
hối” để tranh thủ những nguồn lực sẵn có của công ty này (nhƣ nguồn nhân công rẻ,
tay nghề tốt hay mạng lƣới cung cấp khách hàng tiềm năng hay thƣơng hiệu hàng
hóa sẵn có…). Tƣơng lai gần, việc mua bán doanh nghiệp hay chuyển nhƣợng vốn
góp sẽ ngày càng phát triển và trở thành xu hƣớng tất yếu của thị trƣờng.
Trong bức tranh chung về mua bán doanh nghiệp, thì có lẽ vấn đề mua bán
doanh nghiệp tƣ nhân (doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình) là vấn đề đầu tiên đƣợc pháp luật ghi nhận chính
thức tại Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1990
(“Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990”). Lần đầu tiên pháp luật ghi nhận quyền bán
doanh nghiệp tƣ nhân của chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân. Tuy nhiên, từ đó đến
nay khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này còn hạn chế, chƣa nêu bật đƣợc bản
chất mua bán doanh nghiệp tƣ nhân, sự khác biệt của hoạt động mua bán doanh
nghiệp tƣ nhân với các hoạt động mua bán doanh nghiệp khác. Luật Doanh nghiệp
Tƣ nhân 1990 và Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng
1
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12 tháng 6
năm 1999 (“Luật Doanh nghiệp 1999”) ra đời đã công nhận sự tồn tại và phát triển
lâu dài của kinh tế tƣ nhân, công nhận sự bình đẳng của DNTN với những loại hình
doanh nghiệp khác. Điều đó góp phần thúc đẩy sự tồn tại, phát triển của DNTN
cũng nhƣ góp một phần đáng kể cho nền kinh tế nƣớc nhà trong những thập kỷ vừa
qua. Trong đó, hoạt động mua bán DNTN chiếm một vị trí không nhỏ.
Nhƣ vậy, bên cạnh góc độ kinh tế, góc độ pháp lý của việc mua bán doanh
nghiệp nói chung và mua bán doanh nghiệp tƣ nhân nói riêng là vấn đề mà nhà
nƣớc Việt Nam cần quan tâm, nghiên cứu sâu hơn nữa để có thể xây dựng một
khung pháp lý phù hợp, đảm bảo cho các giao dịch mua bán doanh nghiệp diễn ra
đúng trình tự pháp lý, có sự quản lý của nhà nƣớc, đảm bảo sự bình ổn trong nền
kinh tế đất nƣớc, tránh lũng đoạn thị trƣờng cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi của các chủ
thể (bên mua và bên bán) trong các giao dịch.
Từ những lý luận và thực tế trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Pháp
luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân” làm đề tài nghiên
cứu thạc sĩ của mình nhằm tiếp cận, phân tích và giải quyết những vấn đề có liên
quan trực tiếp đến hợp đồng mua bán DNTN.
2 Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, cùng với sự gia tăng của các giao dịch mua bán
doanh nghiệp, số lƣợng các bài nghiên cứu cũng tăng lên. Qua tìm hiểu có thể kể
đến một số công trình và bài viết nghiên cứu có liên quan phần nào đến DNTN, hợp
đồng mua bán doanh nghiệp sau đây:
Thứ nhất, với các công trình luận án, Luận văn, có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu sau:
Luận án Tiến sỹ Luật Học (2000) của Phạm Quý Tỵ bàn về “Nhà nước quản
lýbằng pháp luật đối với Doanh nghiệp tư nhân và Công ty trách nhiệm hữu hạn”;
Luận án Tiến sỹ Luật học (2003) của Phạm Trí Tuệ bàn về “Địa vị pháp lý
của Doanh nghiệp tư nhân”;
2
Luận án Tiến sỹ - chuyên ngành Kinh tế quản lý và kế hoạch hóa kinh tế
quốc dân (2003) của Lê Anh Dũng bàn về vấn đề “Đổi mới cơ chế quản lý của nhà
nước đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh”;
Luận văn Thạc sĩ của Mai Vân Anh (2009) bàn về “Hợp đồng mua bán
Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam”.
Thứ hai, với các sách chuyên khảo, các bài viết tạp chí (báo) Việt Nam và
Quốc tế, có thể kể đến một số tài liệu sau:
Sách của tác giả Corinne Renault – Brahinsky, ngƣời dịch Trần Đức Sơn,
Nhà pháp luật Việt Pháp, Nhà xuất bản Gualino (2002), nghiên cứu về “Đại cương
pháp luật hợp đồng”;
Sách của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (2004), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội với tựa đề “Chuyên khảo luật kinh tế”;
Sách của LS.TS Nguyễn Thanh Bình (chủ biên), Nhà xuất bản Thống Kê
(2008), nghiên cứu về “Nghiệp vụ của Luật sư về Tư vấn pháp luật và Tư vấn Hợp
đồng”;
Bài viết của ThS. Bùi Xuân Hải (2008), “Vài nét về các loại hình công ty
theo Luật Công ty của Úc”;
Bài viết của tác giả Trần Thị Bảo Ánh bàn về “Thực trạng pháp luật Việt
Nam về mua bán doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học số 05/2008;
Bài viết của TS. Ngô Huy Cƣơng (2010), "Vài bình luận về pháp luật doanh
nghiệp tư nhân", Tạp chi Khoa học ĐHQGHN - Luật học, số (26);
Bài viết của Vũ Quốc Tuấn (2010) đƣợc đăng trên Báo Doanh nhân Sài Gòn
cuối tuần bàn về vấn đề “Tại sao Doanh nghiệp tư nhân chậm phát triển”;
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Oanh (2010) bàn về “Sự điều chỉnh
pháp luật về thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và
thực tiễn ở Việt Nam”;
Bài viết của ThS. Nguyễn Trí Thanh – Đại Học Hitotsubashi – Nhật bản &
ThS. Bùi Anh Tuấn – Đại học tổng hợp Columbia, Hoa Kỳ bàn về “Các bước trong
3
quy trình mua doanh nghiệp”, ngày đăng 16/01/2011, Trang Thông tin Pháp luật
Dân sự - cổng thông tin chuyên ngành dân sự;
Nhìn chung những công trình, bài nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến tổng
quan về hoạt động mua bán doanh nghiệp nói chung nhƣ lịch sử ra đời và phát triển
hoạt động mua bán doanh nghiệp trên thế giới và tại Việt Nam, khái niệm, vai trò,
ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp.... hoặc chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu những đặc trƣng pháp lý của DNTN mà chƣa đi vào phân tích cụ thể những
vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán DNTN. Do vậy, có thể nói hiện
nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc đầy đủ chi tiết về hợp
đồng mua bán DNTN theo pháp luật Việt Nam.
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
và đặc trƣng pháp lý của hợp đồng mua bán DNTN; đánh giá và phân tích thực
trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng mua bán DNTN trên cơ sở đối
chiếu, so sánh với pháp luật các nƣớc; trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị, giải
pháp để góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán
DNTN.
Để đạt đƣợc những mục tiêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu
sau: (i) Thứ nhất, nghiên cứu đặc trƣng pháp lý của loại hình DNTN và những vấn
đề lý luận về hợp đồng mua bán DNTN; (ii) Nghiên cứu, phân tích những quy định
pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán DNTN; (iii) Đánh giá, bình luận về
những ƣu điểm, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán
DNTN; (iv) Đƣa ra những kiến nghị cụ thể góp phần khắc phục những hạn chế,
thiếu sót và hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán doanh
nghiệp nói chung và mua bán doanh nghiệp tƣnhân nói riêng.
4 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về hợp đồng
mua bán DNTN và thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN.
4
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là Luận văn tiến hành nghiên cứu thực
trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về việc mua bán DNTN (có sự đối chiếu, so
sánh với một số quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1990 trở lại đây). Ngoài
ra, DNTN đƣợc đề cập tại Luận văn chính là DNTN theo nghĩa hẹp, tức một loại
hình doanh nghiệp đƣợc quy định tại Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 đƣợc
Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 (“Luật Doanh nghiệp 2005”), là DNTN do một cá
nhân làm chủ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình. Luận văn
không nghiên cứu DNTN theo nghĩa rộng, tức không nghiên cứu toàn bộ các loại
hình doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tƣ từ tƣ nhân.
5 Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thiện Luận văn, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu nhƣ: (i) phƣơng pháp duy vật biện chứng, phân tích lịch sử, phân tích,
tổng hợp, mô hình hóa, điển hình hóa... để phân tích lý giải, lập luận những vấn đề
lý luận và thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán DNTN; (ii) Phƣơng pháp so
sánh để so sánh những sự khác nhau giữa hợp đồng mua bán tài sản của doanh
nghiệp và hợp đồng mua bán DNTN, sự khác biệt của hợp đồng mua bán DNTN
với hợp đồng mua bán các loại hình doanh nghiệp khác, so sánh pháp luật Việt Nam
với pháp luật một số nƣớc trên thế giới…; và (iii) các phƣơng pháp nghiên cứu
riêng của khoa học pháp lý nhƣ: phân tích qui phạm, phân tích hệ thống, công thức
hóa qui tắc pháp lý...
6 Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn
Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên nghiên cứu một
cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng mua bán DNTN trên
cơ sở nghiên cứu những đặc trƣng cơ bản của DNTN và hệ thống các vấn đề pháp
lý có liên quan đến Hợp đồng mua bán DNTN.
Thứ hai, trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp
đồng mua bán DNTN, đã xây dựng đƣợc những định hƣớng và giải pháp mang tính
5
đặc thù để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện thời về hợp đồng
mua bán DNTN.
7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Thứ nhất, Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách bao quát, có
hệ thống lý luận pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN.
Thứ hai, Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản về hợp
đồng mua bán DNTN tại Việt Nam và đánh giá một cách tƣơng đối có hệ thống
thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTNi.
Thứ ba, Luận văn, trong phần kiến nghị những định hƣớng và giải pháp hoàn
thiện, đã đƣa ra đƣợc những định hƣớng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần xây
dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN nói riêng và
mua bán doanh nghiệp nói chung cũng nhƣ góp phần cung cấp những nền tảng pháp
lý cho các chủ thể khi tìm hiểu hay tham gia vào hoạt động mua bán DNTN tại Việt
Nam.
8 Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Mục
lục, Luận văn chia ra thành 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Khái luận về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tƣ nhân.
Chƣơng 3: Định hƣớng và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân.
6
CHƢƠNG 1
KHÁI LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN
1.1 Tổng quan về Doanh nghiệp tƣ nhân
1.1.1 Lịch sử phát triển của Doanh nghiệp tư nhân
Sự phát triển của DNTN cần đƣợc nhìn nhận, đánh giá dƣới lăng kính tổng
quan của nền kinh tế tƣ nhân nói chung, của các doanh nghiệp thuộc khối tƣ nhân
nói riêng. Vì vậy, trong phạm vi phần lịch sử phát triển này, thuật ngữ DNTN đƣợc
dùng để chỉ DNTN nói riêng và chỉ các loại hình doanh nghiệp thuộc khối tƣ nhân
nói chung.
DNTN ở Việt Nam trước thời kỳ Đổi mới
Trong bản Tuyên ngôn độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án một
trong những tội ác của thực dân khi chúng cai trị nƣớc ta là: “chúng không cho các
nhà tƣ sản của nƣớc ta ngóc đầu lên”. Do đó, khi Việt Nam bƣớc vào thời kỳ chống
thực dân Pháp với khẩu hiệu “Toàn dân kháng chiến”, Ngƣời đã kêu gọi những
ngƣời giàu góp vốn để mở công ty kinh doanh công nghiệp, nông nghiệp, thƣơng
nghiệp, tài chính, giao thông để tịch thu một cách vô điều kiện các cơ sở sản xuất tƣ
nhân. Hƣởng ứng lời kêu gọi đó, nhiều thƣơng nhân Việt Nam giàu lòng yêu nƣớc
đã đóng góp xứng đáng vào cuộc kháng chiến trƣờng kỳ 1945-1954.
Đến năm 1954, hòa bình lập lại ở Miền Bắc Việt Nam và bƣớc vào công
cuộc xây dựng lại đất nƣớc, trong khi Miền Nam Việt Nam vẫn còn dƣới chế độ Mỹ
- Diệm. Với khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, tất cả tài sản của các thành
phần kinh tế nhƣ: kinh tế cá thể ngƣời lao động ở nông thôn, các DNTN, hộ sản
xuất thủ công, hay của các DNTN nhỏ đều bị chuyển đổi thành tài sản của nhà
nƣớc. Cải cách ruộng đất ở nông thôn đƣợc nhìn nhận nhƣ một sai lầm trong phát
triển kinh tế của Việt Nam.
Vào thời kỳ đó, ở Miền Bắc có 3.065 DNTN với tổng số vốn gần 22 triệu
USD. Hình thức chủ yếu của các DNTN là DNTN một chủ hoặc một số ít là DNTN
hợp danh, các hình thức doanh nghiệp khác nhƣ: Công ty TNHH, CTCP chƣa xuất
hiện.
7
Trong vòng 6 năm, toàn bộ sở hữu tƣ nhân trong các doanh nghiệp bị quy
thành sở hữu nhà nƣớc. khu vực kinh tế tƣ nhân gần nhƣ bị tiêu diệt hoàn toàn. Nền
kinh tế Việt Nam (Miền Bắc) chỉ còn hai thành phần chủ yếu là Kinh tế nhà nƣớc và
kinh tế tập thể, một phần nhỏ là kinh tế cá thể. Hiện trạng này giống nhƣ Trung
Quốc trƣớc Cải cách mở cửa.
Sau 1975, đất nƣớc thống nhất, chính sách quốc hữu hóa tài sản của khu vực
kinh tế tƣ nhân lại đƣợc áp dụng ở Miền Nam. Gần nhƣ toàn bộ tài sản của 22.456
DNTN với giá trị khoảng 800 triệu USD đã trở thành sở hữu nhà nƣớc. Các DNTN
bị liệt vào thành phần phi xã hội chủ nghĩa và không đƣợc phép tồn tại. Cũng nhƣ ở
Trung Quốc, Doanh nghiệp ở Miền Bắc Việt Nam bị phân biệt đối xử, thậm chí còn
bị coi là thành phần phản cách mạng. Nền kinh tế Việt Nam đến giữa những năm
1980 ngày càng trì trệ, lạc hậu. Một đất nƣớc nông nghiệp với điều kiện tự nhiên
tƣơng đối thuận lợi và ngƣời dân cần cù, sáng tạo nhƣng liên tục thiếu đói, phải
trông chờ viện trợ lƣơng thực từ các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu.
Năm 1986 là năm đánh dấu một thời kỳ mới – thời kỳ Đổi mới – bằng việc
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI lần đầu tiên khẳng định cần xây dựng
một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cho dù nền kinh tế hàng hóa đó vẫn phải
theo chế độ sở hữu chung về tƣ liệu sản xuất. Thời kỳ này đánh dấu bƣớc ngoặt cho
các DNTN có cơ hội phát triển trở lại.
Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 1986 đến 1990
Bƣớc đầu nền kinh tế Việt Nam nổi lên với nền kinh tế hộ cá thể (năm 1990
số hộ kinh doanh cá thể lên đến khoảng 840 hộ) [2], những điều kiện phát triển kinh
tế tƣ nhân thoát khỏi phạm vi kinh tế hộ cá thể gần nhƣ chƣa có. Các hộ sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp này vẫn phải hoạt động “ngầm” và chủ hộ vẫn bị kỳ
thị, vẫn bị coi là “con buôn”. Đây thực sự mới chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra
đời của DNTN.
Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 1991 đến 1999
Kinh tế hộ đứng trƣớc đòi hỏi bức thiết về mở rộng quy mô, ngành nghề sản
xuất kinh doanh, muốn thoát khỏi cảnh hoạt động ngầm cũng nhƣ đƣợc pháp luật và
8
xã hội chính thức thừa nhận. Điều này phù hợp với đòi hỏi khách quan. Do đó, Đại
hội Đảng cộng sản Việt Nam toàn quốc lần VII (1991) đã chính thức thừa nhận nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng nhƣng có định
hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp theo đó, tháng 12/1990, Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân đƣợc Đảng và nhà
nƣớc chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/4/1991. Đây là bƣớc
ngoặt hết sức quan trọng cho DNTN bởi Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990 chính
thức đặt nền tảng pháp lý cho DNTN Việt Nam. DNTN và sở hữu tƣ nhân đƣợc
chính thức đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990
có tác dụng nhƣ một luồng gió mới, phá vỡ những rào cản vô hình (từ trong nhận
thức) và hữu hình (qua những quy định, quy phạm) trƣớc đây đã từng trói buộc kinh
tế tƣnhân. Giai đoạn 10 năm 1990-1999 có thể coi là giai đoạn khai sinh ra DNTN.
Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 2000 đến nay
Sau nhiều lần soạn thảo, tháng 5/1999, Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2000. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999 là bƣớc đợt
phá cả về tƣ duy lẫn kỹ năng quản lý đối với khối kinh tế tƣ nhân. Do yêu cầu của
kinh tế thị trƣờng, hội nhập kinh tế quốc tế nên các doanh nghiệp tƣ nhân của nƣớc
ta đã gia tăng nhanh chóng. Có thể tham khảo con số thống kê do Tổng cục thống
kê Việt Nam tổng hợp tại ấn phẩm “Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21”,
NXB Thống kê, 2010 nhƣ sau: trong năm 2000 có 20.548 DNTN đƣợc thành lập;
năm 2001 có 22.777 DNTN; năm 2002 có 24.794 DNTN; năm 2003 có 25.653
DNTN; năm 2004 có 29.980 DNTN; năm 2008 đã tăng lên 46.530 DNTN. Cho đến
nay, với cơ chế mở cửa, chính sách hội nhập quốc tế và sự phát triển đa dạng các
loại hình doanh nghiệp cho thƣơng nhân lựa chọn, loại hình DNTN dù không tiếp
tục phát triển rầm rộ nhƣ những năm trƣớc, nhƣng xu hƣớng mua bán DNTN vẫn
tồn tại phát triển. Do đó, cùng với quá trình này, việc bổ sung, sửa đổi và ban hành
các quy định mới về doanh nghiệp tƣnhân cũng đƣợc dần hoàn chỉnh.
9
1.1.2 Vai trò và ý nghĩa của Doanh nghiệp tư nhân
1.1.2.1. Doanh nghiệp tư nhân - quy luật phát triển tất yếu của kinh tế hộ gia
đình ở Việt Nam
Giai đoạn 1986-1990 khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam chủ yếu mới xuất
hiện dƣới hình thức kinh tế hộ gia đình và còn chịu nhiều ràng buộc. Các hộ sản
xuất kinh doanh phi nông nghiệp vẫn chƣa đƣợc xã hội chấp nhận, vẫn hoạt động
“ngầm” là chủ yếu và chủ hộ vẫn còn bị kỳ thị, coi là “con buôn”.
Sang đến giai đoạn 1991-1999, kinh tế hộ gia đình nhất là hộ công thƣơng
nghiệp kinh doanh cá thể đứng trƣớc đòi hỏi bức thiết về mở rộng quy mô, ngành
nghề sản xuất kinh doanh đồng thời thoát khỏi cảnh hoạt động “ngầm”, muốn đƣợc
luật pháp chính thức thừa nhận. Điều này phù hợp với xu thế tất yếu khách quan là
phải giải phóng sức sản xuất.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VII (1991) đã chính thức coi phát triển
nền kinh tế hàng hóa đa thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng Xã
hội chủ nghĩa là chủ trƣơng trong cả thời kì quá độ lên Xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Chủ trƣơng của Đảng đƣợc thể chế hóa thông qua việc ban hành Luật Doanh
nghiệp Tƣ nhân 1990 và đƣợc sửa đổi bổ sung vào năm 1994. Đây là bƣớc ngoặt
quan trọng mở ra một thời kỳ mới cho DNTN. DNTN và sở hữu tƣ nhân chính thức
đƣợc pháp luật công nhận và bảo hộ.
Tuy nhiên, việc phát triển nhanh chóng của kinh tế hộ và đặc biệt của các
DNTN về quy mô và số lƣợng đã làm bộc lộ nhiều hạn chế của Luật Doanh nghiệp
Tƣ nhân 1990. Vì vậy, sau nhiều lần soạn thảo, Quốc Hội đã thông qua Luật Doanh
nghiệp mới vào tháng 6/1999.
Từ năm 2000 – 2005: từ sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời, kinh tế tƣ
nhân nói chung và DNTN nói riêng, một lần nữa, tiếp tục khẳng định những đóng
góp và vai trò to lớn của mình đối với sự phát triển của kinh tế đất nƣớc, cùng với
sự kiện Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thƣơng Mại Thế Giới (WTO), Đảng
và Nhà nƣớc nhận thấy cần có sự bình đẳng hơn đối với tất cả các thành phần kinh
10
tế. Do đó, năm 2005, sự kiện Luật Doanh nghiệp thống nhất (sự thống nhất tất cả
các loại hình doanh nghiệp vào chung một luật: Doanh nghiệp nhà nƣớc – trƣớc
chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20 tháng 04 năm
1995 (“Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc 2003"), DNTN – trƣớc chịu sự điều chỉnh
của Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh – trƣớc chịu
sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 1999, Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài (doanh nghiệp FDI) – trƣớc chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tƣ Nƣớc ngoài
tại Việt Nam đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX,
kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996 ("Luật Đầu tƣ Nƣớc ngoài
1996"). Theo đó, “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” (Điều
141, Khoản 1, Luật Doanh nghiệp 2005). Loại hình doanh nghiệp này ngay từ khi
hình thành đã dần phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trƣởng của
nền kinh tế Việt Nam trong suốt hơn một thập kỷ qua. Việc ghi nhận về mặt pháp lý
một loại hình doanh nghiệp mới – DNTN – chính là một trong những giải pháp
nhằm giải phóng sức sản xuất, phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển
đất nƣớc.
Đánh giá về sự phát triển của khu vực kinh tế tƣ nhân, Hội nghị lần thứ 5
Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX (2002) đã chỉ rõ: “Hơn 10 năm qua, thực
hiện đƣờng lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc sự đồng tình và
hƣởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tƣ nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tƣ bản tƣ nhân, hoạt động dƣới hình thức hộ kinh doanh cá thể và loại hình
DNTN đã phát triển rộng khắp trong cả nƣớc; đóng góp quan trọng vào phát triển
kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nƣớc, góp phần giữ vững ổn định
chính trị – xã hội của đất nƣớc. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển
của kinh tế tƣ nhân đã góp phần giải phóng lực lƣợng sản xuất, thúc đẩy phân công
lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại
11
hóa, phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lƣợng
công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trƣơng xã hội hóa
y tế, văn hóa, giáo dục…”. Và tại Hội nghị gần đây nhất của Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng khóa X đã thông qua Báo cáo về phƣơng hƣớng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2006-2010, Đảng và Nhà nƣớc ta đã tiếp tục khẳng
định dứt khoát: "Điều có ý nghĩa quyết định là phải có chính sách phù hợp để phát
huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi ngƣời dân, của các
thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tƣ nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của
dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu
quả phát triển kinh tế - xã hội” và “Tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá
thể và các loại hình doanh nghiệp của tƣ nhân”.
Mang trong mình nhiều nét tƣơng đồng về văn hóa, kinh tế, chính trị xã hội
với Việt Nam, thực tế phát triển kinh tế của Trung Quốc cũng cho thấy vai trò to lớn
của khu vực kinh tế tƣ nhân: “Khu vực kinh tế tƣ nhân trở thành nguồn lực chủ đạo
của nền kinh tế Trung Quốc. Tính đến cuối năm 2006, kinh tế tƣ nhân đóng góp hai
phần ba tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho quốc gia và một phần hai tổng thuế thu
nhập doanh nghiệp và cung cấp gần 75% việc làm cho khu vực thành thị” [49, 1].
Cũng theo kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới, một nền kinh tế có chất
lƣợng bền vững luôn luôn có sự phát triển hài hòa giữa các doanh nghiệp thuộc loại
hình lớn, nhỏ và vừa; nhất là có sự phân công, hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các
loại hình doanh nghiệp nói trên.
Điều đó chứng tỏ chủ trƣơng phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế
trong xã hội của Đảng và Nhà nƣớc ta là đúng đắn. Việc phát triển kinh tế hộ gia
đình và các loại hình doanh nghiệp của tƣ nhân trong đó có loại hình DNTN là cần
thiết và có ý nghĩa to lớn cho nền kinh tế đất nƣớc.
1.1.2.2. Ý nghĩa của doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển kinh tế đất
nước
Thứ nhất, loại hình DNTN ra đời mang theo những ưu thế nhất định và vì
vậy DNTN là sự lựa chọn phù hợp đối với những kế hoạch kinh doanh có quy mô
12
nhỏ và vừa. Không chỉ tại Việt Nam mà tại hầu hết các quốc gia theo Hệ thống Dân
luật (Civil Law) cũng nhƣ Hệ thống Thông luật (Common Law), loại hình DNTN
hoặc loại hình mang những đặc trƣng của DNTN vẫn luôn đƣợc ghi nhận, tồn tại và
phát triển. Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, DNTN thực chất là thƣơng
nhân đơn lẻ (sole trader) hay doanh nghiệp cá thể (sole proprietorship). Do đó, chủ
DNTN đƣợc hƣởng toàn bộ lợi nhuận; tự định hƣớng và mục tiêu kinh doanh;
không chậm trễ trong việc ra quyết định; đáp ứng khách hàng nhanh chóng; quan hệ
gần gũi với khách hàng; bảo đảm bí mật kinh doanh; có động cơ thúc đẩy làm việc
chăm chỉ; giám sát chặt chẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh; chỉ phải chịu cơ chế
đơn thuế, tức là đối tƣợng của một loại thuế. Ví dụ: chỉ phải đóng thuế thu nhập cá
nhân (personal income tax) – nhƣ hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận: Pháp,
Singapore, Anh, Mỹ … hoặc chỉ phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp (corporation
income tax) mà không phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chủ
DNTN vẫn phải gánh chịu những bất lợi nhất định, đó là phải làm việc vất vả; chịu
trách nhiệm cá nhân và vô hạn đối với các khoản nợ; bị hạn chế về vốn; khó mở
rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, và đổi mới công nghệ; giá thành sản phẩm
cao, khó khăn trong việc cạnh tranh; khi chết, không có gì bảo đảm ngƣời thừa kế
của họ thích duy trì hoặc có khả năng duy trì doanh nghiệp. Vì thế, sau bƣớc tiếp
cận ban đầu với thị trƣờng, chủ DNTN có xu hƣớng tìm kiếm đối tác (partners) để
cùng nhau tiến hành các hoạt động kinh doanh dƣới dạng công ty có trách nhiệm
hữu hạn (nhƣ công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên hoặc có từ hai thành
viên trở lên).
Trên thực tế, DNTN vẫn là loại hình đƣợc lựa chọn nhiều tại Việt Nam bởi
nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, thủ công chiếm đa số. Do đó,
số lƣợng cá thể và hộ gia đình chỉ có ít vốn liếng hoặc vốn liếng chính là những bí
quyết thủ công truyền thống … chiếm một số lƣợng không nhỏ. Và với ƣu điểm bảo
mật tối đa và những ƣu điểm nhƣ phân tích ở trên, loại hình DNTN vẫn là loại hình
đƣợc ƣa chuộng. Từ khi loại hình Công ty TNHH một thành viên đƣợc ghi nhận,
dƣờng nhƣ phần nào ảnh hƣởng đến tốc độ phát triển của các DNTN. Tuy nhiên,
13
điều đó cũng không thể làm phủ nhận đƣợc vị trí và vai trò to lớn của DNTN trong
nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Ta có thể thấy đƣợc điều này qua số liệu thống kê của Tổng cục thống kê
nhƣ nêu tại Bảng 01 – Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình
(đƣợc đính kèm tại Phụ lục của Luận văn) [58]. Nhìn vào Bảng 01 ta thấy số lƣợng
DNTN đƣợc thành lập hàng năm vẫn tăng đều và trong cơ cấu các loại hình doanh
nghiệp đƣợc thành lập thì tỷ trọng DNTN lại giảm dần. Có hiện tƣợng này là do sự
ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999, tiếp theo là Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật
Đầu tƣ năm 2005 đã mở ra cho các nhà đầu tƣ một khung pháp lý thống nhất, thông
thoáng và cởi mở hơn cho kế hoạch kinh doanh của các nhà đầu tƣ trong và ngoài
nƣớc. Điều này cũng là nguyên nhân khiến số lƣợng các doanh nghiệp ở hầu hết các
loại hình doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng.
Thứ hai, loại hình DNTN là phương thức huy động vốn tối đa trong nhân
dân, huy động vốn từ những cá thể đơn lẻ có số lượng vốn nhỏ và vừa vào trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế, “góp gió thành bão”, với số lƣợng DNTN
đông đảo và với một số lƣợng vốn tƣơng đối lớn, các DNTN đã đóng một vai trò
quan trọng trong sự tăng trƣởng của nền kinh tế nƣớc ta.
Ta có thể thấy đƣợc điều này qua số liệu thống kê của Tổng cục thống kê
nhƣ nêu tại Bảng 02 – Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của doanh
nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp (đƣợc đính kèm tại Phụ lục của Luận văn)
[58].
Thứ ba, các DNTN đã góp phần giải quyết một số lượng lớn việc làm cho
dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo. Ta có
thể thấy đƣợc điều này qua số liệu thống kê của Tổng cục thống kê nhƣ nêu tại
Bảng 03 – Tổng số lao động trong các doanh nghiệp phân theo loại hình (đƣợc đính
kèm tại Phụ lục của Luận văn) [58].
Thứ tƣ, các DNTN góp phần làm năng động nền kinh tế bởi những lợi thế mà
loại hình DNTN mang lại như quy mô sản xuất, kinh doanh nhỏ gọn, tính năng
động, linh hoạt trong sáng tạo kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh
14
có sự kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa mềm dẻo, hòa nhịp với đòi hỏi uyển
chuyển của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, các DNTN có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đặc biệt là khu vực nông thôn. Sự phát triển nhanh các DNTN ở nông thôn đã đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp và thủ công
nghiệp ngày càng phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thƣơng mại, dịch
vụ phát triển. sự phát triển DNTN ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu
vực công nghiệp, thƣơng nghiệp, dịch vụ. Các DNTN còn góp phần làm thay đổi và
đa dạng cơ cấu công nghiệp.
Thứ sáu, các DNTN góp phần thực hiện đô thị hóa phi tập trung và thực hiện
các phương châm “ly nông bất ly hương”.
Thứ bảy, các DNTN là nơi đào tạo tài năng kinh doanh, là loại hình doanh
nghiệp có quy mô nhỏ giúp các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh
doanh. Với DNTN, các nhà kinh doanh có toàn quyền quyết định hoạt động kinh
doanh của Công ty, thỏa sức sáng tạo trong kinh doanh, thỏa sức trải nghiệm và từ
đó, xét trên góc độ tích cực, các chủ DNTN sẽ trƣởng thành lên cũng nhƣ DNTN sẽ
lớn mạnh lên. Khi đó, các chủ DNTN hoặc là tiếp tục phát huy và duy trì sự tồn tại
và phát triển của DNTN của mình hoặc là tìm kiếm đối tác để mở rộng phạm vi
kinh doanh, từ quy mô kinh doanh nhỏ đến quy mô lớn hơn.
Nhìn chung, DNTN là một trong những loại hình doanh nghiệp ra đời sớm nhất và
phát triển song song với tiến trình lịch sử phát triển của nƣớc ta. Từ lúc ra đời cho
đến nay, DNTN đã và đang giữ một vị trí tƣơng đối quan trọng trong nền kinh tế
của đất nƣớc.
1.1.3 Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân
Để có một cái nhìn tổng quan về DNTN, tác giả Luận văn nghiên cứu sơ
lƣợc các cách phân loại doanh nghiệp khác nhau và các đặc trƣng pháp lý đi kèm
với từng cách phân loại. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu các cách tiếp cận và nhìn
nhận loại hình DNTN của các quốc gia khác trong sự đối chiếu so sánh với pháp
luật Việt Nam.
15
Doanh nghiệp và các tiêu chí phân loại doanh nghiệp
Các nƣớc phƣơng Đông có xu hƣớng du nhập mô hình doanh nghiệp phƣơng
Tây, cho nên cách phân loại doanh nghiệp hiện nay về cơ bản đều anh hƣởng bởi
các tiêu chí phân loại của phƣơng Tây [41, 90]. Có rất nhiều tiêu chí và theo đó
cũng có nhiều cách phân loại khác nhau: (i) theo tiêu chí sở hữu và mục đích hoạt
động, doanh nghiệp đƣợc chia thành doanh nghiệp tƣ và doanh nghiệp công, trong
đó doanh nghiệp công thƣờng có một phần sở hữu nhà nƣớc hoặc do Nhà nƣớc
đóng vai trò chi phối trong chiến lƣợc kinh doanh; (ii) theo tiêu chí quy mô, doanh
nghiệp đƣợc chia thành doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn; (iii) căn cứ
vào sự liên kết, doanh nghiệp đƣợc chia thành doanh nghiệp độc lập và các tập
đoàn, các nhóm công ty, các tổ hợp, các công ty đa quốc gia; (iv) căn cứ vào đặc
trƣng pháp lý, doanh nghiệp đƣợc chia thành công ty, hợp danh và cá nhân kinh
doanh, trong đó công ty đƣợc chia thành nhiều loại hình doanh nghiệp (công ty cổ
phần, công ty TNHH), hợp danh cũng đƣợc chia thành hợp danh hữu hạn, hợp danh
vô hạn, hợp danh hữu hạn theo cổ phần. Thƣơng nhân phƣơng Tây thậm chí còn có
khả năng biến tấu mô hình doanh nghiệp thành nhiều loại hình doanh nghiệp khác
bằng các điều lệ thành lập công ty.
Khác với các nƣớc phƣơng Đông, các nƣớc theo hệ thống luật Châu Âu - Lục
Địa thƣờng phân loại công ty thành công ty đối vốn và công ty đối nhân. Công ty
đối nhân bao gồm các công ty dân luật, hợp danh, hợp danh hữu hạn, hợp danh cổ
phần theo thƣơng luật. Công ty đối vốn bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần [44, 1].
Truyền thống này của họ pháp luật Châu Âu - Lục Địa đã đƣợc du nhập vào
nƣớc ta từ hơn một thế kỉ trƣớc. Song tới nay, pháp luật về công ty ở Việt Nam đã
xa rời đáng kể luật truyền thống. Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/6/2005
đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7
thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 (“Bộ luật Dân sự 2005”) của nƣớc ta không
quy định về công ty dân luật, không xem công ty dân luật là nền tảng cho công ty
16
thƣơng luật. Bên cạnh Bộ luật Dân sự 2005, Việt Nam đã du nhập các loại hình cá
nhân kinh doanh, hợp danh và các công ty trong Luật Doanh nghiệp 2005.
Theo học giả ở các nƣớc thuộc Họ Pháp luật Anh-M ỹ, trƣớc khi định nghĩa
về công ty, thƣờng giới thiệu các học thuyết liên quan tới bản chất của công ty. Tuy
nhiên, các nƣớc thuộc họ pháp luật này có sự phân biệt giữa thƣơng nhân đơn lẻ
(sole trader hay sole propietorship), hợp danh (partnership) với doanh nghiệp, công
ty (enterprise hay company).
Thuật ngữ “doanh nghiệp” thực ra là một thuật ngữ kinh tế chứ không phải
thuật ngữ luật học. Nhìn từ góc độ kinh tế, “Doanh nghiệp” đƣợc xem nhƣ một cái
áo khoác để thực hiện ý tƣởng kinh doanh [41, 90]. Nhìn từ góc độ pháp lý, ngƣời
ta thƣờng xem xét tƣ cách pháp lý của doanh nghiệp. Điều này có nguồn gốc sâu xa
từ triết lý pháp luật phƣơng Tây, lấy cá nhân (ngƣời) làm chủ thể pháp luật. Bởi
vậy, mọi tổ chức kinh doanh đều đƣợc quy nạp dƣới tiêu chí của “pháp nhân”, pháp
nhân cũng là ngƣời nhƣng do luật học sáng tạo ra, có các quyền nhƣ một con ngƣời
bằng xƣơng bằng thịt. Muốn kinh doanh, thƣơng nhân phải chọn lấy một loại hình
mà nhà làm luật đã quy định. Các loại hình này tƣơng đối đa dạng, tùy theo pháp
luật mỗi nƣớc, song có thể quy nạp thành ba loại chính sau đây: (i) công ty; (ii) hợp
danh và (iii) cá nhân kinh doanh.
Trong khi đó, luật của Pháp lại có sự phân biệt giữa cơ sở kinh doanh và
doanh nghiệp. Bộ luật dân sự của Pháp cung cấp một hệ thống các quy định để điều
chỉnh riêng cho cơ sở kinh doanh và đối với các doanh nghiệp thì chịu sự điều chỉnh
của luật công ty. Theo đó, doanh nghiệp là một tổ chức tập hợp các nhân tố, phƣơng
tiện, vật chất, thiết bị, nhân công, vốn nhằm sản xuất một số của cải hoặc làm một
số dịch vụ (Luật pháp của nƣớc Pháp có rất ít văn bản đề cập khái niệm doanh
nghiệp, nhƣng luật thƣơng mại thƣờng nói đến các cơ sở kinh doanh là một trong
các nhân tố của doanh nghiệp theo nghĩa kinh tế của từ này); cơ sở kinh doanh đƣợc
hiểu là một tập hợp các tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nhân và toàn bộ của
cải đó có thể đƣợc chuyển nhƣợng, cầm cố, thuê mƣợn.
17
Khái niệm về cơ sở kinh doanh theo luật của Pháp rất sát với khái niệm
doanh nghiệp tƣ nhân của Việt Nam. Trên thực tế, các cửa hàng kinh doanh, các cơ
sở kinh doanh nhỏ lẻ ở Việt Nam phát triển rầm rộ, nhƣng hệ thống pháp luật Việt
Nam lại chƣa có những quy định cụ thể và thống nhất để điều chỉnh hoạt động của
các cơ sở kinh doanh này. Theo đó, việc nghiên cứu và học tập, sửa đổi, vận dụng
các giải pháp pháp luật của nƣớc Pháp đƣa ra cho các cơ sở kinh doanh nƣớc ta
cũng có giá trị rất lớn trong việc nghiên cứu và đƣa ra các giải pháp tƣơng ứng cho
DNTN ở Việt Nam.
Xuất phát từ các cách phân loại doanh nghiệp trên đây. Có thể thấy loại hình
DNTN theo mỗi họ pháp luật, mỗi cách phân loại doanh nghiệp sẽ đƣợc gọi dƣới
những cái tên khác nhau và chịu sự điều chỉnh của các chế định pháp luật khác
nhau.
Nhƣ vậy, kết quả nghiên cứu sơ lƣợc về các cách phân loại doanh nghiệp cho
thấy hầu hết các họ pháp luật và hệ thống pháp luật của các nƣớc đều ghi nhận
DNTN là một trong những hình thức kinh doanh cơ bản mặc dù cách ghi nhận ở
mỗi hệ thống pháp luật là không giống nhau.
Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân
Theo pháp luật Anh Quốc, một doanh nghiệp kinh doanh đơn lẻ (sole trader
enterprise) sẽ không tách biệt với cá nhân tạo lập nên nó và lao động trong đó,
thông thƣờng tên thƣơng mại của sole trader enterprise là tên của cá nhân tạo lập
nên nó hoặc cũng có thể là tên khác đặt theo quy định của pháp luật [60].
Thep pháp luật Hoa Kỳ, cá thể kinh doanh (sole proprietorship) đƣợc hiểu là
“ngƣời khai thác doanh nghiệp không cần thiết phải dùng tên riêng của mình nhƣ là
tên thƣơng mại, nó có thể đƣợc thừa nhận nhƣ Data experts company. Tuy nhiên,
một cái tên nhƣ vậy phải đƣợc đăng ký tại nhà chức trách tiểu bang hay địa phƣơng
thích hợp” [61].
Theo pháp luật Trung Quốc, Điều 2, Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân của Trung
Quốc đƣợc Ủy ban Thƣờng trực của Quốc Hội thứ 9 thông qua tại kỳ họp thứ 11
quy định: “DNTN là một thực thể kinh doanh được thành lập tại Trung Quốc với số
18
vốn của doanh nghiệp do một cá nhân đóng góp và tài sản của doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của chủ DNTN. Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài
sản của mình”. Nhƣ vậy, khái niệm DNTN của Trung Quốc có nhiều điểm tƣơng
đồng với khái niệm DNTN theo pháp luật Việt Nam, tức DNTN đƣợc thành lập trên
cơ sở (1) Sự góp vốn của một cá nhân (còn gọi là chủ DNTN); (2) Tài sản trong
DNTN là thuộc quyền sở hữu của chủ DNTN; (3) Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô
hạn bằng toàn bộ tài sản của mình. Điều này có nguồn gốc sâu xa từ việc pháp luật
Trung Quốc và pháp luật Việt Nam, theo truyền thống học thuật, đều đƣợc xếp vào
hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, nhƣng trên thực tế nhiều qui định về dân sự, về
tố tụng, về hệ thống Toà án lại mang nhiều đặc điểm của hệ thống luật Châu Âu -
Lục Địa. Ngoài ra, thể chế chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam và Trung Hoa có
nhiều điểm tƣơng đồng. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam trên cơ sở
nghiên cứu và so sánh với pháp luật Trung Hoa là hoàn toàn có cơ sở.
Theo pháp luật Úc (thuộc hệ thống Thông luật hay còn gọi là “Common
Law”, “hệ thống luật Anh Mỹ”; “Hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông”), khác với
hệ thống dân luật (hay còn gọi là “Civil law”; hay “hệ thống luật Châu Âu – Lục
Địa”), hệ thống pháp luật của Úc không có một định nghĩa riêng về DNTN (sole
proprietorship). Hình bóng của DNTN có thể thấy đƣợc qua việc ghi nhận những
hình thức pháp lý của doanh nghiệp cũng nhƣ đặc trƣng pháp lý của những loại hình
doanh nghiệp đó.
Theo Điều 112(1) của Đạo luật công ty 2001 của Úc, các nhà đầu tƣ có
quyền đăng ký thành lập công ty tại Úc theo các hình thức dƣới đây:
Công ty sở hữu chủ (proprietary company). Loại công ty này gồm có hai
hình thức: Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited by shares)
và công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares capital).
Công ty công cộng (public company). Loại công ty này gồm có bốn hình
thức sau đây: (1) Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited by
shares), (2) công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi sự) bảo đảm (company limited by
19
guarantee), (3) công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares
capital), và (4) công ty không trách nhiệm (no liability company).
Nhƣ vậy, việc ghi nhận các hình thức pháp lý của công ty tại Điều 112(1)
của Đạo luật Công ty năm 2001 của Úc cho thấy, căn cứ vào chế độ trách nhiệm của
các thành viên công ty, cho dù là công ty công cộng hay công ty sở hữu chủ thì tất
cả đều phải đăng ký dƣới một trong bốn hình thức công ty dƣới đây:
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phần (company limited by shares)
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn có bảo đảm (company limited by guarantee),
3. Công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares capital),
4. Công ty không trách nhiệm (no-liability company)
Theo luật của Úc, mọi công ty đều đƣợc công nhận là pháp nhân (a separate
legal entity), chỉ cần có ít nhất là một thành viên và thành viên đó có thể là thể nhân
hoặc pháp nhân.
Nhƣ vậy, Đạo luật Công ty của Úc cho phép một thể nhân đứng ra thành lập
một công ty trách nhiệm vô hạn. Và vì vậy, một cách gián tiếp, Pháp luật của Úc
cũng ghi nhận việc tồn tại một doanh nghiệp với những đặc trƣng cơ bản của một
DNTN. Trƣớc năm 1998, pháp luật Úc cho phép nhà đầu tƣ thành lập các công ty
trách nhiệm vô hạn không có vốn cổ phần (share capital). Thời gian sau đó, nƣớc
này chỉ cho phép thành lập công ty loại này nếu chúng có vốn cổ phần (share
capital). Công ty trách nhiệm vô hạn có thể đăng ký dƣới hình thức công ty sở hữu
chủ hoặc công ty công cộng.
Trên thực tế, chỉ có khoảng vài trăm công ty loại này đƣợc thành lập ở Úc,
chúng đƣợc thành lập trên nguyên tắc trách nhiệm của các thành viên là vô hạn đối
với các nghĩa vụ của công ty (Điều 9, Đạo luật công ty 2001). Tuy nhiên, theo luật
công ty Úc, chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên công ty đƣợc hiểu là trách
nhiệm vô hạn đối với công ty chứ không phải đối với các chủ nợ của công ty. Vì
thế, khi công ty còn đang hoạt động, các chủ nợ của công ty này không có quyền
trực tiếp khởi kiện đòi các thành viên phải thanh toán số nợ mà công ty chƣa trả
đƣợc. Do vậy, để thu hồi toàn bộ khoản nợ, chủ nợ của công ty, trƣớc tiên, sẽ phải
20
tiến hành thủ tục yêu cầu thanh lý công ty. Sau đó, nếu tài sản của công ty không đủ
để thanh toán cho các chủ nợ, thì mỗi thành viên công ty sẽ phải chịu trách nhiệm
vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Đặc điểm này tƣơng đối giống với chế độ trách
nhiệm vô hạn của các thành viên trong hợp danh, tuy nhiên, hợp danh theo pháp
luật của các bang ở Úc có một số điểm bất lợi hơn trong kinh doanh so với mô hình
công ty trách nhiệm vô hạn.
Với chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên nhƣ thế, loại công ty này đƣợc
cho là không thích hợp cho hoạt động kinh doanh thƣơng mại và hoạt động kinh
doanh có qui mô lớn. Một số lĩnh vực hoạt động kinh doanh mang tính nghề nghiệp
đặc thù mà pháp luật yêu cầu các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn, ngƣời ta
thƣờng thành lập công ty trách nhiệm vô hạn hơn là kinh doanh theo hình thức hợp
danh bởi vì họ muốn có đƣợc những lợi ích của mô hình công ty nhƣ về tƣ cách
pháp nhân, thuế, huy động vốn … trong sự so sánh với hợp danh.
Kết luận, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, pháp luật các nƣớc đều ghi nhận
sự tồn tại của loại hình kinh doanh cá thể tức loại hình kinh doanh do một cá nhân
làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động kinh
doanh của cá nhân đó. Nói cách khác, đó cũng chính là DNTN theo quan điểm của
pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc và một số quốc gia theo hệ pháp luật
Châu Âu – Lục Địa. Từ đó, một cách khái quát nhất, có thể định nghĩa DNTN là
một thực thể kinh doanh không có tƣ cách pháp nhân do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về toàn bộ hoạt động của DNTN
(trách nhiệm vô hạn).
1.1.4 Đặc trưng pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân
Cho dù đƣợc ghi nhận dƣới hình thức nào (thƣơng nhân đơn lẻ, cá thể kinh
doanh hay DNTN) thì đứng trên quan điểm là loại hình kinh doanh (do một cá nhân
làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình) đƣợc pháp luật ghi
nhận và bảo hộ, DNTN đều có những điểm đặc trƣng pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, DNTN là một thực thể kinh doanh có tư cách chủ thể pháp lý độc
lập nhưng không có tư cách pháp nhân.
21
Một phần nào đó của DNTN, nhƣ đã nói ở trên, tách rời với nhân thân của
ngƣời chủ DNTN và theo Luật Doanh nghiệp 2005, DNTN đƣợc ghi nhận là một
trong những loại hình doanh nghiệp căn bản để các nhà đầu tƣ chọn lựa. DNTN
đƣợc pháp luật và Nhà nƣớc thừa nhận có sự bình đẳng trƣớc pháp luật nhƣ đối với
các doanh nghiệp khác. Do vậy, DNTN có tƣ cách chủ thể pháp lý độc lập, có tên
riêng, có mục tiêu hoạt động xác định, có con dấu và mã số thuế riêng. Trong giao
lƣu kinh tế, DNTN tham gia các quan hệ trao đổi, mua bán … trên thị trƣờng bằng
chính tên riêng của mình. Về hình thức pháp lý, DNTN phần nào đứng độc lập, tách
khỏi tên tuổi của chủ DNTN.
Tuy nhiên, một đặc trƣng của DNTN là ở chỗ, DNTN không có khối tài sản
riêng, toàn bộ tài sản của DNTN gắn liền với nhân thân ngƣời chủ DNTN. Vì vậy,
mọi khoản nợ, mọi nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động của DNTN sẽ do ngƣời chủ
DNTN chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình,
tức bằng cả những tài sản mà ngƣời chủ DNTN không đem vào DNTN để tiến hành
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trong khi đó, “Pháp nhân là một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi
có đủ các điều kiện sau đây: (i) Được thành lập hợp pháp; (ii) Có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; (iii) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; (iv) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập” (Điều 84, Bộ luật Dân sự 2005).
Nhƣ vậy, đặc trƣng về tài sản của DNTN nhƣ phân tích ở trên đã khiến
DNTN, khác với những doanh nghiệp khác, là doanh nghiệp duy nhất trong Luật
Doanh nghiệp 2005 không có tƣ cách pháp nhân.
Khác với các nƣớc khác (nhƣ Hoa Kỳ, Pháp, Đức…), DNTN đƣợc coi nhƣ
một thể nhân kinh doanh. Và vì thế, DNTN không chịu sự điều chỉnh của đạo luật
công ty. Thông thƣờng mọi hoạt động, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ DNTN sẽ do
Bộ luật Dân sự và Thƣơng mại (đạo luật áp dụng cho thƣơng gia độc lập) điều
chỉnh.
22
Trong quá trình nghiên cứu DNTN hay địa vị pháp lý của DNTN, có nhiều
tác giả đã đồng nhất khái niệm tƣ cách chủ thể pháp luật với tƣ cách pháp nhân [32].
Ở đây, tác giả Luận văn đồng nhất với quan điểm cho rằng “tư cách pháp nhân và
tư cách chủ thể pháp luật độc lập là hai vấn đề có nội dung và bản chất pháp lý
khác nhau” [47]. Theo đó, tất cả các doanh nghiệp đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo
hộ thì đều có tƣ cách chủ thể pháp luật độc lập. Trong đó, những doanh nghiệp có
khối tài sản độc lập, tách bạch với nhà đầu tƣ (chủ sở hữu) và chỉ chịu trách nhiệm
với mọi nghĩa vụ kinh doanh phát sinh từ doanh nghiệp trong phạm vi khối tài sản
của doanh nghiệp (vốn điều lệ của doanh nghiệp) thì doanh nghiệp đó có tƣ cách
pháp nhân.
Nhƣ vậy, DNTN là doanh nghiệp đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Do đó,
DNTN có tƣ cách pháp lý độc lập nhƣng DNTN lại không có tƣ cách pháp nhân, vì
cơ chế chịu trách nhiệm của DNTN là cơ chế trách nhiệm vô hạn và không có sự
tách bạch giữa tài sản của chủ sở hữu với tài sản của doanh nghiệp.
Thứ hai, DNTN do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ
Trong điều kiện kinh tế hiện tại của Việt Nam, DNTN thích hợp cho các
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Chủ DNTN đƣa tƣ liệu sản xuất và vốn vào
quá trình sản xuất mà không có sự hội vốn với ngƣời kahcs do vậy họ vừa là chủ sở
hữu tài sản, vừa là ngƣời sử dụng tài sản, đồng thời cũng là ngƣời quản lý hoạt động
của doanh nghiệp. Thông thƣờng, DNTN có quy mô nhỏ và vừa. Do đó, chủ sở hữu
DNTN đồng thời là ngƣời trực tiếp quản lý, điều hành, thậm chí trực tiếp tham gia
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, DNTN là một thực thể kinh doanh
có tƣ cách chủ thể pháp lý độc lập cho nên chủ sở hữu DNTN có thể thuê ngƣời
khác quản lý, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho dù trực tiếp hay gián tiếp
điều hành, quản lý DNTN, chủ DNTN vẫn phải trách nhiệm về mọi hoạt động của
doanh nghiệp.
Do tính chất một chủ, chủ DNTN là ngƣời duy nhất và toàn quyền đối với
khoản lợi kiếm đƣợc từ hoạt động kinh doanh của DNTN đồng thời là ngƣời duy
nhất gánh chịu mọi nghĩa vụ, trách nhiệm phát sinh từ doanh nghiệp, không có sự
23
phân chia rủi ro và trách nhiệm với những ngƣời khác. Nhƣng một trong những ƣu
điểm mà DNTN đem lại đó là chủ DNTN có thể đƣa ra những quyết sách nhanh
chóng và linh hoạt cho mọi hoạt động của DNTN. Điều này đôi khi đem lại cho
doanh nghiệp những cơ hội kinh doanh và khoản lời không nhỏ.
Thứ ba, chủ DNTN chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của DNTN (trách nhiệm vô hạn)
Về mặt pháp lý, đây là một đặc điểm quan trọng của DNTN và cũng là đặc
điểm khiến nhiều nhà đầu tƣ phải suy xét khi quyết định đầu tƣ dƣới hình thức
DNTN. Trong mọi quan hệ kinh tế, DNTN nhân danh chính mình tham gia các hoạt
động và giao dịch. Tuy nhiên, ngƣời chủ doanh nghiệp đƣợc coi nhƣ là ngƣời bảo
lãnh cho toàn bộ quyền và nghĩa vụ mà DNTN tạo ra. DNTN không có tài sản riêng
tách bạch với tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp cho nên DNTN không có khả
năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của doanh nghiệp nhƣ những loại hình doanh
nghiệp khác. Ngƣời chủ sở hữu DNTN nghĩa vụ thanh toán và thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ của DNTN bằng toàn bộ tài sản của mình – tức không chỉ tài sản đã đƣa
vào DNTN để thực hiện hoạt động kinh doanh mà còn bằng toàn bộ tài sản khác của
chủ DNTN.
Quan hệ giữa chủ DNTN với các chủ thể khác trong quá trình kinh doanh:
 Ngƣời chủ DNTN chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc thực hiện tất cả
các hợp đồng đƣợc ký kết trong quá trình hoạt động kinh doanh, chẳng hạn nhƣ hợp
đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng vay mƣợn, hợp đồng lao động…
 Chủ sở hữu DNTN chịu trách nhiệm về tất cả các vi phạm pháp luật của
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tất cả các tài sản đƣợc sử dụng
để kinh doanh và thậm chí tài sản cá nhân không dung vào kinh doanh đều có thể bị
xử lý để thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp cũng nhƣ của cá
nhân chủ DNTN.
 Về chế độ tài sản giữa vợ chồng của ngƣời chủ DNTN: cơ sở kinh doanh
của ngƣời đó phải theo chế độ tài sản trong hôn nhân. Vì vậy cơ sở kinh doanh có
thể là tài sản chung của vợ chồng.
24
 Nếu chủ DNTN chết, sự kiện này có ảnh hƣởng đến sự tồn tại của
DNTN. Đây cũng là vấn đề phức tạp mà pháp luật Việt Nam còn đang bỏ ngỏ. Pháp
luật của Pháp đã dự liệu đƣợc một số giải pháp cho trƣờng hợp này. Theo Điều 832
Bộ luật dân sự Pháp, khi ngƣời chủ cơ sở kinh doanh chết, giải pháp đƣa ra là trong
các ngƣời thừa kế di sản, có thể có ngƣời đƣợc hƣởng ƣu tiên, nhƣng ngƣời đó phải
trả một khoản tiền bù lại cho các ngƣời cùng hàng thừa kế. Pháp luật của Pháp giải
quyết vấn đề thừa kế của ngƣời chủ cơ sở kinh doanh nhƣ trƣờng hợp của một cá
nhân thông thƣờng. Tuy nhiên, việc kế tục cơ sở kinh doanh và các tài sản của cơ sở
kinh doanh thì xuất phát từ các đặc trƣng của cơ sở kinh doanh [31, 102].
Thứ tư, về nghĩa vụ thuế của DNTN
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, DNTN đƣợc coi là một
trong những loại hình cơ bản và chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005. Vì
vậy, DNTN là đối tƣợng của Thuế thu nhập Doanh nghiệp.
Tuy nhiên, DNTN lại là doanh nghiệp chỉ do duy nhất một cá nhân làm chủ.
Vậy chủ DNTN có phải chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định về thuế thu nhập
cá nhân nữa hay không. Pháp luật Việt Nam coi DNTN là một loại hình doanh
nghiệp, thuộc đối tƣợng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho nên chủ DNTN không
phải nộp thuế thu nhập cá nhân (Điểm 1.1, Phần A Thông tƣ số 130/2008/TT-BT
ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế
thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hƣớng dẫn thi hành nghị định số
124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008).
Trong khi đó, trên cơ sở quan điểm coi DNTN nhƣ một thể nhân kinh doanh
(một thƣơng gia độc lập), cho nên pháp luật các nƣớc (Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp,
Đức… hay thậm chí là Singapore) quy định DNTN là đối tƣợng của thuế thu nhập
cá nhân. Theo đó, DNTN không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ ngƣời
chủ DNTN phải đóng thuế thu nhập cá nhân nhƣ những cá nhân khác.
Có lẽ tiếp cận DNTN theo hƣớng là một thƣơng gia độc lập, một thể nhân
kinh doanh có phần đúng với bản chất pháp lý của nó hơn. Hơn nữa, việc chủ
DNTN chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân sẽ là chính sách thuế có lợi cho loại hình
25
doanh nghiệp. Đây cũng là điều hợp lý và là chính sách đúng đắn để khuyến khích
các cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh cũng nhƣ tạo đà cho DNTN phát triển.
1.2 Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân
1.2.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của Hợp đồng mua bán Doanh
nghiệp tư nhân
Nói đến mua bán doanh nghiệp, một cách chung nhất, ngƣời ta thƣờng nghĩ
ngay đến thuật ngữ M&A (Merge and Acquision) hay “Sáp nhập và thâu tóm” hay
“sáp nhập và mua lại” hay “mua bán và sáp nhập công ty” hay “mua bán & sáp
nhập”. Trên thực tế, M&A đơn giản là khái niệm để chỉ một công ty tìm cách giành
quyền kiểm soát một công ty khác qua việc thâu tóm một phần hoặc toàn bộ vốn/cổ
phần hay tài sản của một công ty mục tiêu [27, 3]. Và nhƣ thế nào đƣợc coi là một
công ty giành đƣợc “Quyền kiểm soát” một công ty khác tùy thuộc vào hệ thống
luật của mỗi quốc gia khác nhau cũng nhƣ tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên
trong giao dịch. Thuật ngữ này đƣợc sử dụng phổ biến ở Anh Quốc cũng nhƣ Hoa
Kỳ, Nhật Bản và một số nƣớc Châu Âu lục địa … và mới chỉ đƣợc quan tâm ở Việt
Nam kể từ khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời.
M&A có thể nói là một phần tất yếu của bất cứ nền kinh tế lành mạnh nào. Ý
nghĩa mà M&A đem đến cho nền kinh tế là rất lớn. Thứ nhất, M&A đang ngày càng
trở thành một trong những giải pháp tổ chức lại doanh nghiệp hữu hiệu và phổ biến.
Thứ hai, M&A là một trong những cách thức chủ yếu để các doanh nghiệp mở rộng
và phát triển hoạt động kinh doanh của mình bằng việc tập trung các nguồn lực tài
chính, công nghệ, nhân lực, thƣơng hiệu … của (các) công ty mục tiêu (các công ty
đƣợc mua lại hoặc đƣợc sáp nhập) nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
và đem lại thu nhập cho chủ sở hữu và các nhà đầu tƣ. Nguyên tắc của M&A nói
chung là tạo ra giá trị cho cổ đông bao trùm và lớn hơn tổng giá trị hiện tại của hai
doanh nghiệp khi hai doanh nghiệp tồn tại riêng rẽ. Thứ ba, hoạt động mua bán
doanh nghiệp sẽ thanh lọc những doanh nghiệp yếu, tạo nên những doanh nghiệp
mới có tiềm lực mạnh hơn, hoạt động hiệu quả hơn và làm lành mạnh hóa nền kinh
tế của đất nƣớc.
26
Mua bán DNTN, vì thế, cũng không nằm ngoài những ý nghĩa to lớn đó.
Hơn nữa, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam cũng nhƣ thực trạng hoạt động của
các DNTN hiện tại, hoạt động mua bán DNTN thực sự đem lại cho nền kinh tế Việt
Nam cũng nhƣ số lƣợng đông đảo các DNTN những ý nghĩa đặc trƣng nhất định, cụ
thể:
Thứ nhất, mua bán DNTN, đứng trên khía cạnh của ngƣời bán doanh nghiệp,
sẽ đem đến cho chủ sở hữu của DNTN hiện hữu một “đƣờng lui” hữu hiệu hoặc
một khoản lời khi chuyển nhƣợng. Một khi các chủ sở hữu DNTN hiện hữu nhận
thấy kế hoạch kinh doanh của mình có nguy cơ phá sản, ngƣời chủ này có thể thông
minh chọn lựa cách bán DNTN của mình cho những ngƣời có nhu cầu. Và việc
chuyển giao một DNTN kém hiệu quả từ ngƣời này sang ngƣời khác mang lại nhiều
ý nghĩa hơn việc khai tử cho doanh nghiệp đó. Nếu khéo léo và nếu nhận đƣợc sự
hợp tác thiện chí từ phía ngƣời mua và chủ nợ, việc bán lại DNTN còn giúp chủ sở
hữu cũ của DNTN đƣợc giải thoát khỏi những vấn đề pháp lý phức tạp mà việc phá
sản hoặc giải thể DNTN đem lại.
Mặt khác, trong trƣờng hợp DNTN đang phát triển nhƣng vì lý do nào đó
(ốm đau, tai nạn hoặc thay đổi kế hoạch kinh doanh …) mà chủ DNTN hiện hữu
muốn chuyển nhƣợng DNTN của mình cho ngƣời khác, việc chuyển nhƣợng một
DNTN đang hoạt động hiệu quả sẽ đem lại cho chủ sở hữu doanh nghiệp một khoản
lời nhất định.
Thứ hai, mua bán DNTN, xét trên khía cạnh của ngƣời mua doanh nghiệp, là
một trong những kênh đầu tƣ hiệu quả cho các nhà đầu tƣ mới bắt đầu tham gia thị
trƣờng với số vốn và phạm vi kinh doanh nhỏ và vừa. Việc mua lại một DNTN
đang hoạt động để “thổi” vào đó ý tƣởng kinh doanh của mình là một trong những
lựa chọn khôn ngoan và hiệu quả của các nhà đầu tƣ mới tham gia thị trƣờng. Theo
các chuyên gia kinh tế, việc mua một doanh nghiệp có sẵn là sự đầu tƣ ít rủi ro hơn
và mang lại lợi nhuận nhanh hơn so với việc tạo dựng một doanh nghiệp từ con số
không. Theo đó, ngƣời mua lại một DNTN đang hoạt động có thể tranh thủ và tận
dụng đƣợc nhiều lợi ích hiện có của DNTN đó, cụ thể nhƣ: (1) tranh thủ nguồn
27
nhân lực sẵn có; (2) tranh thủ bí quyết kinh doanh và/hoặc công nghệ, khoa học sẵn
có; (3) tranh thủ các đầu mối, bạn hàng sẵn có; (4) tranh thủ nhãn hiệu hàng hóa,
thƣơng hiệu của DNTN đã đƣợc gây dựng hiện tại… Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc, ngƣời mua lại DNTN mục tiêu có thể giảm thiểu chi phí đầu tƣ ban đầu, giảm
thiểu chi phí và thời gian cho những thủ tục pháp lý và những thủ tục “tiền doanh
nghiệp” nhƣ: thủ tục thành lập DNTN, tìm và xây dựng địa điểm kinh doanh, tìm và
thuê mƣớn lao động có tay nghề, tìm kiếm bạn hàng, đối tác làm ăn, các nguồn cung
hàng hóa…
Thứ ba, mua bán DNTN, xét trên khía cạnh của bản thân DNTN, là một
phƣơng thức tái cơ cấu doanh nghiệp hữu hiệu. Cùng là một kế hoạch kinh doanh,
nhƣng dƣới sự quản lý của ngƣời này thì thành công và dƣới sự quản lý của ngƣời
kia thì thất bại, theo phƣơng thức hoạt động này thì phát triển và theo phƣơng thức
hoạt động kia thì lụi bại … Do đó, một khi DNTN hiện hữu không thể phát triển và
có nguy cơ phá sản thì việc chuyển nhƣợng doanh nghiệp đó sang cho chủ thể khác
sẽ là cơ hội để DNTN đƣợc tái cơ cấu, tổ chức lại theo cách thức tổ chức và quản lý
mới của ngƣời chủ mới. Việc tái cơ cấu, tổ chức lại doanh nghiệp này nhiều khi
đem lại những cải thiện và thành công không nhỏ cho doanh nghiệp, tất nhiên cũng
không tránh khỏi trƣờng hợp có tác động ngƣợc lại. Tuy nhiên, ngay cả khi trƣờng
hợp đó xảy ra, ngƣời chủ mới lại có thể tiếp tục bán, chuyển nhƣợng DNTN của
mình cho ngƣời khác. Nhƣ một sự tất yếu của vòng tuần hoàn, doanh nghiệp đƣợc
luân chuyển từ tay ngƣời này sang cho ngƣời khác và sẽ trụ lại khi doanh nghiệp
đƣợc khoác lên ngƣời một kế hoạch kinh doanh, một sự tái cơ cấu và một phƣơng
thức quản lý doanh nghiệp hợp lý.
Thứ tƣ, mua bán DNTN, xét trên khía cạnh của nền kinh tế, góp phần bình
ổn nền kinh tế và tăng trƣởng xã hội. Nhƣ phân tích ở phần 1.1 của Luận văn,
DNTN chiếm một số lƣợng lớn ở nƣớc ta hiện nay. Tuy nhiên, đặc trƣng của các
DNTN này là quy mô hoạt động nhỏ, lẻ, thiếu và yếu cả về vốn và kỹ năng quản
lý… Đứng trƣớc cơn bão khủng hoảng và hiện tƣợng toàn cầu hóa nền kinh tế đang
ngày càng mở rộng nhƣ hiện nay, các DNTN đang thực sự phải đƣơng đầu với vô
28
vàn những khó khăn, thử thách. Và không phải tất cả các chủ DNTN đều đủ khả
năng và bản lĩnh “chèo lái con thuyền” của mình trƣớc cơn lốc khủng hoảng và
những thử thách mà toàn cầu hóa kinh tế đặt ra. Vì thế, các DNTN đứng trƣớc nguy
cơ đổ vỡ hàng loạt, gây ảnh hƣởng không nhỏ đến cơ cấu nền kinh tế cũng nhƣ tác
động xấu đến nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ đến số lƣợng lớn các lao động, các
chủ thể kinh doanh khác trong hệ thống kinh tế. Việc chủ sở hữu của các DNTN
đang đứng trƣớc nguy cơ sụp đổ có thể bán lại DNTN của mình cho ngƣời khác để
tiếp tục chèo lái và phát triển doanh nghiệp sẽ góp phần khắc phục sự đổ vỡ hàng
loạt của các doanh nghiệp, góp phần bình ổn nền kinh tế và ổn định trật tự xã hội.
Thực tiễn giao dịch cho thấy, mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán
DNTN nói riêng là một loại giao dịch khá phức tạp cho nên các bên thƣờng lựa
chọn việc ký kết với nhau một thỏa thuận chuyển nhƣợng bằng văn bản gọi là hợp
đồng mua bán DNTN để làm bằng chứng ghi nhận sự thỏa thuận của hai bên.
Pháp luật Việt Nam cũng nhƣ pháp luật một số nƣớc có hoạt động mua bán,
sáp nhập doanh nghiệp phát triển nhƣ Anh Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp và một
số nƣớc Châu Âu Lục địa đều không có quy định trực tiếp nào về hợp đồng mua
bán DNTN. Tuy nhiên, đứng trên khía cạnh khoa học pháp lý về hợp đồng và từ các
đặc trƣng pháp lý của DNTN, Hợp đồng mua bán DNTN có những điểm đặc trƣng
riêng biệt.
Về mặt khoa học pháp lý, hợp đồng mua bán DNTN có thể đƣợc hiểu theo
ba nghĩa: (1) chỉ một văn bản đƣợc ký kết giữa các chủ thể tham gia giao dịch mua
bán DNTN; (2) chỉ sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao dịch mua bán
DNTN nhằm chuyển quyền sở hữu DNTN từ bên mua sang bên bán; hay (3) chỉ
một chế định pháp luật thuộc luật nghĩa vụ nhằm điều chỉnh quan hệ mua bán
DNTN giữa bên mua với bên bán, giữa bên bán với các chủ nợ và giữa bên mua với
các chủ nợ. Nếu hiểu theo nghĩa thứ nhất, hợp đồng mua bán DNTN chỉ thuần túy
là một văn bản, một hình thức thể hiện của ý chí. Khi đó, hợp đồng mua bán DNTN
cũng không có điểm gì khác biệt so với những văn bản thể hiện ý chí khác. Nếu
hiểu theo nghĩa thứ hai, hợp đồng mua bán DNTN cần đƣợc nhìn nhận từ bản chất
29
pháp lý của giao dịch mua bán DNTN, đặc biệt là từ những đặc trƣng pháp lý của
DNTN. Theo đó, bản chất pháp lý của giao dịch mua bán DNTN chính là một quan
hệ hợp đồng, là sự thỏa thuận của bên mua và bên bán về việc bên bán sẽ chuyển
giao quyền sở hữu toàn bộ tài sản có của một DNTN để bên mua tiếp tục các hoạt
động kinh doanh của DNTN. Các tài sản nợ của DNTN vẫn đƣơng nhiên gắn liền
với ngƣời chủ cũ, trừ khi giữa ngƣời chủ cũ, các chủ nợ và bên nhận chuyển
nhƣợng DNTN có một thỏa thuận đặc biệt gọi là thỏa thuận ba bên về chuyển giao
nghĩa vụ. Hệ quả pháp lý của giao dịch là chủ DNTN cũ sẽ chấm dứt quyền sử
dụng, chiếm hữu và hƣởng dụng tài sản có của DNTN đó và bên mua trong giao
dịch này sẽ trở thành chủ sở hữu mới của DNTN. Nói cách khác, bên mua sẽ có
toàn quyền sử dụng, quản lý, khai thác và định đoạt DNTN mới mua lại. Theo đó,
bên mua và bên bán cần thực hiện thủ tục chuyển nhƣợng theo đúng quy định của
pháp luật, tùy yêu cầu của mỗi hệ thống pháp luật, đó có thể là thủ tục đăng ký với
cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền về việc
chuyển nhƣợng, đó cũng có thể là thủ tục đăng ký lại DNTN để ghi nhận chủ sở
hữu mới của DNTN đó. Nếu hiểu theo nghĩa thứ ba, hợp đồng mua bán DNTN
không nằm ngoài những chế định pháp luật sau: (1) Chế định hợp đồng, giao dịch
dân sự và chế định tài sản và quyền sở hữu trong pháp luật dân sự; (2) Chế định
pháp luật DNTN trong pháp Luật Doanh nghiệp.
Có thể phân tích hợp đồng mua bán DNTN trên cơ sở so sánh với các hợp
đồng tƣơng tự nhƣ Hợp đồng mua bán công ty TNHH, công ty cổ phần, Hợp đồng
mua bán tài sản của doanh nghiệp để làm rõ đặc trƣng pháp lý của hợp đồng mua
bán DNTN. Trong sự so sánh với hợp đồng mua bán công ty TNHH, công ty cổ
phần, có thể thấy Hợp đồng mua bán DNTN khác với các hợp đồng mua bán công
ty TNHH, công ty cổ phần ở điểm: nếu nhƣ hợp đồng mua bán công ty TNHH,
công ty cổ phần là sự thoả thuận giữa các bên để chuyển giao toàn bộ doanh nghiệp
(gồm toàn bộ tài sản có, tài sản nợ doanh nghiệp) cho bên mua và nhận tiền, còn
bên mua có nghĩa vụ nhận toàn bộ doanh nghiệp (bao gồm cả những khoản nợ,
những nghĩa vụ chƣa thực hiện) và trả tiền cho bên bán thì Hợp đồng mua bán
30
DNTN chỉ là sự chuyển giao phần tài sản có của DNTN cho bên mua (bởi theo quy
định của pháp luật, chủ DNTN vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chƣa thực hiện, trừ khi có thỏa thuận ba bên
về việc chuyển giao cả phần tài sản nợ và nghĩa vụ chƣa thực hiện). Trong sự so
sánh với hợp đồng mua bán tài sản của doanh nghiệp, có thể thấy Hợp đồng mua
bán DNTN khác với hợp đồng mua bán tài sản của doanh nghiệp ở điểm: đối tƣợng
của hợp đồng mua bán DNTN chính là DNTN – một thực thể kinh doanh, một
doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đƣợc đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật, trong khi đó đối tƣợng của hợp đồng mua
bán tài sản của doanh nghiệp chỉ là một hoặc một số phần tài sản của doanh nghiệp.
Từ đó dẫn đến hệ quả khác nhau của mỗi giao dịch, đó là hợp đồng mua bán DNTN
dẫn tới sự thay đổi địa vị của chủ sở hữu doanh nghiệp cụ thể là sự chuyển đổi chủ
sở hữu của doanh nghiệp từ bên bán sang bên mua, chấm dứt tƣ cách pháp lý của
chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân cũ; còn hợp đồng bán một phần hoặc toàn bộ tài
sản của doanh nghiệp không làm thay đổi địa vị của chủ sở hữu doanh nghiệp.
Từ những đặc trƣng pháp lý của DNTN và từ những phân tích trên đây cho
thấy mua bán DNTN là thỏa thuận chuyển giao một phần tài sản có của chủ sở hữu
doanh nghiệp tƣ nhân đã đƣa vào doanh nghiệp. Sau khi bán doanh nghiệp chủ
DNTN cũ sẽ không còn là chủ doanh nghiệp nữa mà ngƣời mua sẽ là chủ doanh
nghiệp. Kể từ ngày bán DNTN, coi nhƣ DNTN này chấm dứt tồn tại, mặc dù sau đó
ngƣời mua vẫn có thể đăng ký kinh doanh lại với tên DNTN và toàn bộ cơ sở vật
chất đã có của DNTN cũ.
Ngoài ra, xuất phát từ những đặc trƣng của đối tƣợng hợp đồng mua bán
DNTN nhƣ phân tích tại Luận văn, có thể thấy hợp đồng mua bán DNTN là một
loại hợp đồng mua bán phức hợp, các tài sản có trong DNTN có thể là các tài sản
hữu hình và tài sản vô hình. Do đó, việc chuyển giao các loại tài sản phức hợp này
cũng có những quy định khác nhau.
Kết luận, Hợp đồng mua bán DNTN là sự thoả thuận giữa bên mua và bên
bán về việc bên bán chuyển giao quyền sở hữu phần tài sản có mà chủ sở hữu doanh
31
nghiệp đã đƣa vào DNTN cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ tiếp
nhận tất cả tài sản trên và thanh toán giá chuyển nhƣợng cho bên bán. Các tài sản nợ
của DNTN vẫn đƣơng nhiên gắn liền với ngƣời chủ cũ, trừ khi giữa ngƣời chủ cũ,
các chủ nợ và bên nhận chuyển nhƣợng DNTN có một thỏa thuận đặc biệt gọi là
thỏa thuận ba bên về chuyển giao nghĩa vụ. Thực chất hợp đồng mua bán DNTN là
hợp đồng phức hợp để chuyển nhƣợng các loại tài sản có cho bên mua mà không
chuyển nhƣợng tƣ cách pháp lý.
1.2.2 Pháp luật điều chỉnh Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Trong bất kỳ mối quan hệ hợp đồng nào, việc xác định xem các quy định
pháp luật nào điều chỉnh giao dịch đó là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với một quan
hệ hợp đồng phức tạp nhƣ hợp đồng mua bán DNTN. Pháp luật điều chỉnh quan hệ
hợp đồng mua bán DNTN có vai trò định hƣớng cho các doanh nghiệp, các nhà dầu
tƣ hƣớng đến việc xây dựng một hợp đồng chặt chẽ và đảm bảo đầy đủ hành lang
pháp lý cho các chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng. Một hợp đồng không
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng thì việc thực hiện hợp
đồng sẽ gặp nhiều trở ngại và đôi khi còn dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng.
Vai trò của pháp luật đối với hợp đồng nói chung và các quy định của pháp
luật liên quan đến hợp đồng mua bán DNTN nói riêng đều chủ yếu quy định các
điều kiện mà các bên cần đáp ứng cũng nhƣ những thủ tục cần thiết khi tham gia
vào quan hệ hợp đồng. Điều này nhằm đảm bảo rằng, sau khi ký kết, hợp đồng mua
bán DNTN có đầy đủ hiệu lực thi hành, có đầy đủ cơ sở pháp lý để các bên thực
hiện theo các nội dung đã cam kết, tranh sự bội tín, tránh những tranh chấp và xung
đột có thể xảy ra. Sự thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc sự nhận thức không đầy đủ về
pháp luật đôi khi sẽ làm cho hợp đồng hoặc một phần của hợp đồng không có hiệu
lực thi hành. Ví dụ: các bên ký kết hợp đồng mua bán DNTN trong đó có thỏa thuận
một mức giá chuyển nhƣợng tƣơng đối thấp kèm điều khoản đặc biệt là bên mua sẽ
có trách nhiệm thanh toán và/hoặc thực hiện mọi nghĩa vụ của bên bán đối với các
bên thứ ba. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật (nhƣ đã phân tích ở Luận văn),
việc các bên thỏa thuận chuyển nhƣợng toàn bộ nghĩa vụ của bên bán sang cho bên
32
mua không đƣơng nhiên có hiệu lực ràng buộc với bên thứ ba. Do đó, các chủ nợ
thay vì tìm đến ngƣời chủ mới, sẽ vẫn tìm đến ngƣời chủ cũ, và ngƣời chủ cũ lúc
này vẫn bị đối xử nhƣ một con nợ, một bên có nghĩa vụ. Nhƣ vậy, điều khoản thỏa
thuận đặc biệt này, một điều khoản cơ bản để hai bên thống nhất mức giá chuyển
nhƣợng, lại vô hiệu. Việc này kéo theo mục đích của hợp đồng không đạt đƣợc.
Mặc dù chỉ một phần của hợp đồng vô hiệu, nhƣng giao dịch này cũng vì thế mà
không thể tiếp tục thực hiện nếu các bên không thể thống nhất đƣợc một giải pháp
mới.
Quay trở lại với đặc trƣng của hợp đồng mua bán DNTN là một hợp đồng
phức hợp, sau khi giao kết và có hiệu lực, Hợp đồng mua bán DNTN sẽ phát sinh
hàng loạt các vấn đề nhƣ tài chính, cho thuê tài chính, thƣơng hiệu, giải quyết các
vấn đề liên quan đến lao động, xử lý các khoản nợ thuế, khoản nợ với các bên thứ
ba…Do đó, việc xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán DNTN
sẽ giúp các bên ngay tại thời điểm ký kết, thỏa thuận hợp đồng có thể thống nhất
phƣơng án xử lý cho toàn bộ các vấn đề phát sinh trƣớc, trong và sau khi ký hợp
đồng.
Hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán DNTN ở mỗi quốc gia
thuộc các họ pháp luật khác nhau sẽ khác nhau. Có thể thấy đƣợc điều này từ việc
phân tích về sự phân loại giữa thƣơng nhân thể nhân và thƣơng nhân pháp nhân.
Theo đó, đối với các nƣớc coi DNTN nhƣ một thƣơng nhân thể nhân thì pháp luật
điều chỉnh sẽ là hệ thống pháp luật dân sự, pháp luật hợp đồng và các luật chuyên
ngành đóng vai trò điều chỉnh các đối tƣợng chuyên biệt của hợp đồng (các tài sản
là quyền sở hữu trí tuệ, bất động sản, cho thuê tài chính…), luật thuế thu nhập cá
nhân. Đối với các nƣớc coi DNTN nhƣ một thƣơng nhân pháp nhân (một loại hình
doanh nghiệp thì hợp đồng mua bán DNTN lại chịu sự điều chỉnh của pháp luật
công ty, luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Mô hình pháp luật của Việt Nam hiện đang đi theo xu hƣớng coi DNTN là
một loại hình doanh nghiệp và chịu sự điều chỉnh chung của hệ thống pháp luật
doanh nghiệp. Theo đó, với các vấn đề chung nhất của hợp đồng mua bán DNTN
33
thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Với những vấn đề liên quan đến đăng
ký doanh nghiệp, chuyển đổi địa vị pháp lý của chủ doanh nghiệp, quyền và nghĩa
vụ của chủ doanh nghiệp…thì chịu sự điều chỉnh của pháp Luật Doanh nghiệp. Với
những vấn đề riêng trong hợp đồng (lao động, tài chính, chuyển giao đất đai, tài sản
trí tuệ, tài sản có đăng ký quyền sở hữu…) thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật
chuyên ngành (pháp luật lao động, pháp luật đất đai, pháp luật tài chính…).
1.2.3 Hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Hình thức của hợp đồng, đƣợc hiểu là cách thức biểu hiện ý chí ra bên ngoài
của các bên xác lập quan hệ hợp đồng. Ý chí có thể biểu hiện ra bên ngoài bằng
ngôn từ (bằng miệng), bằng văn bản hoặc bằng những hành động cụ thể. Do đó, về
nguyên tắc một hợp đồng mua bán có thể thực hiện bằng miệng, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể.
Tuy nhiên, đối tƣợng của hợp đồng mua bán DNTN chứa đựng nhiều loại tài
sản khác nhau, bao gồm cả các tài sản mang tính đặc thù (nhƣ nhà ở, bất động sản,
tài sản đăng ký quyền sở hữu…) nên rất nhiều các quốc gia trên thế giới đều có
chung quan điểm là việc chuyển nhƣợng, chuyển giao quyền sở hữu các tài sản này
phải đƣợc lập thành văn bản và đƣợc công chứng, chứng thực hoặc có ngƣời làm
chứng (tùy hệ thống pháp luật mỗi quốc gia). Do đó, hợp đồng mua bán DNTN với
mục đích chuyển giao một trong các loại tài sản này cũng phải đƣợc lập thành văn
bản và phải đƣợc công chứng, chứng thực hoặc có ngƣời làm chứng.
Hoạt động công chứng, chứng thực, làm chứng gắn liền với sự phát triển của
xã hội và có ý nghĩa to lớn trong việc xác định tính xác thực của giao dịch và các
quan hệ phát sinh cũng nhƣ sự phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan.
Do đó, mỗi xã hội, mỗi quốc gia khác nhau lại có những quy định về công chứng,
chứng thực hoặc làm chứng khác nhau.
Lịch sử Nhà nƣớc đã có thời kỳ chƣa có khái niệm công chứng, một số tác
giả nghiên cứu về công chứng cho rằng có hai loại hình thực hiện công chứng là tư
chứng thư và công chứng thư. Các tác giả đã đƣa ra các khái niệm ''công'' và "tư",
giữa cá nhân tự do làm chứng với các chức danh đƣợc Nhà nƣớc giao cho nhiệm vụ
34
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân

More Related Content

Similar to Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân

ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...
ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...
ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Dam phan kinh doanh.doc
Dam phan kinh doanh.docDam phan kinh doanh.doc
Dam phan kinh doanh.doctrumhaichum
 
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao độngKhóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao độngDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...
Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...
Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdfHoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Similar to Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân (20)

ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...
ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...
ĐỔI MỚI CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (VIỆT NAM) TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆP ...
 
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại, 9 ĐIỂMLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công tyĐề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
 
Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAY
Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAYLuận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAY
Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAYLuận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
 
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂMKhóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Pháp luật về phòng chống tham nhung, HAY, 9 ĐIỂM
 
Dam phan kinh doanh.doc
Dam phan kinh doanh.docDam phan kinh doanh.doc
Dam phan kinh doanh.doc
 
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao độngKhóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
Khóa luận Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động
 
Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...
Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...
Hoạt Động Tư Vấn Luật Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Về Đất Đai Tại Văn Phòng ...
 
Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...
Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...
Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú YênĐề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
 
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdfHoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
 
Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...
Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...
Thực trạng pháp luật về quyền tự do kinh doanh và thực tiễn thực hiện tại Quả...
 
Luận Văn Pháp Luật Về Huy Động Vốn Lĩnh Vực Chứng Khoán
Luận Văn Pháp Luật Về Huy Động Vốn Lĩnh Vực Chứng KhoánLuận Văn Pháp Luật Về Huy Động Vốn Lĩnh Vực Chứng Khoán
Luận Văn Pháp Luật Về Huy Động Vốn Lĩnh Vực Chứng Khoán
 
Khóa luận: Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, HAY
Khóa luận: Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, HAYKhóa luận: Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, HAY
Khóa luận: Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, HAY
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ NHỮNG VẤN ...
 
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mạiLuận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
 
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luậtLuận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
 

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Recently uploaded

Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 

Luận văn: Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HƢỜNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Tải miễn phí kết bạn zalo 0917 193 864 Dịch vụ viết luận văn chất lượng Website: luanvantrust.com Zalo/Tele: 0917 193 864 Mail: baocaothuctapnet@gmail.com LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HƢỜNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƢƠNG Hà nội – 2011
  • 3. LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành đề tài Luận văn Thạc sĩ, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đa nhân đươc sư hương dân , giúp đỡ quý báu của các thầy cô , gia đình, đồng nghiệp và bạn bè trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện Luận văn Thạc sĩ. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tơi Ban chủ nhiệm, Phòng đào tạo sau đại học, Bô môn Luật Kinh doanh Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đa tao moi điêu kiên thuân lơi giup đơ tôi trong qua trinh hoc tâp va hoan thanh luân văn. Đặc biệt, vơi long kinh trong va biêt ơn sâu săc tôi xin gửi lời cam ơn chân thành đến TS. Ngô Huy Cương, ngươi thây kinh mên đa hêt long giup đơ , đông viên va tao moi điêu kiên thuân lơi cho tôi trong suôt qua trinh nghiên cứu và thực hiện luân văn . Xin gửi lời tri ân nhất của tôi đối với những điều mà thầy đã dành cho tôi. Xin chân thanh bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể cac thây cô trong Khoa luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và quá trình thực hiện đề tài luận văn này. Xin gưi lời cam ơn tơi gia đình , đồng nghiệp và ban be đã luôn ơ bên canh đông viên va giup đơ tôi trong suốt quá trình hoc tâp , làm việc và hoàn thành luận văn. Tác giả Luận văn Ngô Thị Hƣờng
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả Luận văn Ngô Thị Hƣờng
  • 5. MỤC LỤC Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN .......................................................................................................................7 1.1 Tổng quan về Doanh nghiệp tƣ nhân ................................................................... 7 1.1.1 Lịch sử phát triển của Doanh nghiệp tư nhân ..................................................... 7 1.1.2 Vai trò và ýnghĩa của Doanh nghiệp tư nhân................................................... 10 1.1.3 Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân...................................................................... 15 1.1.4 Đặc trưng pháp lýcủa Doanh nghiệp tư nhân .................................................. 21 1.2 Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân ........................................................ 26 1.2.1 Khái niệm và bản chất pháp lýcủa Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân.................................................................................................................... 26 1.2.2 Pháp luật điều chỉnh Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ..................... 32 1.2.3 Hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân................................ 34 1.2.4 Đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ............................... 36 1.2.5 Chủ thể trong Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ................................ 41 1.2.6 Nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ..................... 46 1.2.7 Vi phạm Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và các chế tài.................. 49 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN................................................................. 56 2.1 Cấu trúc và nguồn pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp tƣ nhân và Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣnhân ................................................................ 56 2.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân.................................................................................................... 62
  • 6. 2.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tƣợng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân.................................................................................................... 71 2.4 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân.................................................................................................... 80 2.5 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân ........................................................................................ 84 2.6 Thực trạng pháp luật Việt Nam về vi phạm nghĩa vụ Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân và các chế tài ................................................................. 86 CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN .... 105 3.1 Những định hƣớng cơ bản................................................................................ 105 3.1.1 Chỉnh sửa và xây dựng những quy phạm pháp luật có tính chặt chẽ và phù hợp trên cơ sở rà soát và nghiên cứu thực trạng mua bán Doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam ............................................................................................ 105 3.1.2 Đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp luật ........................106 3.1.3 Đảm bảo sự quản lý, điều phối của cơ quan quản lý nhà nước ......................107 3.2 Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân ...................................................................................... 108 3.2.1 Về cách tiếp cận doanh nghiệp tư nhân........................................................... 108 3.2.2 Về hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ......................... 108 3.2.3 Về đối tượng của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ......................... 109 3.2.4 Về chủ thể của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ............................. 109 3.2.5 Về nội dung cơ bản của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân .............. 111 3.2.6 Về vấn đề lao động trong Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân ............ 112 3.2.7 Về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân và các chế tài.... 113 3.2.8 Về lựa chọn luật áp dụng ................................................................................. 114 KẾT LUẬN ................................................................................................................ . 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 118 PHỤ LỤC 01 - CÁC BẢNG SỐ LIỆU......................... Error! Bookmark not defined.
  • 7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT CT TNHH : Công ty Trách nhiệm Hữu hạn CTCP : Công ty Cổ phần DNTN : Doanh nghiệp tƣ nhân
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 01: Số lƣợng doanh nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình Bảng 02: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp (Tỷ đồng) Bảng 03: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp phân theo loại hình (ngƣời)
  • 9. MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) đã mở ra cho các Doanh nghiệp trong nƣớc nhiều cơ hội đầu tƣ, kinh doanh nhƣng cũng đem lại không ít những khó khăn, thách thức trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nƣớc ngoài có quy mô và tiềm năng về vốn, về kỹ thuật, về năng lực quản lý...Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc những doanh nghiệp quản trị kém không thể tiếp tục “chèo lái” con thuyền của mình đã phải bán doanh nghiệp hoặc bán phần vốn góp của mình trong công ty hay sáp nhập vào công ty khác. Điều đó đồng nghĩa với việc, có những doanh nghiệp sẽ ngày một mạnh lên nhờ công nghệ, nhờ quản trị, nhờ sản phẩm chiến lƣợc…và sẽ luôn tìm kiếm cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Ngƣợc lại, có những doanh nghiệp ngày một suy kém và buộc phải rút lui khỏi thị trƣờng. Một trong những hình thức tƣơng đối hữu hiệu mà các doanh nghiệp mạnh thƣờng nghĩ đến là mua lại các công ty khác đang “hấp hối” để tranh thủ những nguồn lực sẵn có của công ty này (nhƣ nguồn nhân công rẻ, tay nghề tốt hay mạng lƣới cung cấp khách hàng tiềm năng hay thƣơng hiệu hàng hóa sẵn có…). Tƣơng lai gần, việc mua bán doanh nghiệp hay chuyển nhƣợng vốn góp sẽ ngày càng phát triển và trở thành xu hƣớng tất yếu của thị trƣờng. Trong bức tranh chung về mua bán doanh nghiệp, thì có lẽ vấn đề mua bán doanh nghiệp tƣ nhân (doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình) là vấn đề đầu tiên đƣợc pháp luật ghi nhận chính thức tại Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1990 (“Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990”). Lần đầu tiên pháp luật ghi nhận quyền bán doanh nghiệp tƣ nhân của chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân. Tuy nhiên, từ đó đến nay khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này còn hạn chế, chƣa nêu bật đƣợc bản chất mua bán doanh nghiệp tƣ nhân, sự khác biệt của hoạt động mua bán doanh nghiệp tƣ nhân với các hoạt động mua bán doanh nghiệp khác. Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990 và Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng 1
  • 10. hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 (“Luật Doanh nghiệp 1999”) ra đời đã công nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của kinh tế tƣ nhân, công nhận sự bình đẳng của DNTN với những loại hình doanh nghiệp khác. Điều đó góp phần thúc đẩy sự tồn tại, phát triển của DNTN cũng nhƣ góp một phần đáng kể cho nền kinh tế nƣớc nhà trong những thập kỷ vừa qua. Trong đó, hoạt động mua bán DNTN chiếm một vị trí không nhỏ. Nhƣ vậy, bên cạnh góc độ kinh tế, góc độ pháp lý của việc mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán doanh nghiệp tƣ nhân nói riêng là vấn đề mà nhà nƣớc Việt Nam cần quan tâm, nghiên cứu sâu hơn nữa để có thể xây dựng một khung pháp lý phù hợp, đảm bảo cho các giao dịch mua bán doanh nghiệp diễn ra đúng trình tự pháp lý, có sự quản lý của nhà nƣớc, đảm bảo sự bình ổn trong nền kinh tế đất nƣớc, tránh lũng đoạn thị trƣờng cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi của các chủ thể (bên mua và bên bán) trong các giao dịch. Từ những lý luận và thực tế trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân” làm đề tài nghiên cứu thạc sĩ của mình nhằm tiếp cận, phân tích và giải quyết những vấn đề có liên quan trực tiếp đến hợp đồng mua bán DNTN. 2 Tình hình nghiên cứu Trong thời gian gần đây, cùng với sự gia tăng của các giao dịch mua bán doanh nghiệp, số lƣợng các bài nghiên cứu cũng tăng lên. Qua tìm hiểu có thể kể đến một số công trình và bài viết nghiên cứu có liên quan phần nào đến DNTN, hợp đồng mua bán doanh nghiệp sau đây: Thứ nhất, với các công trình luận án, Luận văn, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Luận án Tiến sỹ Luật Học (2000) của Phạm Quý Tỵ bàn về “Nhà nước quản lýbằng pháp luật đối với Doanh nghiệp tư nhân và Công ty trách nhiệm hữu hạn”; Luận án Tiến sỹ Luật học (2003) của Phạm Trí Tuệ bàn về “Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân”; 2
  • 11. Luận án Tiến sỹ - chuyên ngành Kinh tế quản lý và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân (2003) của Lê Anh Dũng bàn về vấn đề “Đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh”; Luận văn Thạc sĩ của Mai Vân Anh (2009) bàn về “Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam”. Thứ hai, với các sách chuyên khảo, các bài viết tạp chí (báo) Việt Nam và Quốc tế, có thể kể đến một số tài liệu sau: Sách của tác giả Corinne Renault – Brahinsky, ngƣời dịch Trần Đức Sơn, Nhà pháp luật Việt Pháp, Nhà xuất bản Gualino (2002), nghiên cứu về “Đại cương pháp luật hợp đồng”; Sách của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (2004), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội với tựa đề “Chuyên khảo luật kinh tế”; Sách của LS.TS Nguyễn Thanh Bình (chủ biên), Nhà xuất bản Thống Kê (2008), nghiên cứu về “Nghiệp vụ của Luật sư về Tư vấn pháp luật và Tư vấn Hợp đồng”; Bài viết của ThS. Bùi Xuân Hải (2008), “Vài nét về các loại hình công ty theo Luật Công ty của Úc”; Bài viết của tác giả Trần Thị Bảo Ánh bàn về “Thực trạng pháp luật Việt Nam về mua bán doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học số 05/2008; Bài viết của TS. Ngô Huy Cƣơng (2010), "Vài bình luận về pháp luật doanh nghiệp tư nhân", Tạp chi Khoa học ĐHQGHN - Luật học, số (26); Bài viết của Vũ Quốc Tuấn (2010) đƣợc đăng trên Báo Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần bàn về vấn đề “Tại sao Doanh nghiệp tư nhân chậm phát triển”; Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Oanh (2010) bàn về “Sự điều chỉnh pháp luật về thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam”; Bài viết của ThS. Nguyễn Trí Thanh – Đại Học Hitotsubashi – Nhật bản & ThS. Bùi Anh Tuấn – Đại học tổng hợp Columbia, Hoa Kỳ bàn về “Các bước trong 3
  • 12. quy trình mua doanh nghiệp”, ngày đăng 16/01/2011, Trang Thông tin Pháp luật Dân sự - cổng thông tin chuyên ngành dân sự; Nhìn chung những công trình, bài nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến tổng quan về hoạt động mua bán doanh nghiệp nói chung nhƣ lịch sử ra đời và phát triển hoạt động mua bán doanh nghiệp trên thế giới và tại Việt Nam, khái niệm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động mua bán doanh nghiệp.... hoặc chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những đặc trƣng pháp lý của DNTN mà chƣa đi vào phân tích cụ thể những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán DNTN. Do vậy, có thể nói hiện nay chƣa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc đầy đủ chi tiết về hợp đồng mua bán DNTN theo pháp luật Việt Nam. 3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và đặc trƣng pháp lý của hợp đồng mua bán DNTN; đánh giá và phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng mua bán DNTN trên cơ sở đối chiếu, so sánh với pháp luật các nƣớc; trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị, giải pháp để góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN. Để đạt đƣợc những mục tiêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau: (i) Thứ nhất, nghiên cứu đặc trƣng pháp lý của loại hình DNTN và những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán DNTN; (ii) Nghiên cứu, phân tích những quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán DNTN; (iii) Đánh giá, bình luận về những ƣu điểm, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán DNTN; (iv) Đƣa ra những kiến nghị cụ thể góp phần khắc phục những hạn chế, thiếu sót và hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán doanh nghiệp tƣnhân nói riêng. 4 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán DNTN và thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN. 4
  • 13. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là Luận văn tiến hành nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về việc mua bán DNTN (có sự đối chiếu, so sánh với một số quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1990 trở lại đây). Ngoài ra, DNTN đƣợc đề cập tại Luận văn chính là DNTN theo nghĩa hẹp, tức một loại hình doanh nghiệp đƣợc quy định tại Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 (“Luật Doanh nghiệp 2005”), là DNTN do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình. Luận văn không nghiên cứu DNTN theo nghĩa rộng, tức không nghiên cứu toàn bộ các loại hình doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tƣ từ tƣ nhân. 5 Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình hoàn thiện Luận văn, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: (i) phƣơng pháp duy vật biện chứng, phân tích lịch sử, phân tích, tổng hợp, mô hình hóa, điển hình hóa... để phân tích lý giải, lập luận những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán DNTN; (ii) Phƣơng pháp so sánh để so sánh những sự khác nhau giữa hợp đồng mua bán tài sản của doanh nghiệp và hợp đồng mua bán DNTN, sự khác biệt của hợp đồng mua bán DNTN với hợp đồng mua bán các loại hình doanh nghiệp khác, so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nƣớc trên thế giới…; và (iii) các phƣơng pháp nghiên cứu riêng của khoa học pháp lý nhƣ: phân tích qui phạm, phân tích hệ thống, công thức hóa qui tắc pháp lý... 6 Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng mua bán DNTN trên cơ sở nghiên cứu những đặc trƣng cơ bản của DNTN và hệ thống các vấn đề pháp lý có liên quan đến Hợp đồng mua bán DNTN. Thứ hai, trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN, đã xây dựng đƣợc những định hƣớng và giải pháp mang tính 5
  • 14. đặc thù để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện thời về hợp đồng mua bán DNTN. 7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Thứ nhất, Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách bao quát, có hệ thống lý luận pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN. Thứ hai, Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng mua bán DNTN tại Việt Nam và đánh giá một cách tƣơng đối có hệ thống thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTNi. Thứ ba, Luận văn, trong phần kiến nghị những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện, đã đƣa ra đƣợc những định hƣớng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán DNTN nói riêng và mua bán doanh nghiệp nói chung cũng nhƣ góp phần cung cấp những nền tảng pháp lý cho các chủ thể khi tìm hiểu hay tham gia vào hoạt động mua bán DNTN tại Việt Nam. 8 Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Mục lục, Luận văn chia ra thành 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Khái luận về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân. Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân. Chƣơng 3: Định hƣớng và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân. 6
  • 15. CHƢƠNG 1 KHÁI LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN 1.1 Tổng quan về Doanh nghiệp tƣ nhân 1.1.1 Lịch sử phát triển của Doanh nghiệp tư nhân Sự phát triển của DNTN cần đƣợc nhìn nhận, đánh giá dƣới lăng kính tổng quan của nền kinh tế tƣ nhân nói chung, của các doanh nghiệp thuộc khối tƣ nhân nói riêng. Vì vậy, trong phạm vi phần lịch sử phát triển này, thuật ngữ DNTN đƣợc dùng để chỉ DNTN nói riêng và chỉ các loại hình doanh nghiệp thuộc khối tƣ nhân nói chung. DNTN ở Việt Nam trước thời kỳ Đổi mới Trong bản Tuyên ngôn độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án một trong những tội ác của thực dân khi chúng cai trị nƣớc ta là: “chúng không cho các nhà tƣ sản của nƣớc ta ngóc đầu lên”. Do đó, khi Việt Nam bƣớc vào thời kỳ chống thực dân Pháp với khẩu hiệu “Toàn dân kháng chiến”, Ngƣời đã kêu gọi những ngƣời giàu góp vốn để mở công ty kinh doanh công nghiệp, nông nghiệp, thƣơng nghiệp, tài chính, giao thông để tịch thu một cách vô điều kiện các cơ sở sản xuất tƣ nhân. Hƣởng ứng lời kêu gọi đó, nhiều thƣơng nhân Việt Nam giàu lòng yêu nƣớc đã đóng góp xứng đáng vào cuộc kháng chiến trƣờng kỳ 1945-1954. Đến năm 1954, hòa bình lập lại ở Miền Bắc Việt Nam và bƣớc vào công cuộc xây dựng lại đất nƣớc, trong khi Miền Nam Việt Nam vẫn còn dƣới chế độ Mỹ - Diệm. Với khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, tất cả tài sản của các thành phần kinh tế nhƣ: kinh tế cá thể ngƣời lao động ở nông thôn, các DNTN, hộ sản xuất thủ công, hay của các DNTN nhỏ đều bị chuyển đổi thành tài sản của nhà nƣớc. Cải cách ruộng đất ở nông thôn đƣợc nhìn nhận nhƣ một sai lầm trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Vào thời kỳ đó, ở Miền Bắc có 3.065 DNTN với tổng số vốn gần 22 triệu USD. Hình thức chủ yếu của các DNTN là DNTN một chủ hoặc một số ít là DNTN hợp danh, các hình thức doanh nghiệp khác nhƣ: Công ty TNHH, CTCP chƣa xuất hiện. 7
  • 16. Trong vòng 6 năm, toàn bộ sở hữu tƣ nhân trong các doanh nghiệp bị quy thành sở hữu nhà nƣớc. khu vực kinh tế tƣ nhân gần nhƣ bị tiêu diệt hoàn toàn. Nền kinh tế Việt Nam (Miền Bắc) chỉ còn hai thành phần chủ yếu là Kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tập thể, một phần nhỏ là kinh tế cá thể. Hiện trạng này giống nhƣ Trung Quốc trƣớc Cải cách mở cửa. Sau 1975, đất nƣớc thống nhất, chính sách quốc hữu hóa tài sản của khu vực kinh tế tƣ nhân lại đƣợc áp dụng ở Miền Nam. Gần nhƣ toàn bộ tài sản của 22.456 DNTN với giá trị khoảng 800 triệu USD đã trở thành sở hữu nhà nƣớc. Các DNTN bị liệt vào thành phần phi xã hội chủ nghĩa và không đƣợc phép tồn tại. Cũng nhƣ ở Trung Quốc, Doanh nghiệp ở Miền Bắc Việt Nam bị phân biệt đối xử, thậm chí còn bị coi là thành phần phản cách mạng. Nền kinh tế Việt Nam đến giữa những năm 1980 ngày càng trì trệ, lạc hậu. Một đất nƣớc nông nghiệp với điều kiện tự nhiên tƣơng đối thuận lợi và ngƣời dân cần cù, sáng tạo nhƣng liên tục thiếu đói, phải trông chờ viện trợ lƣơng thực từ các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu. Năm 1986 là năm đánh dấu một thời kỳ mới – thời kỳ Đổi mới – bằng việc Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI lần đầu tiên khẳng định cần xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cho dù nền kinh tế hàng hóa đó vẫn phải theo chế độ sở hữu chung về tƣ liệu sản xuất. Thời kỳ này đánh dấu bƣớc ngoặt cho các DNTN có cơ hội phát triển trở lại. Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 1986 đến 1990 Bƣớc đầu nền kinh tế Việt Nam nổi lên với nền kinh tế hộ cá thể (năm 1990 số hộ kinh doanh cá thể lên đến khoảng 840 hộ) [2], những điều kiện phát triển kinh tế tƣ nhân thoát khỏi phạm vi kinh tế hộ cá thể gần nhƣ chƣa có. Các hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp này vẫn phải hoạt động “ngầm” và chủ hộ vẫn bị kỳ thị, vẫn bị coi là “con buôn”. Đây thực sự mới chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của DNTN. Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 1991 đến 1999 Kinh tế hộ đứng trƣớc đòi hỏi bức thiết về mở rộng quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh, muốn thoát khỏi cảnh hoạt động ngầm cũng nhƣ đƣợc pháp luật và 8
  • 17. xã hội chính thức thừa nhận. Điều này phù hợp với đòi hỏi khách quan. Do đó, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam toàn quốc lần VII (1991) đã chính thức thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng nhƣng có định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo đó, tháng 12/1990, Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân đƣợc Đảng và nhà nƣớc chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/4/1991. Đây là bƣớc ngoặt hết sức quan trọng cho DNTN bởi Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990 chính thức đặt nền tảng pháp lý cho DNTN Việt Nam. DNTN và sở hữu tƣ nhân đƣợc chính thức đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990 có tác dụng nhƣ một luồng gió mới, phá vỡ những rào cản vô hình (từ trong nhận thức) và hữu hình (qua những quy định, quy phạm) trƣớc đây đã từng trói buộc kinh tế tƣnhân. Giai đoạn 10 năm 1990-1999 có thể coi là giai đoạn khai sinh ra DNTN. Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 2000 đến nay Sau nhiều lần soạn thảo, tháng 5/1999, Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999 là bƣớc đợt phá cả về tƣ duy lẫn kỹ năng quản lý đối với khối kinh tế tƣ nhân. Do yêu cầu của kinh tế thị trƣờng, hội nhập kinh tế quốc tế nên các doanh nghiệp tƣ nhân của nƣớc ta đã gia tăng nhanh chóng. Có thể tham khảo con số thống kê do Tổng cục thống kê Việt Nam tổng hợp tại ấn phẩm “Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21”, NXB Thống kê, 2010 nhƣ sau: trong năm 2000 có 20.548 DNTN đƣợc thành lập; năm 2001 có 22.777 DNTN; năm 2002 có 24.794 DNTN; năm 2003 có 25.653 DNTN; năm 2004 có 29.980 DNTN; năm 2008 đã tăng lên 46.530 DNTN. Cho đến nay, với cơ chế mở cửa, chính sách hội nhập quốc tế và sự phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp cho thƣơng nhân lựa chọn, loại hình DNTN dù không tiếp tục phát triển rầm rộ nhƣ những năm trƣớc, nhƣng xu hƣớng mua bán DNTN vẫn tồn tại phát triển. Do đó, cùng với quá trình này, việc bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định mới về doanh nghiệp tƣnhân cũng đƣợc dần hoàn chỉnh. 9
  • 18. 1.1.2 Vai trò và ý nghĩa của Doanh nghiệp tư nhân 1.1.2.1. Doanh nghiệp tư nhân - quy luật phát triển tất yếu của kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam Giai đoạn 1986-1990 khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam chủ yếu mới xuất hiện dƣới hình thức kinh tế hộ gia đình và còn chịu nhiều ràng buộc. Các hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp vẫn chƣa đƣợc xã hội chấp nhận, vẫn hoạt động “ngầm” là chủ yếu và chủ hộ vẫn còn bị kỳ thị, coi là “con buôn”. Sang đến giai đoạn 1991-1999, kinh tế hộ gia đình nhất là hộ công thƣơng nghiệp kinh doanh cá thể đứng trƣớc đòi hỏi bức thiết về mở rộng quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh đồng thời thoát khỏi cảnh hoạt động “ngầm”, muốn đƣợc luật pháp chính thức thừa nhận. Điều này phù hợp với xu thế tất yếu khách quan là phải giải phóng sức sản xuất. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VII (1991) đã chính thức coi phát triển nền kinh tế hàng hóa đa thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng Xã hội chủ nghĩa là chủ trƣơng trong cả thời kì quá độ lên Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ trƣơng của Đảng đƣợc thể chế hóa thông qua việc ban hành Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990 và đƣợc sửa đổi bổ sung vào năm 1994. Đây là bƣớc ngoặt quan trọng mở ra một thời kỳ mới cho DNTN. DNTN và sở hữu tƣ nhân chính thức đƣợc pháp luật công nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, việc phát triển nhanh chóng của kinh tế hộ và đặc biệt của các DNTN về quy mô và số lƣợng đã làm bộc lộ nhiều hạn chế của Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990. Vì vậy, sau nhiều lần soạn thảo, Quốc Hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp mới vào tháng 6/1999. Từ năm 2000 – 2005: từ sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời, kinh tế tƣ nhân nói chung và DNTN nói riêng, một lần nữa, tiếp tục khẳng định những đóng góp và vai trò to lớn của mình đối với sự phát triển của kinh tế đất nƣớc, cùng với sự kiện Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thƣơng Mại Thế Giới (WTO), Đảng và Nhà nƣớc nhận thấy cần có sự bình đẳng hơn đối với tất cả các thành phần kinh 10
  • 19. tế. Do đó, năm 2005, sự kiện Luật Doanh nghiệp thống nhất (sự thống nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp vào chung một luật: Doanh nghiệp nhà nƣớc – trƣớc chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20 tháng 04 năm 1995 (“Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc 2003"), DNTN – trƣớc chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân 1990, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh – trƣớc chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 1999, Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (doanh nghiệp FDI) – trƣớc chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tƣ Nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996 ("Luật Đầu tƣ Nƣớc ngoài 1996"). Theo đó, “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” (Điều 141, Khoản 1, Luật Doanh nghiệp 2005). Loại hình doanh nghiệp này ngay từ khi hình thành đã dần phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trƣởng của nền kinh tế Việt Nam trong suốt hơn một thập kỷ qua. Việc ghi nhận về mặt pháp lý một loại hình doanh nghiệp mới – DNTN – chính là một trong những giải pháp nhằm giải phóng sức sản xuất, phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nƣớc. Đánh giá về sự phát triển của khu vực kinh tế tƣ nhân, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX (2002) đã chỉ rõ: “Hơn 10 năm qua, thực hiện đƣờng lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc sự đồng tình và hƣởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tƣ nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tƣ bản tƣ nhân, hoạt động dƣới hình thức hộ kinh doanh cá thể và loại hình DNTN đã phát triển rộng khắp trong cả nƣớc; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nƣớc, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nƣớc. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của kinh tế tƣ nhân đã góp phần giải phóng lực lƣợng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại 11
  • 20. hóa, phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lƣợng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trƣơng xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục…”. Và tại Hội nghị gần đây nhất của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X đã thông qua Báo cáo về phƣơng hƣớng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2006-2010, Đảng và Nhà nƣớc ta đã tiếp tục khẳng định dứt khoát: "Điều có ý nghĩa quyết định là phải có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi ngƣời dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tƣ nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội” và “Tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tƣ nhân”. Mang trong mình nhiều nét tƣơng đồng về văn hóa, kinh tế, chính trị xã hội với Việt Nam, thực tế phát triển kinh tế của Trung Quốc cũng cho thấy vai trò to lớn của khu vực kinh tế tƣ nhân: “Khu vực kinh tế tƣ nhân trở thành nguồn lực chủ đạo của nền kinh tế Trung Quốc. Tính đến cuối năm 2006, kinh tế tƣ nhân đóng góp hai phần ba tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho quốc gia và một phần hai tổng thuế thu nhập doanh nghiệp và cung cấp gần 75% việc làm cho khu vực thành thị” [49, 1]. Cũng theo kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới, một nền kinh tế có chất lƣợng bền vững luôn luôn có sự phát triển hài hòa giữa các doanh nghiệp thuộc loại hình lớn, nhỏ và vừa; nhất là có sự phân công, hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các loại hình doanh nghiệp nói trên. Điều đó chứng tỏ chủ trƣơng phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế trong xã hội của Đảng và Nhà nƣớc ta là đúng đắn. Việc phát triển kinh tế hộ gia đình và các loại hình doanh nghiệp của tƣ nhân trong đó có loại hình DNTN là cần thiết và có ý nghĩa to lớn cho nền kinh tế đất nƣớc. 1.1.2.2. Ý nghĩa của doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển kinh tế đất nước Thứ nhất, loại hình DNTN ra đời mang theo những ưu thế nhất định và vì vậy DNTN là sự lựa chọn phù hợp đối với những kế hoạch kinh doanh có quy mô 12
  • 21. nhỏ và vừa. Không chỉ tại Việt Nam mà tại hầu hết các quốc gia theo Hệ thống Dân luật (Civil Law) cũng nhƣ Hệ thống Thông luật (Common Law), loại hình DNTN hoặc loại hình mang những đặc trƣng của DNTN vẫn luôn đƣợc ghi nhận, tồn tại và phát triển. Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, DNTN thực chất là thƣơng nhân đơn lẻ (sole trader) hay doanh nghiệp cá thể (sole proprietorship). Do đó, chủ DNTN đƣợc hƣởng toàn bộ lợi nhuận; tự định hƣớng và mục tiêu kinh doanh; không chậm trễ trong việc ra quyết định; đáp ứng khách hàng nhanh chóng; quan hệ gần gũi với khách hàng; bảo đảm bí mật kinh doanh; có động cơ thúc đẩy làm việc chăm chỉ; giám sát chặt chẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh; chỉ phải chịu cơ chế đơn thuế, tức là đối tƣợng của một loại thuế. Ví dụ: chỉ phải đóng thuế thu nhập cá nhân (personal income tax) – nhƣ hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận: Pháp, Singapore, Anh, Mỹ … hoặc chỉ phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp (corporation income tax) mà không phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chủ DNTN vẫn phải gánh chịu những bất lợi nhất định, đó là phải làm việc vất vả; chịu trách nhiệm cá nhân và vô hạn đối với các khoản nợ; bị hạn chế về vốn; khó mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, và đổi mới công nghệ; giá thành sản phẩm cao, khó khăn trong việc cạnh tranh; khi chết, không có gì bảo đảm ngƣời thừa kế của họ thích duy trì hoặc có khả năng duy trì doanh nghiệp. Vì thế, sau bƣớc tiếp cận ban đầu với thị trƣờng, chủ DNTN có xu hƣớng tìm kiếm đối tác (partners) để cùng nhau tiến hành các hoạt động kinh doanh dƣới dạng công ty có trách nhiệm hữu hạn (nhƣ công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên hoặc có từ hai thành viên trở lên). Trên thực tế, DNTN vẫn là loại hình đƣợc lựa chọn nhiều tại Việt Nam bởi nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, thủ công chiếm đa số. Do đó, số lƣợng cá thể và hộ gia đình chỉ có ít vốn liếng hoặc vốn liếng chính là những bí quyết thủ công truyền thống … chiếm một số lƣợng không nhỏ. Và với ƣu điểm bảo mật tối đa và những ƣu điểm nhƣ phân tích ở trên, loại hình DNTN vẫn là loại hình đƣợc ƣa chuộng. Từ khi loại hình Công ty TNHH một thành viên đƣợc ghi nhận, dƣờng nhƣ phần nào ảnh hƣởng đến tốc độ phát triển của các DNTN. Tuy nhiên, 13
  • 22. điều đó cũng không thể làm phủ nhận đƣợc vị trí và vai trò to lớn của DNTN trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Ta có thể thấy đƣợc điều này qua số liệu thống kê của Tổng cục thống kê nhƣ nêu tại Bảng 01 – Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình (đƣợc đính kèm tại Phụ lục của Luận văn) [58]. Nhìn vào Bảng 01 ta thấy số lƣợng DNTN đƣợc thành lập hàng năm vẫn tăng đều và trong cơ cấu các loại hình doanh nghiệp đƣợc thành lập thì tỷ trọng DNTN lại giảm dần. Có hiện tƣợng này là do sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999, tiếp theo là Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tƣ năm 2005 đã mở ra cho các nhà đầu tƣ một khung pháp lý thống nhất, thông thoáng và cởi mở hơn cho kế hoạch kinh doanh của các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Điều này cũng là nguyên nhân khiến số lƣợng các doanh nghiệp ở hầu hết các loại hình doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng. Thứ hai, loại hình DNTN là phương thức huy động vốn tối đa trong nhân dân, huy động vốn từ những cá thể đơn lẻ có số lượng vốn nhỏ và vừa vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế, “góp gió thành bão”, với số lƣợng DNTN đông đảo và với một số lƣợng vốn tƣơng đối lớn, các DNTN đã đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trƣởng của nền kinh tế nƣớc ta. Ta có thể thấy đƣợc điều này qua số liệu thống kê của Tổng cục thống kê nhƣ nêu tại Bảng 02 – Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp (đƣợc đính kèm tại Phụ lục của Luận văn) [58]. Thứ ba, các DNTN đã góp phần giải quyết một số lượng lớn việc làm cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo. Ta có thể thấy đƣợc điều này qua số liệu thống kê của Tổng cục thống kê nhƣ nêu tại Bảng 03 – Tổng số lao động trong các doanh nghiệp phân theo loại hình (đƣợc đính kèm tại Phụ lục của Luận văn) [58]. Thứ tƣ, các DNTN góp phần làm năng động nền kinh tế bởi những lợi thế mà loại hình DNTN mang lại như quy mô sản xuất, kinh doanh nhỏ gọn, tính năng động, linh hoạt trong sáng tạo kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh 14
  • 23. có sự kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa mềm dẻo, hòa nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường. Thứ năm, các DNTN có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là khu vực nông thôn. Sự phát triển nhanh các DNTN ở nông thôn đã đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp và thủ công nghiệp ngày càng phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thƣơng mại, dịch vụ phát triển. sự phát triển DNTN ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, thƣơng nghiệp, dịch vụ. Các DNTN còn góp phần làm thay đổi và đa dạng cơ cấu công nghiệp. Thứ sáu, các DNTN góp phần thực hiện đô thị hóa phi tập trung và thực hiện các phương châm “ly nông bất ly hương”. Thứ bảy, các DNTN là nơi đào tạo tài năng kinh doanh, là loại hình doanh nghiệp có quy mô nhỏ giúp các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh doanh. Với DNTN, các nhà kinh doanh có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của Công ty, thỏa sức sáng tạo trong kinh doanh, thỏa sức trải nghiệm và từ đó, xét trên góc độ tích cực, các chủ DNTN sẽ trƣởng thành lên cũng nhƣ DNTN sẽ lớn mạnh lên. Khi đó, các chủ DNTN hoặc là tiếp tục phát huy và duy trì sự tồn tại và phát triển của DNTN của mình hoặc là tìm kiếm đối tác để mở rộng phạm vi kinh doanh, từ quy mô kinh doanh nhỏ đến quy mô lớn hơn. Nhìn chung, DNTN là một trong những loại hình doanh nghiệp ra đời sớm nhất và phát triển song song với tiến trình lịch sử phát triển của nƣớc ta. Từ lúc ra đời cho đến nay, DNTN đã và đang giữ một vị trí tƣơng đối quan trọng trong nền kinh tế của đất nƣớc. 1.1.3 Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân Để có một cái nhìn tổng quan về DNTN, tác giả Luận văn nghiên cứu sơ lƣợc các cách phân loại doanh nghiệp khác nhau và các đặc trƣng pháp lý đi kèm với từng cách phân loại. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu các cách tiếp cận và nhìn nhận loại hình DNTN của các quốc gia khác trong sự đối chiếu so sánh với pháp luật Việt Nam. 15
  • 24. Doanh nghiệp và các tiêu chí phân loại doanh nghiệp Các nƣớc phƣơng Đông có xu hƣớng du nhập mô hình doanh nghiệp phƣơng Tây, cho nên cách phân loại doanh nghiệp hiện nay về cơ bản đều anh hƣởng bởi các tiêu chí phân loại của phƣơng Tây [41, 90]. Có rất nhiều tiêu chí và theo đó cũng có nhiều cách phân loại khác nhau: (i) theo tiêu chí sở hữu và mục đích hoạt động, doanh nghiệp đƣợc chia thành doanh nghiệp tƣ và doanh nghiệp công, trong đó doanh nghiệp công thƣờng có một phần sở hữu nhà nƣớc hoặc do Nhà nƣớc đóng vai trò chi phối trong chiến lƣợc kinh doanh; (ii) theo tiêu chí quy mô, doanh nghiệp đƣợc chia thành doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn; (iii) căn cứ vào sự liên kết, doanh nghiệp đƣợc chia thành doanh nghiệp độc lập và các tập đoàn, các nhóm công ty, các tổ hợp, các công ty đa quốc gia; (iv) căn cứ vào đặc trƣng pháp lý, doanh nghiệp đƣợc chia thành công ty, hợp danh và cá nhân kinh doanh, trong đó công ty đƣợc chia thành nhiều loại hình doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty TNHH), hợp danh cũng đƣợc chia thành hợp danh hữu hạn, hợp danh vô hạn, hợp danh hữu hạn theo cổ phần. Thƣơng nhân phƣơng Tây thậm chí còn có khả năng biến tấu mô hình doanh nghiệp thành nhiều loại hình doanh nghiệp khác bằng các điều lệ thành lập công ty. Khác với các nƣớc phƣơng Đông, các nƣớc theo hệ thống luật Châu Âu - Lục Địa thƣờng phân loại công ty thành công ty đối vốn và công ty đối nhân. Công ty đối nhân bao gồm các công ty dân luật, hợp danh, hợp danh hữu hạn, hợp danh cổ phần theo thƣơng luật. Công ty đối vốn bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần [44, 1]. Truyền thống này của họ pháp luật Châu Âu - Lục Địa đã đƣợc du nhập vào nƣớc ta từ hơn một thế kỉ trƣớc. Song tới nay, pháp luật về công ty ở Việt Nam đã xa rời đáng kể luật truyền thống. Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/6/2005 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 (“Bộ luật Dân sự 2005”) của nƣớc ta không quy định về công ty dân luật, không xem công ty dân luật là nền tảng cho công ty 16
  • 25. thƣơng luật. Bên cạnh Bộ luật Dân sự 2005, Việt Nam đã du nhập các loại hình cá nhân kinh doanh, hợp danh và các công ty trong Luật Doanh nghiệp 2005. Theo học giả ở các nƣớc thuộc Họ Pháp luật Anh-M ỹ, trƣớc khi định nghĩa về công ty, thƣờng giới thiệu các học thuyết liên quan tới bản chất của công ty. Tuy nhiên, các nƣớc thuộc họ pháp luật này có sự phân biệt giữa thƣơng nhân đơn lẻ (sole trader hay sole propietorship), hợp danh (partnership) với doanh nghiệp, công ty (enterprise hay company). Thuật ngữ “doanh nghiệp” thực ra là một thuật ngữ kinh tế chứ không phải thuật ngữ luật học. Nhìn từ góc độ kinh tế, “Doanh nghiệp” đƣợc xem nhƣ một cái áo khoác để thực hiện ý tƣởng kinh doanh [41, 90]. Nhìn từ góc độ pháp lý, ngƣời ta thƣờng xem xét tƣ cách pháp lý của doanh nghiệp. Điều này có nguồn gốc sâu xa từ triết lý pháp luật phƣơng Tây, lấy cá nhân (ngƣời) làm chủ thể pháp luật. Bởi vậy, mọi tổ chức kinh doanh đều đƣợc quy nạp dƣới tiêu chí của “pháp nhân”, pháp nhân cũng là ngƣời nhƣng do luật học sáng tạo ra, có các quyền nhƣ một con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt. Muốn kinh doanh, thƣơng nhân phải chọn lấy một loại hình mà nhà làm luật đã quy định. Các loại hình này tƣơng đối đa dạng, tùy theo pháp luật mỗi nƣớc, song có thể quy nạp thành ba loại chính sau đây: (i) công ty; (ii) hợp danh và (iii) cá nhân kinh doanh. Trong khi đó, luật của Pháp lại có sự phân biệt giữa cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp. Bộ luật dân sự của Pháp cung cấp một hệ thống các quy định để điều chỉnh riêng cho cơ sở kinh doanh và đối với các doanh nghiệp thì chịu sự điều chỉnh của luật công ty. Theo đó, doanh nghiệp là một tổ chức tập hợp các nhân tố, phƣơng tiện, vật chất, thiết bị, nhân công, vốn nhằm sản xuất một số của cải hoặc làm một số dịch vụ (Luật pháp của nƣớc Pháp có rất ít văn bản đề cập khái niệm doanh nghiệp, nhƣng luật thƣơng mại thƣờng nói đến các cơ sở kinh doanh là một trong các nhân tố của doanh nghiệp theo nghĩa kinh tế của từ này); cơ sở kinh doanh đƣợc hiểu là một tập hợp các tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nhân và toàn bộ của cải đó có thể đƣợc chuyển nhƣợng, cầm cố, thuê mƣợn. 17
  • 26. Khái niệm về cơ sở kinh doanh theo luật của Pháp rất sát với khái niệm doanh nghiệp tƣ nhân của Việt Nam. Trên thực tế, các cửa hàng kinh doanh, các cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ ở Việt Nam phát triển rầm rộ, nhƣng hệ thống pháp luật Việt Nam lại chƣa có những quy định cụ thể và thống nhất để điều chỉnh hoạt động của các cơ sở kinh doanh này. Theo đó, việc nghiên cứu và học tập, sửa đổi, vận dụng các giải pháp pháp luật của nƣớc Pháp đƣa ra cho các cơ sở kinh doanh nƣớc ta cũng có giá trị rất lớn trong việc nghiên cứu và đƣa ra các giải pháp tƣơng ứng cho DNTN ở Việt Nam. Xuất phát từ các cách phân loại doanh nghiệp trên đây. Có thể thấy loại hình DNTN theo mỗi họ pháp luật, mỗi cách phân loại doanh nghiệp sẽ đƣợc gọi dƣới những cái tên khác nhau và chịu sự điều chỉnh của các chế định pháp luật khác nhau. Nhƣ vậy, kết quả nghiên cứu sơ lƣợc về các cách phân loại doanh nghiệp cho thấy hầu hết các họ pháp luật và hệ thống pháp luật của các nƣớc đều ghi nhận DNTN là một trong những hình thức kinh doanh cơ bản mặc dù cách ghi nhận ở mỗi hệ thống pháp luật là không giống nhau. Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân Theo pháp luật Anh Quốc, một doanh nghiệp kinh doanh đơn lẻ (sole trader enterprise) sẽ không tách biệt với cá nhân tạo lập nên nó và lao động trong đó, thông thƣờng tên thƣơng mại của sole trader enterprise là tên của cá nhân tạo lập nên nó hoặc cũng có thể là tên khác đặt theo quy định của pháp luật [60]. Thep pháp luật Hoa Kỳ, cá thể kinh doanh (sole proprietorship) đƣợc hiểu là “ngƣời khai thác doanh nghiệp không cần thiết phải dùng tên riêng của mình nhƣ là tên thƣơng mại, nó có thể đƣợc thừa nhận nhƣ Data experts company. Tuy nhiên, một cái tên nhƣ vậy phải đƣợc đăng ký tại nhà chức trách tiểu bang hay địa phƣơng thích hợp” [61]. Theo pháp luật Trung Quốc, Điều 2, Luật Doanh nghiệp Tƣ nhân của Trung Quốc đƣợc Ủy ban Thƣờng trực của Quốc Hội thứ 9 thông qua tại kỳ họp thứ 11 quy định: “DNTN là một thực thể kinh doanh được thành lập tại Trung Quốc với số 18
  • 27. vốn của doanh nghiệp do một cá nhân đóng góp và tài sản của doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của chủ DNTN. Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình”. Nhƣ vậy, khái niệm DNTN của Trung Quốc có nhiều điểm tƣơng đồng với khái niệm DNTN theo pháp luật Việt Nam, tức DNTN đƣợc thành lập trên cơ sở (1) Sự góp vốn của một cá nhân (còn gọi là chủ DNTN); (2) Tài sản trong DNTN là thuộc quyền sở hữu của chủ DNTN; (3) Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình. Điều này có nguồn gốc sâu xa từ việc pháp luật Trung Quốc và pháp luật Việt Nam, theo truyền thống học thuật, đều đƣợc xếp vào hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, nhƣng trên thực tế nhiều qui định về dân sự, về tố tụng, về hệ thống Toà án lại mang nhiều đặc điểm của hệ thống luật Châu Âu - Lục Địa. Ngoài ra, thể chế chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam và Trung Hoa có nhiều điểm tƣơng đồng. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu và so sánh với pháp luật Trung Hoa là hoàn toàn có cơ sở. Theo pháp luật Úc (thuộc hệ thống Thông luật hay còn gọi là “Common Law”, “hệ thống luật Anh Mỹ”; “Hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông”), khác với hệ thống dân luật (hay còn gọi là “Civil law”; hay “hệ thống luật Châu Âu – Lục Địa”), hệ thống pháp luật của Úc không có một định nghĩa riêng về DNTN (sole proprietorship). Hình bóng của DNTN có thể thấy đƣợc qua việc ghi nhận những hình thức pháp lý của doanh nghiệp cũng nhƣ đặc trƣng pháp lý của những loại hình doanh nghiệp đó. Theo Điều 112(1) của Đạo luật công ty 2001 của Úc, các nhà đầu tƣ có quyền đăng ký thành lập công ty tại Úc theo các hình thức dƣới đây: Công ty sở hữu chủ (proprietary company). Loại công ty này gồm có hai hình thức: Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited by shares) và công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares capital). Công ty công cộng (public company). Loại công ty này gồm có bốn hình thức sau đây: (1) Công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi) cổ phiếu (company limited by shares), (2) công ty trách nhiệm hữu hạn (bởi sự) bảo đảm (company limited by 19
  • 28. guarantee), (3) công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares capital), và (4) công ty không trách nhiệm (no liability company). Nhƣ vậy, việc ghi nhận các hình thức pháp lý của công ty tại Điều 112(1) của Đạo luật Công ty năm 2001 của Úc cho thấy, căn cứ vào chế độ trách nhiệm của các thành viên công ty, cho dù là công ty công cộng hay công ty sở hữu chủ thì tất cả đều phải đăng ký dƣới một trong bốn hình thức công ty dƣới đây: 1. Công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phần (company limited by shares) 2. Công ty trách nhiệm hữu hạn có bảo đảm (company limited by guarantee), 3. Công ty trách nhiệm vô hạn (unlimited company with shares capital), 4. Công ty không trách nhiệm (no-liability company) Theo luật của Úc, mọi công ty đều đƣợc công nhận là pháp nhân (a separate legal entity), chỉ cần có ít nhất là một thành viên và thành viên đó có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Nhƣ vậy, Đạo luật Công ty của Úc cho phép một thể nhân đứng ra thành lập một công ty trách nhiệm vô hạn. Và vì vậy, một cách gián tiếp, Pháp luật của Úc cũng ghi nhận việc tồn tại một doanh nghiệp với những đặc trƣng cơ bản của một DNTN. Trƣớc năm 1998, pháp luật Úc cho phép nhà đầu tƣ thành lập các công ty trách nhiệm vô hạn không có vốn cổ phần (share capital). Thời gian sau đó, nƣớc này chỉ cho phép thành lập công ty loại này nếu chúng có vốn cổ phần (share capital). Công ty trách nhiệm vô hạn có thể đăng ký dƣới hình thức công ty sở hữu chủ hoặc công ty công cộng. Trên thực tế, chỉ có khoảng vài trăm công ty loại này đƣợc thành lập ở Úc, chúng đƣợc thành lập trên nguyên tắc trách nhiệm của các thành viên là vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty (Điều 9, Đạo luật công ty 2001). Tuy nhiên, theo luật công ty Úc, chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên công ty đƣợc hiểu là trách nhiệm vô hạn đối với công ty chứ không phải đối với các chủ nợ của công ty. Vì thế, khi công ty còn đang hoạt động, các chủ nợ của công ty này không có quyền trực tiếp khởi kiện đòi các thành viên phải thanh toán số nợ mà công ty chƣa trả đƣợc. Do vậy, để thu hồi toàn bộ khoản nợ, chủ nợ của công ty, trƣớc tiên, sẽ phải 20
  • 29. tiến hành thủ tục yêu cầu thanh lý công ty. Sau đó, nếu tài sản của công ty không đủ để thanh toán cho các chủ nợ, thì mỗi thành viên công ty sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Đặc điểm này tƣơng đối giống với chế độ trách nhiệm vô hạn của các thành viên trong hợp danh, tuy nhiên, hợp danh theo pháp luật của các bang ở Úc có một số điểm bất lợi hơn trong kinh doanh so với mô hình công ty trách nhiệm vô hạn. Với chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên nhƣ thế, loại công ty này đƣợc cho là không thích hợp cho hoạt động kinh doanh thƣơng mại và hoạt động kinh doanh có qui mô lớn. Một số lĩnh vực hoạt động kinh doanh mang tính nghề nghiệp đặc thù mà pháp luật yêu cầu các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn, ngƣời ta thƣờng thành lập công ty trách nhiệm vô hạn hơn là kinh doanh theo hình thức hợp danh bởi vì họ muốn có đƣợc những lợi ích của mô hình công ty nhƣ về tƣ cách pháp nhân, thuế, huy động vốn … trong sự so sánh với hợp danh. Kết luận, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, pháp luật các nƣớc đều ghi nhận sự tồn tại của loại hình kinh doanh cá thể tức loại hình kinh doanh do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động kinh doanh của cá nhân đó. Nói cách khác, đó cũng chính là DNTN theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc và một số quốc gia theo hệ pháp luật Châu Âu – Lục Địa. Từ đó, một cách khái quát nhất, có thể định nghĩa DNTN là một thực thể kinh doanh không có tƣ cách pháp nhân do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về toàn bộ hoạt động của DNTN (trách nhiệm vô hạn). 1.1.4 Đặc trưng pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân Cho dù đƣợc ghi nhận dƣới hình thức nào (thƣơng nhân đơn lẻ, cá thể kinh doanh hay DNTN) thì đứng trên quan điểm là loại hình kinh doanh (do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình) đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo hộ, DNTN đều có những điểm đặc trƣng pháp lý cơ bản sau: Thứ nhất, DNTN là một thực thể kinh doanh có tư cách chủ thể pháp lý độc lập nhưng không có tư cách pháp nhân. 21
  • 30. Một phần nào đó của DNTN, nhƣ đã nói ở trên, tách rời với nhân thân của ngƣời chủ DNTN và theo Luật Doanh nghiệp 2005, DNTN đƣợc ghi nhận là một trong những loại hình doanh nghiệp căn bản để các nhà đầu tƣ chọn lựa. DNTN đƣợc pháp luật và Nhà nƣớc thừa nhận có sự bình đẳng trƣớc pháp luật nhƣ đối với các doanh nghiệp khác. Do vậy, DNTN có tƣ cách chủ thể pháp lý độc lập, có tên riêng, có mục tiêu hoạt động xác định, có con dấu và mã số thuế riêng. Trong giao lƣu kinh tế, DNTN tham gia các quan hệ trao đổi, mua bán … trên thị trƣờng bằng chính tên riêng của mình. Về hình thức pháp lý, DNTN phần nào đứng độc lập, tách khỏi tên tuổi của chủ DNTN. Tuy nhiên, một đặc trƣng của DNTN là ở chỗ, DNTN không có khối tài sản riêng, toàn bộ tài sản của DNTN gắn liền với nhân thân ngƣời chủ DNTN. Vì vậy, mọi khoản nợ, mọi nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động của DNTN sẽ do ngƣời chủ DNTN chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình, tức bằng cả những tài sản mà ngƣời chủ DNTN không đem vào DNTN để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong khi đó, “Pháp nhân là một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: (i) Được thành lập hợp pháp; (ii) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (iii) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (iv) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập” (Điều 84, Bộ luật Dân sự 2005). Nhƣ vậy, đặc trƣng về tài sản của DNTN nhƣ phân tích ở trên đã khiến DNTN, khác với những doanh nghiệp khác, là doanh nghiệp duy nhất trong Luật Doanh nghiệp 2005 không có tƣ cách pháp nhân. Khác với các nƣớc khác (nhƣ Hoa Kỳ, Pháp, Đức…), DNTN đƣợc coi nhƣ một thể nhân kinh doanh. Và vì thế, DNTN không chịu sự điều chỉnh của đạo luật công ty. Thông thƣờng mọi hoạt động, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ DNTN sẽ do Bộ luật Dân sự và Thƣơng mại (đạo luật áp dụng cho thƣơng gia độc lập) điều chỉnh. 22
  • 31. Trong quá trình nghiên cứu DNTN hay địa vị pháp lý của DNTN, có nhiều tác giả đã đồng nhất khái niệm tƣ cách chủ thể pháp luật với tƣ cách pháp nhân [32]. Ở đây, tác giả Luận văn đồng nhất với quan điểm cho rằng “tư cách pháp nhân và tư cách chủ thể pháp luật độc lập là hai vấn đề có nội dung và bản chất pháp lý khác nhau” [47]. Theo đó, tất cả các doanh nghiệp đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo hộ thì đều có tƣ cách chủ thể pháp luật độc lập. Trong đó, những doanh nghiệp có khối tài sản độc lập, tách bạch với nhà đầu tƣ (chủ sở hữu) và chỉ chịu trách nhiệm với mọi nghĩa vụ kinh doanh phát sinh từ doanh nghiệp trong phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp (vốn điều lệ của doanh nghiệp) thì doanh nghiệp đó có tƣ cách pháp nhân. Nhƣ vậy, DNTN là doanh nghiệp đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Do đó, DNTN có tƣ cách pháp lý độc lập nhƣng DNTN lại không có tƣ cách pháp nhân, vì cơ chế chịu trách nhiệm của DNTN là cơ chế trách nhiệm vô hạn và không có sự tách bạch giữa tài sản của chủ sở hữu với tài sản của doanh nghiệp. Thứ hai, DNTN do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ Trong điều kiện kinh tế hiện tại của Việt Nam, DNTN thích hợp cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Chủ DNTN đƣa tƣ liệu sản xuất và vốn vào quá trình sản xuất mà không có sự hội vốn với ngƣời kahcs do vậy họ vừa là chủ sở hữu tài sản, vừa là ngƣời sử dụng tài sản, đồng thời cũng là ngƣời quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Thông thƣờng, DNTN có quy mô nhỏ và vừa. Do đó, chủ sở hữu DNTN đồng thời là ngƣời trực tiếp quản lý, điều hành, thậm chí trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, DNTN là một thực thể kinh doanh có tƣ cách chủ thể pháp lý độc lập cho nên chủ sở hữu DNTN có thể thuê ngƣời khác quản lý, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho dù trực tiếp hay gián tiếp điều hành, quản lý DNTN, chủ DNTN vẫn phải trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do tính chất một chủ, chủ DNTN là ngƣời duy nhất và toàn quyền đối với khoản lợi kiếm đƣợc từ hoạt động kinh doanh của DNTN đồng thời là ngƣời duy nhất gánh chịu mọi nghĩa vụ, trách nhiệm phát sinh từ doanh nghiệp, không có sự 23
  • 32. phân chia rủi ro và trách nhiệm với những ngƣời khác. Nhƣng một trong những ƣu điểm mà DNTN đem lại đó là chủ DNTN có thể đƣa ra những quyết sách nhanh chóng và linh hoạt cho mọi hoạt động của DNTN. Điều này đôi khi đem lại cho doanh nghiệp những cơ hội kinh doanh và khoản lời không nhỏ. Thứ ba, chủ DNTN chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DNTN (trách nhiệm vô hạn) Về mặt pháp lý, đây là một đặc điểm quan trọng của DNTN và cũng là đặc điểm khiến nhiều nhà đầu tƣ phải suy xét khi quyết định đầu tƣ dƣới hình thức DNTN. Trong mọi quan hệ kinh tế, DNTN nhân danh chính mình tham gia các hoạt động và giao dịch. Tuy nhiên, ngƣời chủ doanh nghiệp đƣợc coi nhƣ là ngƣời bảo lãnh cho toàn bộ quyền và nghĩa vụ mà DNTN tạo ra. DNTN không có tài sản riêng tách bạch với tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp cho nên DNTN không có khả năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của doanh nghiệp nhƣ những loại hình doanh nghiệp khác. Ngƣời chủ sở hữu DNTN nghĩa vụ thanh toán và thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của DNTN bằng toàn bộ tài sản của mình – tức không chỉ tài sản đã đƣa vào DNTN để thực hiện hoạt động kinh doanh mà còn bằng toàn bộ tài sản khác của chủ DNTN. Quan hệ giữa chủ DNTN với các chủ thể khác trong quá trình kinh doanh:  Ngƣời chủ DNTN chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc thực hiện tất cả các hợp đồng đƣợc ký kết trong quá trình hoạt động kinh doanh, chẳng hạn nhƣ hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng vay mƣợn, hợp đồng lao động…  Chủ sở hữu DNTN chịu trách nhiệm về tất cả các vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tất cả các tài sản đƣợc sử dụng để kinh doanh và thậm chí tài sản cá nhân không dung vào kinh doanh đều có thể bị xử lý để thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp cũng nhƣ của cá nhân chủ DNTN.  Về chế độ tài sản giữa vợ chồng của ngƣời chủ DNTN: cơ sở kinh doanh của ngƣời đó phải theo chế độ tài sản trong hôn nhân. Vì vậy cơ sở kinh doanh có thể là tài sản chung của vợ chồng. 24
  • 33.  Nếu chủ DNTN chết, sự kiện này có ảnh hƣởng đến sự tồn tại của DNTN. Đây cũng là vấn đề phức tạp mà pháp luật Việt Nam còn đang bỏ ngỏ. Pháp luật của Pháp đã dự liệu đƣợc một số giải pháp cho trƣờng hợp này. Theo Điều 832 Bộ luật dân sự Pháp, khi ngƣời chủ cơ sở kinh doanh chết, giải pháp đƣa ra là trong các ngƣời thừa kế di sản, có thể có ngƣời đƣợc hƣởng ƣu tiên, nhƣng ngƣời đó phải trả một khoản tiền bù lại cho các ngƣời cùng hàng thừa kế. Pháp luật của Pháp giải quyết vấn đề thừa kế của ngƣời chủ cơ sở kinh doanh nhƣ trƣờng hợp của một cá nhân thông thƣờng. Tuy nhiên, việc kế tục cơ sở kinh doanh và các tài sản của cơ sở kinh doanh thì xuất phát từ các đặc trƣng của cơ sở kinh doanh [31, 102]. Thứ tư, về nghĩa vụ thuế của DNTN Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, DNTN đƣợc coi là một trong những loại hình cơ bản và chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005. Vì vậy, DNTN là đối tƣợng của Thuế thu nhập Doanh nghiệp. Tuy nhiên, DNTN lại là doanh nghiệp chỉ do duy nhất một cá nhân làm chủ. Vậy chủ DNTN có phải chịu thuế thu nhập cá nhân theo quy định về thuế thu nhập cá nhân nữa hay không. Pháp luật Việt Nam coi DNTN là một loại hình doanh nghiệp, thuộc đối tƣợng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho nên chủ DNTN không phải nộp thuế thu nhập cá nhân (Điểm 1.1, Phần A Thông tƣ số 130/2008/TT-BT ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và hƣớng dẫn thi hành nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008). Trong khi đó, trên cơ sở quan điểm coi DNTN nhƣ một thể nhân kinh doanh (một thƣơng gia độc lập), cho nên pháp luật các nƣớc (Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp, Đức… hay thậm chí là Singapore) quy định DNTN là đối tƣợng của thuế thu nhập cá nhân. Theo đó, DNTN không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, chỉ ngƣời chủ DNTN phải đóng thuế thu nhập cá nhân nhƣ những cá nhân khác. Có lẽ tiếp cận DNTN theo hƣớng là một thƣơng gia độc lập, một thể nhân kinh doanh có phần đúng với bản chất pháp lý của nó hơn. Hơn nữa, việc chủ DNTN chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân sẽ là chính sách thuế có lợi cho loại hình 25
  • 34. doanh nghiệp. Đây cũng là điều hợp lý và là chính sách đúng đắn để khuyến khích các cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh cũng nhƣ tạo đà cho DNTN phát triển. 1.2 Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tƣ nhân 1.2.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân Nói đến mua bán doanh nghiệp, một cách chung nhất, ngƣời ta thƣờng nghĩ ngay đến thuật ngữ M&A (Merge and Acquision) hay “Sáp nhập và thâu tóm” hay “sáp nhập và mua lại” hay “mua bán và sáp nhập công ty” hay “mua bán & sáp nhập”. Trên thực tế, M&A đơn giản là khái niệm để chỉ một công ty tìm cách giành quyền kiểm soát một công ty khác qua việc thâu tóm một phần hoặc toàn bộ vốn/cổ phần hay tài sản của một công ty mục tiêu [27, 3]. Và nhƣ thế nào đƣợc coi là một công ty giành đƣợc “Quyền kiểm soát” một công ty khác tùy thuộc vào hệ thống luật của mỗi quốc gia khác nhau cũng nhƣ tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên trong giao dịch. Thuật ngữ này đƣợc sử dụng phổ biến ở Anh Quốc cũng nhƣ Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nƣớc Châu Âu lục địa … và mới chỉ đƣợc quan tâm ở Việt Nam kể từ khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời. M&A có thể nói là một phần tất yếu của bất cứ nền kinh tế lành mạnh nào. Ý nghĩa mà M&A đem đến cho nền kinh tế là rất lớn. Thứ nhất, M&A đang ngày càng trở thành một trong những giải pháp tổ chức lại doanh nghiệp hữu hiệu và phổ biến. Thứ hai, M&A là một trong những cách thức chủ yếu để các doanh nghiệp mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của mình bằng việc tập trung các nguồn lực tài chính, công nghệ, nhân lực, thƣơng hiệu … của (các) công ty mục tiêu (các công ty đƣợc mua lại hoặc đƣợc sáp nhập) nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và đem lại thu nhập cho chủ sở hữu và các nhà đầu tƣ. Nguyên tắc của M&A nói chung là tạo ra giá trị cho cổ đông bao trùm và lớn hơn tổng giá trị hiện tại của hai doanh nghiệp khi hai doanh nghiệp tồn tại riêng rẽ. Thứ ba, hoạt động mua bán doanh nghiệp sẽ thanh lọc những doanh nghiệp yếu, tạo nên những doanh nghiệp mới có tiềm lực mạnh hơn, hoạt động hiệu quả hơn và làm lành mạnh hóa nền kinh tế của đất nƣớc. 26
  • 35. Mua bán DNTN, vì thế, cũng không nằm ngoài những ý nghĩa to lớn đó. Hơn nữa, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam cũng nhƣ thực trạng hoạt động của các DNTN hiện tại, hoạt động mua bán DNTN thực sự đem lại cho nền kinh tế Việt Nam cũng nhƣ số lƣợng đông đảo các DNTN những ý nghĩa đặc trƣng nhất định, cụ thể: Thứ nhất, mua bán DNTN, đứng trên khía cạnh của ngƣời bán doanh nghiệp, sẽ đem đến cho chủ sở hữu của DNTN hiện hữu một “đƣờng lui” hữu hiệu hoặc một khoản lời khi chuyển nhƣợng. Một khi các chủ sở hữu DNTN hiện hữu nhận thấy kế hoạch kinh doanh của mình có nguy cơ phá sản, ngƣời chủ này có thể thông minh chọn lựa cách bán DNTN của mình cho những ngƣời có nhu cầu. Và việc chuyển giao một DNTN kém hiệu quả từ ngƣời này sang ngƣời khác mang lại nhiều ý nghĩa hơn việc khai tử cho doanh nghiệp đó. Nếu khéo léo và nếu nhận đƣợc sự hợp tác thiện chí từ phía ngƣời mua và chủ nợ, việc bán lại DNTN còn giúp chủ sở hữu cũ của DNTN đƣợc giải thoát khỏi những vấn đề pháp lý phức tạp mà việc phá sản hoặc giải thể DNTN đem lại. Mặt khác, trong trƣờng hợp DNTN đang phát triển nhƣng vì lý do nào đó (ốm đau, tai nạn hoặc thay đổi kế hoạch kinh doanh …) mà chủ DNTN hiện hữu muốn chuyển nhƣợng DNTN của mình cho ngƣời khác, việc chuyển nhƣợng một DNTN đang hoạt động hiệu quả sẽ đem lại cho chủ sở hữu doanh nghiệp một khoản lời nhất định. Thứ hai, mua bán DNTN, xét trên khía cạnh của ngƣời mua doanh nghiệp, là một trong những kênh đầu tƣ hiệu quả cho các nhà đầu tƣ mới bắt đầu tham gia thị trƣờng với số vốn và phạm vi kinh doanh nhỏ và vừa. Việc mua lại một DNTN đang hoạt động để “thổi” vào đó ý tƣởng kinh doanh của mình là một trong những lựa chọn khôn ngoan và hiệu quả của các nhà đầu tƣ mới tham gia thị trƣờng. Theo các chuyên gia kinh tế, việc mua một doanh nghiệp có sẵn là sự đầu tƣ ít rủi ro hơn và mang lại lợi nhuận nhanh hơn so với việc tạo dựng một doanh nghiệp từ con số không. Theo đó, ngƣời mua lại một DNTN đang hoạt động có thể tranh thủ và tận dụng đƣợc nhiều lợi ích hiện có của DNTN đó, cụ thể nhƣ: (1) tranh thủ nguồn 27
  • 36. nhân lực sẵn có; (2) tranh thủ bí quyết kinh doanh và/hoặc công nghệ, khoa học sẵn có; (3) tranh thủ các đầu mối, bạn hàng sẵn có; (4) tranh thủ nhãn hiệu hàng hóa, thƣơng hiệu của DNTN đã đƣợc gây dựng hiện tại… Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, ngƣời mua lại DNTN mục tiêu có thể giảm thiểu chi phí đầu tƣ ban đầu, giảm thiểu chi phí và thời gian cho những thủ tục pháp lý và những thủ tục “tiền doanh nghiệp” nhƣ: thủ tục thành lập DNTN, tìm và xây dựng địa điểm kinh doanh, tìm và thuê mƣớn lao động có tay nghề, tìm kiếm bạn hàng, đối tác làm ăn, các nguồn cung hàng hóa… Thứ ba, mua bán DNTN, xét trên khía cạnh của bản thân DNTN, là một phƣơng thức tái cơ cấu doanh nghiệp hữu hiệu. Cùng là một kế hoạch kinh doanh, nhƣng dƣới sự quản lý của ngƣời này thì thành công và dƣới sự quản lý của ngƣời kia thì thất bại, theo phƣơng thức hoạt động này thì phát triển và theo phƣơng thức hoạt động kia thì lụi bại … Do đó, một khi DNTN hiện hữu không thể phát triển và có nguy cơ phá sản thì việc chuyển nhƣợng doanh nghiệp đó sang cho chủ thể khác sẽ là cơ hội để DNTN đƣợc tái cơ cấu, tổ chức lại theo cách thức tổ chức và quản lý mới của ngƣời chủ mới. Việc tái cơ cấu, tổ chức lại doanh nghiệp này nhiều khi đem lại những cải thiện và thành công không nhỏ cho doanh nghiệp, tất nhiên cũng không tránh khỏi trƣờng hợp có tác động ngƣợc lại. Tuy nhiên, ngay cả khi trƣờng hợp đó xảy ra, ngƣời chủ mới lại có thể tiếp tục bán, chuyển nhƣợng DNTN của mình cho ngƣời khác. Nhƣ một sự tất yếu của vòng tuần hoàn, doanh nghiệp đƣợc luân chuyển từ tay ngƣời này sang cho ngƣời khác và sẽ trụ lại khi doanh nghiệp đƣợc khoác lên ngƣời một kế hoạch kinh doanh, một sự tái cơ cấu và một phƣơng thức quản lý doanh nghiệp hợp lý. Thứ tƣ, mua bán DNTN, xét trên khía cạnh của nền kinh tế, góp phần bình ổn nền kinh tế và tăng trƣởng xã hội. Nhƣ phân tích ở phần 1.1 của Luận văn, DNTN chiếm một số lƣợng lớn ở nƣớc ta hiện nay. Tuy nhiên, đặc trƣng của các DNTN này là quy mô hoạt động nhỏ, lẻ, thiếu và yếu cả về vốn và kỹ năng quản lý… Đứng trƣớc cơn bão khủng hoảng và hiện tƣợng toàn cầu hóa nền kinh tế đang ngày càng mở rộng nhƣ hiện nay, các DNTN đang thực sự phải đƣơng đầu với vô 28
  • 37. vàn những khó khăn, thử thách. Và không phải tất cả các chủ DNTN đều đủ khả năng và bản lĩnh “chèo lái con thuyền” của mình trƣớc cơn lốc khủng hoảng và những thử thách mà toàn cầu hóa kinh tế đặt ra. Vì thế, các DNTN đứng trƣớc nguy cơ đổ vỡ hàng loạt, gây ảnh hƣởng không nhỏ đến cơ cấu nền kinh tế cũng nhƣ tác động xấu đến nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ đến số lƣợng lớn các lao động, các chủ thể kinh doanh khác trong hệ thống kinh tế. Việc chủ sở hữu của các DNTN đang đứng trƣớc nguy cơ sụp đổ có thể bán lại DNTN của mình cho ngƣời khác để tiếp tục chèo lái và phát triển doanh nghiệp sẽ góp phần khắc phục sự đổ vỡ hàng loạt của các doanh nghiệp, góp phần bình ổn nền kinh tế và ổn định trật tự xã hội. Thực tiễn giao dịch cho thấy, mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán DNTN nói riêng là một loại giao dịch khá phức tạp cho nên các bên thƣờng lựa chọn việc ký kết với nhau một thỏa thuận chuyển nhƣợng bằng văn bản gọi là hợp đồng mua bán DNTN để làm bằng chứng ghi nhận sự thỏa thuận của hai bên. Pháp luật Việt Nam cũng nhƣ pháp luật một số nƣớc có hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp phát triển nhƣ Anh Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp và một số nƣớc Châu Âu Lục địa đều không có quy định trực tiếp nào về hợp đồng mua bán DNTN. Tuy nhiên, đứng trên khía cạnh khoa học pháp lý về hợp đồng và từ các đặc trƣng pháp lý của DNTN, Hợp đồng mua bán DNTN có những điểm đặc trƣng riêng biệt. Về mặt khoa học pháp lý, hợp đồng mua bán DNTN có thể đƣợc hiểu theo ba nghĩa: (1) chỉ một văn bản đƣợc ký kết giữa các chủ thể tham gia giao dịch mua bán DNTN; (2) chỉ sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao dịch mua bán DNTN nhằm chuyển quyền sở hữu DNTN từ bên mua sang bên bán; hay (3) chỉ một chế định pháp luật thuộc luật nghĩa vụ nhằm điều chỉnh quan hệ mua bán DNTN giữa bên mua với bên bán, giữa bên bán với các chủ nợ và giữa bên mua với các chủ nợ. Nếu hiểu theo nghĩa thứ nhất, hợp đồng mua bán DNTN chỉ thuần túy là một văn bản, một hình thức thể hiện của ý chí. Khi đó, hợp đồng mua bán DNTN cũng không có điểm gì khác biệt so với những văn bản thể hiện ý chí khác. Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, hợp đồng mua bán DNTN cần đƣợc nhìn nhận từ bản chất 29
  • 38. pháp lý của giao dịch mua bán DNTN, đặc biệt là từ những đặc trƣng pháp lý của DNTN. Theo đó, bản chất pháp lý của giao dịch mua bán DNTN chính là một quan hệ hợp đồng, là sự thỏa thuận của bên mua và bên bán về việc bên bán sẽ chuyển giao quyền sở hữu toàn bộ tài sản có của một DNTN để bên mua tiếp tục các hoạt động kinh doanh của DNTN. Các tài sản nợ của DNTN vẫn đƣơng nhiên gắn liền với ngƣời chủ cũ, trừ khi giữa ngƣời chủ cũ, các chủ nợ và bên nhận chuyển nhƣợng DNTN có một thỏa thuận đặc biệt gọi là thỏa thuận ba bên về chuyển giao nghĩa vụ. Hệ quả pháp lý của giao dịch là chủ DNTN cũ sẽ chấm dứt quyền sử dụng, chiếm hữu và hƣởng dụng tài sản có của DNTN đó và bên mua trong giao dịch này sẽ trở thành chủ sở hữu mới của DNTN. Nói cách khác, bên mua sẽ có toàn quyền sử dụng, quản lý, khai thác và định đoạt DNTN mới mua lại. Theo đó, bên mua và bên bán cần thực hiện thủ tục chuyển nhƣợng theo đúng quy định của pháp luật, tùy yêu cầu của mỗi hệ thống pháp luật, đó có thể là thủ tục đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền về việc chuyển nhƣợng, đó cũng có thể là thủ tục đăng ký lại DNTN để ghi nhận chủ sở hữu mới của DNTN đó. Nếu hiểu theo nghĩa thứ ba, hợp đồng mua bán DNTN không nằm ngoài những chế định pháp luật sau: (1) Chế định hợp đồng, giao dịch dân sự và chế định tài sản và quyền sở hữu trong pháp luật dân sự; (2) Chế định pháp luật DNTN trong pháp Luật Doanh nghiệp. Có thể phân tích hợp đồng mua bán DNTN trên cơ sở so sánh với các hợp đồng tƣơng tự nhƣ Hợp đồng mua bán công ty TNHH, công ty cổ phần, Hợp đồng mua bán tài sản của doanh nghiệp để làm rõ đặc trƣng pháp lý của hợp đồng mua bán DNTN. Trong sự so sánh với hợp đồng mua bán công ty TNHH, công ty cổ phần, có thể thấy Hợp đồng mua bán DNTN khác với các hợp đồng mua bán công ty TNHH, công ty cổ phần ở điểm: nếu nhƣ hợp đồng mua bán công ty TNHH, công ty cổ phần là sự thoả thuận giữa các bên để chuyển giao toàn bộ doanh nghiệp (gồm toàn bộ tài sản có, tài sản nợ doanh nghiệp) cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận toàn bộ doanh nghiệp (bao gồm cả những khoản nợ, những nghĩa vụ chƣa thực hiện) và trả tiền cho bên bán thì Hợp đồng mua bán 30
  • 39. DNTN chỉ là sự chuyển giao phần tài sản có của DNTN cho bên mua (bởi theo quy định của pháp luật, chủ DNTN vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chƣa thực hiện, trừ khi có thỏa thuận ba bên về việc chuyển giao cả phần tài sản nợ và nghĩa vụ chƣa thực hiện). Trong sự so sánh với hợp đồng mua bán tài sản của doanh nghiệp, có thể thấy Hợp đồng mua bán DNTN khác với hợp đồng mua bán tài sản của doanh nghiệp ở điểm: đối tƣợng của hợp đồng mua bán DNTN chính là DNTN – một thực thể kinh doanh, một doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đƣợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, trong khi đó đối tƣợng của hợp đồng mua bán tài sản của doanh nghiệp chỉ là một hoặc một số phần tài sản của doanh nghiệp. Từ đó dẫn đến hệ quả khác nhau của mỗi giao dịch, đó là hợp đồng mua bán DNTN dẫn tới sự thay đổi địa vị của chủ sở hữu doanh nghiệp cụ thể là sự chuyển đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp từ bên bán sang bên mua, chấm dứt tƣ cách pháp lý của chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân cũ; còn hợp đồng bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp không làm thay đổi địa vị của chủ sở hữu doanh nghiệp. Từ những đặc trƣng pháp lý của DNTN và từ những phân tích trên đây cho thấy mua bán DNTN là thỏa thuận chuyển giao một phần tài sản có của chủ sở hữu doanh nghiệp tƣ nhân đã đƣa vào doanh nghiệp. Sau khi bán doanh nghiệp chủ DNTN cũ sẽ không còn là chủ doanh nghiệp nữa mà ngƣời mua sẽ là chủ doanh nghiệp. Kể từ ngày bán DNTN, coi nhƣ DNTN này chấm dứt tồn tại, mặc dù sau đó ngƣời mua vẫn có thể đăng ký kinh doanh lại với tên DNTN và toàn bộ cơ sở vật chất đã có của DNTN cũ. Ngoài ra, xuất phát từ những đặc trƣng của đối tƣợng hợp đồng mua bán DNTN nhƣ phân tích tại Luận văn, có thể thấy hợp đồng mua bán DNTN là một loại hợp đồng mua bán phức hợp, các tài sản có trong DNTN có thể là các tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Do đó, việc chuyển giao các loại tài sản phức hợp này cũng có những quy định khác nhau. Kết luận, Hợp đồng mua bán DNTN là sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán về việc bên bán chuyển giao quyền sở hữu phần tài sản có mà chủ sở hữu doanh 31
  • 40. nghiệp đã đƣa vào DNTN cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ tiếp nhận tất cả tài sản trên và thanh toán giá chuyển nhƣợng cho bên bán. Các tài sản nợ của DNTN vẫn đƣơng nhiên gắn liền với ngƣời chủ cũ, trừ khi giữa ngƣời chủ cũ, các chủ nợ và bên nhận chuyển nhƣợng DNTN có một thỏa thuận đặc biệt gọi là thỏa thuận ba bên về chuyển giao nghĩa vụ. Thực chất hợp đồng mua bán DNTN là hợp đồng phức hợp để chuyển nhƣợng các loại tài sản có cho bên mua mà không chuyển nhƣợng tƣ cách pháp lý. 1.2.2 Pháp luật điều chỉnh Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân Trong bất kỳ mối quan hệ hợp đồng nào, việc xác định xem các quy định pháp luật nào điều chỉnh giao dịch đó là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với một quan hệ hợp đồng phức tạp nhƣ hợp đồng mua bán DNTN. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán DNTN có vai trò định hƣớng cho các doanh nghiệp, các nhà dầu tƣ hƣớng đến việc xây dựng một hợp đồng chặt chẽ và đảm bảo đầy đủ hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng. Một hợp đồng không tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về hợp đồng thì việc thực hiện hợp đồng sẽ gặp nhiều trở ngại và đôi khi còn dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng. Vai trò của pháp luật đối với hợp đồng nói chung và các quy định của pháp luật liên quan đến hợp đồng mua bán DNTN nói riêng đều chủ yếu quy định các điều kiện mà các bên cần đáp ứng cũng nhƣ những thủ tục cần thiết khi tham gia vào quan hệ hợp đồng. Điều này nhằm đảm bảo rằng, sau khi ký kết, hợp đồng mua bán DNTN có đầy đủ hiệu lực thi hành, có đầy đủ cơ sở pháp lý để các bên thực hiện theo các nội dung đã cam kết, tranh sự bội tín, tránh những tranh chấp và xung đột có thể xảy ra. Sự thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật đôi khi sẽ làm cho hợp đồng hoặc một phần của hợp đồng không có hiệu lực thi hành. Ví dụ: các bên ký kết hợp đồng mua bán DNTN trong đó có thỏa thuận một mức giá chuyển nhƣợng tƣơng đối thấp kèm điều khoản đặc biệt là bên mua sẽ có trách nhiệm thanh toán và/hoặc thực hiện mọi nghĩa vụ của bên bán đối với các bên thứ ba. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật (nhƣ đã phân tích ở Luận văn), việc các bên thỏa thuận chuyển nhƣợng toàn bộ nghĩa vụ của bên bán sang cho bên 32
  • 41. mua không đƣơng nhiên có hiệu lực ràng buộc với bên thứ ba. Do đó, các chủ nợ thay vì tìm đến ngƣời chủ mới, sẽ vẫn tìm đến ngƣời chủ cũ, và ngƣời chủ cũ lúc này vẫn bị đối xử nhƣ một con nợ, một bên có nghĩa vụ. Nhƣ vậy, điều khoản thỏa thuận đặc biệt này, một điều khoản cơ bản để hai bên thống nhất mức giá chuyển nhƣợng, lại vô hiệu. Việc này kéo theo mục đích của hợp đồng không đạt đƣợc. Mặc dù chỉ một phần của hợp đồng vô hiệu, nhƣng giao dịch này cũng vì thế mà không thể tiếp tục thực hiện nếu các bên không thể thống nhất đƣợc một giải pháp mới. Quay trở lại với đặc trƣng của hợp đồng mua bán DNTN là một hợp đồng phức hợp, sau khi giao kết và có hiệu lực, Hợp đồng mua bán DNTN sẽ phát sinh hàng loạt các vấn đề nhƣ tài chính, cho thuê tài chính, thƣơng hiệu, giải quyết các vấn đề liên quan đến lao động, xử lý các khoản nợ thuế, khoản nợ với các bên thứ ba…Do đó, việc xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán DNTN sẽ giúp các bên ngay tại thời điểm ký kết, thỏa thuận hợp đồng có thể thống nhất phƣơng án xử lý cho toàn bộ các vấn đề phát sinh trƣớc, trong và sau khi ký hợp đồng. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán DNTN ở mỗi quốc gia thuộc các họ pháp luật khác nhau sẽ khác nhau. Có thể thấy đƣợc điều này từ việc phân tích về sự phân loại giữa thƣơng nhân thể nhân và thƣơng nhân pháp nhân. Theo đó, đối với các nƣớc coi DNTN nhƣ một thƣơng nhân thể nhân thì pháp luật điều chỉnh sẽ là hệ thống pháp luật dân sự, pháp luật hợp đồng và các luật chuyên ngành đóng vai trò điều chỉnh các đối tƣợng chuyên biệt của hợp đồng (các tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, bất động sản, cho thuê tài chính…), luật thuế thu nhập cá nhân. Đối với các nƣớc coi DNTN nhƣ một thƣơng nhân pháp nhân (một loại hình doanh nghiệp thì hợp đồng mua bán DNTN lại chịu sự điều chỉnh của pháp luật công ty, luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Mô hình pháp luật của Việt Nam hiện đang đi theo xu hƣớng coi DNTN là một loại hình doanh nghiệp và chịu sự điều chỉnh chung của hệ thống pháp luật doanh nghiệp. Theo đó, với các vấn đề chung nhất của hợp đồng mua bán DNTN 33
  • 42. thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Với những vấn đề liên quan đến đăng ký doanh nghiệp, chuyển đổi địa vị pháp lý của chủ doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp…thì chịu sự điều chỉnh của pháp Luật Doanh nghiệp. Với những vấn đề riêng trong hợp đồng (lao động, tài chính, chuyển giao đất đai, tài sản trí tuệ, tài sản có đăng ký quyền sở hữu…) thì chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành (pháp luật lao động, pháp luật đất đai, pháp luật tài chính…). 1.2.3 Hình thức của Hợp đồng mua bán Doanh nghiệp tư nhân Hình thức của hợp đồng, đƣợc hiểu là cách thức biểu hiện ý chí ra bên ngoài của các bên xác lập quan hệ hợp đồng. Ý chí có thể biểu hiện ra bên ngoài bằng ngôn từ (bằng miệng), bằng văn bản hoặc bằng những hành động cụ thể. Do đó, về nguyên tắc một hợp đồng mua bán có thể thực hiện bằng miệng, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, đối tƣợng của hợp đồng mua bán DNTN chứa đựng nhiều loại tài sản khác nhau, bao gồm cả các tài sản mang tính đặc thù (nhƣ nhà ở, bất động sản, tài sản đăng ký quyền sở hữu…) nên rất nhiều các quốc gia trên thế giới đều có chung quan điểm là việc chuyển nhƣợng, chuyển giao quyền sở hữu các tài sản này phải đƣợc lập thành văn bản và đƣợc công chứng, chứng thực hoặc có ngƣời làm chứng (tùy hệ thống pháp luật mỗi quốc gia). Do đó, hợp đồng mua bán DNTN với mục đích chuyển giao một trong các loại tài sản này cũng phải đƣợc lập thành văn bản và phải đƣợc công chứng, chứng thực hoặc có ngƣời làm chứng. Hoạt động công chứng, chứng thực, làm chứng gắn liền với sự phát triển của xã hội và có ý nghĩa to lớn trong việc xác định tính xác thực của giao dịch và các quan hệ phát sinh cũng nhƣ sự phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan. Do đó, mỗi xã hội, mỗi quốc gia khác nhau lại có những quy định về công chứng, chứng thực hoặc làm chứng khác nhau. Lịch sử Nhà nƣớc đã có thời kỳ chƣa có khái niệm công chứng, một số tác giả nghiên cứu về công chứng cho rằng có hai loại hình thực hiện công chứng là tư chứng thư và công chứng thư. Các tác giả đã đƣa ra các khái niệm ''công'' và "tư", giữa cá nhân tự do làm chứng với các chức danh đƣợc Nhà nƣớc giao cho nhiệm vụ 34