Báo cáo thực tập môn logistics và quản lý chuỗi cung ứng
Bài viết văn hóa doanh nhân
1. Văn hóa doanh nhân
Tầm nhìn văn hóa thời hội nhập
Vũ Quốc Tuấn
Từ ngày 11-1-2007, nước ta chính thức là thành viên thứ 150 của WTO, tổ
chức thương mại lớn nhất hành tinh, điều tiết 85% thương mại hàng hóa và
90% thương mại dịch vụ toàn cầu. Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới,
doanh nhân nước ta đứng trước những đòi hỏi mới về tầm nhìn, về kiến thức
kinh doanh cũng như kỹ năng quản lý, v.v...
Tầm nhìn toàn cầu
Vào WTO, doanh nhân nước ta đứng trước cơ hội lớn để phát triển. Đó là sân
chơi lớn toàn cầu, thị trường lớn toàn cầu và hệ thống luật pháp minh bạch,
công bằng, dễ dự đoán. Đương nhiên, có những thách thức lớn đối với nền
kinh tế đang còn nhiều yếu kém, chưa thật bền vững của nước ta. Cơ hội là to
lớn, nhưng như Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đã nói, “không có
chuyện khi vào WTO là sẽ “đổi đời” ngay”, dễ từ lạc quan chuyển sang “lạc
quan tếu”. Cơ hội chỉ đến với những người biết nắm lấy cơ hội và có những
biện pháp chuyển cơ hội từ tiềm năng thành hiện thực để phát triển.
Điều kiện quyết định để doanh nghiệp, doanh nhân giành được thắng lợi trong
cuộc hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay chính là tầm nhìn của mỗi doanh nhân
– tầm nhìn toàn cầu để có tư duy toàn cầu trong từng hoạt động sản xuất, kinh
doanh cụ thể. Từ nay, mỗi doanh nhân Việt Nam đã là doanh nhân “toàn cầu”,
với ý nghĩa là có tầm nhìn toàn cầu, tư duy toàn cầu, hoài bão toàn cầu, ý chí
kinh doanh toàn cầu, và từ đó, đề ra và quyết định những giải pháp để đưa
doanh nghiệp của mình ra thị trường toàn cầu một cách thắng lợi, giảm thiểu
những thua thiệt có thể xảy ra. Đó là tầm nhìn rộng hơn, xa hơn, nắm bắt
thông tin thị trường thế giới để định vị được sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của
mình, và điều quan trọng là “biết mình, biết người”, biết chỗ hay, chỗ dở của
người cũng như chỗ hay, chỗ dở của mình, rồi từ đó tìm ra những giải pháp
đối phó. Nắm bắt chỗ hay của người là cần thiết, nhưng biết được chỗ dở của
người lại càng có ích hơn, vì qua đó, ta biết được kẽ hở của họ, ta nên chọn
mặt hàng nào là lợi thế của ta để đưa hàng hóa, dịch vụ đó ra thế giới.
Tầm nhìn toàn cầu cũng đòi hỏi đổi mới kỹ năng kinh doanh, làm ăn có tính
toán căn cơ, quản lý kinh doanh cũng như điều hành doanh nghiệp một cách
khoa học, bài bản, khắc phục lối kinh doanh cò con, đánh quả, chụp dựt.
Trong doanh nghiệp, rất cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
2. 2
xuất, kinh doanh, áp dụng rộng rãi các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế
để có tiếng nói chung trong đánh giá giá trị của hàng hóa. Đáng chú ý là từ
nay, hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đã bước ra sân
chơi toàn cầu với những đối thủ mới, trong đó, không ít đối thủ già dặn hơn ta
về kinh nghiệm cạnh tranh trên thương trường, có những kỹ thuật để bảo vệ
hàng hóa, sản phẩm của họ. Chính vì vậy, doanh nhân nước ta phải nắm bắt
được pháp luật quốc tế, biết cách đối phó với những vụ kiện cáo của nước đối
tác về nhãn mác hàng hóa, về chống bán phá giá, v.v... để tránh thua thiệt.
Đối với mỗi doanh nhân, với nhận thức rõ ràng mình là nhân vật trung tâm
của hội nhập, điều quan trọng là nêu cao ý chí tự tôn dân tộc, kiên cường khắc
phục khó khăn, dũng cảm, mưu trí, chấp nhận rủi ro, thách thức, quyết tâm
cùng toàn dân nhanh chóng xóa tình trạng kém phát triển của đất nước, có
hoài bão làm ăn lớn, biết liên kết, liên doanh để tăng thêm sức mạnh. Tiếp
theo, đó là tính cần mẫn, ham học hỏi, không ngừng bổ sung kiến thức, nâng
cao kỹ năng quản lý, nắm bắt kịp thời để ứng dụng có kết quả những thành
tựu mới nhất về khoa học, công nghệ cũng như về quản trị doanh nghiệp của
thế giới, kể cả có trình độ ngoại ngữ cần thiết cho giao dịch. Đó là những điều
kiện quyết định để nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, nhất là để tạo nên “sự khác biệt”, tạo nên giá
trị tăng thêm ngày càng cao trong mỗi sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong tình hình hội nhập, doanh nhân càng cần đặc biệt quan tâm việc phát
triển nhân lực, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động kỹ thuật và nhân lực
cấp cao, coi nhân lực là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định để bảo đảm nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh đòi hỏi doanh
nhân – chủ doanh nghiệp quan tâm giải quyết tốt các quan hệ trong doanh
nghiệp, biểu hiện trong thái độ ứng xử giữa chú doanh nghiệp với người lao
động, tạo môi trường thuận lợi cho mọi người phát huy tài năng, thỏa sức
cống hiến, để họ thấy được hướng phát triển trong tương lai và từ đó yên tâm
trong vị trí hiện tại.
Tinh thần cộng đồng, truyền thống quan tâm đến xã hội, tham gia các hoạt
động xã hội, từ thiện của doanh nhân nước ta cần được tiếp tục phát huy.
Doanh nhân Việt Nam ngày nay tiếp thu từ truyền thống ý chí kiên cường
trong đấu tranh giữ nước và xây dựng nước; lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý trong ứng xử; giản dị, tinh tế và thanh cao trong lối sống.
Hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng, cạnh tranh càng gay gắt, những đức
tính ấy càng cần được bồi dưỡng, nâng cao và tỏa sáng.
Văn hóa trong cạnh tranh
3. 3
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là động lực của phát triển; không có
cạnh tranh thì không có phát triển. WTO là một sân chơi lớn, tại đây, một
cuộc cạnh tranh quy mô lớn, toàn cầu đang diễn ra hết sức gay gắt. Đó là cuộc
cạnh tranh giữa từng sản phẩm hàng hóa, từng dịch vụ cũng như giữa các
doanh nghiệp và rộng hơn, là cạnh tranh giữa các quốc gia; thể hiện trong tất
cả các ngành, lĩnh vực; kể cả trong sản xuất cũng như trong phân phối ... Ở
đây, không có chuyện người thắng, kẻ thua như trong chiến tranh, mà mọi
người đều cùng thắng (win – win), cũng có nghĩa là mỗi doanh nghiệp tìm
được kẽ hở để len vào, tìm chỗ trống để bổ sung, biết phân khúc thị trường,
thua keo này, bày keo khác, v.v...
Văn hóa kinh doanh là cùng hợp tác, cùng cạnh tranh, cạnh tranh trong hợp
tác, không dùng những thủ đoạn trái pháp luật hoặc trái đạo đức để kiếm lời.
Văn hóa kinh doanh cũng đòi hỏi doanh nhân nắm bắt được truyền thống văn
hóa, quy tắc ứng xử của nước đối tác, từ cách ăn mặc, đi đứng, giao tiếp, ... để
tạo tình cảm thân thiện khi quan hệ, tránh những ứng xử không phù hợp với
văn hóa nước bạn. Từ nay, khi cuộc cạnh tranh với quy mô toàn cầu mở ra,
những sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ mà doanh nhân nước ta mang ra trao
đổi, từ gạo, tôm cá, hồ tiêu, cao su cho đến quần áo, giày dép, máy móc, thiết
bị, các loại dịch vụ ... đều phải có sức cạnh tranh cao hơn trước, không những
trên thị trường WTO mà ngay trên thị trường trong nước; đó là điều đã rõ.
Song, điều cần nhấn mạnh là: đó không chỉ là những hoạt động đơn thuần
kinh tế, mà ấn chứa bên trong các sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ ấy, luôn
luôn có hàm lượng văn hóa, trước hết là văn hóa của doanh nghiệp – nơi sản
xuất và rộng hơn, qua đó, thấy rõ bản sắc văn hóa của cả Việt Nam ta.
Văn hóa Việt Nam không chỉ thể hiện rõ trong những sản phẩm cụ thể, nhận
biết ngay được như sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống của các làng
nghề, mà còn thể hiện ngay trong chất lượng của tất cả các loại sản phẩm
hàng hóa khác, trong phương thức kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cũng
như trong thái độ ứng xử của mỗi doanh nhân. Ngày nay, người tiêu dùng
không chỉ quan tâm giá cả của hàng hóa, mà ngày càng quan tâm hơn đến các
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm liên quan đến sức khỏe của họ, cũng
như quan tâm đến việc bảo vệ sức khỏe cho người lao động trong doanh
nghiệp và bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất, kinh doanh, thể hiện
trong các bộ tiêu chuản quản lý chất lượng ISO đang được áp dụng phổ biến
trên thế giới. Có thể ví dụ: nếu như trong con tôm, con cá có những hóa chất
có hại cho sức khỏe người tiêu dùng; nếu như trong giày dép, chất lượng của
nguyên liệu không tốt, dùng chóng hỏng, chất lượng không đồng đều; nếu
như doanh nghiệp gây ra ô nhiễm môi trường, v.v... thì rõ ràng là nội dung
văn hóa trong sản phẩm, hàng hóa đã không được bảo đảm, ảnh hưởng xấu
đến thương hiệu của nhà sản xuất, mất tín nhiệm đối với người tiêu dùng
trong nước cũng như trên thế giới. Nói cách khác, kinh tế và văn hóa gắn bó
4. 4
với nhau, quyện vào nhau trong mỗi sản phẩm hàng hóa, mỗi loại dịch vụ.
Chúng ta mang hàng hóa ra thị trường WTO càng nhiều càng tốt, nhưng tất cả
cần phải toát lên bản sắc văn hóa Việt Nam, làm cho sản phẩm, hàng hóa
mang thương hiệu Việt Nam vẫn có những nét riêng của văn hóa Việt Nam,
góp phần làm phong phú thêm văn hóa kinh doanh toàn cầu.
Thị trường toàn cầu rộng mở, trên thị trường nước ta, sẽ có nhiều hàng hóa
của các nước trong WTO. Người tiêu dùng nước ta sẽ có nhiều cơ hội lựa
chọn hàng hóa phù hợp với yêu cầu của mình, kể cả hàng do doanh nghiệp
nước ta hoặc do doanh nghiệp nước ngoài sản xuất. Không nên hô hào “lòng
yêu nước” kiểu như “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” để động viên tiêu
dùng những hàng hóa kém chất lượng, chỉ vì đó là hàng hóa của ta sản xuất;
vì về thực chất, cách suy nghĩ này sẽ hạn chế tinh thần vươn lên nâng cao chất
lượng và năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dung dưỡng thói quen ỷ lại, dựa
dẫm của một số doanh nghiệp; và như vậy, cũng sẽ có hại cho việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế.
Trong quan hệ với các đối tác, cần thực hiện đầy đủ các cam kết, tuân thủ
pháp luật và hợp đồng với các đối tác, từ chất lượng, số lượng hàng hóa, dịch
vụ đến thời gian giao nhận, phương thức giao nhận, không thể tùy tiện. Có thể
nói đây là yếu tố văn hóa đầu tiên và quan trọng nhất để giành thắng lợi trong
cuộc cạnh tranh: cạnh tranh bằng uy tín, bằng chất lượng. Chữ “tín” trong
kinh doanh ngày nay lại càng quan trọng, vì không chỉ bó hẹp trong một số
nước mà đã mở rộng ra quy mô toàn cầu, ảnh hưởng đến uy tín của cả Việt
Nam. Chính chữ “tín” này được bảo đảm sẽ tránh được những thua thiệt do
các vụ kiện tụng, tranh chấp thương mại có thể xảy ra nhiều hơn trước.
Thời hội nhập cũng càng cần thiết mở rộng liên kết, liên doanh với các doanh
nghiệp cùng ngành, trong nước và nước ngoài, qua đó mà tiếp thu công nghệ,
kỹ năng quản lý tiên tiến ... cũng như tăng cường hoạt động của các hội, hiệp
hội doanh nghiệp, để tăng thêm năng lực cạnh tranh. Văn hóa doanh nhân ở
đây thể hiện trong tinh thần thân thiện, thái độ hợp tác chân thành, tin cậy lẫn
nhau trong từng ngành hàng, từng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, là sự hợp tác
để nâng cao chất lượng hàng hóa, là để cùng thực hiện chuỗi phân phối, giành
thêm thị phần cho cả ngành hàng, v.v...
Chúng ta tin tưởng rằng, trong thời hội nhập, doanh nhân nước ta không
những xứng đáng với danh xưng doanh nhân Việt Nam mà còn từng bước có
vị trí xứng đáng trong đội ngũ doanh nhân thế giới, không chỉ là doanh nhân
có tầm vóc lớn trong kinh doanh mà quan trọng hơn nữa, đó là những doanh
nhân có văn hóa.
--------------------------------