Luận Văn Phát triển kinh tế tư nhân ở Tỉnh Bình Định giai đoạn 2010-2015..doc
Toan cau hoa
1. 1.
, ớ ập quán kinh
doanh quốc tế
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những cơ hội tiếp cận thị trường thế giới rộng
lớn nhưng cũng buộc các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam phải đối mặt với
một môi trường nhiều rủi ro hơn và cạnh tranh gay gắt hơn. Hội nhập kinh tế đồng
nghĩa với cam kết tham gia vào thị trường thế giới được điều tiết bằng những luật
chơi rõ ràng, những định mức, tiêu chuẩn khắt khe; phải tuân thủ các luật lệ, cam
kết về không phân biệt đối xử, giảm thuế, mở cửa thị trường, bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ, các tiêu chuẩn về lao động và cam kết xã hội…. văn hóa
doanh nghiệ thay đổi thách thức
, mọi nhân viên thuộc doanh nghiệp sẽ phải thay đổi thích nghi
với các qui trình kinh doanh mới, được chuẩn hóa. Trên thực tế, các doanh nghiệp
Việ với các tiêu chuẩn như trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility - CSR), an toàn vệ sinh lao động và
hệ thống quản lý môi trường; phong cách làm việc chuyên nghiệp; tính sáng tạo,
đổi mới, sẵn sang hợp tác. Tinh thần hợp tác, cùng làm ăn, cùng có lợi, và cùng
làm giàu phải được xem trọng và đặt chữ tín lên hàng đầu
Việt Nam.
Động cơ kinh doanh và nhận thức của doanh nhân đã được cải thiện đáng kể.
Khi được hỏi về động cơ kinh doanh, 41,4% số doanh nhân trả lời là "muốn
làm gì có ích cho xã hội"; 27,3% trả lời là do "muốn tự quyết định công việc của
mình"; 13,5% là do "muốn phát huy tối đa khả năng của mình"; 16,4% do "muốn
tiếp tục công việc của gia đình hiện nay"; 9,7% do "muốn kiếm nhiều tiền hơn";
5,1% do "công việc trước đây không thích hợp" và 1,3% do "không có việc làm".
2. Những con số này cho thấy doanh nhân Việt Nam có trách nhiệm và ý thức xã hội
khá cao. Điều này khẳng định rằng, doanh nghiệp kinh doanh không chỉ vì mục
đích cá nhân, mặc dù động cơ này hoàn toàn là chính đáng.
Quá trình cọ xát với thị trường quốc tế đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc của
người Việt Nam, giúp các doanh nhân Việt Nam xích lại gần nhau, khiến họ
kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà còn để tôn vinh Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Các công ty của Việt Nam có thương hiệu nổi tiếng ở nước ngoài như Trung
nguyên, Legamex, Vinataba… đều khẳng định: mục đích bảo vệ thương hiệu của
họ không phải chỉ để thu được lợi nhuận, mà còn để bảo vệ uy tín của dân tộc.
2.
.
Việt
Nam chính là sự chao đảo về các hệ thống giá trị trong mỗi con người Việt Nam
nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Việt Nam vốn là một nước có nền văn hoá
nông nghiệp, trọng tĩnh, với hệ thống các giá trị thiên về tinh thần hơn là vật chất,
như thích hoà hiếu, trọng tình, ham danh hơn ham lợi, trọng thể diện… Những yếu
tố này, một mặt cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước, mặt khác lại giúp cho
tôn ti, trật tự trong xã hội được bảo đảm, các giá trị đạo đức ít bị xáo trộn. Khi
bước vào cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh được Nhà nước khuyến khích,
một số thương nhân giàu lên nhanh chóng. Ngày càng có nhiều người trẻ tuổi
thành công trên thương trường. Thực tế này đã làm đảo lộn những quan niệm
3. truyền thống, tôn ti, trật tự cũng không còn được coi trọng như trước vì kinh
nghiệm của lớp người đi trước bị cho là không còn phù hợp với hoàn cảnh mới.
Một số người Việt Nam không có bản lĩnh "văn hoá" vững vàng, sa vào trạng
thái choáng ngợp trước những thành tựu kinh tế của phương Tây, trở nên sùng
ngoại quá đáng, phủ nhận tất cả những giá trị cổ truyền của dân tộc. Những người
này phần đông là giới thanh niên làm việc cho các công ty nước ngoài và những
người kinh doanh bằng viện trợ của thân nhân từ nước ngoài gửi về. Việc đánh mất
bản sắc văn hoá dân tộc mình đã làm họ rập theo khuôn mẫu phương Tây trong
mọi hành vi. Thật ra, văn hoá không phải là "đồ ăn nhanh", để có thể học theo
trong một sớm một chiều, mà cần trải qua nhiều thế hệ. Văn hoá cũng giống như
tảng băng trôi, mà một người từ nền văn hoá khác chỉ có thể nhận biết được phần
nổi (phần nhỏ nhất), chứ chưa thể ý thức được phần chìm dưới nước (phần quyết
định), được tích tụ qua nhiều thế hệ và đã ăn sâu vào ý thức hệ của mỗi thành viên
trong nền văn hoá đó. Chính vì vậy, việc bắt chước thiếu chọn lọc của một nhóm
doanh nhân Việt Nam chỉ làm nghèo đi đời sống tinh thần của họ và là
Việt Nam. Sự sùng ngoại quá đáng đó
còn làm giảm sút uy tín của doanh nhân Việt Nam trong c
, qua giao lưu với văn
nơi đây tiếp thu được một số kiến thức, yếu tố cần thiết cho kinh tế
thị trường như cơ sở hạ tầng, công nghệ, kiến thức kinh doanh hiện đại, tác phong
làm việc công nghiệp… nhưng cũng tiêm nhiễm tâm lý vọng ngoại khá nặng nề,
nhất là tôn sùng những gì của Mỹ, cùng một số thói xấu khác như chủ nghĩa thực
dụng, lối sống gấp, thích hưởng thụ, xa rời bản sắc dân tộc…