... Những niềm tin của chúng ta về các mối quan hệ giữa người và người vẫn ảnh hưởng lên trên thái độ và hành vi của chúng ta khi quan hệ với những người khác. Những người làm công tác hỗ trợ nếu nhận biết được những niềm tin của chính họ và có ý thức trăn trở với những câu hỏi liên quan đến các chủ đề nêu trên thì sẽ có thể nhận biết được những ảnh hưởng từ nhân sinh quan của họ lên nhận thức, thái độ và hành vi của họ đối với những người mà họ giúp đỡ...
Đại cương Tâm lý Trị liệu - Một số học thuyết cơ bản
Lý thuyết của bản thân về hành vi con người
1. TÀI LIỆU HUẤN LUYỆN CỦA CÂU LẠC BỘ TRĂNG NON
1
LÝ THUYẾT CỦA BẢN THÂN VỀ HÀNH VI CON NGƯỜI
Nguyên tác: Barbara F. Okun – Effective Helping
Người dịch: BS. NGUYỄN MINH TIẾN
Việc hiểu biết bản chất của các mối quan hệ hỗ trợ, vai trò và những thuộc tính đặc trưng
của một người hỗ trợ hiệu quả, cùng với việc hiểu biết và vận dụng những kỹ năng giao tiếp
tốt sẽ có vai trò quan trọng trong việc thiết lập những mối quan hệ hỗ trợ. Trong khi đó, để
có thể áp dụng tốt các chiến lược hỗ trợ (giai đoạn II của tiến trình hỗ trợ), chúng ta cần
nắm vững những học thuyết cơ bản về sự hỗ trợ. Tuy nhiên, trước khi đi vào tìm hiểu
những học thuyết này, bản thân mỗi người hỗ trợ cũng cần xem xét, khám phá các giá trị,
các nhu cầu mà từ đó góp phần tạo nên cái gọi là “học thuyết cá nhân” của bản thân từng
người hỗ trợ. Việc hiểu “học thuyết riêng” về hành vi con người của bản thân mỗi người
chúng ta là rất quan trọng, bởi vì chính nó sẽ ảnh hưởng lên việc bạn hiểu như thế nào về
những học thuyết hỗ trợ được công bố chính thức về mặt khoa học, ảnh hưởng lên cách mà
bạn có thể chấp nhận chúng hoặc phản bác chúng.
2. TÀI LIỆU HUẤN LUYỆN CỦA CÂU LẠC BỘ TRĂNG NON
2
Mỗi người trong chúng ta đều có sẵn những quan điểm riêng, những ý kiến riêng có thể tạo
nên một lý thuyết về hành vi của con người. Những niềm tin và quan điểm ấy vẫn mỗi ngày
vận hành cuộc sống chúng ta. Lý thuyết riêng của mỗi người vẫn thực sự tồn tại và ảnh
hưởng lên những hành động của chúng ta. Bất kể chúng ta có tự mình nhận ra sự hiện diện
của chúng hay không, hoặc chúng ta có thể diễn đạt lại các lý thuyết ấy hay không, thì chúng
vẫn có những ảnh hưởng lên trên hành động của chúng ta.
Lý thuyết riêng của mỗi người lại chịu ảnh hưởng bởi những nền tảng đạo đức, kinh tế xã
hội, văn hóa và gia đình mà chúng ta đã hấp thụ từ trước đó, bởi những xu hướng giới, các
yếu tố sinh học, những trải nghiệm trong quá khứ, sự tiếp xúc với các trường phái, xu
hướng suy nghĩ khác nhau trong cuộc sống, cũng như từ các cơ hội mà chúng ta gặp phải
trong đời và từ những con người mà chúng ta cùng sống, học tập và làm việc... Nhân cách và
tính tình của chúng ta cũng có ảnh hưởng lên trên sự hình thành cái lý thuyết về nhân sinh
riêng của chúng ta, cũng như sẽ ảnh hưởng lên trên khả năng tự nhận biết về bản thân
chúng ta. Mỗi người trong chúng ta sẽ có thể nhận biết được lý thuyết về sự hỗ trợ của riêng
mình khi chúng ta lưu tâm suy nghĩ về nó và khi chúng ta thăm dò các tình huống hỗ trợ xảy
ra trong thực tế.
Bất kể lý thuyết riêng của chúng ta là như thế nào, chúng ta đều cần phải hiểu về nội dung
của nó, bởi vì nó sẽ có ảnh hưởng lên trên những hành động và những phản ứng của chúng
ta đối với những người mà chúng ta đang giúp đỡ. Cho đến khi chúng ta thừa nhận cái cơ sở
lý thuyết của riêng mình là như thế nào, chúng ta mới có thể “giúp đỡ” người khác nhiều
hơn, áp dụng các lý thuyết của bản thân mình tốt hơn để đáp ứng những nhu cầu của người
khác.
Việc hiểu biết về hành vi của con người là điều rất quan trọng đối với tất cả những ai làm
công việc liên quan đến con người. Thông qua học tập từ lý thuyết, từ kinh nghiệm làm việc,
hoặc từ cả hai loại học tập ấy, người hỗ trợ (helpers) phải thường xuyên “đánh vật” với các
đề tài như: nhân cách được hình thành và phát triển như thế nào, tại sao con người lại có
những cách ứng xử như thế, đâu là động cơ thúc đẩy con người, làm thế nào để những động
cơ ấy vận hành, con người suy nghĩ như thế nào, học tập như thế nào, tập thể có ảnh hưởng
như thế nào trên hành vi của các cá nhân và làm thế nào để thay đổi hành vi của con người...
Chúng ta có tất cả những suy nghĩ về những chủ đề này, dẫu rằng trong cuộc sống thường
ngày chúng ta không thể (hoặc ít khi) giải bày những suy nghĩ ấy ra dưới dạng những học
thuyết. Tuy nhiên, những niềm tin của chúng ta về các mối quan hệ giữa người và người vẫn
ảnh hưởng lên trên thái độ và hành vi của chúng ta khi quan hệ với những người khác.
Những người làm công tác hỗ trợ nếu nhận biết được những niềm tin của chính họ và có ý
thức trăn trở với những câu hỏi liên quan đến các chủ đề nêu trên thì sẽ có thể nhận biết
được những ảnh hưởng từ nhân sinh quan của họ lên nhận thức, thái độ và hành vi của họ
đối với những người mà họ giúp đỡ. Ví dụ, một người hỗ trợ mà bản thân tin rằng bằng cách
3. TÀI LIỆU HUẤN LUYỆN CỦA CÂU LẠC BỘ TRĂNG NON
3
thay đổi hành vi có thể dẫn đến thay đổi thái độ và cảm xúc, thì người ấy dễ có khuynh
hướng lựa chọn các chiến lược hỗ trợ theo định hướng hành động (action-oriented) tập
trung vào các thay đổi về hành vi, trong khi một người hỗ trợ tin rằng hành vi chỉ thay đổi
khi con người phát triển được khả năng tự nhận biết về bản thân sẽ dễ chấp nhận việc áp
dụng các kỹ thuật đối thọai bằng lời để phát triển khả năng “thấu hiểu” hoặc “nội thị”
(insight). Tương tự, việc hiểu biết lý thuyết cơ bản về sự học tập cũng sẽ cho phép người hỗ
trợ nhận biết và sử dụng một cách có ý thức những tiềm năng của chính bản thân mình như
những khuôn mẫu (models) để vận dụng vào trong các mối quan hệ hỗ trợ.
Vì thế, sự hiểu biết các lý thuyết và vận dụng sự hiểu biết ấy là có tính thiết yếu cho việc
chúng ta có thực hiện được sự hỗ trợ hiệu quả trong thực hành lâm sàng hay không. Tuy
nhiên, mỗi người hỗ trợ nên xây dựng cho mình một phong cách hỗ trợ riêng sao cho phù
hợp với lý thuyết riêng của mình và vẫn có thể hiệu quả theo cách thức riêng mà mình đã
chọn.
Không may thay, thường thì vẫn có một chút gì đó không được hài hòa lắm giữa những gì
mà một người hỗ trợ tin tưởng với những gì mà người ấy thực sự làm. Nếu nhận thức được
rõ cái lý thuyết nhân sinh riêng của bản thân, chúng ta sẽ có thể thấy rõ cách thức mà chúng
ta đang vận dụng những lý thuyết chính thức vào trong sự thực hành hỗ trợ mà chúng ta
đang thực hiện. Để bắt đầu tìm hiểu những về những giả định trong lý thuyết riêng của
mình, bạn hãy tự đặt ra những trả lời cho các câu hỏi sau đây:
1. Con người là gì? Họ tốt hay xấu? Họ sinh ra vốn đã tốt hay xấu chưa? Họ có thể tự kiểm
soát bản thân hay chịu sự kiểm sóat bởi một cái gì khác từ bên ngòai? Điều gì là động cơ
thúc đẩy họ?
2. Bạn giải thích như thế nào về nam tính và nữ tính? Những khác biệt giữa nam và nữ có
phải là do sinh học? Do các yếu tố xã hội? Do sự khác biệt về chủng tộc, đạo đức hay là do
học tập mà có?
3. Con người học tập như thế nào? Có những phương thức học tập khác nhau hay không?
4. Nhân cách phát triển như thế nào? Nhân cách được định hình sẵn hay là do học tập? Các
loại nhân cách khác nhau có thể phân biệt được dựa trên những biểu lộ bằng hành vi
không?
5. Con người có thể thay đổi được không? Họ thay đổi như thế nào? Có tác nhân gì bên
ngoài khiến họ thay đổi hay là sự thay đổi đã xuất phát từ bên trong con người?
6. Thế nào là sự lệch lạc về mặt xã hội? Ai là người quyết định một việc gì đó là lệch lạc hay
không lệch lạc? Việc gì có thể làm hoặc nên làm đối với các lệch lạc ấy? Những hành vi nào
(của bản thân và của người khác) mà bạn thấy có thể chấp nhận được và không thể chấp
nhận được? Những hành ấy có lệch lạc không?
4. TÀI LIỆU HUẤN LUYỆN CỦA CÂU LẠC BỘ TRĂNG NON
4
Hãy cố gắng trả lời những câu hỏi này bằng chính những ngôn từ của bạn, dựa trên khung
tham chiếu của chính bạn. Bạn có thể ngạc nhiên nhận ra rằng lâu nay bạn đã có sẵn nhiều
giải đáp cho các câu hỏi này rồi! Hãy so sánh chúng với sự trả lời của những người khác.
Những trả lời của bạn không đúng mà cũng không sai, thậm chí chúng vẫn còn có thể thay
đổi về sau nếu bạn vẫn tiếp tục học hỏi, tiếp tục nhận biết thêm những quan điểm và những
cảm xúc của riêng bạn.
Bạn cởi mở như thế nào đối với những quan điểm khác biệt với bạn? Sự cởi mở có thể ảnh
hưởng lên tính uyển chuyển và khả năng thích ứng của bạn, từ đó ảnh hưởng lên khả năng
tiếp xúc làm việc của bạn với nhiều loại người khác nhau và khả năng cảm thấy thoải mái
trong nhiều môi trường sống và làm việc khác nhau.
Sau khi khảo sát cái lý thuyết nhân sinh của bản thân, bạn có thể bắt đầu xem xét tổng quan
các học thuyết chính yếu về sự hỗ trợ. Bạn có thể nhận thấy thấp thóang phần nào quan
điểm nhân sinh của bạn trong những học thuyết ấy; bạn cũng sẽ nhận thấy có những phần
lý thuyết bạn chấp nhận được và cũng có những phần lý thuyết bạn sẽ phản bác lại, không
chấp nhận. Tuy nhiên, ý kiến riêng của bạn hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian và theo
tiến trình học tập của chính bạn.