Tập thơ (phần 2) thơ bốn câu thời Đường Tống (TQ) được cụ Bùi Hạnh Cẩn dịch năm 2010 theo nguyên thể thất ngôn tứ tuyệt. Tập thơ gồm 428 bài thơ Đường do 170 tác giả thời Đường Tống sáng tác. Cụ Bùi Hạnh Cẩn dịch thành 442 bài, Sách chưa xuất bản. Nếu muốn in ấn kinh doanh phải xin phép tác giả.
1. LÝ HOA
221
LÝ HOA
(? - 766)
Quê Liễu Hoàng, Triệu Châu (tỉnh Hà Bắc). Tên chữ là Hà
Thúc, đỗ Tiến sĩ năm 735, làm Giám sát Ngự sử năm 752. Vì
tính cương trực nên trái ý quyền thần Dương Quốc Trung,
chuyển làm chức Tả Bổ khuyết. Khi An Lộc Sơn làm phản, vì
cứu mẹ trong nơi loạn quân chiếm đóng, nên bị bắt, phải nhận
chức Phượng các Xá nhân. Sau khi loạn dẹp, phải chuyển làm
Tham quân Tư hộ châu Hàng. Ông rất ân hận vì việc cộng tác với
loạn quân, vua Đường mời ra giữ chức Tả Bổ Khuyết, viên ngoại
lang tư Phong nhưng ông đều từ chối, tạm thời làm việc dưới
trướng Quan sát sứ Giang Nam. Rồi lại lấy cớ ốm xin từ chức và
về ở ẩn đất Sơn Dương, cày cấy tự cung cho tới cuối đời. Ông là
bạn thân của Tiêu Dĩnh Sĩ, còn nổi tiếng cả về văn xuôi.
XUÂN HÀNH KÝ HỨNG
Nghi Dương∗
thành hạ thảo thê thê
Giản thủy đông lưu phục hướng tê
Phương thụ vô nhân hoa tự lạc
Xuân sơn nhất lộ điểu không đề.
CHƠI XUÂN CẢM HỨNG
Nghi Dương thành ấy cỏ xanh dày
Nước lạch xuôi đông lại chuyển tây
Người vắng cây thơm hoa tự rụng
Chim suông hót mãi núi xuân này.
■
∗
Nghi Dương: ở phía tây nam Lạc Dương (Hà Nam).
2. 222
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ GIA HỰU
Quê Triệu Châu. Tự là Tòng nhất – Đậu tiến sĩ thời
Đường Thiên Bảo – làm chức Thứ sử Tô Châu.
KÝ VƯƠNG XÁ NHÂN TRÚC LÂU
Ngạo lại thân nhàn tiếu ngũ hầu
Tây Giang thủ trúc khởi cao lâu
Nam phong bất dụng bồ quỳ phiến
Sa mạo nhàn miên đối thủy âu.
GỬI XÁ NHÂN HỌ VƯƠNG NƠI LẦU
TRÚC
Chức nhỏ thân nhàn ngán ngũ hầu
Tây giang chặt trúc dựng cao lầu
Nồm nam chẳng phải gồi làm quạt
Mũ lụa ngơi dài trước đám âu.
■
LÝ GIA HỰU
3. LÝ ÍCH
223
LÝ ÍCH
(748 – 827)
Quê Cô Tàng, Lũng Tây (Cam Túc), tên chữ là
Quân Ngu. Người cùng họ với nhà thơ Lý Hạ. Năm 796
đỗ Tiến sĩ, làm chức Úy huyện Trịnh (Thiểm Tây), vì
chậm lên chức, bất mãn, xin từ quan, đi chơi các vùng Hà
Bắc, rồi làm việc dưới trướng Tiết độ sứ U Châu, Phần
Châu (Cam Túc). Được Đường Túc Tông biết tiếng, vời
làm Thiếu giám Bí Thư, rồi Học sĩ Điện Tập Hiền. Vì
thái độ ngạo mạn, nên bị giáng chức, nhưng sau lại được
cử giữ chức Thị Ngự sử, Thái tử Tân khanh, Hữu tán ky
thường thị, rồi Thượng thư bộ Lễ. Lý rất đa nghi, thường
khóa chặt buồng vợ và thiếp…nên được gọi là Thượng
thư Đố Si họ Lý (Đố là ghen, Si là mê).
BIỆN HÀ∗
KHÚC
Biện thủy đông lưu vô hạn xuân
Tùy gia cung khuyết dĩ thành trần
∗
Biện Hà: Còn gọi là Biện Thủy, Biện Cừ. Là một lối
trọng yếu trong mạch giao thông nam bắc. Các triều vua
đều sửa sang, tu bổ, nên dòng sông có khác chút ít. Từ
Tùy tới Đường là phân lưu của Hoàng Hà từ Thành Cao,
tỉnh Hà Nam phía đông nam chảy từ Thương Khâu vào
tỉnh An Huy, qua huyện Túc, huyện Từ rồi nhập vào sông
Hoài. Tùy Dạng Đế cho đắp đê ở bờ tây sông này, trồng
dương liễu, dựng hơn 40 tòa Ly cung để hành lạc. Sau khi
nhà Tùy mất, chỉ còn rặng liễu, các Ly cung đều hoang phế.
4. 224
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Hành nhân mạc thượng trường đê vọng
Phong khởi dương hoa sầu sái nhân.
KHÚC HÁT SÔNG BIỆN
Sông Biện xuôi đông xuân ngập trời
Nhà Tùy cung điện bụi tro rồi
Người đi đừng đứng đê dài ngắm
Gió cuốn hoa dương não khổ người.
■
DẠ THƯỚNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊCH
Hồi nhạc phong tiền sa tự tuyết,
Thụ Hàng∗
thành ngoại nguyệt như sương.
Bất tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.
ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE
TIẾNG SÁO
Trước núi Hồi Nhạc cát tựa tuyết,
Ngoài thành Thụ Hàng trăng như sương.
Chả hay đâu đó khèn lau nổi
Một tối chinh nhân thẩy ngó làng.
■
∗
- Thụ Hàng: Tên thành ở Tuy Viễn.
5. LÝ ÍCH
225
DẠ THƯỢNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊCH
Hồi lạc∗
phong tiền sa tự tuyết,
Thụ Hàng∗
thành ngoại nguyệt như sương.
Bất tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất dạ chinh nhân∗
tận vọng hương.
■
ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE SÁO
Trước núi Hồi Lạc cát tựa tuyết,
Ngoài thành Thụ hàng trăng như sương.
Chả hay sáo sậy∗
nơi nào nổi
Một tối chinh nhân thẩy ngó làng.
■
∗
Thụ Hàng: Tên thành ở tây bắc Bao Đầu, tỉnh Tuy
Viễn do công tôn Ngao đời Hán đắp. Thời Đường,
Trương Nhân Nguyện lại tu bổ thêm, đắp lại chia làm ba
phần đông, giữa tây để ngăn ngừa quân Đột Quyết.
∗
Hồi Lạc: Tên núi ở đông nam Tuy Viễn, gần Tokoto
(Thác Khắc Thác), thuộc huyện Hồi lạc tây nam Ninh
Vũ, tỉnh Ninh hải. Ở Đại Đồng, Sơn Tây cũng có núi Hồi
Lạc, cũng gần thành Thụ Hàng.
∗
Sáo sậy: Sáo làm bằng lá sậy.
∗
Chinh nhân: Binh sĩ đánh trận, hoặc người đi xa.
6. 226
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÍNH HIỂU GIỐC
Biên sương tạc dạ trụy quan du∗
Xuy giốc đương thành∗
phiến nguyệt cô
Vô hạn tái hồng phi bất độ
Thu phong xuy nhập Tiểu Thiền Vu∗
.
NGHE ỐC SỚM
Đêm qua sương ải động hàng du
Tiếng ốc ngang thành mảnh nguyệt trơ
Núi ngất nhạn hồng không vượt nổi
Gió thu nổi khúc “Tiểu Thiền Vu”.
■
∗
Du: Tên một loại cây cao, đời xưa thường trồng ở quan
ải. Do đó, nơi cửa ải trọng yếu được gọi là “Ải Du”.
Truyện Hàn An Quốc có chép: Tướng nhà Tần là Mông
Điềm đánh đuổi quân Hung Nô, lấy đá chất làm thành,
ngoài trồng cây Du để làm cửa ải.
∗
Đương thành: Nói chung hiêu là “thị trấn nơi đó”,
nhưng thời Hán ở huyện Ứng (tỉnh Hà Bắc) có thị trấn
tên là “Dương Thành”
∗
Tiểu Thiền Vu: Tên một bản nhạc. Theo Quách Mậu
Thiển, đời Đường có những bản nhạc: Đại Thiền Vu,
Tiểu Thiền Vu. Thiền Vu là tên gọi nước Hung Nô.
7. LÝ ÍCH
227
TÒNG QUÂN BẮC CHINH
Thiên Sơn∗
tuyết hậu Hải phong hàn
Hoàng địch thiên xuy hành lộ nan∗
Tích lý chinh nhân tam thập vạn
Nhất thời hồi thủ nguyệt trung khan.
THEO QUÂN ĐÁNH PHƯƠNG BẮC
Gió Hồ∗
tê tái tuyết Thiên Sơn
Ngang sáo ngân bài “Hành Lộ nan”
Biển cát quân đi ba chục vạn
Quay đầu cùng ngó giữa trăng vàng.
■
∗
Thiên Sơn: Tên dãy núi cắt ngang tỉnh Tân Cương,
phía nam và bắc đều có đường tới Tây Vực.
∗
Hồ: Đây là hồ Thanh Hải. vùng này cũng có núi Kỳ
Liên (gọi là Thiên Sơn) giữa hai tỉnh Thanh Hải và Cam
Túc.
∗
Hành Lộ nan: Tên bản nhạc.
8. 228
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ KIẾN HUÂN
(? – 925)
Người quê Quảng Lăng. Cuối đời Đường, Lý hết lòng
giúp đỡ Vương triều Nam Đường, được làm chức Trung
thư Thị Lang Bình Chương sự (Tể tướng), nhưng về sau
thế lực suy yếu, bị đổi đi làm Tiết độ sứ Phủ châu. Có lúc
sắp được làm chức Tư Không, nhưng vì Lý đang xây
dựng trang trại ở Chung Sơn (đông bắc Nam Kinh) nên
xin từ chức. Nhà vua gọi ông là “Ông Chung Sơn”. Hiện
còn “Tập thơ Lý thừa tướng”.
CUNG TỪ
Cung môn trường bế vũ y nhàn
Lược thúc quân vương mấn tiện ban
Khước tiện lạc hoa xuân bất quản
Ngự câu lưu đắc đáo nhân gian.
LỜI CUNG NỮ
Cửa cung đóng mãi áo xiêm nhàn
Nghe nói nhà vua tóc bạc lan
Lại thích hoa rơi xuân chẳng biết
Trôi từ ngòi ngự tới nhân gian.
■
LÝ KIẾN HUÂN
9. LÝ KIẾN HUÂN
229
LÝ KỲ
Quê ở Đông Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên). Năm 735 đỗ Tiến
sĩ, làm chức Úy ở Tân Hương (Hà Nam). Ông chán thế
tục, thích đạo thần tiên, hay giao du với đạo sĩ.
KÝ HÀN BẰNG
Vi chính tâm nhàn vật tự nhàn
Triêu khan phi điểu mộ phi hoàn
Ký thư hà thượng thần minh tể
Tiện nhĩ thành đầu Cô Dịch∗
san.
GỬI HÀN BẰNG
Làm việc nhàn tâm nhàn tới vật
Xem chim sớm tối thỏa đi về
Gửi quan huyện giỏi sông Hà ấy
Cô Dịch đầu thành đẹp núi kia.
■
∗
- Cô Dịch (còn gọi là Cô dạ, Cô Sạ), tên núi ở vùng
Lâm Phần, Tương Lăng, tỉnh Sơn Tây. Cảnh vật đẹp,
truyền thuyết nói núi này có Tiên.
LÝ KỲ
10. 230
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ NGAO
U CƯ
Tuyên đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời trực thướng cô phong đính,
Nguyệt hạ phi vân khiếu nhất thanh.
NƠI Ở VẮNG
Chọn nơi vắng vẻ tình quê thỏa,
Đưa đón quanh năm chả bận mình.
Có lúc đỉnh non mây ráng vén,
Hú dài một tiếng ánh trăng thanh.
BÙI HẠNH CẨN DỊCH■
LÝ NGAO
11. LÝ NGAO
231
LÝ THÂN
VĂN VIÊN
Kiến thuyết tam thanh ba Giáp thâm,
Thử thời hành giả tận chiêm khâm.
Đoan Châu giang khẩu liên vân xứ,
Thủy tín ai viên thương khách tâm.
NGHE TIẾNG VƯỢN
Ba Giáp nghe tên đã hiểm trở,
Đến đây ai cũng áo xiêm đầm.
Cửa sông Đoan ấy liền mây núi,
Tiếng vượn càng thêm khách khổ tâm.
■
LÝ THÂN
12. 232
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LÝ THIỆP
Quê Lạc Dương (Hà Nam). Hiệu là Thanh Khê. Lúc đầu
ở ẩn Lư Sơn, sau ra làm quan thời Tống.
ĐĂNG SƠN
Chung nhật hôn hôn túy mộng gian
Hốt văn xuân tận cưỡng đăng san
Nhân qua trúc viện phùng tăng thoại,
Hựu đắc phù sinh bán nhật nhàn.
LÊN NÚI
Suốt buổi men say lẫn mộng tràn
Chợt nghe xuân cạn gượng leo ngàn
Gặp sư trò chuyện ngang sân trúc
Cuộc sống thêm ra một lúc nhàn.
■
LÝ THIỆP
13. LÝ THƯƠNG ẨN
233
LÝ THƯƠNG ẨN
Quê Châu Hoài (Tấn Dương, Hà Nam). Tên tự là Nghĩa
Sơn. Được lệnh Hồ Sở nhận thấy có tài năng mời vào
làm việc dưới trướng, nhờ sự giúp đỡ của con trai Sở là
Đào năm 837 đỗ Tiến sĩ. Nhưng năm sau đó, Lý lấy con
gái Vương Mậu Nguyên làm vợ, Mậu Nguyên vốn chống
đối Lệnh Hồ Sở, Lý trở thành người trung gian của hai
phái, do đó bị đời nghi ngờ về phẩm chất. Lý làm chức
Hiệu thư lang, rồi chức Úy ở Hoằng Nông (phía nam
Linh Bảo, tỉnh Hà Nam) rồi chính tự Bí thư sảnh, rồi thư
ký của Quan sát sứ Quế Lâm, chức Úy Trừu Chí (Thiểm
Tây), Lưu hậu Tham quan Kinh Triệu Doãn, Phán quan
Tiết độ sử Vũ Minh (Giang Tô), Thái học Bác sĩ, thư ký
cho Tiết độ sứ Đông Xuyên. Giữa chừng cũng có lúc xin
từ chức hoặc bị bãi miễn. Ưa cuộc sống phóng lãng, cho
qua cảnh ngộ không gặp vận. Cùng Đỗ Mục, Ôn Đình
Quân là những đại biểu về thơ thời kỳ Vãn Đường. Nay
còn tập « Lý Nghĩa Sơn thi » (còn gọi Ngọc Khê kinh thi).
HÁN CUNG TỪ∗
Thanh tước tây phi cánh vị hồi
Quân vương trường tại Tập linh đài∗
∗
Cung Hán: Ở đây ý nói cảnh vua chúa cầu thuốc trường sinh.
Hán Vũ Đế cho tìm cách sống lâu không già. Lý muốn mỉa
mai Đường Vũ Tông tìm thuốc trường sinh. Vũ Tông cho đắp
đài tiên ở Nam Giao, Trường An cầu thần tiên ban thuốc sống
lâu nhưng chỉ sống có 33 tuổi. Các vua Đường trước đó như
Hiến Tông, Mục Tông cũng thường dùng thuốc sống lâu.
14. 234
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Thị thần tối hữu Tương Như khát
Bất tứ kim hành∗
lộ nhất bôi.
CUNG VUA HÁN
Sẻ biếc∗
sang tây chửa thấy về
Tập Linh vua ngự mãi đài kia
Quan hầu mắc chứng Tương Như khát∗
Móc quý không hề được một ly.
■
∗
Sẻ biếc (xanh): Ban Cố viết trong “chuyện vua Hán
Vũ”, sẻ xanh là sứ giả của bà tiên Tây Vương Mẫu tu ở
núi Côn Luân phía tây. Thời Hán Vũ Đế, sẻ xanh bay tới,
vua hỏi thăm Tây Vương Mẫu, lát sau Tây Vương Mẫu
hiện ra cùng ăn tiệc với Hán Vũ Đế nhưng không dạy
thuật trường sinh bất lão rồi ra đi.
∗
Đài Tập Linh: Do Hán Vũ Đế xây dựng ở phía bắc núi
Hoa và ở Tập Linh hoa Âm, tỉnh Thiểm Tây.
∗
Tương như khát: Tên bệnh của Tư Mã Tương Như, một
danh sĩ thời Hán, tức là bệnh đái đường (diabet)
∗
Kim hành: Tên một cột đồng cao được Hán Vũ Đế
dựng ở cung Kiến Chương, trên đặt chiếc “chậu hứng
móc”, vì cho rằng uống bột ngọc báu và “móc” quý kia
sẽ sống lâu không chết.
15. LÝ THƯƠNG ẨN
235
DẠ VŨ KÝ BẮC
Quân vấn qui kỳ vị hữu kỳ,
Ba son dạ vũ trướng thù trì.
Hà đương cộng tiễn tây song chúc
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.
ĐÊM MƯA GỬI VỀ BẮC
Người hỏi ngày về vẫn đáp chưa,
Ba Sơn mưa tối ngập hồ thu.
Song tây cùng đuốc bao giờ nhỉ,
Lại kể Ba Sơn thuở tối mưa.
■
16. 236
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOA HẠ TỦY
Tầm phương bất giác túy lưu hà,
Ỷ thụ trầm miên nhật dĩ tà.
Khách tán tửu tinh thâm dạ hậu
Cánh trì hồng chúc thưởng tàn hoa.
SAY DƯỚI HOA
Tìm hoa chợt gặp chiều mây đẹp
Say giấc bên cây tới xế tà
Rượu tỉnh khách tan trời tối sẫm,
Lại bừng đuốc lửa ngắm tàn hoa.
■
17. LÝ THƯƠNG ẨN
237
MỘC LAN HOA
Động Đình ba lãnh hiểu xâm vân,
Nhật nhật chinh phàm tống viễn nhân.
Kỷ độ mộc lan chu thượng vọng,
Bất tri nguyên thị thử hoa thân.
HOA MỘC LAN
Động Đình sóng lạnh sáng mây vần
Sớm tối ngang bờ khách tiễn chân.
Mấy dạo mộc lan thuyền đứng ngó,
Nào hay hoa ấy chính tiền thân.
■
18. 238
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THƯỜNG NGA∗
Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm,
Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
Thường Nga ưng hối thâu linh được,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
HẰNG NGA
Bình phong tiên cảnh đuốc ngời lên,
Sao sớm, Ngân hà thấp bốn bên.
“Trộm thuốc” Hằng Nga giờ hối hận
Trời xanh biên biếc nỗi đêm đêm.
■
∗
Thường Nga, Hằng Nga: Tên vợ Hậu Nghệ, ăn trộm
thuốc tiên của Tây Vương Mẫu bay lên mặt trăng – có
thuyết nói hóa thành con cóc ở mặt trăng. Do đó mặt
trăng còn được gọi là Thiềm Cung.
19. LÝ THƯƠNG ẨN
239
VỊ HỮU
Vị hữu vân bình vô hạn kiều,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu
Vô đoan giá đắc kim quy tế,
Cô phụng hương khâm sự tảo triều.
VÌ
Đầy đủ rèm che lộng lẫy mầu
Phụng thành lạnh hết, tối xuân ầu
Không đâu lấy được chồng quan lớn,
Bỏ mặc chăn thơm, giữ buổi chầu.
■
KÝ LỆNH HỒ∗
LANG TRUNG∗
Tung∗
vân Tần thụ cửu ly cư
Song lý∗
thiều thiều nhất chỉ thư
∗
Lệnh Hồ: Tức Lệnh Hồ Đào, con Lệnh Hồ Sở.
∗
Lang trung: Chức quan cai quản ba bộ Công – Hình – Binh ở
Thượng thư sảnh.
∗
Tung: Đất giữa địa phận Trịnh Châu và Lạc Dương, nơi Lý
ở.
∗
Tần: Tức Trường An (Thiểm Tây).
20. 240
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
►
Hưu vấn Lương Viên∗
cựu tân khách
Mậu Lăng∗
thu vũ bệnh Tương Như.
GỬI QUAN LANG TRUNG LỆNH HỒ
Tần∗
, Tung cây ráng bao ngăn cách
Diệu vợi xa xôi một lá thư
Đừng hỏi vườn Lương khách quen cũ
Mưa thu lăng Mậu khổ Tương Như.
■
∗
Song lý (Hai cá chép): Biểu trưng dùng in vào giấy gửi
thư (cũng như hình “nhạn”).
∗
Lương Viên: Nơi giáo phường (dạy múa, nhạc, lập từ
thời Hán) do Lương Hiếu Vương, con trai Hán Văn Đế
lập ra.
∗
Mậu Lăng: Nơi có lăng tẩm Hán Vũ Đế, ở phía bắc
Trường An, nay gần Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây. Tư Mã
Tương Như bị bệnh “tiêu khát” (đái đường) từ quan ở nơi
đây. Ở đây cũng có chuyện Tương Như mê một cô gái
Mậu Lăng định lấy nhưng do Trác Văn Quân (ở Lâm
Cùng, Tứ Xuyên) gửi thư rất tha thiết nên thôi.
21. LÝ ƯỚC
241
LÝ ƯỚC
Thời Tống.
QUAN KỲ VŨ
Tang điều vô diệp thổ sinh yên,
Tiêu quản nghênh long thủy miếu tiền.
Chu môn kỷ xứ khan ca vũ,
Do khủng xuân âm yết quản huyền.
XEM LỄ CẦU MƯA
Dâu cành không lá, khói đồng loang,
Trước miếu Long vương rộn sáo đàn.
Mấy chốn lầu son vui hát múa,
Sợ trời xuân mát át ca vang.
■
22. 242
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MẠNH ĐẠI VŨ
XUÂN NHẬT VÃN VỌNG
Ốc giốc phong vi yên vụ phi,
Liễu ty vô lực hạnh hoa phì.
Mông lung sổ điểm tà dương lý
Ưng thị ni nam yến tử quy.
CHIỀU XUÂN NGẮM CẢNH
Bên trái gió bay mù khói tỏa
Hạnh hoa rộ nở liễu lê thê
Chập chờn vài điểm trong chiều nắng
Chắc hẳn liu lo cánh én về.
■
MẠNH ĐẠI VŨ
23. LÝ ƯỚC
243
MẠNH HẠO NHIÊN
Quê Tương Dương, Tương Châu, tên chữ là Hạo
Nhiên, tuổi trẻ không đỗ đạt, sau một thời gian đi chơi
các miền về ở ẩn tại núi Lộc Môn quê nhà. Khi 40 tuổi,
tới kinh đô chơi với các danh sĩ như Vương Duy nhưng
không được dự hàng quan chức. Sau đó khi Trương Cửu
Linh bị đầy đi làm Trưởng sư Kinh Châu đã mời Mạnh
làm việc nhưng không bao lâu ông lại từ chức, đi chơi
Giang Nam ồi về quê. Được Vương Xương Linh đích
thân mở tiệc mời. Sau bị bệnh nặng rồi mất.
TỐNG ĐỖ THẬP TỨ∗
CHI GIANG NAM
Kinh ∗
Ngô∗
tương tiếp thủy vi hương
Quân khứ xuân giang chính diểu mang
Nhật mộ cô chu hà xứ bạc
Thiên nhai nhất vọng đoạn nhân trường.
TIỄN ANH ĐỖ ĐI GIANG NAM
Kinh Ngô liên tiếp nước mênh mang
Đưa tiễn sông xuân sóng bạt ngàn
Ngày xế thuyền trơ đâu chốn trọ
Chân trời một ngó nát can tràng.
■
∗
Đỗ thập tứ: Có sách đề “Tiễn Tiến sĩ Đỗ Hoảng đi
Đông Ngô” (tức một giải Tô Châu).
∗
Kinh: Ngày xưa là đất nước Sở, nay là tỉnh Hồ Bắc.
∗
Ngô: nay là Giang Tô.
MẠNH HẠO NHIÊN
24. 244
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MỤC ĐỒNG
ĐÁP CHUNG NHƯỢC ÔNG∗
Thảo phô hoành dã lục thất lý,
Địch lộng vãn phong tam tứ thanh
Qui lai bão phạn hoàng hôn hậu
Bất thoát soa y ngọa nguyệt minh.
TRẢ LỜI ÔNG CHUNG NHƯỢC
Cỏ lan đồng nội sáu bảy dặm
Sáo chiều rộn gió một vài thanh
Về nhà cơm no nha nhem tối
Để cả tơi nằm khểnh trăng thanh.
■
∗
Chung nhược ông: Chỉ là học trò, không đỗ đạt gì,
nhưng được cất nhắc làm quan cao, sau bị biếm.
MỤC ĐỒNG
25. LÝ ƯỚC
245
NGHIÊM VŨ
(726 – 765)
Quê Hoa Âm, Hoa Châu (Thiểm Tây), tên tự là Quý Ưng, tính
tình hào sảng. Khi 8 tuổi, cha yêu người thiếp hơn mẹ, ông tức
giận nhân khi đêm lấy chầy sắt đập vỡ đầu người thiếp của
cha. Ông làm Tham quân phủ Thái Nguyên, rồi tiến lên Điện
trung Thị Ngự sử. Khi An Lộc Sơn làm phản, ông theo Đường
Huyền Tông vào Thục, được thăng chức Gián nghị Đại phu.
Sau đó làm Cấp sự trung, thiếu doãn Kinh – Triệu, rồi Tiết độ
sứ Kiến Nam (tỉnh Tứ Xuyên). Sau về kinh làm Kinh Triệu
Doãn. Ước mơ làm Tê tướng không được, ông lại nhận chức
Tiết độ sứ Kiến Nam, phá tan đại quân Thổ Phồn. Ông thường
không làm theo ý cấp trên, đối với thuộc hạ hay hà khắc. Khi
Đỗ Phủ lưu lạc ở Tứ Xuyên được ông giúp đỡ.
QUÂN THÀNH TẢO THU∗
Tạc dạ thu phong nhập Hán quan
Sóc vân biên nguyệt mãn Tây san
Cánh thôi Phi tướng truy kiêu lỗ
Mạc khiển sa trường thất mã hoàn.
THU SỚM TRÊN THÀNH QUÂN
Ải Hán đêm thu dậy gió ngàn
Non tây may bắc ải trăng tràn
Càng xui Phi tướng dồn quân giặc
Quyết chiến không cho chúng vẹn toàn.
■
∗
Thơ làm khi giữ chức Tiết độ sứ Kiến Nam, đại phá quân
Thổ Phồn.
NGHIÊM VŨ
26. 246
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGÔ DUNG
TRIỀU
Mộ khứ triêu lai vô định kỳ,
Tang điền trường bị thử thanh di.
Bồng lai∗
nhược thám nhân gian sự,
Nhất nhật hoàn ưng lưỡng độ tri.
NƯỚC TRIỀU
Sáng dẫy chiều lên cha định kỳ,
Ruộng dâu tiếng sóng vỗ tư bề
Bồng lai nếu muốn hay trần thế,
Một buổi hai phen tới lại về.
■
∗
- Bồng lai: Nơi tiên ở.
NGÔ DUNG
27. LÝ ƯỚC
247
NGÔ DUY TÍN
TÔ ĐÊ THANH MINH TỨC SỰ
Lê hoa phong khởi chính thanh minh,
Du tử tầm xuân bán xuất thành.
Nhật mộ sinh ca thu thập khứ,
Vạn chu dương liễu thuộc lưu oanh.
THANH MINH Ở ĐÊ TÔ∗
Hoa lê nổi gió đúng thanh minh
Du khách tìm hoa lối ngọi thành
Chiều tối sênh ca im ắng hết
Muôn cây dương liễu rộn lời oanh.
■
∗
- Đê Tô: Con đê do Tô Đông Pha khởi công ở Tây Hồ,
thời Tống.
NGÔ DUY TÍN
28. 248
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGÔ ĐÀO
TUYỆT CÚ
Du tử xuân sam dĩ thí đơn,
Đào hoa phi tận dã mai toan.
Quái lai nhất dạ oa thanh yết,
Hựu tác đông phong thập nhật hàn.
THƠ 4 CÂU
Du khách mới vừa thay áo đơn
Hoa đào bay hết, mận chua lòm
Một đêm tiếng ếch không kêu nữa
Lại gió đông qua chục buổi hàn.
■
NGÔ ĐÀO
29. LÝ ƯỚC
249
NGÔ TU LƯƠNG
HOÀNH KHÊ ĐƯỜNG XUÂN HIẾU
Nhất bả thanh ương sấn thủ thanh,
Khinh yên mạc mạc vũ minh minh.
Đông phong nhiễm tận tam thiên khoảnh,
Bạch lộ phi lai vô xứ đình.
SÁNG XUÂN Ở HOÀNH KHÊ
Màu mạ xanh theo tay cấy xanh
Mưa bay nhè nhẹ khói mong manh
Gió đông nhuộm thắm ba ngàn mẫu
Cò trắng bay về chỉ lượn quanh.
■
NGÔ TU LƯƠNG
30. 250
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NGÔ TƯỢNG CHI
THIẾU NIÊN HÀNH
Thừa ân tá liệp Tiểu Bình Tân∗
Sử khí thường du trung quý nhân∗
Nhất trịch thiên kim hồn thị đảm
Gia vô tứ bích bất tri bần.
THỜI TRAI TRẺ
Cùng vui săn bắn Tiểu Bình Tân
Khảng khái thường quen các quý nhân
Một ném ngàn vàng∗
chi xá kể
Nhà trơ bốn vách chẳng hay bần.
■
∗
- Tiểu Bình Tân: Tên một bến đò sông Hoàng, phía bắc
Mạnh Tân, tỉnh Hà Nam
∗
- Quý nhân: Chỉ lớp người hầu cận nhà vua
∗
- Ném ngàn vàng: Ở đây là chơi bạc.
NGÔ TƯỢNG CHI
31. NGUYÊN CHẨN
251
NGUYÊN CHẨN
(779-831)
Quê ở Lạc Dương (Hà Nam), tên tự là Vi Chi, đỗ Tiến sĩ
năm 806, được giữ chức Tả thập di, nhưng ông luôn luôn
dâng thơ lên vua, nên bị bọn quyền thần ghét và phải
biếm đi làm chức Úy ở Hà Nam. Sau đó được làm Giám
sát Ngự sử. Rồi lại vì chuyện va chạm nên bị đầy đi làm
sĩ tào tham quân ở Giang Lăng (Hồ Bắc). Khoảng năm
820, được triệu về kinh làm chức Thiện bộ Viên ngoại
lang (trông coi việc yến tiệc thuộc bộ Lễ). Sau đấy từ
chức Trung thu Xá nhân, thăng làm Đồng trung thư môn
hạ Bình Chương sự (Tể tướng), nhưng chả được bao lâu
lại bị bãi miễn, chuyển làm Tiết độ sứ Vũ Xương (Hồ
Bắc), rồi mất ở đó. Nguyên là bạn thân của Bạch Cư Dị,
nên đời có câu “Nguyên Bạch” để ca tụng.
VĂN LẠC THIÊN∗
THỤ GIANG CHÂU TƯ MÃ
∗
Lạc Thiên: Tức Bạch Cư Dị. Năm 815 trong triều xảy
ra chuyện Tể tướng bị ám sát vì các thế lực quan lại tranh
giành quyền hành. Bạch Cư Dị phấn khích dâng thư lên
nhà vua, nên bị chúng ghét đầy đi làm Tư Mã Giang
Châu. Năm năm trước Nguyên Chẩn cũng vì hoạn quan
ghen ghét phải biếm đi Giang Lăng (Hồ Bắc), và đang ở
đó thì nghe tin Bạch bị biếm, đầu đề có sách in : « Nghe
tin Bạch Lạc Thiên bị giáng chức làm Tư Mã Giang
Châu ». Khi Bạch tới Giang Châu, có viết thư gửi
Nguyên Chẩn, đầu đề là « Thư gửi anh Chín Nguyên ».
32. 252
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Tàn đăng vô diệm ảnh đồng đồng
Thử tịch văn quân trích Cửu giang
Thùy tử bệnh trung kinh tọa khởi∗
Ám phong xuy vũ nhập hàn song.
NGHE TIN BẠCH LẠC THIÊN PHẢI GIÁNG
LÀM TƯ MÃ GIANG CHÂU (1)
Chập chờn le lói ánh đèn tàn
Vừa tối nghe anh biếm Cửu Giang
Đang ốm hãi hùng ngồi nhỏm dậy
Gió lùa mưa hắt lạnh song ngang.
NGHE TIN BẠCH LẠC THIÊN PHẢI GIÁNG
LÀM TƯ MÃ Ở GIANG CHÂU (2)
Mờ mờ bóng nhạt ngọn đèn tàn,
Tối chợt nghe người biếm Cửu Giang.
Giữa bệnh kinh hoàng ngồi nhỏm dậy
Ngang song lạnh lẽo gió mưa tràn.
■
∗
- Kinh tọa khởi : Có sách in “Nhưng trướng vọng” =
vẫn buồn nhìn.
33. NGUYÊN CHẨN
253
NHẠC PHI
Thời Tống.
TRÌ CHÂU THÚY VI ĐÌNH
Kinh niên trần thổ mãn chinh y,
Đặc đặc tầm phương thướng Thúy Vi.
Hảo thủy hảo sơn khan bất túc,
Mã đề thôi sấn nguyệt minh quy.
ĐÌNH THÚY VI Ở CHÂU TRÌ
Bao năm cát bụi phủ chinh y
Nay chợt thảm hoa đình Thúy Vi
Nước biếc non xanh xem chả đủ
Bon bon vó ngựa sáng trăng về.
■
NHẠC PHI
34. 254
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ÔN ĐÌNH QUÂN
Còn có tên là Kỳ Tự là Phi Khanh. Quê ở châu Tinh. Cùng nổi
tiếng với Lý Thương Ẩn – Người đời gọi là « Ôn Lý ». Thời
Đường.
DAO SẮT∗
OÁN
Băng đạm ngân sàng mộng bất thành,
Bích thiên như thủy dạ vân khinh.
Nhạn thanh viễn quá Tiêu Tương khứ,
Thập nhị lâu trung nguyệt tự minh.
NỖI OÁN THAN CỦA CÂY ĐÀN
Giường êm chiếu trúc mộng không thành,
Nước biếc da trời mây tối thênh.
Tiếng nhạn Tiêu Tương nghe đã vắng,
Mười hai lầu∗
gác thảy trăng thanh.
■
∗
- Dao sắt: Một loại đàn 25 giây.
∗
- Mười hai lầu: Vua Hoàng đế có 12 lầu để cầu tiên.
ÔN ĐÌNH QUÂN
35. NGUYÊN CHẨN
255
TẶNG THIẾU NIÊN
Giang hải tương phùng khách hận đa,
Thu phong diệp hạ Động Đình ba.
Tửu hàm dạ biệt Hoài Âm thị,
Nguyệt chiếu cao lâu, nhất khúc ca.
TẶNG TUỔI TRẺ
Sông biển quen nhau khách nhiều hận
Động Đình sóng lộng lá thu xa,
Rượu say đêm biệt Hoài Âm trấn
Trăng sáng lầu cao một khúc ca.
■
36. 256
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ÔNG QUYỂN
Thời Tống.
HƯƠNG THÔN TỨ NGUYỆT
Lục biến sơn nguyên bạch mãn xuyên
Tử quy thanh lý vũ như yên
Hương thôn tứ nguyệt nhàn nhân thiểu
Tài liễu tàn tang hựu sáp điền.
LÀNG XÓM THÁNG TƯ
Xanh khắp non ngàn trắng khắp sông
Nghe trong tiếng cuốc bụi mưa rung
Tháng tư làng xóm ít người rỗi
Xong lứa tằm tơ lại xuống đồng.
■
ÔNG QUYỀN
37. PHẠM THÀNH ĐẠI
257
PHẠM THÀNH ĐẠI
Quê ở Tô Châu (Giang Tô). Biệt hiệu là Vân Hồ cư sĩ. Từng
làm Hữu Thừa tướng, sau bị bãi quan, ở ẩn. Ông là nhà thơ nổi
tiếng thời Tống.
ĐIỀN GIA
Trú xuất vân điền dạ tích ma
Thôn trang nhi nữ các đương gia
Đồng tôn vị giải cung canh chức
Dã bạng tang âm học chủng qua.
NHÀ NÔNG
Sáng đi bừa ruộng tối đay tơ
Trai gái trong thôn đảm việc nhà
Lũ trẻ chưa hay cày với dệt
Bên bờ dâu mát học trồng dưa.
■
38. 258
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀNH ĐƯỜNG
Nam phố xuân lai lục nhất xuyên,
Thạch kiều chu tháp lưỡng y nhiên.
Niên niên tống khách Hoành Đường lộ,
Tế vũ thùy dương hệ họa thuyền.
ĐÊ NGANG
Nam phố xuân về sông dải biếc
Tháp son cầu đá vẫn y nguyên.
Năm năm tiễn khách đê ngang ấy
Mưa nhỏ bờ dương buộc mạn thuyền.
■
39. PHẠM THÀNH ĐẠI
259
TỨ THÌ ĐIỀN VIÊN TẠP HỨNG ( I )
Mai tử kim hoàng, hạnh tử phì,
Mạch hoa tuyết bạch, thái hoa hy.
Nhật trường ly lạc vô nhân quá,
Duy hữu thinh đình giáp điệp phi.
VƯỜN RUỘNG BỐN MÙA ( I )
Vàng đậm chùa mơ, hồng thắm mận
Cải hoa thưa thớt, lúa hoa dầy
Ngày dài ngõ vẳng không ai tới
Chỉ có con chuồn cái bướm bay.
■
40. 260
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỨ THÌ ĐIỀN VIÊN TẠP HỨNG (NHỊ)
Hồ điệp song song nhập thái hoa,
Nhật trường vô khách đáo điền gia.
Kê phi quá ly khuyển phệ đậu,
Tri hữu hành thương lai mãi trà.
VƯỜN RUỘNG BỐN MÙA (2)
Bươm bướm bay đôi lẫn luống hoa
Ngày dài không khách tới thăm nhà
Gà bay qua dậu chó sủa bóng
Biết có phường buôn tới bán trà.
■
41. PHẠM THÀNH ĐẠI
261
VỊNH BA TIÊU
Cốt tướng linh lung thấu bát song,
Hoa đầu đảo tháp tử hà hương.
Nhiễu thân vô sổ thanh la phiến,
Phong bất lai thờ dã tự lương.
VỊNH CÂY CHUỐI
Cây lá lung linh rợp bốn bên
Đầu hoa đảo ngược tỏa hương sen
Quanh mình quạt lụa xanh vô số
Khi gió không qua tự mát liền.
■
42. 262
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
PHỔ ĐỘ THIỀN SƯ
Thời Tống.
MẶC MAI THI
Thường ức Tây Hồ xử sĩ gia,
Sơ chi lãnh nhị tự hoành tà.
Tinh minh nhất phiến đương thì sự,
Chỉ khiếm thanh hương bất khiếm hoa.
CÂY MAI TRONG TRANH
Từng nhớ hồ Tây nhà ẩn sĩ
Cành thưa nhị lạnh tự ngang ròa
Rõ ràng một bức tranh sinh động
Chỉ thiếu mùi hương chả thiếu hoa.
■
PHỔ ĐỘ THIỀN SƯ
43. PHỔ ĐỘ THIỀN SƯ
263
SÁI HY TỊCH
Quê Khúc A (Đan Dương, tỉnh Giang Tô). Có sách này
nói ông người Tế Nam, làm chức Úy ở Vị Nam.
LẠC DƯƠNG KHÁCH XÁ
PHÙNG TỔ VỊNH LƯU YẾN
Miên miên chung lậu∗
Lạc Dương thành
Khách xá bần cư tuyệt tống nghinh
Phùng quân thạ tửu nhân thành túy
Túy hậu yên tri thế thượng tình.
QUÁN KHÁCH LẠC DƯƠNG
GẶP TỔ VỊNH CHO UỐNG RƯỢU
Dằng dặc canh khuya giữa Lạc Thành
Nghèo suông quán khách một thân mình
Gặp anh mua chịu men cho uống
Say khướt hay chi mọi thế tình.
■
∗
- Chung lậu: Có thể hiểu là “cánh già”.
∗
- Miên miên chung lậu: Lần lữa (nấn ná) già nua.
SÀI HY TỊCH
44. 264
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SẦM THAM
Người Giang Lăng, châu Kinh (có sách nói người Nam
Dương). Năm 744 đỗ Tiến sĩ, làm việc ở dinh quan Tiết
độ sứ An Tây, Hà Tây. Nhiều năm ở nơi biên ải. Khi An
Lộc Sơn nổi loạn, theo đạo quân của Túc Tông ở
Phượng Tường. Được Đỗ Phủ tiến cử, làm chức Hữu Bổ
khuyết, sau đó làm Thứ sử châu Quắc (Hà Nam), rồi Xử
bộ lang trung, Thứ sử châu Gia (Tứ Xuyên). Từ chức về
kinh, dọc đường mất ở quán trọ Thành Đô.
MỤC TÚC PHONG KÝ GIA HÂN
Mục Túc phong biên phùng lập xuân
Hồ Lô∗
hà thượng lệ chiêm cân
Khuê trung chỉ thị không tương ức
Bất kiến sa trường sầu sái nhân.
Ở NÚI MỤC TÚC∗
GỬI QUÊ NHÀ
Mục túc đài bên gặp tiết xuân
Hồ Lô sông nước lệ dằm khăn
Phòng khuê chỉ những suông mong nhớ
Không thấy sa trường sầu não thân./.
∗
Núi Mục Túc: Phía tây ngoài ải Ngọc Môn, toàn sa mạc có
bố trí những đài đốt lửa.
∗
Hồ Lô: Tên sông, không rõ vị trí cụ thể. Ở tỉnh Liêu Ninh có
Hồ Lô đảo.
45. SẦM THAM
265
NGỌC QUAN KÝ TRƯỜNG AN LÝ CHỦ BẠ
Đông khứ Trường An vạn lý dư
Cố nhân na tích nhất hàng thư
Ngọc quan∗
tây vọng trường kham đoạn
Huống phục minh triêu thị tuế trừ.
TỪ NGỌC QUAN GỬI CHỦ BẠ HỌ LÝ Ở
TRƯỜNG AN
Trường An nơi ấy xa ngàn dặm
Sao cố nhân còn tiếc cánh thư
Tây ngó Ngọc Quan thường đứt ruột
Mà đêm mai nữa lại giao thừa.
■
∗
Ngọc quan: Tức Ngọc Môn Quan.
46. 266
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
PHÓ BẮC ĐÌNH∗
ĐỘ LŨNG TƯ GIA
Tây hướng Luân Đài∗
vạn lý dư
Dã tri hương tín nhật ưng sơ
Lũng Sơn∗
anh vũ năng ngôn ngữ
Vị báo gia nhân sổ ký thư.
ĐI BẮC ĐÌNH QUA LŨNG NHỚ NHÀ
Tây tớ Luân Đài vạn dăm thừa
Tin quê cũng biết sẽ càng thưa
Lũng Sơn yểng vẹt từng hay nói
Nhắn giúp quê nhà luôn gửi thư.
■
∗
Bắc Đình: Tên phủ Đô Hộ, gần Phú Viễn, nay thuộc
tỉnh Tân Cương. Năm 754 (niên hiệu Thiên Bảo 13) Sầm
làm việc ở đây.
∗
Lũng Sơn: Tên một dãy núi có cửa ải, trên đường từ
Trường An ra biên giới Tây Bắc.
∗
Luân Đài: Tên huyện ở phía tây phủ Đô Hộ Bắc Đình.
47. SẦM THAM
267
PHÙNG NHẬP KINH SỨ
Cố viên đông vọng lộ man man
Song tụ long chung lệ bất can
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút
Bằng quân truyền ngữ báo bình an.
GẶP SỨ VÀO KINH
Vườn xưa đông ngó lối mênh mang
Tay áo đung đưa lệ mãi dàn
Trên ngựa gặp nhau không bút giấy
Nhờ anh nói giúp vẫn bình an.
■
48. 268
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
SƠN PHÒNG XUÂN SỰ
Lương viên nhật mộ loạn phi nha
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.
MÙA XUÂN AM CŨ
Vườn Lương∗
quạ lượn loạn chiều tà
Hút mắt đìu hiu mấy nóc nhà
Cây ngõ chẳng hay người vắng hết
Xuân về lại nở cánh hoa xưa.
■
∗
Vườn Lương: Nơi dinh thự và vườn hoa cũ của Lương
Hiếu Vương.
49. SẦM THAM
269
TÍCH TRUNG TÁC
Tẩu mã tây lai dục đáo thiên
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên
Kim dạ bất tri hà xứ túc
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.
VIẾT TRÊN ĐỤN CÁT CUỘI
Ngựa duổi về tây muốn tới trời
Xa nhà trăng sáng hai phen rồi
Đêm nay chẳng biết nơi nào trọ
Cồn cát ngàn muôn chẳng bóng người.
■
50. 270
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỐNG NHÂN HOÀN KINH
Thất mã tây tòng thiên ngoại quy
Dương tiên chỉ cộng điểu tranh phi
Tống quân cửu nguyệt Giao hà bắc
Tuyết lý đề thi lệ mãn y.
TIỄN NGƯỜI VỀ KINH
Ngựa lẻ từ tây ngoài cõi về
Vung roi bay với cánh chim kia
Tiễn anh tháng chín bờ Giao∗
bắc
Giữa tuyết đề thơ vạt lệ đìa.
■
∗
Sông Giao: Tên sông ở Thổ Lỗ Phồn, tỉnh Tân Cương.
51. SẦM THAM
271
TỬU TUYỀN THÁI THÚ TỊCH THƯỢNG TÚY
HẬU TÁC
Tửu Tuyền∗
Thái thú năng kiếm vũ
Cao đường trí tửu dạ kích cổ
Hồ già nhất khúc đoạn nhân trường
Tọa khách tương khan lệ như vũ.
VIẾT THƠ SAU KHI RƯỢU SAY NGAY
TRÊN TIỆC NHÀ THÁI THÚ TỬU TUYỀN
Thái thú Tửu Tuyền gươm giỏi múa
Nhà cao mở tiệc đêm trống gõ
Khèn Hồ một khúc nghe não lòng
Nhìn nhau lệ khách như mưa đổ.
■
∗
- Tửu Tuyền : Địa danh ở tây bắc tỉnh Cam Túc.
52. 272
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN MỘNG
Động phòng tạc dạ xuân phong khởi,
Dao ức mỹ nhân Tương Giang thủy.
Chẩm thượng phiến thời xuân mộng trung,
Hành tận Giang Nam sổ thiên lý.
GIẤC MƠ XUÂN
Tối trước phòng khuê gió xuân nổi
Nhớ xa người đẹp bến sông Tương.
Mơ xuân có lúc về bên gối,
Đi hết Giang Nam vạn dặm đường.
■
53. TẠ PHƯƠNG ĐẮC
273
TẠ PHƯƠNG ĐẮC
(1226 - 1289)
Quê ở Qua Dương (Giang tây). Tự là Quán Trực – hiệu là
Diệp Sơn, từng làm quan thời Nam Tống. Khi Nam Tống
bị diệt, ông đổi họ tên và đi ở ẩn - nhà Nguyên nhiều lần
mời ông làm quan nhưng ông đều từ chối.
KHÁNH TOÀN AM HOA ĐÀO
Tầm đắc Đào Nguyên hảo tỵ Tần
Đào hồng hựu thị nhất niên xuân
Hoa phi mạc khiển tùy lưu thủy,
Phạ hữu ngư lang lai vấn tân.
MỪNG HOA ĐÀO AM TOÀN
Tìm được Đào Nguyên∗
để tránh Tần
Hồng đào giờ lại một năm xuân
Hoa bay đừng để theo dòng nước
E có chàng ngư∗
đến hỏi thăm./.
∗
Đào Nguyên: Tên một động núi ở Hồ Nam – Đào Tiềm đã
viết bài ký Đào Nguyên, kể chuyện hai người thuyền chài là
Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc vào đây, gặp gỡ dân cư vùng này,
vốn là người tránh loạn lạc đời Tần truyền lại. Sau khi về, trở
lại không thấy nữa. Người đời cho là gặp Tiên. Cũng gọi “đầm
Đào hoa”. Đường nhầm với đầm Đào hoa mà Lý Bạch viết thơ
tặng Uông Luân.
54. 274
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÀM PHỤ NGÂM
Tử quy đề triệt tứ canh thời
Khởi thị tàm điều phạ diệp hi
Bất tín lâu đầu dương liễu nguyệt
Ngọc nhân ca vũ vị tằng qui.
NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂN TẰM
Tử quy∗
khắc khoải bốn canh khuya
Dậy ngó dâu tằm sợ ít đi,
Đâu biết lầu cao trăng liễu sáng,
Đàn ca người ngọc vẫn chưa về!
■
∗
Chàng ngư: người đánh cá, ông chài.
∗
Tử quy: Tức chim đỗ quyên, kêu đêm, tương truyền kêu đến
lúc miệng ứa ra máu.
55. TẠ CAO
275
TẠ CAO
QUÁ HÀNG CHÂU CỐ CUNG
Hòa thử hà nhân vi thủ hôn,
Lạc hoa đài điện ám tiêu hồn.
Triều Nguyên các hạ quy lai yến,
Bất kiến tiền đầu anh vũ ngôn.
QUA CUNG CŨ Ở CHÂU HÀNG
Ngô lúa nhà ai xanh giữa cưa
Hoa rơi cung điện ngẩn ngơ hồn
Triều Nguyên dưới gác đi về én
Tiếng vẹt năm nao cũng chẳng còn.
■
56. 276
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÀO BÌNH
Quê Ôn Châu (Chiết Giang). Tự là Tây sĩ, hiệu là Đông
Xuyên. Người thời Tống.
XUÂN MỘ
Môn ngoại vô nhân vấn lạc hoa
Lục âm nhiễm nhiễm biến thiên nha
Lâm oanh đề đáo vô thanh xứ
Thanh thảo trì đường độc thính oa.
CHIỀU XUÂN
Ngoài cửa hoa rơi không kẻ hỏi
Chân trời tít tắp dải màu xanh
Oanh rừng hót thấu nơi im phắc
Cỏ rậm bờ ao ếch ộp mình.
■
TÀO BÌNH
57. TẠ CAO
277
TÀO NGHIỆP
QUAN THƯƠNG THỬ
Quan thương lão thử đại như đẩu,
Kiến nhân khai thương diệc bất tẩu.
Kiện nhi vô lương, bách tính cơ,
Thùy khiển triêu triêu nhập quân khẩu.
CHUỘT KHO CÔNG
Kho chung đàn chuột to hiếm thấy,
Thấy người mở kho cũng không chạy.
Trăm họ thiếu đói, lính không lương,
Sớm tối ai đưa vào miệng ấy?.
■
TÀO NGHIỆP
58. 278
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TĂNG KỶ
(1084 – 1166)
Quê ở Giang Tây. Tự là Cát Phủ, hiệu là Trà Sơn. Là
thầy học của Lục Du (Tống).
TAM CÙ ĐẠO TRUNG
Mai tử hoàng thời nhật nhật tình,
Tiểu khê phiếm tận khước sơn hành.
Lục âm bất giảm lai thời lộ,
Thiêm đắc hoàng ly tứ ngũ thanh.
DỌC ĐƯỜNG ĐI TAM CÙ
Khi mơ vàng chín trời khô tạnh
Khe lạnh qua rồi leo nú xanh
Màu thắm vẫn như đường mới tới
Lại thêm dăm bảy tiếng vàng oanh.
■
TĂNG KỲ
59. TẠ CAO
279
TÂN KHÍ TẬT
TỐNG KIẾM DỮ PHÓ NHAM TẨU
Mạc Da tam xích chiếu nhân hàn,
Thí dữ khiêu đăng tử tế khan.
Thả quải không trai tác cầm bạn,
Vị tu huề khứ trảm Lâu Lan.
TẶNG GƯƠM CỤ PHÓ NHAM
Mạc Da∗
ba thước ánh gươm hàn
Khêu ngọn đèn to ngắm kỹ càng
Viện vắng bên đàn treo có bạn
Chưa cần dùng để chém Lâu Lan∗
.
■
∗
Mạc Da: tên thanh gươm quý
∗
Lâu Lan: Một bộ tộc ở Trung Quốc xưa.
TÂN KHÍ TẬT
60. 280
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẦN QUÁN
XUÂN NHẬT
Nhất tịch khinh lôi lạc vạn ty,
Tễ quang phù ngõa bích sâm si.
Hữu tình thược dược hàm xuân lệ,
Vô lực tường vi ngọa hiểu chi.
NGÀY XUÂN
Sấm tối ù vang tơ rụng sạch
Mây quang ngói biếc mái so le
Đa tình thược dược xuân đằm lệ
Ẻo lả nghiêng mình một nhánh Vi.
■
TẦN QUÁN
61. TẠ CAO
281
THÁI XÁC
Quê Tân Giang (Phúc Kiến). Tự là Từ Chinh, làm Tể
tướng thời Tống Thần Tông. Ủng hộ Tân pháp của
Vương An Thạch. Sau bị biếm
THỦY ĐÌNH∗
Chỉ bình thạch chẩm, trúc phương sàng,
Thủ quyện phao thư ngọ mộng tràng
Thụy khởi hoãn nhiên thành độc tiếu
Sổ thanh ngư địch tại Thương Lang∗
.
ĐÌNH BÊN SÔNG
Bình phong, gối đá, trúc kên giường
Buông sách trưa hè giấc mộng vương
Tỉnh dậy, một mình cười mỉm miệng
Sáo chài vài tiếng vọng Thương Lang.
■
∗
Bài này còn có tên “Hạ nhật đăng Xa Cái đình” – ngày hè lên
chơi đình Xa Cái.
∗
Thương Lang: Tên sông ở Hồ Bắc – dân gian Trung Quốc
xưa có câu: “Nước sông Thương Lang trong chừ, ta có thể giặt
giải mũ – Nước sông Thương Lang đục chừ, ta có thể rửa đôi
chân”. Ý nói về sự linh hoạt ở đời.
THÁI XÁC
62. 282
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THẠCH NHU
TUYỆT CÚ
Lai thời vạn lũ lộng khinh hoàng,
Khứ nhật phi cầu mãn lộ bàng.
Ngã tỷ dương hoa cánh phiêu đãng,
Dương hoa chỉ thị nhất xuân mang.
THƠ 4 CÂU
Muôn tơ khi tới sắc hoe vàng
Tới lúc bay đi hạt khắp đường
Nênh nổi hoa dương sao sánh được
Vì hoa chỉ vội lúc xuân sang.
■
THẠCH NHU
63. TẠ CAO
283
THẨM THUYÊN KỲ
Quê Châu tương (An Dương, Hà Nam). Tên tự là Vân
Khanh, đỗ Tiến sĩ năm 675, làm chức Khảo Công Lang,
mắc tội ăn hối lộ bị bỏ ngục. Khi kẻ bao che là Trương
Dịch Chi bị giết, Thẩm bị đày sang châu Hoan (Việt
Nam). Sau đó được gọi về nước làm chức Trực học sĩ
quán Tu Văn, rồi Trung thư lệnh Xá nhân, Thái tử thiếu
thiêm sự. cùng nổi tiếng với Tống Chi Vấn. Đời gọi là
“Thẩm Tống”.
MANG SƠN
Bắc mang sơn thượng liệt phần doanh
Vạn cổ thiên thu đối Lạc Thành
Thành trung nhật tịch ca chung khởi
Sơn thượng duy văn tùng bách thanh.
NÚI MANG
Bắc Mang∗
núi ấy mộ rải khắp
Ngàn vạn năm qua cạnh Thành Lạc
Chiều xế trong thành đàn hát vang
Trên non chỉ thấy tiếng thông trắc.
■
∗
- Bắc Mang: tên một núi ở Lạc Dương.
THẨM THUYÊN KỲ
64. 284
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÍCH HẠO NHIÊN
Quê ở Ngô Hưng (tỉnh Giang Tô). Vốn họ Tạ, tự là
Thanh Trú, dòng dõi nhà thơ Tạ Linh Vận thời Lục triều,
đi tu ở chùa Trữ Sơn. Năm đầu Trinh Nguyên, được cử
làm việc tập hợp thơ văn của các vị cao tăng (khoảng 10
cuốn). Sau đó về trụ trì ở chùa Tây Lâm núi Lư. Còn lại
mấy tập thơ: Thi thức, Trú thượng nhân tập,… Theo một
tài liệu: Thời Nguy – Tấn, lúc đầu những người tu phật
thường lấy tên của Sư tổ làm họ. Từ nhà sư thời Tấn là
Ngụy Đạo An bắt đầu lấy chữ “Thích” (do Thích Ca là
Phật tổ) làm họ. Từ đó thành nếp.
TÁI HẠ KHÚC
Hàn tái vô nhân kiến Lạc Mai
Hồ phong xuy nhập địch thanh lai
Lao Lao đình thượng xuân ưng độ
Dạ dạ∗
thành nam chiến vị hồi.
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI
Ải lạnh “Mơ rơi”∗
bỗng chợt nghe
Khèn Hồ theo gió tiếng vu vi
Lao Lao∗
đình ấy xuân đang tới
Tối tối thành nam lính chửa về./.
∗
Dạ dạ (đêm đêm): Còn là tên thành.
∗
Mơ rơi: Tên một khúc hát.
∗
Lao Lao: Tên một đình ở Giang Minh (tỉnh Giang Tô) nơi
người đi tiễn nhau ở Kim Lăng (Nam Kinh)
THÍCH HẠO NHIÊN
65. THÍCH LINH NHẤT
285
THÍCH LINH NHẤT
Vốn họ Ngô, quê ở Diệm Trung (tỉnh Chiết Giang), có
sách nói Quảng Lăng, Giang Đô, tỉnh Giang Tây. Chín
tuổi đi tu, sau đó trụ trì ở chùa Vân Môn, khe Nhược Da (
Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) có nhiều. Tính ông thích
núi sông, thường đi thăm các núi, các chùa ở Chiết Đông
và Chiết Tây. Chơi thân với Chu Phóng. Có tập thơ
“Linh Nhất”.
TĂNG VIỆN∗
Hổ Khê∗
nhà nguyệt dẫn tương qua
Đới tuyết tùng chi quải tiết la∗
Vô hạn thanh sơn hành dục tận
Bạch vân thâm xứ lão tăng đa.
►
∗
Đầu đề có sách in “Đề nhà chùa”.
∗
Hổ Khê: Tên sông, gần chùa Đông Lâm núi Lư (tỉnh
Giang Tây). Đời Tấn có nhà sư giỏi tên là Tuệ Viễn tu ở
chùa này. Khách tới thăm, nhà thơ chỉ tiễn tới bờ sông,
nhưng khi Đào Uyên Minh và Lục Tĩnh Tu tới thăm thì
sư Tuệ Viễn tiễn sang sông Hổ Khê. Ba người nhìn cả
nhau cười, do đó có điển tích “Ba người cười bên sông
Hổ Khê”.
∗
Tiết la: Tên một loài cây leo.
THÍCH LINH NHẤT
66. 286
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
NHÀ CHÙA
Hổ Khê trăng lặng tiễn nhau qua
Tuyết đọng cành thông trĩu tiết la
Dằng dặc non xanh đi muốn hết
Nơi sâu mây trắng lắm sư già.
■
67. THÍCH LINH NHẤT
287
THIÊN BẢO CUNG NHÂN
HỰU ĐỀ LẠC UYỂN NGÔ DIỆP THƯỢNG
Nhất diệp đề thi xuất cấm thành,
Thùy nhân thù họa độc hàm tình.
Tự ta bất cập ba trung diệp,
Đãng dạng thừa xuân thủ tiện hành.
LẠI ĐỀ THƠ LÁ NGÔ ĐỒNG TRONG
VƯỜN LẠC DƯƠNG
Một lá thơ đề vượt cấm thành,
Ai người họa nhỉ kết chung tình.
Tự than kém lá trong làn sóng,
Nênh nổi theo xuân thỏa viễn hành.
■
THIÊN BẢO CUNG NHÂN
68. 288
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÔI HỘ
Tên tự là Âm Công, người Bắc Lăng (Hà Nam), rất đẹp
trai, đỗ Tiến sĩ thời Đường Trinh Nguyên, từng làm Tiết
độ sứ Lĩnh Nam.
ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG∗
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri∗
hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
►
∗
- Một ngày thanh minh, thôi Hộ đi chơi phía nam kinh
thành, thấy một trang trại trồng rất nhiều đào, bèn gọi cửa
xin nước uống, trong trang trại có một cô gái xinh đẹp ra
mở cổng hỏi họ tên và đem nước ra mời, tình ý đậm đà.
Năm sau, cũng tiết thanh minh, Thôi lại tới không gặp
người xưa, bèn viết thơ lên cánh cổng rồi đi. Sau vài
ngày Thôi trở lại, thấy trong trang trại có tiếng khóc, bèn
vào hỏi chuyện. có ông già ra hỏi: Ngài có phải là Thôi
tiên sinh không? Con gái tôi sau khi đọc thơ của ngài ở
cánh cổng rồi khóc than và nhịn ăn đến chết. Hộ xin vào
thăm thì cô gái lại tỉnh. Bèn cưới làm vợ. Năm đầu Trinh
Nguyên thi đỗ Tiến sĩ.
∗
- Chữ “Bất tri” có sách chép là “Chỉ kim”.
THÔI HỘ
69. THÍCH LINH NHẤT
289
ĐỀ LÀNG NAM KINH THÀNH
Ngày này năm ngoái cổng bên trong
Người đẹp hoa đào lẫn ánh hồng
Người đẹp giờ đâu không rõ nữa
Hoa đào như cũ nở làn đông.
■
THÔI HỘ
70. 290
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÔI HUỆ ĐỒNG
Người quê châu Bác (phía tây bắc Liêu Thành, tỉnh Sơn
Tây). Con Thôi Đình Ngọc, Thứ sử châu Ký. Lấy công
chúa Tấn quốc (con gái Đường Huyền Tông).
YẾN THÀNH ĐÔNG TRANG∗
Nhất nguyệt chủ nhân tiếu kỷ hồi
Tương phùng tương trị thả hàm bôi
Nhẫn khan xuân sắc như lưu thủy
Kim nhật tàn hoa tạc nhật khai.
ĂN TIỆC Ở TRANG TRẠI NGOẠI Ô PHÍA
ĐÔNG KINH THÀNH
Một tháng chủ nhân mấy chuyến cười∗
Gặp nhau đông đảo rượu nâng mời
Mắt xem xuân sắc như dòng chảy
Hoa rụng hôm nay trước tươi.
■
∗
Đầu đề thơ: Có sách còn ghi thêm mấy chữ “phụng
họa” (vâng họa).
Cười mấy lần: Theo Trang Tử, đời người 100 năm, mỗi
tháng thường chỉ có bốn, năm ngày cười vui.
THÔI HUỆ ĐỒNG
71. THÔI HUỆ ĐỒNG
291
THÔI LỖ
Không rõ quê quán, năm sinh. Khoảng năm 850 đỗ Tiến
sĩ, làm chức Tư mã châu Đệ phía nam Huệ Dân (tỉnh
Quảng Đông).
HOA THANH∗
CUNG
Thảo già hồi đắng tuyệt minh loan
Vân thụ thâm thâm bích điện hàn
Minh nguyệt tự lai hoàn tự khứ
Cánh vô nhân ỷ ngọc lan can.
CUNG HOA THANH
Cỏ lan bậc cuốn∗
bặt chuông loan∗
Thăm thẳm mây cây điện biếc hàn
Trăng sáng tự đi rồi tự lại
Chả còn ai tựa ngọc lan can.
■
∗
- Hoa Thanh: Giữa núi Ly, phía đông bắc Trường An có
suối nóng, lúc đầu vua Đường cho xây Ly cung ở đây,
gọi là “Ôn Tuyền Cung” (suối nóng). Thời Đường Huyền
Tông đổi tên là cung Hoa Thanh, luôn luôn cùng với
Dương Quý Phi đi chơi nơi này. Trong thơ Bạch Cư Dị
cũng có nhắc tới.
∗
- Bậc cuốn: Bậc đá xây cuốn trước cửa cung Hoa Thanh
∗
- Chuông loan: Chuông nhỏ đúc theo hình chim loan,
đeo ở xe, kiệu.
THÔI LỖ
72. 292
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THÔI MẪN ĐỒNG
Là em của Thôi Huệ Đồng, quê ở châu Bác (phía tây bắc
Thành Liêu, Tỉnh Sơn Đông), làm chức Phò mã Đô úy.
YẾN THÀNH ĐÔNG TRANG
Nhất niên thủy hữu nhất niên xuân
Bách tuế tằng vô bách tuế nhân
Năng hướng hoa tiền kỷ hồi túy
Thập thiên cô tửu mạc từ bần.
DỰ TIỆC Ở TRANG TRẠI NGOẠI Ô PHÍA
ĐÔNG KINH THÀNH
Một năm mới có một mùa xuân
Trăm tuổi không người tuổi chẵn trăm
Nếu được bên hoa say túy lúy
Ngàn muôn∗
mua rượu chớ lần khân.
■
∗
- Ngàn muôn: Ý nói bao nhiêu cũng không ngại tiếc.
THÔI MẪN ĐỒNG
73. THÔI HUỆ ĐỒNG
293
THÔI QUỐC PHU
Quê Sơn Âm (Chiết Giang), năm 726 đỗ Tiễn sĩ, làm
Trực học sĩ viện tập Hiền, rồi Lang trung bộ Lễ. khoảng
năm Thiên Bảo, Ngự sử Đại phu là Vương Cung mắc tội
chết, vì thân cận nên Thôi bị đày đi làm Tư mã ở Cánh
Lăng (Hồ Bắc).
CỬU NHẬT
Giang môn phong lạc cúc hoa hoàng
Thiếu trương đăng cao nhất vọng hương
Cửu nhật Đào gia tuy tải tửu
Tam niên Sở khách dĩ triêm thường.
NGÀY MÙNG CHÍN
Bên sông phong rụng cúc hoa vàng
Già trẻ lên cao ngóng xóm làng
Mồng chín∗
ông Đào∗
dù chở rượu
Ba năm khách Sở∗
lệ còn vương.
■
∗
Lúc này Thôi đang làm Tư mã ơ Cánh Lăng
Mồng 9 tháng 9: Nhân dân có lệ lên cao ngó về xóm
làng cũ
∗
Ông Đào: tức Đào Uyên Minh
* Khách Sở: Cánh Lăng là vùng nước Sở cũ.
THÔI QUỐC PHU
74. 294
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
THƯỜNG KIẾN
( ? )
Quê ở Trường An, đỗ Tiến sĩ năm 727. làm quan đến
chức huyện úy Hu Thai (tỉnh An Huy) thời Đường Đại
Lịch. Thăng tiễn chậm, bất mãn, sống cuộc đời ẩn dật,
lãng du. Có tư liệu nói ông thường gặp tiên nữ trao cho
phép thuật. Cuối đời, về ẩn ở núi Ngạc Chử (Vũ Xương,
Hồ Bắc), rủ Vương Xương Linh cùng sống cuộc đời tự do.
TÁI HẠ∗
KHÚC I
Ngọc bạch∗
triều hồi vọng đế hương
Ô Tôn∗
quy khứ bất xưng vương
Thiên nhai tĩnh xứ vô chinh chiến
Binh khí tiêu vi nhật nguyệt quang.
KHÚC HÁT XUỐNG ẢI I
Ngọc lụa chầu về nơi đế khuyết
Ô Tôn từ đó chẳng xưng vương
Chân trời ắng lặng không chinh chiến
Loạn hết, trời trăng ánh rõ ràng.
■
∗
- Tái hạ: Tên một khúc hát trong nhạc phủ
∗
- Ô Tôn: Tên một nước ở vùng núi Thiên Sơn
∗
- Ngọc bạch: Ngọc quý và lụa gấm, Chư hầu đem ngọc
lụa vào cống – tiền.
75. THƯỜNG KIẾN
295
TÁI HẠ KHÚC II
Bắc Hải âm phong động địa lai
Minh Quân∗
từ thượng vọng Long Đôi∗
Xúc lâu giai thị Trường Thành∗
tốt
Nhật mộ sa trường phi tác hôi.
KHÚC HÁT XUỐNG ẢI II
Bắc Hải heo may động đất trời
Đền Minh Phi ấy ngó Long Đôi
Sọ Khô đầu lính xây thành trước
Ngày xế tro bay loạn cát đồi.
■
∗
Minh Quân: Tức Vương Tường – Chiêu Quân, cung phi
đời Hán Nguyên Đế. Vì không chịu đút lót cho thợ vẽ,
nên tranh xấu không được vua vời. sau lại được gả sang
Hồ, vì nhà vua chọn tranh của một cung phi xấu nhất. Khi
thấy Chiêu Quân thực rất đẹp thì chuyện đã rồi. Do đó, Hán
Vũ Đế sai giết bọn thợ vẽ Mao Diên Thọ, bêu xác ở chợ
∗
Long Đôi: Tên gọi Kinh đô Hung Nô xưa.
∗
Thành: Đây là Vạn Lý Trường Thành, đắp từ thời Tần
Thủy Hoàng.
76. 296
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TAM NHẬT TẦM LÝ CỬU TRANG
Vũ yết dương lâm đông độ đầu
Vĩnh Hòa tam nhật đẳng khinh châu
Cố nhân gia tại Đào hoa ngạn
Trực đáo môn tiền khê thủy lưu.
NGÀY 3 ∗
(THÁNG 3) TÌM TRANG TRẠI
CỦA LÝ CỬU
Rừng liễu bờ đông mới tạnh mưa
Vĩnh Hòa∗
hàn thực lướt con đò
Cố nhân nhà ở dinh Đào ấy
Trước cổng dòng khe chảy lững lờ.
■
∗
Ngày 3: Tức “mồng 3 tháng 3”, tết Hàn thực, xưa còn
gọi là tết “Thượng tỵ” nghĩa là ngày tỵ tuần đầu tháng 3.
∗
Vĩnh Hòa: Niên hiệu đời Tấn, năm Vĩnh Hòa thứ 9,
Vương Hy Chi (một nhà thơ hay, bút thiếp đẹp) nhân tết
Hàn Thực họp bạn mời tiệc ở Lan Đình (thuộc Cối Kê,
Thiệu Hưng, Chiết Giang).
77. THƯỜNG KIẾN
297
TỐNG VŨ VĂN LỤC
Hoa ánh thùy dương Hán thủy∗
thanh
Vi phong lâm lý nhất chi khinh
Tức kim giang bắc hoàn như thử
Sầu sái giang nam ly biệt tình.
TIỄN ANH SÁU VŨ VĂN
Hoa ánh bờ dương bến Hán xanh
Ngang rừng gió động nhẹ lay cành
Hôm nay sông bắc còn như thế
Quá ngán sông nam cách biệt tình.
■
∗
Hán Thủy: Tên sông lớn chảy qua Hà Bắc tới Vũ Hán
hợp cùng với Kinh Giang (đoạn sông Trường Giang chảy
qua Vũ Hán).
Lúc này tác giả có thể ở gần Nhạc Dương (tỉnh Hồ
Nam). Vũ Văn đi sông bắc (Dương Tử Giang)
78. 298
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TIỀN KHỞI
Tự là Trọng Văn, quê ở Ngô Hưng, tỉnh Chiết Giang.
Thuở nhỏ rất thông minh. Đậu Tiến sĩ năm 751. Từ năm
766 – 779 làm Thái Thanh cung sứ và hàn lâm viện học
sỹ, là một trong “Đại Lịch thập tài tử”, nổi tiếng về thơ.
Thời ấy có gọi “Tiền Lang” – tức là Tiền Khởi và Lang
Sĩ Nguyên, hai nhà thơ hay.
QUY NHẠN
Tiêu Tương hà sự đẳng nhàn hồi
Thủy bích sa minh lưỡng ngạn đài
Nhị thập ngũ huyền đàn dạ nguyệt
Bất thăng thanh oán khước phi lai.
NHẠN VỀ
Tiêu Tương∗
sao đợi nhạn về đây
Cát sáng dòng xanh rêu bến dày
Đàn sắt∗
ngân đêm trăng loáng ánh
Xiết bao nỗi oán vọng trời mây.
■
∗
Tiêu Tương: Sông Tương ( chảy vào hồ Động Đình) tới
Linh Lăng (phía nam tỉnh Hồ Nam) hợp lưu với sông
Tiêu.
∗
Đàn sắt: 25 dây.
79. TIỀN KHỞI
299
MỘ XUÂN QUI CỐ SƠN THẢO ĐƯỜNG
Cốc khẩu xuân tàn hoàng điểu hi,
Tân di hoa tận, hạnh hoa phi
Thủy liên u trúc sơn song hạ.
Bất cải thanh âm đãi ngã qui.
XUÂN MUỘN TRỞ VỀ LỀU NÚI CŨ
Xuân tàn cửa động chim vàng ít,
Hoa hạnh, tân di thảy lụi đi
Yêu quá lùm tre ngang sổ núi
Xanh râm chẳng đổi đợi ta về.
■
80. 300
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TIẾT ĐÀO
Danh kỹ đời Đường – là bạn thân của
Vương Duy, Lý Bạch v.v.
TỐNG HỮU NHÂN
Thủy quốc kiêm hà dạ hữu sương,
Nguyệt hàn sơn sắc cộng thương thương.
Thùy ngôn thiên lý tự kim tịch
Ly mộng diểu như quan lộ trường.
TIỄN BẠN
Bãi sậy bờ lau tối đẫm sương
Mầu trăng sắc núi lạnh mênh mang
Ai rằng nghìn dặm đêm nay cách
Mộng biệt dài như vạn dặm đường.
■
TIẾT ĐÀO
81. TIẾT ĐÀO
301
TIỂU THUYẾT CHI
Quê Tế Châu (Sơn Đông). Tự là Dĩ Đạo – hiệu là Cảnh
Vu Sinh. Đậu Tiến sĩ thời Tống Thần Tông.
ĐẢ CẦU ĐỒ
Xương hạp thiên môn vạn hộ khai,
Tam lang trầm túy đả cầu hồi
Cửu Linh dĩ lão, Hàn Hưu tử
Vô phục minh triều gián sớ lai.
BỨC TRANH CHƠI CẦU
Cung điện ngàn muôn cửa sáng ngời
Tam Lang∗
mê mải đá cầu chơi
Cửu Linh∗
già lão, Hàn Hưu mất
Dâng sớ can ngăn cha có người.
■
∗
Tam Lang: Tên gọi khác của Đường Minh Hoàng.
∗
Trương Cửu Linh, Hàn Hưu: Những viên quan dám
can ngăn những điều sai trái.
TIÊU THUYẾT CHI
82. 302
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÔ PHỤC CỔ
SƠ HẠ DU TRƯƠNG VIÊN
Nhũ áp trì đường thủy thiển thâm
Thục mai thiên khí bán tình âm
Đông viên tải tửu tây viên túy
Trích tận tỳ bà nhất thụ câm.
ĐẦU HÈ CHƠI VƯỜN NHÀ HỌ TRƯƠNG
Vịt nhỏ đùa bơi khắp vũng đầm
Mơ vàng trời tạnh lại râm râm
Vườn đông chở rượu, vườn tây khướt
Một gốc tỳ bà quả trụi lâng.
■
TÔ PHỤC CỔ
83. TÔ PHỤC CỔ
303
HOÀI THÔN BINH HẬU
Tiểu đào vô chủ tự khai hoa
Yên thảo mang mang vãn đới nha
Kỷ xứ bại viên vi cổ tỉnh
Hướng lai nhất nhất thị nhân gia.
LÀNG HOÀI SAU BINH HỎA
Đào con không chủ tự ra hoa
Cỏ khói mênh mang tối đậu quả
Mấy chỗ tường xiêu vây giếng cũ
Trước kia đây đó thẩy là nhà.
■
84. 304
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TÔ THỨC
(1037 – 1101)
Quê ở Mi Sơn (Tứ Xuyên) – hiệu là
Đông Pha. Bố là Tô Toàn, em trai
là Tô Triệt đều là danh sĩ thời Tống.
ẨM HỒ THƯỢNG SƠ TÌNH
Thủy quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bả Tây hồ tỷ Tây∗
tử
Đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
UỐNG RƯỢU TRÊN HỒ SAU LÚC MƯA
TẠNH
Nước loáng mênh mang trời mới tạnh
Màu mưa màu núi thảy tân kỳ
Tây hồ đem sánh cùng Tây tử
Mọi vẻ yêu kiều chả khác chi.
■
∗
- Tây Thi: Một người đẹp nổi tiếng ở nước Việt xưa.
85. TÔ THỨC
305
CÁT TƯỜNG TỰ HOA TƯƠNG LẠC NHI
TRẦN THUẬT CỔ KỲ BẤT CHÍ
Kim tuế đông phong xảo tiễn tài,
Hàm tình chỉ đãi sứ quân lai.
Đối hoa vô ngữ hoa ưng hận,
Trực khủng minh niên hoa bất khai.
HOA CHÙA CÁT TƯỜNG SẮP RỤNG
NHƯNG TRẦN THUẬT CỔ KHÔNG TỚI
Nay gió đông về khéo điểm trang
Sớm chiều chờ đợi sứ quân sang
Trước hoa không nói hoa đừng giận
Chỉ sợ năm sau nụ muộn màng.
■
86. 306
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
CÁT TƯỜNG TỰ TĂNG CẦU CÁC DANH
Quá nhãn vinh khô điện dữ phong,
Cửu trường na đắc tự hoa hồng.
Thượng nhân yến tọa quan không cac,
Quan sắc quan không sắc tức không.
CHÙA CÁT TƯỜNG SƯ NHỜ ĐẶT TÊN
GÁC
Trải đủ tươi rầu, sấm với dông
Dài lâu sao được tựa hoa hồng
Sư già trong tiệc, nhìn quanh gác
Xem sắc xem không sắc tức không.
■
87. TÔ THỨC
307
DĨ NGỌC ĐÁI THI NGUYÊN TRƯỞNG LÃO,
NGUYÊN DĨ NẠP QUẦN TƯƠNG BÁO
Bệnh cốt nan kham ngọc đái vi,
Độn căng nhưng lạc tiễn phong ky
Dục giao khất thực ca cơ viện,
Cố dữ vân sơn cựu nạp y.
ĐEM ĐAI NGỌC TẶNG TRƯỞNG LÃO HỌ
NGUYÊN, ÔNG TẶNG LẠI ÁO SỢI CỦA
NHÀ CHÙA
Đai ngọc thân gày khó xứng đôi
Ngu xi đành chịu phận hèn tồi
Khó trao ca quán mong sinh lợi
Nên gửi chùa am bạn áo sồi.
■
88. 308
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HẬU THẬP DƯ NHẬT PHỤC CHÍ∗
Đông quân ý thiển trước hàn mai,
Thiên đóa thâm hồng vị hạ tài.
An đắc đạo nhân Ân Thất Thất,
Bất luôn thời tiết khiển hoa khai.
SAU MƯỜI NGÀY LẠI TỚI
Chúa xuân nông nổi chăm mai lạnh
Ngàn đóa hồng tươi chửa kịp trồng
Sao được đạo nhân An Thất Thất∗
Mùa nào hóa phép cũng đơm bông.
■
∗
Có thể lại tới chua Cát Tường.
∗
An Thất Thất: Tên một đạo sĩ.
89. TÔ THỨC
309
ĐỀ TÂY LÂM BÍCH
Hoành khan thành lĩnh trắc thành phong,
Viễn cận cao đê các bất đồng.
Bất thức Lư Sơn∗
chân diện mục,
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.
ĐỂ TRÊN TƯỜNG CHÙA TÂY LÂM
Nhìn ngang là núi, nghiêng là ngọn
Cao thấp gần xa khác lạ lùng
Thực trạng núi Lư khôn biết được
Bởi mình quanh quẩn đứng trong vòng.
■
∗
- Lư Sơn: Một danh thắng ở Trung Quốc.
90. 310
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐỀ THẨM QUÂN CẦM
Nhược ngôn cầm thượng hữu cầm thanh,
Phóng tại hạp trung hà bất minh ?
Nhược ngôn thanh tại chỉ đầu thượng,
Hà bất ư quân chỉ thượng thính.
ĐỀ THƠ CHIẾC ĐÀN ÔNG THẨM
Bảo rằng tiếng đàn từ dây phím
Sao đàn trong hộp chả vang dây
Còn như bảo tiếng đàn do ngón
Sao chả nghe đàn ở ngón tay?
■
91. TÔ THỨC
311
ĐÔNG CHÍ NHẬT ĐỘC DU CÁT TƯỜNG TỰ
Tỉnh để vi dương hồi vị hồi,
Tiêu tiêu hàn vũ thấp khô cai.
Hà nhân cánh tự tô phu tử,
Bát thị hoa thờ khẳng độc lai.
NGÀY ĐÔNG CHÍ MỘT MÌNH ĐI THĂM
CHÙA CÁT TƯỜNG
Nắng nhạt còn hoe mặt giếng thơi
Gốc khô lạnh lẽo đẫm mưa rồi
Có ai giống được thầy Tô∗
nhỉ
Giữa lúc không hoa vẫn tới chơi.
■
∗
- Thầy Tô: Tự nói.
92. 312
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐÔNG PHA
Vũ tẩy Đông Pha nguyệt sắc thanh,
Thị nhân hành tận dã nhân hành.
Mạc hiềm lạc xác pha đầu lộ,
Tự ái khanh nhiên duệ trượng thanh.
GÒ ĐÔNG
Mưa gội gò Đông trăng bốn bề
Phố phường vắng hết, rộn người quê.
Đừng hiềm khấp khểnh đường leo dốc
Vì thích nghe dài tiếng gậy lê.
■
93. TÔ THỨC
313
HẢI ĐƯỜNG
Đông phông niểu niểu phiếm sùng quang
Hương vụ không mông nguyệt chuyển lang
Chỉ khủng dạ thầm hoa thụy khứ,
Cố thiêu cao chúc chiếu hồng trang.
HOA HẢI ĐƯỜNG
Đầy trời sương móc trăng dời bóng
Dìu dịu mơ màng trận gió đông
Chỉ sợ canh khuya hoa ngủ thiếp
Nên nâng cao đuốc dọi xiêm hồng.
■
94. 314
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOA ẢNH
Trùng trùng điệt điệt thướng Dao Đài
Kỷ độ hô đồng tảo bất khai
Cương bị thái dương thu nhập khứ
Khước giao ming nguyệt tống tườn lai.
BÓNG HOA
Tầng tầng lớp lớp tới Dao Đài
Mấy lượt đàn em quét chưa thôi
Trời xế nắng mờ vừa hết dấu
Đã ngời trăng tới rạng tương lai.
■
95. TÔ THỨC
315
HOÀI THƯỢNG TẢO PHÁT
Đạm nguyệt khuynh vân hiểu giác ai,
Tiểu phong xuy thủy bích lân khai
Thử sinh định hướng giang hồ lão
Mặc số Hoài trug thập vãng lai.
SỚM TỪ BÊN HOÀI
Trăng nhạt mây thưa, ốc sởm dài
Gió xô nước biếc sóng chơi vơi
Kiếp này già với sông hồ đấy
Từng chục lần qua lại bến Hoài.
■
96. 316
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
LỤC NGUYỆT NHỊ THẬP THẤT NHẬT VỌNG
HỒ LÂU TÚY THƯ
Phóng sinh ngư miết trục nhân lai
Vô chủ hà hoa đáo xứ khai.
Thủy chẩm năng linh sơn phủ ngưỡng,
Phong thuyền giải dữ nguyệt bồi hồi
NGÀY 27 THÁNG 6, SAY VIẾT TẠI LẦU
VỌNG HỒ
Ba ba, cá thả quẫy bên người
Không chủ bông sen nở mọi nơi
Gối nước, núi như đầu cúi xuống
Bâng khuâng trăng gió ánh đò trôi.
■
97. TÔ THỨC
317
LƯ SƠN
Lư sơn yên tỏa Chiết Giang chiều,
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu.
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự,
Lư sơn yên tỏa Chiết Giang triều.
LƯ SƠN
Non Lư khói phủ triều sông Chiết
Chưa tới, lòng luôn mãi khát khao
Tới được, thì ra cũng cha lạ
Non Lư khói phủ Chiết giang trào.
■
98. 318
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
MAI HOA ( I )
Xuân lai u cốc thủy sàn sán,
Đích lạc mai hoa thảo cức gian.
Nhất dạ đông phong xuy thạch liệt,
Bán tùy phi tuyết độ quan san.
HOA MAI ( I )
Xuân về động thắm nước lan man
Mai rụng hoa đầy giữa cỏ hoang
Một tối gió đông ào đá lở
Nửa theo tuyết trắng vượt non ngàn.
■
99. TÔ THỨC
319
MAI HOA ( II )
Hà nhân bà tửu ủy thâm u,
Khai tự vô liêu lạc cánh sầu.
Hạnh hữu thanh khê tam bách khúc,
Bất từ tương tống đáo Hoàng Châu.
HOA MAI ( II )
Ai người nâng chén bớt thâm u
Nở rất bâng quơ rụng quá sầu
May có khe trong ba trăm khúc
Chẳng nề đưa tiễn tới Hoàng Châu.
■
100. 320
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẨY NHI HÍ TÁC
Nhân giai dưỡng tử vọng thông minh,
Ngã bị thông minh ngộ nhất sinh.
Duy nguyện hài nhi ngu thả lỗ,
Vô tai vô nạn đáo công khanh∗
.
VIẾT ĐÙA TẶNG CON
Sinh con ai chả muốn thông minh
Ta vị thông minh lụy tới mình
Chi ước con thơ ngu lại vụng
Không tai không nạn tới công khanh.
■
∗
- Công khanh: Bậc quan to
101. TÔ THỨC
321
TẶNG LĨNH THƯỢNG MAI∗
Mai hoa khai hậu bách hoa khai,
Quá tận hành nhân quân bất lai.
Bất sấn thanh mai đương chử tửu,
Yêu khan tế vũ thục hoàng mai.
TẶNG MAI LĨNH THƯỢNG
Sau hoa mai nở trăm hoa nở
Chỉ vắng mình anh chả tới chơi
Chẳng được mơ xanh đem nấu rượu
Thì xem mưa bụi rụng vàng mai.
■
∗
Có tài liệu ghi bài này Tô làm sau khi bị biếm ở Quỳnh
Châu (đảo Hải Nam) được triệu về kinh.
102. 322
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TẶNG LƯU CẢNH VĂN
Hà tận dĩ vô kình vũ cái,
Cúc tàn do hữu ngạo sương chi.
Nhất niên hảo cảnh quân tu ký,
Tối thị chanh hoàng quất lục thì.
TẶNG LƯU CẢNH VĂN
Sen chết lọng xanh che mưa gió
Cúc tàn cành vẫn ngẩng trời sương
Một năm cảnh đẹp người nên nhớ
Là lúc chanh thơm quất chín vàng.
■
103. TÔ THỨC
323
THƯỢNG NGUYÊN∗
THỊ YẾN
Đạm nguyệt sơ tinh nhiễu Kiến Chương
Tiên phong xuy hạ ngự lô hương
Thị thần kháo lập Thông Minh điện
Nhất đóa hồng vân bổng Ngọc Hoàng∗
. RẰM THÁNG RIÊNG HẦU TIỆC (1)
Trăng lạnh sao thưa điện Kiến Chương∗
Gió thơm lò ngự ngát đưa hương
Quan hầu đứng chật Thông Minh*
điện
Một áng mây son đón Ngọc Hoàng.
.RẰM THÁNG RIÊNG HẦU TIỆC (2)
Trăng lạnh sao thưa điện Kiến Chương
Gió thơm lò ngự ngát đưa hương
Quan hầu đứng chật Thông Minh điện
Một áng mây son đón Ngọc Hoàng∗.
■
∗
Thượng nguyên: Rằm tháng giêng âm lịch
∗
Ngọc Hoàng: Vua
∗
Kiến Chương, Thông Minh: Tên cung điện nhà vua
∗
Ngọc Hoàng: Vua
104. 324
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỊCH THƯỢNG ĐẠI NHÂN TẶNG BIỆT ( I )
Thê âm oán loạn bất thành ca.
Túng sử trùng lai nại lão hà.
Lệ nhãn vô cùng tự mai vũ,
Nhất phiên quân liễu nhát phiên đa.
GIỮA TIỆC THAY NGƯỜI TẶNG BIỆT ( I )
Nghẹn ngào lời tiếng chả thành ca
Lại gặp lần sau chắc đã già
Mắt lệ nhiều như mưa hạnh đổ
Càng phen gạt lệ, lệ càng sa.
■
105. TÔ THỨC
325
TỊCH THƯỢNG ĐẠI NHÂN TẶNG BIỆT ( II )
Liên tử phách khai tu kiến ức,
Thu bình trước tận cánh vô kỳ.
Phá sam khước hữu trùng phùng xứ,
Nhất phạn hà tằng vong khước thì.
GIỮA TIỆC VIẾT THAY NGƯỜI KHÁC ( II )
Hạt sen tách vỏ thành liên nhục
Cờ tướng chơi xong chả hẹn kỳ
Áo rách cũng còn nơi để vá
Bữa này sao nỡ nhãng quên đi.
■
106. 326
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
XUÂN TIÊU
Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim
Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm
Ca quản lâu đài thanh tế tế
Thu thiên viện lạc dạ trầm trầm.
ĐÊM XUÂN
Ngàn vàng một khắc giá đêm xuân
Hoa ngát trăng trong cảnh tuyệt trần
Đàn hát lầu cao nghe vọng mãi
Đu bay sân rộng tối trầm dần.
■
107. TÔ THỨC
327
TRUNG THU NGUYỆT
Mộ vân thu tận dật thanh hàn
Ngân Hán vô thanh chuyển ngọc bàn
Thử sinh thử dạ bất trường hảo
Minh nguyệt minh niên hà xứ khan
TRĂNG RẰM TRUNG THU
Mây chiều thu hết trời quang lạnh
Mâm ngọc∗
Ngân hà∗
chuyển bước êm
Cuộc sống đêm nay vui vẻ nữa
Sang năm trăng sáng chốn nao nhìn.
■
∗
Mâm ngọc: Người xưa thường dùng mâm ngọc, mâm
vàng…để chỉ mặt trăng rằm
∗
- Ngân hà: Ngân giang
108. 328
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TỐNG CHI VẤN
(656 – 712)
Người Châu Phần (Sơn Tây), tên tự là Diên Thanh,
Thiếu Liên, đỗ Tiến sĩ năm 675, được Võ Tắc Thiên
trọng tài cho làm Giám thừa Thương phương. Tống xu
phụ quyền thần Trương Dịch Chi (cung nhân của Võ
hậu), khi Dịch Chi bị giết, Tống bị biếm đi Long Châu
(Quảng Đông). Sau đó trốn về Lạc Dương, ẩn náu trong
nhà Trương trọng Chi. Tống tố cáo Trọng Chi có âm
mưu giết quyền thần Võ Tam Tư, nên được làm Chủ bạ
Hồng Lô, rồi thăng chức Khảo công lang. vì cố a dua
công chúa Thái Bình, bị giáng làm Trưởng sử châu Việt (
Chiết Giang). Ở đây Tống chỉ ngao du, chè chén cho qua
ngày tháng. Khi Duệ Tông lên ngôi, thấy không sửa
chữa, lại chuyển đi châu Khàm (Quảng Đông), sau đó
được lệnh tự sát. Trước đó, Tống đã bị chỉ trích là sát hại
Lưu Đình Chi. Tống là người nổi tiếng cùng thời với
Thẩm Thuyên Kỳ (thời kỳ sơ Đường), đời gọi là “Thẩm
Tống”.
HẠ SƠN CA
Hạ Tung sơn∗
hề đa sở ty
Huề giai nhân hề bộ trì trì
∗
- Tung sơn: Còn có tên Ngoại Phương, ở Đăng Phong,
tỉnh Hà Nam. Núi có 3 ngọn: ngọn giữa có tên Tuấn Cực,
phía đông là ngọn Thái Thất, phía tây là ngọn Thiếu
Thất.
109. TỐNG CHI VẤN
329
Tùng gian minh nguyệt trường như thử
Quân tái du hề phục hà thì.
BÀI CA XUỐNG NÚI
Xuống núi Tung chừ nhiều suy tư
Cùng người đẹp chừ bước từ từ
Ngàn thông trăng sáng như thế mãi
Người lại đi chừ biết bao giờ.
■
TỐNG TƯ MÃ ĐẠO SĨ DU THIÊN THAI
Vũ khách∗
sênh ca thử địa vi
Li diên sổ xứ bạch vân phi
Bồng Lai∗
khuyết hạ trường hương ức
Đồng Bá∗
Sơn đầu khứ bất quy.
TIỄN ĐẠO SĨ TƯ MÃ CHƠI THIÊN THAI
Đạo sĩ sênh ca biệt chốn ni
Tiễn đưa mấy neo trắng mây đi
∗
Vũ khách: Người mặc áo lông nhẹ (tiên), là tiếng gọi của đạo sĩ.
∗
Bồng Lai: Ở đây chỉ cung vua.
∗
Đồng Bá: Tên núi ở phía tây Thiên Thai. Tư mã Thừa Trinh
dựng nhà gọi là cung Đồng Bá.
Tư mã Thừa Trinh là đạo sĩ (đạo Lão) được vua Đường Duệ
Tông mời về kinh, nhưng ông không muốn lưu lại, do đó nhà
vua cho mở tiệc lớn tiễn ông về núi Thiên Thai. Thừa Trinh
cũng còn thơ họa đến nay.
110. 330
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Bồng Lai dưới cửa dài mong nhớ
Đồng Bá đầu non chẳng thấy về.
■
TRẦN DỮ NGHĨA
Quê huyện Diệp, tự Khứ Phủ, hiệu Giản Trai, đậu Bác sĩ
thời Tống Huy Tông – chính sự giỏi, thơ hay.
TƯƠNG ÁP ĐẠO TRUNG
Phi hoa lưỡng ngạn chiếu đò hồng,
Bách lý du đê bán nhật phong.
Ngọa khán mãn thiên vân bất động,
Bất tri vân dữ ngã câu đông.
ĐƯỜNG QUA TƯƠNG ÁP
Hai bờ hoa thắm ánh do hồng
Trăm dặm đê du gió trập trùng.
Nằm ngó đầy trời mây lặng tắp
Mây cùng ta đấy thẩy sang đông.
■
TRẦN DƯ NGHĨA
111. TRẦN ĐÀO
331
TRẦN ĐÀO
LŨNG TÂY HÀNH
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần.
Khả liên Vô Định∗
hà biên cốt,
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
BÀI HÁT LŨNG TÂY
Thề diệt Hung Nô chẳng tiếc thân,
Năm ngàn chiến sĩ đã xa trần.
Đáng thương xương trắng bờ Vô Định
Vẫn đậm mơ dài lắm gái xuân.
■
∗
- Vô Định: Tên một con sông.
TRẦN ĐÀO
112. 332
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRẦN HỰU
( ? )
TẠP THI
Vô Định hà biên mộ địch thanh
Hách Liên ài bạn lữ nhân tình
Hàm Quan quy lộ thiên dư lý
Nhất tịch thu phong bạch phát sinh.
TẠP THI
Vô Định∗
bên sông vai sáo tối
Hách Liên đài∗
ấy khách lênh đênh
Đường về Hàm Cốc∗
hơn ngàn dặm
Một tối làn thu tóc bạc nhanh.
■
∗
Vô Định: Tên sông gần Mễ Chi, phía bắc tỉnh Thiểm Tây,
chảy vào Hoàng Hà. Vì dòng sông chảy xiết, lòng sông luôn
luôn thay đổi (Vô Định) nên có tên này.
∗
Đài Hách Liên: Do Hách Liên Bột Bột (Hồ) nước Đại hạ
xây dựng nên. Nay ở phía đông nam thành phố Ngân
Xuyên, thủ phủ tỉnh Ninh Hạ.
∗
Hàm Cốc: Tên ải ở tỉnh Hà Nam, từ biên giới vào Trường
An phải qua cửa ải này.
TRẦN HỰU
113. TRẦN HỰU
333
TRẦN NGỌC LAN
KÝ PHU
Phu thú biên quan, thiếp tại Ngô,
Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu.
Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ,
Hàn đáo quân biên, y đáo vô.
GỬI CHỒNG
Chàng ở biên cương thiếp ở Ngô,
Nhớ chàng mỗi bận gió thu lùa.
Một hàng thư gửi nghìn hàng lệ,
Rét đến bên chàng, áo đến chưa?
■
TRẦN NGỌC LAN
114. 334
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRIỀU ĐOAN HỮU
TÚC TẾ CHÂU MÔN NGOẠI LỮ QUÁN
Hàn lâm tàn nhật dục thê ô,
Bích lý thanh đăng xạ hữu vô.
Tiểu vũ âm âm nhân bất mị
Ngọa thinh bì mã khiết tàn sô.
NGỦ NGOÀI CỬA QUÁN TRỌ CHÂU TỀ
Rừng lạnh chiều sâu bóng quạ vù
Đèn xanh bên vách chợt loe mờ
Mưa bay mù mịt người không ngủ
Ngựa mỏi bên chuồng gặm cỏ khô.
■
TRIỆU ĐOAN HỮU
115. TRIỆU HỖ
335
TRIỆU HỖ
Quê ở Sơn Dương (Giang Tô). Biểu tự là Thừa Hựu.
Năm 844 đôc Tiến sĩ. Khoảng năm 855 làm chức úy ở Vị
Nam. Văn chương rất nổi tiếng nhưng bậc quan không
cao. Vua Đường Huyền Tông biết chuyện, muốn cất nhắc
nhưng vì không thích giọng thơ của Hỗ nên lại thôi.
Triệu có câu : « Sáo dài một tiếng người tựa lầu » rất
được Đỗ Mục khâm phục, gọi là « Triệu ỷ lâu » (tựa
lầu) .
GIANG LÂU THƯ CẢM∗
Độc thướng giang lâu tứ diểu nhiên
Nguyệt quang như thủy thủy liên thiên
Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà xứ
Phong cảnh y hy tự khứ liên.
∗
Đầu đề có sách in: “Giang lâu cựu cảm”. Ở khoảng giữa
sông Trường Giang và sông Tiền Đường (có thể là Trấn
Giang, tỉnh Giang Tô). Triệu ở cùng một người thiếp yêu.
Vì phải về kinh sát hạch, người thiếp lại bị ga Trưởng
quan ép đưa về nhà. Hỗ làm thơ buồn than. Vị Trưởng
quan cũng động lòng cho người đưa nàng thiếp đó về
kinh với Hỗ. Hai người gặp nhau, ôm khóc, nhưng hai
hôm sau đó người thiếp chết, Hỗ thương nhớ nàng, cho
vẽ hình để bên giường. Bài thơ đây là tả nỗi niềm nhớ
người thiếp yêu.
TRIỆU HỖ
116. 336
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
►
CẢM KHÁI LẦU SÔNG
Lên lẻ lầu sông lắng nỗi niềm
Trăng trong như nước nước trời liền
Người cùng ngắm nguyệt giờ đâu tá
Phong cảnh năm nào vẫn giống nguyên.
■
TẬP LINH ĐÀI
Quắc quốc phu nhân thừa chủ ân
Bình minh ky mã nhập cung môn
Khước hiềm chi phấn ô nhan sắc
Đạm tảo nga mi triều chí tôn.
ĐÀI TẬP LINH∗
∗
Đài Tập Linh: Đường Huyền Tông cho xây dựng ở
điện Trường Sinh, trong cung Hoa Thanh. Đài dùng làm
nơi tế thần. Ba chị em gái của Dương Quý Phi được
phong phu nhân nước Quắc, phu nhân nước Hàn, phu
nhân nước Tần. Quắc quốc phu nhân đã tự sát khi gặp loạn
An Lộc Sơn.
Theo nghi lễ, mỗi khi gặp vua, phụ nữ phải trang sức
thực đẹp. Nhưng Quắc quốc phu nhân cậy thế được vua
chiều nên không son phấn mà chỉ bôi nhẹ lông mày.
117. TRIỆU HỖ
337
Quắc quốc phu nhân bao xiết ơn
Tinh mơ cưỡi ngựa vượt cung môn
Lại hiềm son phấn nhơ nhan sắc
Tô nhẹ mày xanh chầu chí tôn.
VŨ LÂM LINH∗
Vũ lâm linh dạ khước quy Tần∗
Do thị Trương Huy nhất khúc tân
Trường thuyết Thượng Hoàng∗
thùy lệ giáo
∗
Vũ lâm linh: Cũng là tên bài trong nhạc phủ do Đường
Huyền Tông sáng tác. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, Đường
Huyền Tông lánh nạn vào Thục (Tứ Xuyên), dọc đường
tới gò Mã Ngôi, người quý phi yêu mến nhất bị quân cận
vệ giết. Đường vào Thục bằng sạn đạo, mưa dầm không
dứt, sương mù dầy đặc, tiếng nhạc ngựa vọng ngang rừng
núi. Huyền Tông nghe tiếng nhạc ngựa, thương nhớ
Dương Quý Phi liền soạn khúc hát rồi đặt tên là “Nhạc
ngựa đêm mưa dầm”, và giao cho nhạc sư Trương Huy
ngâm hát. Không bao lâu loạn yên, Huyền Tông trở về
Kinh, tới cung Hoa Thanh ở Ly Sơn, Trương huy dạo
bản nhạc ấy, nhà vua nghĩ tới Dương Quý Phi nước
mắt đầm đìa.
∗
Tần: Nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, tức là nơi có kinh đô
Trường An.
118. 338
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
Nguyệt minh Nam Nội cánh vô nhân.
►
NHẠC NGỰA ĐÊM MƯA DẦM
Mưa đêm nhạc ngựa lại về Tần
Còn khiến Trương Huy khúc mới ngâm
Nghe nói Thượng Hoàng rơi lệ nhủ
Trăng soi Nam Nội∗
quạnh vô ngần.
■
∗
- Thượng Hoàng: Đường Huyền Tông (Vua thoái vị ở
dọc đường vào Thục)
∗
- Nam Nội: Tức là cung Hưng Khánh ở Trường An, nơi
ở của Huyền Tông khi còn là Hoàng Thái Tử.
119. TRIỆU HỖ
339
TRIỆU SƯ TÚ
(? – 1219)
Quê Vĩnh Gia (Chiết Giang). Tự là Từ Chi – hiệu là
Linh Tú. Đậu Tiến sĩ thời Tống Thiệu Hy, có làm quan.
HỮU ƯỚC
Hoàng mai thời tiết gia gia vũ,
Thanh thảo trì đường xứ xứ oa.
Hữu ước bất lai qua bán dạ,
Nhàn sao kỳ tử lạc đăng hoa.
HẸN
Mơ vàng tết tới mọi nhà mưa
Cỏ rợp ao chuôm ếch rộn bờ
Có hẹn không sang đêm quá nửa
Quân cờ gõ nhẹ rụng đèn hoa.
■
TRIỆU SƯ TU
120. 340
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÌNH HIỆU
(1032 - 1085)
Tên chữ là Bá Thuần, đỗ Tiến sĩ. Người cùng thời gọi là
“Tiên sinh Minh Đạo”. Một học giả nổi tiếng đời Tống.
Xưa có câu “Cửa Khổng sân Trình” – Trình, là nói hai
anh em Trình Hiệu và Trình Di.
XUÂN NHẬT NGẪU THÀNH
Vân đạm phong khinh cận ngọ thiên
Bàng hoa tùy liễu quá tiền xuyên
Thời nhân bất thức dư tâm lạc
Tương vị thâu nhàn học thiếu niên.
NGÀY XUÂN CHỢT VIẾT
Gió nhẹ mây thưa gần tới ngọ
Bên hoa men liễu tới sông bên
Người đời chả biết ta vui thích
Cứ bảo đua đòi thói trẻ em.
■
121. TRÌNH HIỆU
341
THU NGUYỆT
Thanh Khê lưu quá bích sơn đầu
Không thủy trừng tiên nhất sắc thu
Cách đoạn hồng trần tam thập lý
Bạch vân hồng diệp lưỡng du du.
MÙA THU
Thanh Khê∗
chay lượn đầu non biếc
Trời nước xanh trong một sắc thu
Xa cánh hồng trần ba chục dặm
Mây phau lá đỏ thẩy vi vu.
■
∗
- Thanh Khê: Tên một khe nước vùng Giang Tô.
122. 342
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRÌNH HIỆU HẠO
( ? )
ĐỀ HOÀI NAM TỰ
Nam khứ bắc lai hưu tiện hưu
Bạch tần xuy tận Sở giang thu,
Đạo nhân bất thị bi thu khách
Nhất nhiệm vãn sơn tương đối sầu.
ĐỀ CHÙA HOÀI NAM∗
Qua lại bắc nam đều nghỉ lại
Bãi tần∗
sông Sở lộng làn thu
Buồn thu đâu chuyện người tu đạo
Nhìn núi chiều hôm thấy nỗi sầu.
■
∗
- Chùa Hoài Nam: Ở châu Dương.
∗
- Tần: Một loại rau nước như muống, rút.
TRÌNH HIỆU HẠO
123. TRỊNH CỐC
343
TRỊNH CỐC
ĐỘC LÝ BẠCH TẬP
Hà sự văn tinh dữ tửu tinh,
Nhất thời chung tại Lý tiên sinh.
Cao ngâm đại túy tam thiên thủ,
Lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh.
ĐỌC THƠ LÝ BẠCH
Hà cớ Sao Văn cùng sao Rượu
Một thời dồn cả Lý tiên sinh?
Ngâm vang say khướt ba ngàn vận
Bạn với trăng trong mãi nghĩa tình.
■
TRỊNH CỐC
124. 344
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
HOÀI THỦY BIỆT HỮU
Dương Tử*)
giang đầu dương liễu xuân,
Dương hoa sấu sái độ giang nhân.
Sổ thanh phong địch ly đình vãn,
Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần.
TỪ BIỆT BẠN BÊN SÔNG HOÀI
Dương Tử đầu sông liễu sắc xuân
Hoa dương rười rượi vẻ du nhân
Ly Đình chiều xuống dăm làn sáo,
Anh tới Tiêu Tương tôi tới Tần.
■
*)
Dương Tử: Đoạn sông Đại Giang (ngày nay gọi là Trường Giang)
chảy trên địa phận châu Dương được gọi là Dương Tử Giang, người
phương Tây thường nhầm gọi toàn bộ sông Trường Giang là Sông
Dương Tử. (NL chú thích)
125. TRỊNH CỐC
345
TRỊNH HỘI
Tên chữ là Hựu Cực, hiệu là Diệp sơn – người thời Tống.
ĐỀ ĐỂ GIAN BÍCH
Đồ mi hương mộng khiếp xuân hàn
Thúy yếm trùng môn yến tử nhàn
Xao đoạn ngọc thoa hồng chúc lãnh
Kế trình ưng thuyết đáo Thường san.
ĐỀ VÁCH NHÀ TRỌ
Đồ mi∗
thơm mộng e xuân lạnh
Cửa biếc rèm che cánh én nhàn
Khêu gãy ngọc thoa mờ đuốc đỏ
Chặng dài lại muốn đến Thường Sơn∗
.
■
∗
- Đồ mi: Còn gọi hoa Trà mi
∗
- Thường Sơn: Còn gọi Trường Sơn.
TRỊNH HỘI
126. 346
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRỪ QUANG HY
(707- 759)
Quê châu Duyện (Tư Dương, tỉnh Sơn Đông). Năm 762
(Khai Nguyên 14) đỗ Tiến sĩ, làm Giám sát Ngự sử, khi
loạn An Lộc Sơn, bị bắt cộng tác, sau khi loạn yên bị đày
đi Quảng Đông rồi mất ở đó.
KÝ TÔN SƠN NHÂN
Tân lâm nhị nguyệt cô chu hoàn
Thủy mãn thanh giang hoa mãn san
Tá vấn cố viên ẩn quân tử∗
Thời thời lai vãng trụ nhân gian.
GỬI SƠN NHÂN HỌ TÔN
Tháng hai thuyền lẻ về nơi cũ
Nước ắp sông trong hoa ắp ngàn
Xin hỏi vườn xưa quân tử ẩn
Có thường qua lại chốn nhân gian.
■
∗
Quân tử: Người hiền tài.
TRỪ QUANG HY
127. TRỪ QUANG HY
347
TRƯƠNG BÍCH
NÔNG PHU
Vận sừ canh chúc xâm tinh khởi,
Lũng mẫu phong doanh mãn gia hỉ.
Đáo đầu hòa thử thuộc tha nhân,
Bất tri hà xứ phao thê tử.
NÔNG DÂN
Sao trời chưa lặn đã đi cày
Mừng ngỡ vàng ươm hạt trĩu cây.
Rốt cuộc lúa đầy kho kẻ khác,
Vợ con biết quẳng xó nào đây?
■
TRƯƠNG BICH
128. 348
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG DUYỆT
(667- 730)
Người Lạc Dương, tự là Đạo Tế, sau lại đổi Duyệt Chi,
đỗ Tiến sĩ năm 689 (thời Võ Hậu), làm Thái tử Hiệu thư
rồi xá nhân Phượng các. Vì trái ý anh em Trương Dịch
Chi nên bị đày đi châu Khâm. Sau khi Dịch Chi bị giết,
lại được gọi về kinh làm Thị lang bộ Công, rồi Thị lang
bộ Binh. Sau khi Đường Duệ Tông lên ngôi được giữ
chức Bình Chương sự Đồng trung thư môn hạ (như Tể
Tướng). Thời Huyền Tông đã làm Trung thư lệnh (Tể
tướng) nhưng vì chống Diêu Sùng nên bị đổi đi làm Thứ
sử các châu tương, châu Nhạc (Hồ Nam). Sùng chết, ông
lại về kinh làn Trung thư lệnh. Cuối đời vì ỷ thế được
Huyền Tông tin dùng nên chuyên quyền, rồi bị các quan
phê phán, bị bãi miễn nhưng sau lại được vời làm tả
Thừa tướng, được phong Yên Quốc Công.
TỐNG LƯƠNG LỤC∗
Ba Lăng nhất vọng Động Đình thu
Nhật kiến cô phong thủy thượng phù
∗
Bài này làm khi Trương giữ chức Thứ sử châu Nhạc.
Có sách còn ghi dưới đầu đề năm chữ “Động Đình sơn tự
tác” (làm ở núi Động Đình).
TRƯƠNG DUYỆT
129. TRƯƠNG DUYỆT
349
Văn đạo thần tiên bất khả tiếp
Tâm tùy hồ thủy cộng du du.
TIỄN LƯƠNG LỤC∗
Ba Lăng∗
một ngó Động Đình thu
Mặt nước mênh mang nối núi trơ∗
Nghe nói thần tiên không thể gặp
Lòng theo hồ nước thấy mơ mơ.
■
∗
Lương Lục: Có thể tên là Lương Tri Vi, Thứ sử châu
Đàm (Trường Sa, Hồ Nam).
∗
Ba Lăng: Tên núi Động Đình.
∗
Núi trơ: Ở đây là Quân Sơn, nơi này truyền là có nữ
thần.
130. 350
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG HỖ
(792 - 852)
Quê ở Thanh Hà (tỉnh Hà Bắc), tên chữ là Thừa Cát.
Năm 822 được lệnh Hồ Sở tiến cử làm quan nhưng
không thành. Ở nhờ các nhà quyền quý, nhưng vì tính
tình không ưa bợ đỡ nên làm nhà riêng. Sau đó ngao du
vùng Hoài Nam, thích phong cảnh Khúc A, bèn dựng nhà
ở đây. Có lúc được cử giữ chức Tri huyện ở Quảng Đông
nhưng lại xin từ chức về nhà.
HỒ VỊ CHÂU∗
Đình đình cô nguyệt chiếu hành châu
Tịch tịch Trường Giang vạn lý lưu
Hương quốc bất tri hà xứ thị
Vân sơn mạn mạn sử nhân sầu.
CHÂU VỊ ĐẤT HỒ
Cao cao trăng lẻ sáng con đò
Quạnh quẽ sông dài vạn dặm mau
Làng nước chẳng hay đâu đó nhỉ
Núi mây man mác khiến ai sầu.
■
∗
- Hồ Vị châu: Cũng là tên bài thơ trong nhạc phủ. Vị
Châu bây giờ là Lũng Tây (tỉnh Cam Túc).
131. TRƯƠNG HỖ
351
TẶNG NỘI NHÂN
Cấm môn cung thụ nguyệt ngân qua,
Mỵ nhãn vi khan túc lộ oa.
Tà bạt ngọc thoa đăng ảnh bạn
Dịch khai hồng diệm cứu phi nga.
TẶNG NGƯỜI CUNG NỮ
Cửa cung trăng sáng rọi đầy cây
Nheo mắt nhìn chim giữ giấc say
Bên cạnh đèn hoa thoa ngọc rút
Gạt vùng lửa đỏ cứu ngài bay.
■
132. 352
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG HÚC
ĐÀO HOA KHÊ∗
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch cơ tây bạn vấn ngư thuyền.
Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
Động tại thanh khê hà xứ biên.
SUỐI HOA ĐÀO
Thấp thoáng cầu chênh khói nội chen,
Phía tây mỏm đá hỏi ngư thuyền.
Hoa đào sớm tối theo dòng nước
Động ơ khe trong có dễ tìm?.
■
∗
Theo “Đào Nguyên Ký” của Đào tiềm, đời Tấn, ngày
xưa có một số người tránh loạn thời Tần, đi vào khe Đào
Hoa (Vũ Lăng, Hồ Bắc). Sau đó có mấy người đánh cá đi
lạc vào, ở lại – Đời sau cho là Tiên.
TRƯƠNG HÚC
133. TRƯƠNG HÚC
353
TRƯƠNG HỰU
ĐỀ KIM LĂNG ĐỘ
Kim Lăng tân độ Tiểu Sơn lâu,
Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý,
Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu.
BẾN ĐÒ KIM LĂNG
Kim Lăng bến mới một căn lầu
Trọ một đêm thôi khách cũng sầu
Trăng xế sông đêm con nước xuống,
Dăm ba ánh lửa – đó Qua Châu.
■
TRƯƠNG HỰU
134. 354
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG KẾ
Quê châu Tương, tên chữ là Ý Tôn. Năm 753 đỗ Tiến sĩ,
bắt đầu làm chức Phán quan về muối, sắt ơ dưới trướng
Tiết độ sứ. Tới năm Đại Lịch về triều giữ chức Kiểm
hiệu Từ bộ lang trung.
PHONG KIỀU∗
DẠ BẠC
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô∗
thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở PHONG KIỀU
Trăng xế quạ kêu sương bốn bên
Lửa chài cây bến giấc sầu quen
Hàn Sơn ngoài trấn Cô Tô ấy
Thuyền khách chuông hồi động nửa đêm.
■
∗
Phong Kiều: Cầu bắc trên sông Phong ở ngoại ô phía
tây Tô Châu (Giang Tô) một nơi danh thắng. Gần đây có
tư liệu nói: “Ô đề”, “Sầu Miên” cũng là tên riêng.
∗
Cô Tô: Tên cũ của Tô Châu.
135. TRƯƠNG KẾ
355
XƯỚNG MÔN∗
TỨC SỰ
Canh phu triêu mộ trục lâu thuyền,
Xuân thảo thanh thanh vạn khoảnh điền
Thí thướng Ngô môn khuy quận quách,
Thanh minh kỷ xứ hữu tân yên.
VIẾT Ở XƯỚNG MÔN
Gọi hết nông phu kéo ngự thuyền,
Ruộng đồng muôn khoảnh cỏ xanh liền
Ngô Môn lên đỉnh nhìn tư phía
Đâu chốn Thanh Minh khói mới nhen.
■
∗
Xướng môn: Cửa chính nơi cung điện.
136. 356
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG KIỀU
Người quê Trì Châu (tỉnh An Huy). Khoảng năm 870, có
thuyết nói năm 890 dự thi Tiến sĩ đỗ nhưng tránh loạn
Hoàng Sào (cuối Đường), về ở chân núi Cửu Hoa ở quê
cho tới già.
YẾN BIÊN TƯỚNG
Nhất khúc Lương Châu kim thạch thanh
Biên phong tiêu táp động giang thành
Tòa trung hữu lão sa trường khách
Hoành địch hưu xuy tái thượng thanh.
DỰ TIỆC CÙNG CÁC TƯỚNG BIÊN ẢI
Một khúc “Châu Lương”∗
vàng đá∗
rung
Gió biên xào xạc động thành sông
Trong dinh có khách già chinh chiến
Sáo đặt ngang môi ngồi lặng không.
■
∗
Châu Lương: Nay ở Vũ Uy (tỉnh Cam Túc). Ca khúc
Châu Lương giống như ca khúc Châu Y, nội dung tả tâm
trạng chiến sĩ và phong vật biên cảnh.
∗
Vàng đá: Tượng trưng cho các nhạc cụ làm bằng kim
loại và đá.
137. TRƯƠNG KIỀU
357
GIANG NAM HÀNH
Tư cô∗
diệp lạn biệt tây loan
Liên tử hoa khai do vị hoàn
Thiếp mộng bất ly giang thượng thủy
Nhân truyền lang tại Phượng Hoàng
san∗
.
HÀNH KHÚC GIANG NAM
Tư cô lá úa biệt Tây loan∗
Hoa nơ đầm sen chửa lại làng
Mộng thiếp dài như dòng sóng nước
Người đồn chàng ở chốn non Hoàng.
■
∗
Tư cô: Một thứ rau mọc ở cạnh nước thường úa lá vào
mùa thu.
∗
Núi Phượng Hoàng: Nhiều nơi có. Nhưng nổi tiếng thì
có núi ở phía nam Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang).
∗
Tây loan: Vịnh ở phía tây.
138. 358
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG KÍNH TRUNG
Không rõ quê quán, ngày tháng năm sinh. Theo quan
Ngự sử và Tướng quân Trương Nhân Trực đi đánh trận ở
phía bắc, được tín nhiệm, rồi giữ các chức Giám sát Ngự
sử, Lang trung bộ Lại. Năm 719 làm tới Tiết độ sử Bình
Lư (tỉnh Sơn Đông).
BIÊN TỪ
Ngũ Nguyên∗
xuân sắc cựu lai trì
Nhị nguyệt thùy dương vị quải ty
Tức kim hà bạn băng khai nhật
Chính thị Trường An hoa lạc thì.
BÀI HÁT BIÊN TRẤN
Ngũ Nguyên xuân sắc chậm lâu rồi
Liễu tháng hai mà tơ chưa lơi
Bây giờ băng giá bên sông rạn
Là lúc Trường An hoa cánh rơi.
■
∗
Ngũ Nguyên: Ở phía đông tỉnh Ninh Hạ, gần Diêm Trì.
139. TRƯƠNG KÍNH TRUNG
359
BIÊN TỪ
Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì,
Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti.
Tức kim hà bạn băng khai nhật,
Chính thị Trường An hoa lạc thì.
KHÚC HÁT BIÊN CƯƠNG
Xuân Ngũ Nguyên sao lại muộn về,
Tháng hai tơ liễu chưa lê thê.
Trong khi sông lớn băng vừa rạn,
Hoa ở Trường An rụng bốn bề.
■
140. 360
BÙI H NH C N — ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
TRƯƠNG LAI
HIỂU VŨ
Khinh âm giang thượng thiên phong tú,
Tiểu vũ tường biên bách thảo sinh.
Duy hữu xuân cầm úy cô khách,
Hiểu đề hồn tự cố viên thanh .
MƯA SỚM
Ngang sông râm mát nghìn non đẹp,
Mưa nhỏ bên tường cỏ biếc xinh.
Chỉ có chim xuân thương khách lẻ.
Tình quê mấy tiếng gọi bình minh.
■
TRƯƠNG LAI
141. TRƯƠNG LAI
361
TRƯƠNG NGẠC
Đỗ Tiến sĩ năm 708, phục vụ Trần Vương (người hoàng
tộc), sau lại giúp việc dưới trướng Kỳ Vương (em trai
Đường Huyền Tông). Vì không được triều đình chấp
thuận, nên phải chuyển làm chức Thừa ở Son Nhiễm (
tỉnh Sơn Đông).
CỬU NHẬT YẾN
Thu diệp phong xuy hoàng táp táp
Tình vân nhật chiếu bạch lân lân∗
Quy lai đắc vấn thu du nữ
Kim nhật đăng cao túy kỷ nhân .
TIỆC MỒNG 9 (THÁNG 9)∗
Xao xác lá thu vàng gió thổi
Long lanh nắng loáng rạng mây vần
Thù Du cài tóc nàng cho hỏi
Say khách nan cao được mấy lần.
■
∗
- Bạch lân lân: Mây xốp từng lớp trông như vây cá.
∗
- Mồng 9 tháng 9: Người trong gia đình thường rủ nhau
đi chơi đồi núi, tóc giắt cành thù du, uống rượu vui vẻ.
TRƯƠNG NGẠC