Tiểu luận môn tài chính tiền tệ các công cụ chính sách tiền tệ hiện nay ở việ...
Lien he viet nam ktpt-đức hoàng
1. Cuối thập kỷ 80, cùng với sự cải tổ của Liên Xô, các nước Đông Âu lần lượt bị sụp đổ,
nguồn viện trợ cho Việt Nam bị cắt giảm mạnh, giá cả đầu vào của sắt thép, dầu hoả, máy
móc thiết bị tăng, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên. Mặt khác, tình hình trong nước khó
khân, tiền không đủ chi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, để giải quyết tình trạng
này chính phủ phải in thêm tiền để các xí nghiệp quốc doanh mua nguyên vật liệu. Nền
kinh tế đã kiệt quệ lại càng khó khăn kiệt quệ hơn. Trước tình hình khó khăn đó, năm
1985 chính phủ đã đổi mới chính sách tiền tệ và thực hiện đổi tiền với tỷ lệ 10 đồng tiền
cũ bằng 1 đồng tiền mới nhằm giảm bớt lượng tiền trong lưu thông. Đồng thời với đổi
tiền là xoá bỏ bao cấp hàng tiêu dùng và điều chỉnh tiền lương. Giá cả hàng hoá nông
nghiệp được tự do hoá theo thị trường. Cơ chế hai giá dần dần được xoá bỏ, tiến tới giá cả
được hình thành và hoạt động trên cơ sở trao đổi thương mại. Giữa năm 1989 vai trò của
khu vực tư nhân đã được thừa nhận, những quy chế về thúc đẩy và giải phóng mọi tiềm
năng sản xuất của khu vực tư nhân được ban hành. Tuy nhiên sự phát triển của khu vực tư
nhân vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi môi trường sản xuất kinh doanh của chúng chưa
được hình thành. Trong nông nghiệp còn nhiều bất cập trong chế độ khoán sản phẩm,
mức đóng góp bắt buộc còn quá cao, chi phí cho sản xuất cao trong khi giá của lương
thực thực phẩm lại thấp. Nên nông dân không muốn tăng sản xuất của họ. Hơn nữa, bão
lũ lại xảy ra ở một số địa phương, sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, nạn đói xảy ra ở một
số nơi. Với những hoàn cảnh nêu trên người dân tích cực tích trữ hàng hoá lương thực,
vàng và đô la vì sợ đồng tiền Việt Nam mất giá, tạo nên cầu giả tạo tăng cao, giá cả tăng
vọt. Tất cả những điều trên là nguyên nhân gây ra lạm phát phi mã, trong khi tăng trưởng
thì giảm xuống gần như không. Năm 1986 tỷ lệ lạm phát lên đến 487,2%, năm 1987 là
301,3%, năm 1988 là 308,2%, năm 1989 tỷ lệ lạm phát ở mức 74,3%. Trong khi tăng
trưởng kinh tế ở những năm này chỉ khoảng 1% đến 2%. Giai đoạn trước 1989 tỷ lệ tăng
trưởng và tỷ lệ lạm phát luôn ngược chiều nhau. Bên cạnh sự đổi tiền là sự phát hành tiền
để bù đắp thiếu hụt ngân sách, giá cả thì tự do, hàng hoá thì khan hiếm do sản xuất trong
nước không tăng, trong khi nhập khẩu bị hạn chế do cơ chế xuất nhập khẩu chưa được tự
do hoá. Như vậy một mặt tiền thì dư thừa trên thị trường, nhu cầu hàng hoá cao, cung
hàng hoá thấp đưa đến lạm phát tăng nhanh đến chóng mặt, còn tỷ lệ tăng trưởng thì
không những không tăng mà còn thụt lùi. Vào thời điểm này, lạm phát và tăng trưởng gần
như không có mối quan hệ nào và nếu như có quan hệ thì số liệu cho thấy thì lạm phát
càng cao thì tăng trưởng càng thấp.
2. 1986 1987 1988 1989
Lạm phát 487,2 301,3 308,2 74,3
Tăng trưởng 3,4 3,9 5,1 8,0