Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam cho các bạn làm luận văn tham khảo
galaxy s5 chính hãng, ưu đãi tốt nhất, giá rẻ nhất tháng 08/2019
Tiểu luận Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam, HAY!
Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam , 9 Điểm!
Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam cho các bạn làm luận văn tham khảo
galaxy s5 chính hãng, ưu đãi tốt nhất, giá rẻ nhất tháng 08/2019
Tiểu luận Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam, HAY!
Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam , 9 Điểm!
Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc gia là rất phong phú và đa dạng, bao gồm: thương mại, đầu tư, du lich, văn hóa, quân sự, chính trị,… Những mối quan hệ này tạo nên nguồn thu, chi ngoại tệ cho một quốc gia và được phản ánh chặt chẽ trên cán cân thanh toán. Trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, việc theo dõi các luồng ngoại tệ ra vào là hết sức quan trọng để có được những chính sách đúng đắn, hiệu quả cho nền kinh tế, điều này khiến cho vai trò của cán cân thanh toán trở nên hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế phát triển quá nóng và đang gặp nhiều khó khăn, môi trường kinh tế quốc tế diễn biến tiêu cực, cán cân thanh toán phản ánh những diễn biến xấu của nền kinh tế. Thâm hụt trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán Việt Nam được đánh giá là một trong 3 ngòi nổ của khủng hoảng kinh tế. Vậy, thực chất cán cân thanh toán là gì, vai trò và sức ảnh hưởng của nó đến đâu trong nền kinh tế thời kỳ hội nhập hiện nay. Với đề tài tìm hiểu về cán cân thanh toán quốc tế và tình hình cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam, đề án này sẽ làm rõ một số vấn đề về cán cân thanh toán và thực tế diễn biến ở Việt Nam trong giai đoạn 2014-2015, cũng như chỉ ra những guy cơ tiểm ần trong cán cân thanh toán của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Hệ thống ngân hàng thương mại việt nam và những vấn đề đặt ra,Những hạn chế của ngân hàng thương mại Việt Nam,Yếu điểm của ngân hàng thương mại Việt Nam,
Báo cáo vừa được xuất bản với bản quyền thuộc về Ủy ban Kinh Tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.Với độ dài 294 trang, báo cáo này được xem là báo cáo công phu thứ 2 trong vòng 4 năm qua( báo cáo đầu tiên là của Chương trình Việt Nam tại Đại học Harvard năm 2009).
Báo cáo Kinh tế vĩ mô được xây dựng hàng năm với cách viết “thân thiện” với Đại biểu Quốc hội và các nhà hoạch định chính sách nhằm tổng kết và đánh giá diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam và thế giới, phân tích chuyên sâu một số vấn đề và chính sách kinh tế vĩ mô nổi bật trong năm, đồng thời thảo luận những vấn đề mang tính trung và dài hạn đối với nền kinh tế, từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách thiết thực.
Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc gia là rất phong phú và đa dạng, bao gồm: thương mại, đầu tư, du lich, văn hóa, quân sự, chính trị,… Những mối quan hệ này tạo nên nguồn thu, chi ngoại tệ cho một quốc gia và được phản ánh chặt chẽ trên cán cân thanh toán. Trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, việc theo dõi các luồng ngoại tệ ra vào là hết sức quan trọng để có được những chính sách đúng đắn, hiệu quả cho nền kinh tế, điều này khiến cho vai trò của cán cân thanh toán trở nên hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế phát triển quá nóng và đang gặp nhiều khó khăn, môi trường kinh tế quốc tế diễn biến tiêu cực, cán cân thanh toán phản ánh những diễn biến xấu của nền kinh tế. Thâm hụt trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán Việt Nam được đánh giá là một trong 3 ngòi nổ của khủng hoảng kinh tế. Vậy, thực chất cán cân thanh toán là gì, vai trò và sức ảnh hưởng của nó đến đâu trong nền kinh tế thời kỳ hội nhập hiện nay. Với đề tài tìm hiểu về cán cân thanh toán quốc tế và tình hình cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam, đề án này sẽ làm rõ một số vấn đề về cán cân thanh toán và thực tế diễn biến ở Việt Nam trong giai đoạn 2014-2015, cũng như chỉ ra những guy cơ tiểm ần trong cán cân thanh toán của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Hệ thống ngân hàng thương mại việt nam và những vấn đề đặt ra,Những hạn chế của ngân hàng thương mại Việt Nam,Yếu điểm của ngân hàng thương mại Việt Nam,
Báo cáo vừa được xuất bản với bản quyền thuộc về Ủy ban Kinh Tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.Với độ dài 294 trang, báo cáo này được xem là báo cáo công phu thứ 2 trong vòng 4 năm qua( báo cáo đầu tiên là của Chương trình Việt Nam tại Đại học Harvard năm 2009).
Báo cáo Kinh tế vĩ mô được xây dựng hàng năm với cách viết “thân thiện” với Đại biểu Quốc hội và các nhà hoạch định chính sách nhằm tổng kết và đánh giá diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam và thế giới, phân tích chuyên sâu một số vấn đề và chính sách kinh tế vĩ mô nổi bật trong năm, đồng thời thảo luận những vấn đề mang tính trung và dài hạn đối với nền kinh tế, từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách thiết thực.
Thiet ke Bao cao thuong nien - Vietcapital ar 2011
Tản mạn về cán cân thanh toán vn năm 2009
1. Tản mạn về cán cân thanh tóan Việt Nam năm 2009
TS. Trương Quang Thông
Đại học Kinh tế TP.HCM
Năm 2009 đã sắp khép lại. Chúng ta có thể ít nhiều hài lòng với nỗ lực và quyết sách của
Chính phủ trong việc điều hành nền kinh tế, trong những thăng trầm khác nhau, từ những
hệ lụy của cuộc khủng hỏang kinh tế thế giới nói chung, cũng như cuộc khủng hỏang
trong nội tại nền tài chính-ngân hàng Việt Nam nói riêng. Nền kinh tế vẫn cố gắng duy trì
một mức tăng trưởng khá cao so với các nước; gói kích cầu lãi suất trên một phương diện
nào đó đã được xem là một trong những cứu cánh kịp thời đối với các doanh nghiệp nói
chung. Cơn khủng hỏang dường như đã tạm lắng dịu đi. Thế nhưng, trong khi tản mạn
suy nghĩ về những số liệu kinh tế vĩ mô Việt Nam của năm 2009 sắp kết thúc, chúng ta
vẫn phải tự hỏi: có hay không những mầm mống bất ổn có thể gây những điều không tốt
đẹp cho những mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững mà chúng ta đang mong muốn?
Các phân tích về cán cân vãng lai Việt Nam
Chúng tôi bắt đầu từ các số liệu của cán cân thanh tóan Việt Nam trong khỏang thời gian
2005-2009. Nguồn dữ liệu chúng tôi lấy từ IMF, do những dữ liệu khả dụng công khai từ
các cơ quan Việt Nam thực ra còn manh mún và không đầy đủ. Một số chỉ tiêu có thể có
những sai lệch so với các số liệu công bố của các cơ quan hữu quan của Việt Nam, thế
nhưng, đôi khi những sự sai lệch đó vẫn có thể trở thành một chủ đề thảo luận nào đó.
Cán cân thanh tóan Việt Nam 2005-2009
ĐVT: triệu
USD
2008 2009
2005 2006 2007 Ước tính Dự báo
Cán cân vãng lai -560 -164 -6,992 -9,238 -7,318
Cán cân thương mại -2,439 -2,776 -10,360 -12,284 -7,074
Cán cân dịch vụ -296 -8 -894 -2,315 -1,858
Cán cân thu nhập -1,205 -1,429 -2,168 -1,969 -2,486
Chuyển giao 3,380 4,049 6,430 7,330 4,100
Cán cân vốn 3,087 3,088 17,540 9,175 5,024
Đầu tư trực tiếp 1,889 2,315 6,550 7,800 4,000
Nợ trung dài hạn 921 1,025 2,045 919 1,324
Đầu tư gián tiếp 865 1,313 6,243 -400 0
Cán cân vốn ngắn hạn -588 -1,565 2,702 856 -300
Nhầm lẫn và sai sót -396 1,398 -349 -100 0
Cán cân tổng thể 2,131 4,322 10,199 -162 -2,295
Nguồn: IMF
1
2. Từ bảng số liệu của IMF, chúng ta nhận thấy, thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam gia
tăng rất nhanh qua các năm. Trong khi IMF dự báo mức thâm hụt cán cân thương mại
năm 2009 là 7 tỷ đô la Mỹ trong bối cảnh suy thoái kinh tế, thì thông tin trong tháng
11-2009 cho biết, Bộ Kế họach-Đầu tư đã ước tính con số đó cho cả năm 2009 là 11 tỷ đô
la Mỹ. Nếu như trong các năm 2005-2006, tiền kiều hối (chiếm hơn 90% khỏan mục
“Chuyển giao”) đã vượt quá nhu cầu cần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại, làm giảm
nhẹ đáng kể thâm hụt của cán cân vãng lai, thì nay, tình hình trên đã trở nên xấu hơn
nhiều trong năm 2009. Lượng kiều hối nhận được trong năm 2009 đã có một sự sụt giảm
lớn so với năm trước. Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước TP.HCM cho biết, trong 10
tháng đầu năm, lượng kiều hối nhận được tại các ngân hàng trên địa bàn vào khỏang 2,6
tỷ đô la Mỹ, chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm ngoái. Chúng ta biết rằng, TP.HCM là nơi
nhận gần 60% tiền kiều hối cả nước. Con số kiều hối cả nước nhận được trong năm 2009
được giới chuyên môn ước tính sẽ xấp xỉ 6 tỷ đô la.. Kết hợp với nguồn số liệu của IMF,
nếu như các luồng tiền ròng về dịch vụ và thu nhập của năm 2009 không đổi so với 2008
(thâm hụt xấp xỉ 4,2 tỷ đô la) thì với thâm hụt thương mại ước tính 11 tỷ đô la, sau khi trừ
đi 6 tỷ tiền kiều hối, thì thâm hụt cán cân vãng lai có thể ước tính ở mức 9-10 tỷ đô la Mỹ
cho năm 2009.
Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nợ nước ngoài của Việt Nam
Theo lý thuyết, cán cân vãng lai là một trạng thái lý tưởng để diễn tả quan hệ nợ nần của
một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nếu cán cân vãng lai thặng dư, thì chúng ta
nợ nước ngoài ít hơn nước ngoài nợ chúng ta, và ngược lại. Thâm hụt cán cân vãng lai có
thể được bù đắp bằng thặng dư của cán cân vốn, trong đó, chúng ta mong muốn rằng, với
mục tiêu ổn định và cân bằng kinh tế vĩ mô, những nguồn bù đắp đó phải là những nguồn
dài hạn và ổn định. Trong bối cảnh Việt Nam, đó chính là các nguồn FDI và những khỏan
vay dài hạn nước ngòai. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI trong chín tháng giải
ngân là 7,2 tỷ đô la Mỹ, chỉ bằng 88,90% so với cùng kỳ năm 2008. Mức 10 tỷ đô la là
kỳ vọng cho tổng giải ngân FDI năm 2009 tại Việt Nam. Trong khi chúng tôi không có số
liệu nào về vốn đầu tư gián tiếp, và với giả định rằng mức 10 tỷ đô la giải ngân FDI là có
thể đạt được trong năm 2009, thì luồng tiền FDI gần như đã bù đắp được thâm hụt trong
năm của cán cân vãng lai.
Mức bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai còn cao hơn do chúng ta ngày càng mang nợ nhiều
hơn. Đồ thị bên dưới diễn tả mức chênh lệch ròng giữa rút vốn và tổng trả nợ các khỏan
nợ chính phủ và được chính phủ bảo lãnh trong các năm 2004-2008, qua đó, chúng ta có
thể nhận thấy mức chênh lệch ròng có xu hướng ngày càng dãn rộng ra. Hàng năm,
chúng ta vay nợ nhiều hơn là chúng ta trả nợ. Chênh lệch ròng năm 2008 đã vượt qua con
số 2 tỷ đô la Mỹ. Giả định rằng con số đó không đổi trong năm 2009, cộng với các khỏan
nợ “đột xuất” phát sinh trong năm 2009 là 2 tỷ đô la Mỹ (vay của ADB, Ngân hàng Thế
giới và Nhật Bản), thì luồng tiền ròng từ vay nợ nước ngòai có thể lên đến 4 tỷ đô la Mỹ.
Cuối cùng, bỏ qua nhầm lẫn và sai sót, trong khi chưa có dữ liệu gì về nguồn vốn đầu tư
gián tiếp cũng như các luồng vốn ngắn hạn khác, thì con số 4 tỷ đô la đó có thể tạm xem
như là thặng dư của cán cân tổng thể (?!).
2
3. Rút vốn và trả nợ nước ngoài 2004-2008
3,500
3,000
Số tiền (triệu USD)
2,500 Rút vốn trong kỳ
2,000 Tổng trả nợ trong kỳ
1,500
Chênh lệch giữa rút vốn
1,000 và trả nợ
500
-
2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Nguồn: Bộ Tài chính, Bản tin nợ nước ngoài số 3 (4-2009)
Thế nhưng, tại sao trong kỳ họp Quốc hội vừa qua (tháng 10,11-2009), chính phủ đã dự
báo mức thâm hụt cán cân tổng thể năm 2009 có thể lên đến con số 1,9 tỷ đô la Mỹ?
Các vấn đề đặt ra
Về mặt kỹ thuật, theo chúng tôi, có thể có những vấn đề sau đây:
- Như trên đã nói, các giả định và tính tóan phía trên của chúng tôi vẫn chưa đề cập
đến những chu chuyển tài chính ngắn hạn có thể gây ra những thâm hụt nặng nề
hơn cho cán cân tổng thể. Chúng ta chưa có dữ liệu gì về các luồng vốn đầu tư
gián tiếp và cả những luồng vốn ngắn hạn cho năm 2009. Theo IMF, cán cân
thanh toán Việt Nam đã ghi nhận một thặng dư kỷ lục của đầu tư gián tiếp lên đến
6,2 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007. Ghi nhận và quản lý các luồng vốn gián tiếp vẫn
còn là một vấn đề chưa được giải quyết rốt ráo hiện nay ở Việt Nam. Cũng theo
IMF, trong năm 2008 Việt Nam đã chứng kiến một mức thâm hụt 400 triệu đô la
Mỹ đối với đầu tư gián tiếp. Có hay không những luồng vốn đầu tư gián tiếp vốn
tiếp tục đảo chiều trong năm 2009 và chúng diễn ra với mức độ nào? Đó chính là
một câu hỏi lớn vẫn còn chờ lời giải đáp.
- Vẫn còn những tranh luận về mức độ chính xác của số liệu về các khỏan giải ngân
FDI hàng năm, đặc biệt là bản chất của các nguồn giải ngân. Xin đơn cử một ví
dụ sau đây: một doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam có mức
vốn đầu tư 100 triệu đô la Mỹ, trong đó, công ty mẹ chỉ cấp một số vốn điều lệ 20
triệu đô la. Phần còn lại phải đi vay trung dài hạn ngân hàng thông qua bảo lãnh
của chính công ty mẹ. Giả sử doanh nghiệp FDI đó vay số tiền 80 triệu đô la từ
một ngân hàng 100% vốn nước ngòai tại Việt Nam và việc giải ngân được thực
hiện bằng chuyển khỏan, từ tài khỏan nostro của ngân hàng đó mở tại New York,
về tài khỏan vốn chuyên dùng (Capital Account) của doanh nghiệp mở tại ngân
3
4. hàng cho vay tại Việt Nam. Bản chất của giao dịch vay vốn trên không hề làm gia
tăng quỹ ngoại hối cho nền kinh tế Việt Nam, vì thực chất, đó là giao dịch giữa
người cư trú-người cư trú. Đúng là tiền từ nước ngòai chuyển về cho giải ngân
FDI, nhưng không phải là một luồng tiền được ghi nhận vào cán cân thanh tóan.
- Cũng như vay đối với các khỏan vay mượn. Chúng ta biết rằng đối với một số
điều kiện vay ODA, và đặc biệt là vay tín dụng xuất khẩu (Export Credit), một tỷ
lệ giải ngân không nhỏ sẽ được chuyển ngân trực tiếp cho các nhà cung cấp nước
ngòai (người không cư trú-người không cư trú). Trong một chừng mực nào đó,
đối với các khỏan nhập khẩu được tài trợ bằng ODA và tín dụng xuất khẩu, thì
một sự “thâm hụt” cán cân thương mại chưa chắc đã là điều xấu. Còn ở phân tích
nguồn đối ứng, các luồng vốn ODA và tín dụng xuất khẩu tạo “thặng dư” cho cán
cân vốn dài hạn chưa hẳn là một điều tốt, những luồng thặng dư thực sự, với kỳ
vọng bù đắp cho thâm hụt của cán cân vãng lai.
Thay cho lời kết
Bài viết vốn đã mang tính chất tản mạn, tuy rằng nó xoay quanh các phân tích về cán cân
thanh tóan quốc tế. Chúng tôi hy vọng rằng nó có thể là một gạch nối cho một chủ đề sâu
xa hơn, chỉnh chu hơn, đó là việc sử dụng cán cân thanh toán quốc tế như là một công cụ
quan trọng trong họach định và thực thi chính sách tiền tệ và cơ chế tỷ giá của Ngân
hàng Nhà nước nói riêng và chính phủ nói chung. Người ta tự hỏi, có phải chăng những
khó khăn trong tính tóan, thống kê, phân tích và dự báo những đại lượng vĩ mô kinh tế vĩ
mô thể hiện trong bảng cán cân thanh tóan là một trong những nguyên nhân chính gây
nên sự thụ động, lúng túng của các cơ quan hữu quan trong thời gian qua trong việc điều
hành chính sách tiền tệ?. Chẳng hạn, nếu như cán cân cơ bản (=cán cân vãng lai+cán cân
vốn dài hạn) được dự báo là thặng dư, thì đó chính là hàm ý của một khả năng lên giá
đồng nội tệ. Thế nhưng, tại sao cuối cùng lại là một sự thâm hụt lớn ngòai dự đoán của
cán cân tổng thể, được xem là một trong những nguyên nhân chính để dẫn đến hành động
phá giá nội tệ đột ngột trong những ngày cuối tháng 11-2009? Rõ ràng, chúng ta vẫn còn
lúng túng, và chồng chéo trong việc quản lý các nguồn vốn đầu tư gián tiếp. Việc phối
hợp quản lý các luồng FDI, ODA, tín dụng xuất khẩu vẫn chưa thực sự thông suốt giữa
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế họach-Đầu tư, Bộ Tài chính. và một số cơ quan khác.
Tản mạn phân tích một vài dữ liệu kinh tế vĩ mô quan trọng của kinh tế Việt Nam năm
2009 thể hiện trong cán cân thanh tóan quốc tế không chỉ hướng đến thảo luận những vấn
đề có tính kỹ thuật. Bài viết tự thân đã thể hiện những khó khăn của người viết trong việc
thu thập những dữ liệu, trong việc sử dụng những giả định và vẫn chưa đề cập và phân
tích đến phần “chất lượng” của đầu tư FDI và vay nợ nước ngoài, với tư cách là là hai
nguồn vốn chính để bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai Việt nam trong nhiều năm qua,
nhằm mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô theo hướng bền vững. Để làm được
việc đó, theo chúng tôi, vấn đề khả năng tiếp cận thông tin kinh tế-tài chính của giới
nghiên cứu, và trên hết, đó là vấn đề minh bạch thông tin, chính là một trong những điều
kiện tiên quyết.
Tháng 1/2010
4