SlideShare a Scribd company logo
SÓNG
~ XUÂN QUỲNH ~
1. Sự tự thức của người phụ nữ khi yêu
- Từ xa xưa, người con trai đã mượn “sóng” để nói lên lời vàng đá:
“Bao giờ cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ bể anh mới đành bỏ em” (Ca dao)
- Trong phong trào Thơ mới, thi sĩ Xuân Diệu cũng đã từng mượn chuyện của sóng, biển và bờ để giãi bày
tình yêu của mình:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hồn êm đềm mãi mãi” (Biển – Xuân Diệu)
- Trước Xuân Quỳnh, hình ảnh “sóng” thường tượng trưng cho tình yêu của người con trai mạnh mẽ, nồng
nàn, quyết liệt…
- Trong bài thơ “Sóng”, hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ chính là “sóng”. Ở lớp nghĩa thực, sóng
được miêu tả cụ thế, sinh động là những con sóng ngoài biển khơi bao la với nhiều trạng thái mâu thuẫn,
trái ngược nhau. Ở lớp nghĩa biểu tượng, sóng là tình cảm trong tâm hồn người con gái với trái tim rạo rực
khao khát yêu thương.
- Nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức những đặc tính, những phẩm chất, những trạng thái tâm lí
bí ẩn, riêng tư, đầy nữ tính của một trái tim phụ nữ đang say đắm trong tình yêu.
- Những câu thơ trong khổ đầu miêu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tàng những nét nghĩa ẩn dụ
gợi sự liên tưởng sâu xa, tinh tế tới tình yêu của người phụ nữ.
- Nhịp ngắt 2/3 và sự đan xen các thanh bằng - trắc cuối mỗi vế câu khiến hai câu đầu như chao đưa giữa
những đối cực:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
+ Hai câu thơ có tới 4 tính từ mang sắc thái tương phản cả về ngữ âm và ngữ nghĩa đã gợi ra sự thất
thường muôn đời của sóng; giữa từng cặp từ tương phản là từ và cho thấy đại dương mênh mông vốn luôn
hàm chứa, luôn tồn tại đồng thời những trạng thái đối lập, những thay đổi đột ngột, bất ngờ khi dữ dội, ồn
ào, bão tố, lúc yên ả, lặng lẽ, dịu êm...
+ Những trạng thái thất thường của sống đã gợi liên tưởng thật tự nhiên đến trái tim người con gái khi
yêu, bởi cũng như sống, trái tim vốn rất nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương của người con gái luôn bao hàm
những trạng thái tâm lí đầy mâu thuẫn, phức tạp, thất thường với những vui buồn, nhớ nhung, mong
ngóng, giận dỗi – những dữ dội, ồn ào là sống mà lặng lẽ, dịu êm cũng vẫn là sóng; khi vui, lúc buồn, khi
mãnh liệt sôi nổi, lúc dịu dàng làm thám, khi gần gũi như những con sống âu yếm vỗ bờ, lúc lại xa xôi như
những con sóng rời bờ, tít tắp ngoài khơi... tất cả những trạng thái thất thường ấy đều là những biểu hiện
của tình yêu.
+ Những cung bậc tình cảm đó đã được Puskin đề cập đến trong bài thơ “Sao mà anh ngốc thế”:
“Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay?
Lời nói gió thoảng bay
Đôi mắt huyền đẫm lễ
Sao mà anh ngốc thế
Chẳng nhìn vào mắt em!”
+ Tình yêu luôn là sự thống nhất kì lạ của những mâu thuẫn, luôn mang trong mình những trạng thái tâm
lí phong phú, phức tạp, đầy biến động, cũng bởi vì tình yêu muôn thuở có bao giờ đứng yên (Xuân Quỳnh);
tình yêu đích thực luôn xa lạ với trạng thái thăng bằng, bình thản tới vô cảm.
+ Sự thất thường vì thế không chỉ là đặc tính của tình yêu mà còn tạo nên nét duyên dáng, đáng yêu, tạo
nên sự quyến rũ cho tình yêu người phụ nữ.
+ Tuy nhiên, cấu trúc của hai câu thơ cũng bộc lộ tinh tế nỗi lòng người phụ nữ khi yêu: sau những dữ dội,
ồn ào, cả hai câu đều kết lại bằng trạng thái lặng lẽ, dịu êm - người phụ nữ có thể vui buồn thất thường, có
thể có những biểu hiện phức tạp tới khó hiểu trong tình yêu, nhưng điều cuối cùng họ khao khát hướng tới
vẫn luôn là cảm giác bình yên.
- Tới hai câu sau, sóng được đặt trong mối quan hệ với đồng và bể:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
+ Có thể hiểu hai câu thơ ở những nét nghĩa khác nhau căn cứ vào chức năng ngữ pháp của từ Sông. Khi
coi sống là một chủ thể cảm nhận, hai câu thơ sẽ là một câu ghép chính phụ, ý thơ sẽ là một tuyên bố mạnh
mẽ và kiên quyết: nếu sống không hiểu nối những khát vọng mãnh liệt của mình thì sóng dứt khoát từ bỏ
nơi chật hẹp đó, từ bỏ một không gian có thể là quen thuộc, bình yên, tìm ra tận bể, nơi có sự đồng cảm lớn
lao, nơi có thể tìm thấy một tình yêu đích thực sự.
+ Người phụ nữ thường khao khát những bên bờ quen thuộc, bình yên của tình yêu song không vì thế mà
cam chịu, nhẫn nhịn, họ đầy bản lĩnh để có thể chủ động, kiêu hãnh và quyết liệt hướng tìm sự đồng điệu,
tri am.
+ Cũng có thể hiểu sống như một trạng ngữ chỉ không gian, nơi chốn, sông là bối cảnh, là hoàn cảnh sống,
một yếu tố thường có sức chi phối mạnh mẽ tới tâm hồn, tính cách con người; lúc đó ý thơ thể hiện một cố
gắng không mệt mỏi của sóng để có thể được sống đúng với Bản Ngã của mình: giới hạn chật hẹp của hai
bên bờ sông làm bức bối những con sóng, trong lòng sông, sóng không thực sự là mình, không hiểu nổi
mình, không nhận ra mình.
+ Sóng tìm ra bể lớn để thỏa sức vẫy vùng, để trở lại chính mình giữa đại dương mênh mông, phóng
khoáng, để có thể nhận thức được sức mạnh và những khát khao của mình trong những mãnh liệt của đam
mê. Với riêng Xuân Quỳnh, biển bao chứa chở nỗi khát khao thầm kín và vô cùng mãnh liệt.
“Suốt cuộc đời biển gọi những ước mơ
Nỗi khát vọng những chân trời chưa đến” (Biển_Xuân Quỳnh_)
+ Trong trường liên tưởng của tử thơ. nếu sống không còn là sóng bởi những giới hạn chật hẹp thì tình yêu
cũng không còn là tình yêu nếu có những điều kiện, buộc ràng, người phụ nữ không chấp nhận sự tầm
thường, nhỏ hẹp; họ luôn khao khát khám phá chính mình trong tình yêu, khao khát một tình yêu lớn lao,
khao khát được giải phóng khỏi mọi giới hạn để con người thực sự là mình, tình yêu thực sự là tình yêu.
+ Như vậy, dù hiểu theo nghĩa nào, bản chất của tình yêu đều mang những nét tương đồng với sóng, đó là
đều khao khát vươn tới sự mạnh mẽ, lớn lao, phóng khoáng, cao cả không cùng.
- Đặt trong một sự so sánh, trong xã hội phong kiến với những định kiến của Nho giáo, người phụ nữ phải
cam chịu và thụ động trước sự sắp đặt của số phận, chỉ có thể cất lên những tiếng than thân trách phận
“Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
- Sau đó cũng đã có người phụ nữ ý có ý thức phản kháng nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc, tuyệt vọng
như trong thơ Xuân Hương nữ sĩ
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
- Nhưng Xuân Quỳnh đã đại diện cho tiếng nói của người phụ nữ hiện đại. Người con gái trong tình yêu
không còn cam chịu, nhẫn nhục nữa mà đã minh bạch, quyết liệt rời xa tình yêu vị kỷ, bé nhỏ để đến với
tình yêu cao thượng, vị tha, bao dung, Pascal năm xưa và Xuân Quỳnh ngày nay đều cảm nhận: “Tình yêu
nâng cao con người thoát khỏi sự tầm thường”.
- Giống như sóng, tình yêu là một khái niệm khó giải thích cho minh bạch. Tình yêu là vậy và khát vọng
tình yêu của con người thì muôn đời không thay đổi
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế”
+ Sóng được đặt giữa ngày xưa và ngày sau. Những khái niệm chí thời gian và ý nghĩa khẳng định của
cụm từ vẫn thế đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng bởi trong thực tế, biển là một thế giới vô biên
với vô vàn những con sóng vĩnh viễn xao động.
+ Sự hoà nhập tinh tế các nét nghĩa ẩn dụ trong khổ thơ đưa người đọc đến một cảm nhận tương đồng giữa
sóng và tình yêu: giống như những con sống từ ngàn xưa cho đến mai sau mãi cồn cào trong lòng biển, mài
trường tồn và vĩnh cửu với thời gian, nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người cũng
là khát vọng đã có tự muôn đời của nhân loại. Xuân Diệu từng khẳng định: Làm sao sống được mà không
yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào!
- Tình yêu cũng không bó hẹp trong một phạm vi lứa tuổi nào, nhưng tình yêu thường đi đôi với tuổi trẻ.
Tình yêu tràn đầy cơ sở thanh xuân, làm bồi hồi khiến trái tim lúc nào cũng thổn thức nhớ mong. Cũng như
Xuân Diệu nói:
"Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu"
+ Bởi chỉ có tuổi trẻ mới có sức mạnh để đẩy ước vọng tình yêu lên thành khát vọng để tình yêu trở thành
hiện thực không còn xa vời lý thuyết nữa mà hạnh phúc đắm say trong tầm tay và trái tim.
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
+ Trong cảm nhận của người phụ nữ đang yêu khi đứng trước đại dương, mặt biển giống như vòng ngực trẻ
trung, cường tráng của trời đất, sóng tựa nhịp thở phập phồng mang khát vọng tình yêu bồi hồi trong ngực
biển.
+ Hình tượng thơ làm hiện ra một tương đồng rạo rực: biển tựa như con người, sống giống như nhịp đập
của trái tim yêu đương, còn biển thì còn sống, còn con người thì còn khát vọng tình yêu. Cũng như những
con sống muôn đời dào dạt, sôi nổi trong lòng biển, tình yêu là khát vọng vĩnh hằng của con người, và mãnh
liệt nhất là của tuổi trẻ. Trong ca dao, trai gái ngày xưa cũng đã từng khao khát như thế:
“Thấy anh như thấy mặt trời;
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao”.
+ Ngoài ra, cũng có thể hiểu chính những con sóng trào dâng cuồn cuộn khiến biến lớn muôn đời trẻ trung,
tình yêu đem đến cho con người niềm vui tràn trề và sức sống mãnh liệt tuổi thanh xuân... Trong văn học
trung đại, nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng vì tiếng sét ái tình mà đã vượt lên lễ giáo phong kiến,
dù đêm hôm nhưng vẫn “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến tình tự cùng Kim Trọng.
2. Suy tư, trăn trở về cội nguồn tình yêu
- Bao điều em nghĩ cứ giăng hàng kéo về như những con sóng nối tiếp nhau
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
+“Muôn trùng” ý chỉ số nhiều. Từ đó gợi mở không gian rộng lớn bao la. Biển vốn đã mênh mông nhưng
giờ lại càng rộng lớn hơn gấp bội trong cách kết hợp “muôn trùng sóng bể”. Dường như chỉ có không gian
rộng lớn mênh mông ấy, sóng mới có thể thỏa sức vẫy vùng. Trong không gian ấy, sóng mới có thể là chính
mình sống thật với những suy nghĩ cảm xúc. Và đó không chỉ là không gian hoạt động của sóng mà đó còn
là không gian tâm tưởng của chính em.
+ Trong không gian rộng lớn ấy, con người thường thấy mình nhỏ bé. Bởi lẽ mặt biển nhìn có vẻ êm đềm là
thế nhưng bên dưới là sự vận động không ngừng của nước. Thời gian cũng thế. Nó cứ diễn ra chậm chạp
con người không cảm nhận được. Nhưng từ giây phút này đã khác giây phút qua. Mọi thứ luôn vận động
không ngừng. Trong sự vận động của thời gian ấy con người không thể làm được gì, không thể can thiệp
được chỉ đành phó mặc cho thời gian xô đẩy. Con người không thể làm gì để thoát khỏi quy luật ấy nên chỉ
đành ngậm ngùi chấp nhận như một lẽ tất yếu của cuộc sống.
+ Dòng thời gian cũng như dòng nước cứ chảy mãi dường như vô thủy vô chung với cuộc đời này. Đó là vì
sao đứng trước không gian rộng lớn bao la con người luôn ý thức được rõ ràng hơn bản thân mình. Xuân
Quỳnh cũng vậy. Xuân Quỳnh cũng bắt đầu suy ngẫm về cuộc sống, suy ngẫm về tình yêu.
+ Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng, rất đặc biệt của con người, tình yêu thường phát triển
theo những quy luật chung của cuộc sống và quy luật riêng của tình cảm lứa đôi. Trước khát vọng tình yêu
mãnh liệt, trước sự kì diệu của tình yêu, con người thường có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn
tại trong lòng nó và luôn muốn cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lí không
dễ giải thích bằng những lí lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời chính xác về nguyên nhân, về khởi nguồn
của tình yêu, đúng như sự băn khoăn của Xuân Diệu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”.
+ Điệp cấu trúc “em nghĩ về…” càng nhấn mạnh nỗi niềm. Nỗi niềm ấy, suy tư ấy không phải của ai,
không thay ai nói mà đó là nỗi niềm của riêng một mình Xuân Quỳnh, của chỉ riêng Xuân Quỳnh mà thôi.
+ Bài thơ mượn hình ảnh của sóng, đáng lẽ phải là “sóng nghĩ về” nhưng Xuân Quỳnh lại trực tiếp nói lên
nỗi lòng mình. Dường như em và sóng đã hòa vào làm một. Nói về sóng nhưng thực chất là nói về tình cảm
của em dành cho anh. Cảm xúc trào dâng không sao dừng lại được như những đợt sóng dâng cao vỡ òa
trong cảm xúc, để rồi từ đó mà tan ra vô vàn tình cảm.
+ Đứng trước không gian rộng lớn ấy, đáng lẽ điều đầu tiên hoặc đối tượng đầu tiên phải nghĩ đến đó chính
là bản thân. Nhưng với Xuân Quỳnh thì không. Điều đầu tiên hiển hiện trong tâm trí của em đó là anh. Chỉ
có anh mà thôi. Anh luôn là điều đầu tiên em nghĩ đến, là ưu tiên hàng đầu và dường như đây đã đi sâu vào
tiềm thức của em. Một khi đã đi vào tiềm thức thì ta cũng hiểu được tình cảm ấy phải sâu đậm đến dường
nào. Nghĩ đến anh rồi mới nghĩ đến em. Vậy nghĩ gì về anh nghĩ gì về em nghĩ gì về chúng ta. Có lẽ câu trả
lời đích xác chỉ có thể em mới có thể trả lời được mà thôi.
- Tâm hồn luôn trăn trở của Xuân Quỳnh cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về mình cùng
những băn khoăn suy ngẫm về tình yêu. Suy ngẫm hiện lên trong các câu hỏi về sóng: Tự nơi nào sóng lên,
về gió: Gió bắt đầu từ đâu? và sau cùng lại trở về với câu hỏi muôn đời: Khi nào ta yêu nhau? Những câu
hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa suy ngẫm của con người tới
vô tận. Câu hỏi đầu tiên về sóng, lời đáp dễ dàng, chóng vánh: sóng bắt đầu từ gió.Câu hỏi thứ hai riết ráo
hơn, lí trí muốn đây những băn khoăn trăn trở đến tận cùng: nếu sống bắt đầu từ giỏ thì gió bắt đầu từ đâu?
Câu trả lời xuất hiện nhưng lại mơ hồ chơi vơi giữa hai câu hỏi về gió và tình yêu:
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?
+ Câu trả lời chung “Em cũng không biết nữa” cho thấy cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không
thể cắt nghĩa, đều không có lí lẽ hay quy luật - nếu có thì đây cũng là quy luật riêng của trời đất, lí lẽ riêng
của tình yêu. Em không biết gió có từ đầu, em không biết những xao xuyến của trời đất có từ bao giờ, cũng
như em không biết khi nào ta yêu nhau, càng không thể cắt nghĩa: vì sao ta yêu nhau?
+ Đây cũng là một quy luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm thường đến trước lí trí, thậm chí nhanh hơn
lí trí, dẫn dắt lí trí; tuy nhiên, chính sự bí ẩn của trực cảm lại là yếu tố tạo nên nét quyến rũ của tình yêu;
khi con người không thể lí giải nổi tình yêu của mình thì cũng là lúc họ đang sống thật nhất với những xúc
cảm vô tự, chân thành của tình yêu. Tuy không trả lời được nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình
đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:
"Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?" (Thế Lữ)
+ Cấu trúc đáo trong hai câu cuối của khổ thơ: đáp trước - hỏi sau khiển câu trả lời duyên dáng như một nụ
cười vừa bối rối, vừa hạnh phúc: bối rối vì sự bất lực của lí trí, và hạnh phúc khi nhận ra một điều kì diệu:
tình yêu đích thực không cần tới bất cứ một lí do nào, tình yêu lớn lao hơn mọi thứ lí trí trên đời; tình yêu
hồn nhiên, giản dị mà mãnh liệt, như sóng như gió, như thiên nhiên muôn đời bí ẩn, như một lẽ tự nhiên
huyền diệu của đất trời.
3. Tín hiệu của tình yêu
- Nhớ nhung là một tín hiệu của tình yêu nhất là khi sống trong xa cách.
+ Người con gái trong ca dao xưa đã mượn vầng trăng để diễn tả mòn mỏi trong nhung nhớ.
“Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hay gầy đêm đêm.”
+ Nhà thơ của những vần thơ triết lí – Chế Lan Viên lại mượn quy luật của tự nhiên để nói lên quy luật
yêu thương vĩnh cửu của con người
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”
+ Và khi nghĩ về “yêu”, ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng từng viết:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
… Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít”
- Với Xuân Diệu, “yêu là chết ở trong lòng một ít”. Với Xuân Quỳnh, bà gửi nghĩ suy về tình yêu qua hình
tượng những con sóng.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
+ Trong thực tế, sống là một hiện tượng thiên nhiên xuất hiện khi gió tạo nên những dao động trong nước,
hiện tượng ấy mang tính chất vĩnh hằng bởi sóng luôn tồn tại hoặc trên bề mặt, hoặc dưới lòng sâu thăm
thẳm của đại dương và luôn cố xu thế hướng vào bờ.
+ Trong 4 câu thơ đầu, nhà thơ dường như mới chỉ miêu tả sắc thái của sóng: những từ ngữ trùng điệp luân
chuyển nối tiếp tạo ra nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, làm hiện lên hình ảnh những con sóng đang hăm hở trào
dâng, và trong cảm nhận của Xuân Quỳnh, đó là những con sống đang nhớ bờ cồn cào, mãnh liệt, đó là
những con sóng vì nhớ bở mà thao thức, ngày đêm ào ạt vỗ bờ như không cần biết đến thời gian.
+ Nỗi nhớ ủy đầy ắp không gian dù dưới lòng sâu hay trên mặt nước, nỗi nhớ ấy tràn ngập thời gian dù là
ngày hay đêm. Quan sát sóng bằng trái tim đang yêu, Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kì
diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn
dào dạt trong lòng mình, thi sĩ đã mượn sóng để thể hiện trước hết là nỗi nhớ ở trạng thái cảm xúc luôn gắn
liền với tình yêu.
+ Ca dao từng nói về nỗi nhớ trong tình yêu: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa như ngồi đống
than; Xuân Diệu bộc lộ: Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh - anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi...; còn
nỗi nhớ của Hàn Mặc Tử lại hiện lên trong nỗi ngơ ngác: Người đi, một nửa hồn tôi mất – Một nửa hồn tôi
hóa dại khờ...
+ Thực ra, chỉ cần ý nghĩa nhân hoá trong hình ảnh con sóng nhớ bờ, khổ thơ đã có thể gợi ra nỗi nhớ cồn
cào da diết của tình yêu. Nhưng hình như khi muốn bộc lộ nỗi nhớ của người phụ nữ đang yêu, trạng thái
cảm xúc đặc biệt này không đựng vừa trong hình tượng sóng qua tầng nghĩa ẩn dụ, Xuân Quỳnh viết thêm
2 cầu cho một khổ thơ đã hoàn chỉnh khiến nỗi nhớ như trào dâng khỏi những khuôn khổ, mực thước thông
thường:
“Lòng em nhớ tới anh
Cả trong mơ còn thức”
+ Hai câu thơ trước hết là nỗi nhớ trong ý nghĩa tương đồng với sóng: Sóng vỗ bờ cả ngày và đêm, sóng
nhớ bờ cả ngày và đêm, em cũng nhớ anh mọi nơi, mọi lúc; nếu sóng vì nhớ bờ mà ngày đêm không ngủ
được thì em vì nhớ anh mà thức cả trong mơ, nếu nỗi nhớ bở của sóng bao trùm, chế ngự cả cái không cùng
của thời gian và không gian thi nỗi nhớ của em với anh lại xâm chiếm toàn bộ thế giới vô biên của tâm hồn,
nỗi nhớ cụ thể trong ý thức, nỗi nhớ mơ hồ trong tiềm thức, nỗi nhớ hiện hữu trong từng ý nghĩ và nhịp
thở...
+ Câu thơ gợi liên tưởng tới nỗi thao thức của cô gái trong ca dao xưa: Đêm nằm lưng chẳng tới giường -
Mong cho chóng sáng ra đường gặp anh. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ
nữ: sóng khao khát hướng vào bờ, em khao khát được có anh; tình yêu hiện lên đằm thắm, giản dị và trong
sáng, thuỷ chung, khát vọng tình yêu cũng được bộc lộ táo bạo, chân thành.
+ Tuy nhiên, trạng thái trong mơ còn thức không chỉ là nỗi nhớ, đó dường như còn là những dự cảm lo âu
của một trái tim phụ nữ luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc nhưng lại có quá nhiều những trải nghiệm
đắng cay, một trái tim từng bầm dập đau đớn vì những tổn thương, mất mát trong tình yêu nên luôn lo sợ
“Lời yêu mỏng manh như làn khói -Ai biết lòng anh có đổi thay”, một trái tim luôn xót xa: “em đâu dám
mong là vĩnh viễn - Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi”, và do vậy, khi người phụ nữ đang yêu mà trong mơ
còn thức thi thức không chỉ để nhớ tới anh, thức còn như để trông giữ tình yêu, đề tình yêu không tuột khỏi
tầm tay.
+ Trăn trở, âu lo bất ổn luôn là nét tâm lí ám ảnh quen thuộc trong hồn thơ Xuân Quỳnh, cũng là nét riêng
tạo nên cái mong manh xa xót cho tình yêu.
“Em khác chi con tàu
Nay đây rồi mai đó
Nên cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ” (Con tàu).
- Những câu thơ một lần nữa tỏa sáng quan niệm tình yêu của chị
“Ôi tình yêu muôn thuở
Có bao giờ ngủ yên”
4. Phẩm chất của tình yêu
- Càng nhớ nhung bao nhiêu, người con gái trong tình yêu lại muốn gắn bó, chung thủy bấy nhiêu. Sóng và
em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang theo lớp
lớp tâm tình của em:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
+ Nếu phương Bắc, phương Nam gợi những không gian xa xôi, cách trở, những không gian thường được
lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, trong cuộc đời (Vừa thoáng tiếng còi tàu – lòng đã Nam
đã Bắc... - Xuân Quỳnh ) thì các động từ ngược hướng như xuôi, ngược lại thể hiện những vất vả, gian khó,
truân chuyên...
+ Có một sự khác biệt trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh so với quy ước cũng như tâm thế thông thường:
không phải ngược Bắc, xuôi Nam mà là xuôi Bắc, ngược Nam... sự khác biệt ấy hình như đã hé mở những éo
le, trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung, trong tình yêu của nữ sĩ nói riêng.
+ Nếu cấu trúc điệp cú pháp của hai câu thơ làm đậm thêm những éo le, những xa xôi, cách trở thì từ dầu
điệp lại ở đầu hai câu thơ lại khẳng định bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ - bản lĩnh của những cô gái
tự ngàn xưa “Yêu nhau mấy núi cũng trèo - mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.” Và riêng với Xuân
Quỳnh, khó khăn trong tình yêu hình như không chỉ là những gian truân, vất vả mà còn là những trắc trở
éo le.
+ Ý thơ của Xuân Quỳnh có lẽ còn chứa đựng một hàm ý: không dễ dàng để tới được bến bờ của hạnh phúc,
nhưng khi con người có thể vượt qua những thử thách, khó khăn thì tình yêu lại càng bền vững, bến bờ hạnh
phúc của tình yêu sẽ càng thêm quý giá.
+ Xuân Quỳnh đã cho thấy một quan niệm thật đẹp khi khẳng định tình yêu đích thực không phụ thuộc
vào những không gian Nam, Bắc, những phương hướng ngược, xuôi, trái tim chỉ biết yêu thương mà không
bận tâm đến những logic khách quan của cuộc đời.
+ Hơn thế nữa, khi cái logic thông thường của lí trí đã bị xoá mờ thì trong tâm hồn người phụ nữ đang
khao khát yêu thương chỉ còn lại hai miền ngược xuôi để hướng về anh, hướng về tình yêu.
- Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói “Xuôi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xuân Quỳnh lại nói “Xuôi Bắc,
ngược Nam” là cách nói ngược. Phải chăng tình yêu đã làm cho con người bị đảo lộn phương hướng ?
Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không thể nào nguôi nhớ đó là phương anh:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
+ Từ cuối cùng của khổ thơ lại là từ phương, một từ chỉ hướng trong không gian, tình yêu của người phụ
nữ đã đem đến một sáng tạo mới mẻ, độc đáo cho ngôn từ: với tình yêu, không có phương Nam hay phương
Bắc, mọi không gian khách quan đều vô nghĩa trước không gian kì diệu của tình yêu, người phụ nữ son sắt
thuỷ chung chỉ duy nhất hướng về phương anh, phương có người yêu dấu - giữa cuộc đời rộng lớn, giữa vũ
trụ bao la, anh là bến bờ hạnh phúc duy nhất để lòng em hướng tim.
“Chỉ riêng điều được sống cùng anh
Niềm mơ ước trong em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh”
+ Nỗi nhớ và sự thuỷ chung trong tình yêu khiển vũ trụ không còn Nam Bắc Đông Tây mà như được chia
đôi: phương trời có anh đẹp đẽ, ấm áp, tươi sáng, mọi phương không có anh đều trở nên lạnh lẽo, u buồn
“Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại
Ngọn gió buồn vẫn thổi phía không anh.”
+ Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”.
Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là
bất di bất dịch. Anh đã thành “hệ quy chiếu” của đời em, thành ý nghĩ luôn canh cánh, thường trực trong
lòng em; nếu nhớ là xúc cảm tự nhiên, cảm tính thì nghĩ là tình cảm lâu bền, lắng đọng những suy tư sâu
sắc, chín chắn...
- Những khát vọng tình yêu sôi nổi, cháy bỏng được bày tỏ vừa mạnh mẽ, táo bạo, vừa chân thành, nữ tính,
qua đó làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ vừa hiện đại, vừa truyền thống.
- Giữa những ngược xuôi Nam Bắc của cuộc đời, người phụ nữ chỉ hướng về một phương duy nhất, nơi có
anh. Cũng như thế, giữa muôn vời cách trở của đại dương xa xôi, mọi con sóng đều chỉ tha thiết hướng tới
bờ:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.”
+ Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù
muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta
thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau.
+ Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời
những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ
hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ.
+ Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến
được với người mình yêu.
+ Nếu để ý kỹ ta sẽ thấy, khổ thơ có cấu trúc đảo độc đáo. Chúng ta có thể thay đổi trật tự các câu thơ
trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào
chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ
thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi.
+ Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh”
làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời
thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy
sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
+ Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão
của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin
yêu như thế:
“Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ”
+ “Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã
yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng!
Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử.
5. Khát vọng tình yêu mãnh liệt
- Không dừng lại trong niềm tin vào tình yêu như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm giàu suy tư của
Xuân Quỳnh tiếp tục mở ra những trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những hình ảnh của thời gian và
không gian:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
+ “Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết
hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời
gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh.
+ Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây
bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn.
Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể
chỉ là một thoáng phù vân.
+ Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của
nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều có thật như chính Xuân
Quỳnh đã từng viết cho Lưu Quang Vũ:
“Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng em lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về
những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống.
Em nhìn mặt em trong gương, em thấy em không xứng đáng với anh.
[…] Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em buồn lắm….Em rất muốn em
trẻ đẹp lại cho tuổi tác và hình thức của mình. Có thể anh không cần như thế, nhưng em cần như thế. Vì
chắc chắn rằng em trẻ hơn và đẹp hơn, anh sẽ yêu em hơn”.
+ Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu.
Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như
làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối
cũng đầy những ám ảnh.
+ Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như
đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng
không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay.
+ Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin
yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.
- Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi
em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng
thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo,
dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
+ Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của
người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào
cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng
nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt
qua giới hạn mong manh của cõi người.
+ “Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút
giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng
hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em
yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử
của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát
được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như
thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.
- Hai câu cuối mở ra cảm giác mênh mang của không gian biển lớn cùng sự vĩnh hằng của thời gian ngàn
năm.
+ Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý
thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân
loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử
với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở
đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu
anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi”
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát)
- Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những
“cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia
cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau
không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy
cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển
lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa
xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá
thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.

More Related Content

Similar to Sóng.pdf

Phút giây và mãi mãi (2)
Phút giây và mãi mãi (2)Phút giây và mãi mãi (2)
Phút giây và mãi mãi (2)
Cherry Bui
 
Vội vàng.pdf
Vội vàng.pdfVội vàng.pdf
Vội vàng.pdf
1111A6DngGiaHuy
 
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdfve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ThoNguyn154572
 
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân DiệuBài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
hongchau206306
 
Tuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptTuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.ppt
thao299200
 
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liênNghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
nataliej4
 
ÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt Long
ÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt LongÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt Long
ÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt Long
longvanhien
 
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docxCẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
16LChungKin
 
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and
1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and
1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and
chanhngot1632
 
Troi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuong
Troi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuongTroi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuong
Troi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuong
Phan Book
 
@*#*&$&$*##@&@&*@*
@*#*&$&$*##@&@&*@*@*#*&$&$*##@&@&*@*
@*#*&$&$*##@&@&*@*
Thường Phi
 
88 đề văn cảm thụ lớp 5
88 đề văn cảm thụ lớp 588 đề văn cảm thụ lớp 5
88 đề văn cảm thụ lớp 5
dung nguyễn
 
kiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mới
kiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mớikiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mới
kiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mới
NguynYn792481
 
Một nửa VHN
Một nửa VHNMột nửa VHN
Một nửa VHN
Vo Hieu Nghia
 
Thu cam 1
Thu cam 1Thu cam 1
Tuan 22 Trang giang.pptx
Tuan 22 Trang giang.pptxTuan 22 Trang giang.pptx
Tuan 22 Trang giang.pptx
ssuserf4b9ff
 

Similar to Sóng.pdf (20)

Phút giây và mãi mãi (2)
Phút giây và mãi mãi (2)Phút giây và mãi mãi (2)
Phút giây và mãi mãi (2)
 
Vội vàng.pdf
Vội vàng.pdfVội vàng.pdf
Vội vàng.pdf
 
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdfve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
ve-dep-thien-nhien-trong-bai-tho-voi-vang.pdf
 
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân DiệuBài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
 
Ca dao dân ca
Ca dao dân caCa dao dân ca
Ca dao dân ca
 
Tuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.pptTuan 21 Voi vang.ppt
Tuan 21 Voi vang.ppt
 
Ngay từ khổ thơ đầu
Ngay từ khổ thơ đầuNgay từ khổ thơ đầu
Ngay từ khổ thơ đầu
 
Bang
BangBang
Bang
 
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liênNghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm bài thơ “ông đồ” của vũ đình liên
 
ÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt Long
ÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt LongÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt Long
ÂM BẢN - Tập truyện Phạm Việt Long
 
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docxCẢNH-NGÀY-HÈ.docx
CẢNH-NGÀY-HÈ.docx
 
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.comý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
ý Nghĩa nhan đề các bài văn thơ trong lớp 9truonghocso.com
 
1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and
1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and
1.docx great amtibitouh and joyful compleaty and
 
Troi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuong
Troi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuongTroi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuong
Troi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuong
 
@*#*&$&$*##@&@&*@*
@*#*&$&$*##@&@&*@*@*#*&$&$*##@&@&*@*
@*#*&$&$*##@&@&*@*
 
88 đề văn cảm thụ lớp 5
88 đề văn cảm thụ lớp 588 đề văn cảm thụ lớp 5
88 đề văn cảm thụ lớp 5
 
kiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mới
kiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mớikiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mới
kiểm tra giữa kỳ 2 hoá 11 năm 2024 BGD mới
 
Một nửa VHN
Một nửa VHNMột nửa VHN
Một nửa VHN
 
Thu cam 1
Thu cam 1Thu cam 1
Thu cam 1
 
Tuan 22 Trang giang.pptx
Tuan 22 Trang giang.pptxTuan 22 Trang giang.pptx
Tuan 22 Trang giang.pptx
 

Recently uploaded

Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 

Recently uploaded (10)

Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 

Sóng.pdf

  • 1. SÓNG ~ XUÂN QUỲNH ~ 1. Sự tự thức của người phụ nữ khi yêu - Từ xa xưa, người con trai đã mượn “sóng” để nói lên lời vàng đá: “Bao giờ cho sóng bỏ gành Cù lao bỏ bể anh mới đành bỏ em” (Ca dao) - Trong phong trào Thơ mới, thi sĩ Xuân Diệu cũng đã từng mượn chuyện của sóng, biển và bờ để giãi bày tình yêu của mình: “Anh xin làm sóng biếc Hôn mãi cát vàng em Hôn thật khẽ, thật êm Hồn êm đềm mãi mãi” (Biển – Xuân Diệu) - Trước Xuân Quỳnh, hình ảnh “sóng” thường tượng trưng cho tình yêu của người con trai mạnh mẽ, nồng nàn, quyết liệt… - Trong bài thơ “Sóng”, hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ chính là “sóng”. Ở lớp nghĩa thực, sóng được miêu tả cụ thế, sinh động là những con sóng ngoài biển khơi bao la với nhiều trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau. Ở lớp nghĩa biểu tượng, sóng là tình cảm trong tâm hồn người con gái với trái tim rạo rực khao khát yêu thương. - Nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức những đặc tính, những phẩm chất, những trạng thái tâm lí bí ẩn, riêng tư, đầy nữ tính của một trái tim phụ nữ đang say đắm trong tình yêu. - Những câu thơ trong khổ đầu miêu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tàng những nét nghĩa ẩn dụ gợi sự liên tưởng sâu xa, tinh tế tới tình yêu của người phụ nữ. - Nhịp ngắt 2/3 và sự đan xen các thanh bằng - trắc cuối mỗi vế câu khiến hai câu đầu như chao đưa giữa những đối cực: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ” + Hai câu thơ có tới 4 tính từ mang sắc thái tương phản cả về ngữ âm và ngữ nghĩa đã gợi ra sự thất thường muôn đời của sóng; giữa từng cặp từ tương phản là từ và cho thấy đại dương mênh mông vốn luôn hàm chứa, luôn tồn tại đồng thời những trạng thái đối lập, những thay đổi đột ngột, bất ngờ khi dữ dội, ồn ào, bão tố, lúc yên ả, lặng lẽ, dịu êm... + Những trạng thái thất thường của sống đã gợi liên tưởng thật tự nhiên đến trái tim người con gái khi yêu, bởi cũng như sống, trái tim vốn rất nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương của người con gái luôn bao hàm những trạng thái tâm lí đầy mâu thuẫn, phức tạp, thất thường với những vui buồn, nhớ nhung, mong
  • 2. ngóng, giận dỗi – những dữ dội, ồn ào là sống mà lặng lẽ, dịu êm cũng vẫn là sóng; khi vui, lúc buồn, khi mãnh liệt sôi nổi, lúc dịu dàng làm thám, khi gần gũi như những con sống âu yếm vỗ bờ, lúc lại xa xôi như những con sóng rời bờ, tít tắp ngoài khơi... tất cả những trạng thái thất thường ấy đều là những biểu hiện của tình yêu. + Những cung bậc tình cảm đó đã được Puskin đề cập đến trong bài thơ “Sao mà anh ngốc thế”: “Em bảo anh đi đi Sao anh không đứng lại Em bảo anh đừng đợi Sao anh vội về ngay? Lời nói gió thoảng bay Đôi mắt huyền đẫm lễ Sao mà anh ngốc thế Chẳng nhìn vào mắt em!” + Tình yêu luôn là sự thống nhất kì lạ của những mâu thuẫn, luôn mang trong mình những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp, đầy biến động, cũng bởi vì tình yêu muôn thuở có bao giờ đứng yên (Xuân Quỳnh); tình yêu đích thực luôn xa lạ với trạng thái thăng bằng, bình thản tới vô cảm. + Sự thất thường vì thế không chỉ là đặc tính của tình yêu mà còn tạo nên nét duyên dáng, đáng yêu, tạo nên sự quyến rũ cho tình yêu người phụ nữ. + Tuy nhiên, cấu trúc của hai câu thơ cũng bộc lộ tinh tế nỗi lòng người phụ nữ khi yêu: sau những dữ dội, ồn ào, cả hai câu đều kết lại bằng trạng thái lặng lẽ, dịu êm - người phụ nữ có thể vui buồn thất thường, có thể có những biểu hiện phức tạp tới khó hiểu trong tình yêu, nhưng điều cuối cùng họ khao khát hướng tới vẫn luôn là cảm giác bình yên. - Tới hai câu sau, sóng được đặt trong mối quan hệ với đồng và bể: Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể + Có thể hiểu hai câu thơ ở những nét nghĩa khác nhau căn cứ vào chức năng ngữ pháp của từ Sông. Khi coi sống là một chủ thể cảm nhận, hai câu thơ sẽ là một câu ghép chính phụ, ý thơ sẽ là một tuyên bố mạnh mẽ và kiên quyết: nếu sống không hiểu nối những khát vọng mãnh liệt của mình thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, từ bỏ một không gian có thể là quen thuộc, bình yên, tìm ra tận bể, nơi có sự đồng cảm lớn lao, nơi có thể tìm thấy một tình yêu đích thực sự. + Người phụ nữ thường khao khát những bên bờ quen thuộc, bình yên của tình yêu song không vì thế mà cam chịu, nhẫn nhịn, họ đầy bản lĩnh để có thể chủ động, kiêu hãnh và quyết liệt hướng tìm sự đồng điệu, tri am.
  • 3. + Cũng có thể hiểu sống như một trạng ngữ chỉ không gian, nơi chốn, sông là bối cảnh, là hoàn cảnh sống, một yếu tố thường có sức chi phối mạnh mẽ tới tâm hồn, tính cách con người; lúc đó ý thơ thể hiện một cố gắng không mệt mỏi của sóng để có thể được sống đúng với Bản Ngã của mình: giới hạn chật hẹp của hai bên bờ sông làm bức bối những con sóng, trong lòng sông, sóng không thực sự là mình, không hiểu nổi mình, không nhận ra mình. + Sóng tìm ra bể lớn để thỏa sức vẫy vùng, để trở lại chính mình giữa đại dương mênh mông, phóng khoáng, để có thể nhận thức được sức mạnh và những khát khao của mình trong những mãnh liệt của đam mê. Với riêng Xuân Quỳnh, biển bao chứa chở nỗi khát khao thầm kín và vô cùng mãnh liệt. “Suốt cuộc đời biển gọi những ước mơ Nỗi khát vọng những chân trời chưa đến” (Biển_Xuân Quỳnh_) + Trong trường liên tưởng của tử thơ. nếu sống không còn là sóng bởi những giới hạn chật hẹp thì tình yêu cũng không còn là tình yêu nếu có những điều kiện, buộc ràng, người phụ nữ không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp; họ luôn khao khát khám phá chính mình trong tình yêu, khao khát một tình yêu lớn lao, khao khát được giải phóng khỏi mọi giới hạn để con người thực sự là mình, tình yêu thực sự là tình yêu. + Như vậy, dù hiểu theo nghĩa nào, bản chất của tình yêu đều mang những nét tương đồng với sóng, đó là đều khao khát vươn tới sự mạnh mẽ, lớn lao, phóng khoáng, cao cả không cùng. - Đặt trong một sự so sánh, trong xã hội phong kiến với những định kiến của Nho giáo, người phụ nữ phải cam chịu và thụ động trước sự sắp đặt của số phận, chỉ có thể cất lên những tiếng than thân trách phận “Thân em như dải lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” - Sau đó cũng đã có người phụ nữ ý có ý thức phản kháng nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc, tuyệt vọng như trong thơ Xuân Hương nữ sĩ “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con” - Nhưng Xuân Quỳnh đã đại diện cho tiếng nói của người phụ nữ hiện đại. Người con gái trong tình yêu không còn cam chịu, nhẫn nhục nữa mà đã minh bạch, quyết liệt rời xa tình yêu vị kỷ, bé nhỏ để đến với tình yêu cao thượng, vị tha, bao dung, Pascal năm xưa và Xuân Quỳnh ngày nay đều cảm nhận: “Tình yêu nâng cao con người thoát khỏi sự tầm thường”. - Giống như sóng, tình yêu là một khái niệm khó giải thích cho minh bạch. Tình yêu là vậy và khát vọng tình yêu của con người thì muôn đời không thay đổi “Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế” + Sóng được đặt giữa ngày xưa và ngày sau. Những khái niệm chí thời gian và ý nghĩa khẳng định của cụm từ vẫn thế đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng bởi trong thực tế, biển là một thế giới vô biên với vô vàn những con sóng vĩnh viễn xao động.
  • 4. + Sự hoà nhập tinh tế các nét nghĩa ẩn dụ trong khổ thơ đưa người đọc đến một cảm nhận tương đồng giữa sóng và tình yêu: giống như những con sống từ ngàn xưa cho đến mai sau mãi cồn cào trong lòng biển, mài trường tồn và vĩnh cửu với thời gian, nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người cũng là khát vọng đã có tự muôn đời của nhân loại. Xuân Diệu từng khẳng định: Làm sao sống được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào! - Tình yêu cũng không bó hẹp trong một phạm vi lứa tuổi nào, nhưng tình yêu thường đi đôi với tuổi trẻ. Tình yêu tràn đầy cơ sở thanh xuân, làm bồi hồi khiến trái tim lúc nào cũng thổn thức nhớ mong. Cũng như Xuân Diệu nói: "Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu" + Bởi chỉ có tuổi trẻ mới có sức mạnh để đẩy ước vọng tình yêu lên thành khát vọng để tình yêu trở thành hiện thực không còn xa vời lý thuyết nữa mà hạnh phúc đắm say trong tầm tay và trái tim. “Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” + Trong cảm nhận của người phụ nữ đang yêu khi đứng trước đại dương, mặt biển giống như vòng ngực trẻ trung, cường tráng của trời đất, sóng tựa nhịp thở phập phồng mang khát vọng tình yêu bồi hồi trong ngực biển. + Hình tượng thơ làm hiện ra một tương đồng rạo rực: biển tựa như con người, sống giống như nhịp đập của trái tim yêu đương, còn biển thì còn sống, còn con người thì còn khát vọng tình yêu. Cũng như những con sống muôn đời dào dạt, sôi nổi trong lòng biển, tình yêu là khát vọng vĩnh hằng của con người, và mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Trong ca dao, trai gái ngày xưa cũng đã từng khao khát như thế: “Thấy anh như thấy mặt trời; Chói chang khó ngó, trao lời khó trao”. + Ngoài ra, cũng có thể hiểu chính những con sóng trào dâng cuồn cuộn khiến biến lớn muôn đời trẻ trung, tình yêu đem đến cho con người niềm vui tràn trề và sức sống mãnh liệt tuổi thanh xuân... Trong văn học trung đại, nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng vì tiếng sét ái tình mà đã vượt lên lễ giáo phong kiến, dù đêm hôm nhưng vẫn “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến tình tự cùng Kim Trọng. 2. Suy tư, trăn trở về cội nguồn tình yêu - Bao điều em nghĩ cứ giăng hàng kéo về như những con sóng nối tiếp nhau “Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên?”
  • 5. +“Muôn trùng” ý chỉ số nhiều. Từ đó gợi mở không gian rộng lớn bao la. Biển vốn đã mênh mông nhưng giờ lại càng rộng lớn hơn gấp bội trong cách kết hợp “muôn trùng sóng bể”. Dường như chỉ có không gian rộng lớn mênh mông ấy, sóng mới có thể thỏa sức vẫy vùng. Trong không gian ấy, sóng mới có thể là chính mình sống thật với những suy nghĩ cảm xúc. Và đó không chỉ là không gian hoạt động của sóng mà đó còn là không gian tâm tưởng của chính em. + Trong không gian rộng lớn ấy, con người thường thấy mình nhỏ bé. Bởi lẽ mặt biển nhìn có vẻ êm đềm là thế nhưng bên dưới là sự vận động không ngừng của nước. Thời gian cũng thế. Nó cứ diễn ra chậm chạp con người không cảm nhận được. Nhưng từ giây phút này đã khác giây phút qua. Mọi thứ luôn vận động không ngừng. Trong sự vận động của thời gian ấy con người không thể làm được gì, không thể can thiệp được chỉ đành phó mặc cho thời gian xô đẩy. Con người không thể làm gì để thoát khỏi quy luật ấy nên chỉ đành ngậm ngùi chấp nhận như một lẽ tất yếu của cuộc sống. + Dòng thời gian cũng như dòng nước cứ chảy mãi dường như vô thủy vô chung với cuộc đời này. Đó là vì sao đứng trước không gian rộng lớn bao la con người luôn ý thức được rõ ràng hơn bản thân mình. Xuân Quỳnh cũng vậy. Xuân Quỳnh cũng bắt đầu suy ngẫm về cuộc sống, suy ngẫm về tình yêu. + Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng, rất đặc biệt của con người, tình yêu thường phát triển theo những quy luật chung của cuộc sống và quy luật riêng của tình cảm lứa đôi. Trước khát vọng tình yêu mãnh liệt, trước sự kì diệu của tình yêu, con người thường có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong lòng nó và luôn muốn cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lí không dễ giải thích bằng những lí lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời chính xác về nguyên nhân, về khởi nguồn của tình yêu, đúng như sự băn khoăn của Xuân Diệu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. + Điệp cấu trúc “em nghĩ về…” càng nhấn mạnh nỗi niềm. Nỗi niềm ấy, suy tư ấy không phải của ai, không thay ai nói mà đó là nỗi niềm của riêng một mình Xuân Quỳnh, của chỉ riêng Xuân Quỳnh mà thôi. + Bài thơ mượn hình ảnh của sóng, đáng lẽ phải là “sóng nghĩ về” nhưng Xuân Quỳnh lại trực tiếp nói lên nỗi lòng mình. Dường như em và sóng đã hòa vào làm một. Nói về sóng nhưng thực chất là nói về tình cảm của em dành cho anh. Cảm xúc trào dâng không sao dừng lại được như những đợt sóng dâng cao vỡ òa trong cảm xúc, để rồi từ đó mà tan ra vô vàn tình cảm. + Đứng trước không gian rộng lớn ấy, đáng lẽ điều đầu tiên hoặc đối tượng đầu tiên phải nghĩ đến đó chính là bản thân. Nhưng với Xuân Quỳnh thì không. Điều đầu tiên hiển hiện trong tâm trí của em đó là anh. Chỉ có anh mà thôi. Anh luôn là điều đầu tiên em nghĩ đến, là ưu tiên hàng đầu và dường như đây đã đi sâu vào tiềm thức của em. Một khi đã đi vào tiềm thức thì ta cũng hiểu được tình cảm ấy phải sâu đậm đến dường nào. Nghĩ đến anh rồi mới nghĩ đến em. Vậy nghĩ gì về anh nghĩ gì về em nghĩ gì về chúng ta. Có lẽ câu trả lời đích xác chỉ có thể em mới có thể trả lời được mà thôi. - Tâm hồn luôn trăn trở của Xuân Quỳnh cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về mình cùng những băn khoăn suy ngẫm về tình yêu. Suy ngẫm hiện lên trong các câu hỏi về sóng: Tự nơi nào sóng lên, về gió: Gió bắt đầu từ đâu? và sau cùng lại trở về với câu hỏi muôn đời: Khi nào ta yêu nhau? Những câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa suy ngẫm của con người tới vô tận. Câu hỏi đầu tiên về sóng, lời đáp dễ dàng, chóng vánh: sóng bắt đầu từ gió.Câu hỏi thứ hai riết ráo hơn, lí trí muốn đây những băn khoăn trăn trở đến tận cùng: nếu sống bắt đầu từ giỏ thì gió bắt đầu từ đâu? Câu trả lời xuất hiện nhưng lại mơ hồ chơi vơi giữa hai câu hỏi về gió và tình yêu:
  • 6. Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau? + Câu trả lời chung “Em cũng không biết nữa” cho thấy cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không thể cắt nghĩa, đều không có lí lẽ hay quy luật - nếu có thì đây cũng là quy luật riêng của trời đất, lí lẽ riêng của tình yêu. Em không biết gió có từ đầu, em không biết những xao xuyến của trời đất có từ bao giờ, cũng như em không biết khi nào ta yêu nhau, càng không thể cắt nghĩa: vì sao ta yêu nhau? + Đây cũng là một quy luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm thường đến trước lí trí, thậm chí nhanh hơn lí trí, dẫn dắt lí trí; tuy nhiên, chính sự bí ẩn của trực cảm lại là yếu tố tạo nên nét quyến rũ của tình yêu; khi con người không thể lí giải nổi tình yêu của mình thì cũng là lúc họ đang sống thật nhất với những xúc cảm vô tự, chân thành của tình yêu. Tuy không trả lời được nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người: "Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?" (Thế Lữ) + Cấu trúc đáo trong hai câu cuối của khổ thơ: đáp trước - hỏi sau khiển câu trả lời duyên dáng như một nụ cười vừa bối rối, vừa hạnh phúc: bối rối vì sự bất lực của lí trí, và hạnh phúc khi nhận ra một điều kì diệu: tình yêu đích thực không cần tới bất cứ một lí do nào, tình yêu lớn lao hơn mọi thứ lí trí trên đời; tình yêu hồn nhiên, giản dị mà mãnh liệt, như sóng như gió, như thiên nhiên muôn đời bí ẩn, như một lẽ tự nhiên huyền diệu của đất trời. 3. Tín hiệu của tình yêu - Nhớ nhung là một tín hiệu của tình yêu nhất là khi sống trong xa cách. + Người con gái trong ca dao xưa đã mượn vầng trăng để diễn tả mòn mỏi trong nhung nhớ. “Nhớ chàng như mảnh trăng đầy Đêm đêm vầng sáng hay gầy đêm đêm.” + Nhà thơ của những vần thơ triết lí – Chế Lan Viên lại mượn quy luật của tự nhiên để nói lên quy luật yêu thương vĩnh cửu của con người “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương” + Và khi nghĩ về “yêu”, ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng từng viết: “Yêu là chết ở trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
  • 7. Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu … Và cảnh đời là sa mạc cô liêu Và tình ái là sợi dây vấn vít Yêu, là chết ở trong lòng một ít” - Với Xuân Diệu, “yêu là chết ở trong lòng một ít”. Với Xuân Quỳnh, bà gửi nghĩ suy về tình yêu qua hình tượng những con sóng. “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được” + Trong thực tế, sống là một hiện tượng thiên nhiên xuất hiện khi gió tạo nên những dao động trong nước, hiện tượng ấy mang tính chất vĩnh hằng bởi sóng luôn tồn tại hoặc trên bề mặt, hoặc dưới lòng sâu thăm thẳm của đại dương và luôn cố xu thế hướng vào bờ. + Trong 4 câu thơ đầu, nhà thơ dường như mới chỉ miêu tả sắc thái của sóng: những từ ngữ trùng điệp luân chuyển nối tiếp tạo ra nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, làm hiện lên hình ảnh những con sóng đang hăm hở trào dâng, và trong cảm nhận của Xuân Quỳnh, đó là những con sống đang nhớ bờ cồn cào, mãnh liệt, đó là những con sóng vì nhớ bở mà thao thức, ngày đêm ào ạt vỗ bờ như không cần biết đến thời gian. + Nỗi nhớ ủy đầy ắp không gian dù dưới lòng sâu hay trên mặt nước, nỗi nhớ ấy tràn ngập thời gian dù là ngày hay đêm. Quan sát sóng bằng trái tim đang yêu, Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kì diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình, thi sĩ đã mượn sóng để thể hiện trước hết là nỗi nhớ ở trạng thái cảm xúc luôn gắn liền với tình yêu. + Ca dao từng nói về nỗi nhớ trong tình yêu: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa như ngồi đống than; Xuân Diệu bộc lộ: Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh - anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi...; còn nỗi nhớ của Hàn Mặc Tử lại hiện lên trong nỗi ngơ ngác: Người đi, một nửa hồn tôi mất – Một nửa hồn tôi hóa dại khờ... + Thực ra, chỉ cần ý nghĩa nhân hoá trong hình ảnh con sóng nhớ bờ, khổ thơ đã có thể gợi ra nỗi nhớ cồn cào da diết của tình yêu. Nhưng hình như khi muốn bộc lộ nỗi nhớ của người phụ nữ đang yêu, trạng thái cảm xúc đặc biệt này không đựng vừa trong hình tượng sóng qua tầng nghĩa ẩn dụ, Xuân Quỳnh viết thêm 2 cầu cho một khổ thơ đã hoàn chỉnh khiến nỗi nhớ như trào dâng khỏi những khuôn khổ, mực thước thông thường: “Lòng em nhớ tới anh Cả trong mơ còn thức” + Hai câu thơ trước hết là nỗi nhớ trong ý nghĩa tương đồng với sóng: Sóng vỗ bờ cả ngày và đêm, sóng nhớ bờ cả ngày và đêm, em cũng nhớ anh mọi nơi, mọi lúc; nếu sóng vì nhớ bờ mà ngày đêm không ngủ
  • 8. được thì em vì nhớ anh mà thức cả trong mơ, nếu nỗi nhớ bở của sóng bao trùm, chế ngự cả cái không cùng của thời gian và không gian thi nỗi nhớ của em với anh lại xâm chiếm toàn bộ thế giới vô biên của tâm hồn, nỗi nhớ cụ thể trong ý thức, nỗi nhớ mơ hồ trong tiềm thức, nỗi nhớ hiện hữu trong từng ý nghĩ và nhịp thở... + Câu thơ gợi liên tưởng tới nỗi thao thức của cô gái trong ca dao xưa: Đêm nằm lưng chẳng tới giường - Mong cho chóng sáng ra đường gặp anh. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát hướng vào bờ, em khao khát được có anh; tình yêu hiện lên đằm thắm, giản dị và trong sáng, thuỷ chung, khát vọng tình yêu cũng được bộc lộ táo bạo, chân thành. + Tuy nhiên, trạng thái trong mơ còn thức không chỉ là nỗi nhớ, đó dường như còn là những dự cảm lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc nhưng lại có quá nhiều những trải nghiệm đắng cay, một trái tim từng bầm dập đau đớn vì những tổn thương, mất mát trong tình yêu nên luôn lo sợ “Lời yêu mỏng manh như làn khói -Ai biết lòng anh có đổi thay”, một trái tim luôn xót xa: “em đâu dám mong là vĩnh viễn - Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi”, và do vậy, khi người phụ nữ đang yêu mà trong mơ còn thức thi thức không chỉ để nhớ tới anh, thức còn như để trông giữ tình yêu, đề tình yêu không tuột khỏi tầm tay. + Trăn trở, âu lo bất ổn luôn là nét tâm lí ám ảnh quen thuộc trong hồn thơ Xuân Quỳnh, cũng là nét riêng tạo nên cái mong manh xa xót cho tình yêu. “Em khác chi con tàu Nay đây rồi mai đó Nên cả lúc gần anh Mà lòng em vẫn nhớ” (Con tàu). - Những câu thơ một lần nữa tỏa sáng quan niệm tình yêu của chị “Ôi tình yêu muôn thuở Có bao giờ ngủ yên” 4. Phẩm chất của tình yêu - Càng nhớ nhung bao nhiêu, người con gái trong tình yêu lại muốn gắn bó, chung thủy bấy nhiêu. Sóng và em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang theo lớp lớp tâm tình của em: “Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam” + Nếu phương Bắc, phương Nam gợi những không gian xa xôi, cách trở, những không gian thường được lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, trong cuộc đời (Vừa thoáng tiếng còi tàu – lòng đã Nam đã Bắc... - Xuân Quỳnh ) thì các động từ ngược hướng như xuôi, ngược lại thể hiện những vất vả, gian khó, truân chuyên...
  • 9. + Có một sự khác biệt trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh so với quy ước cũng như tâm thế thông thường: không phải ngược Bắc, xuôi Nam mà là xuôi Bắc, ngược Nam... sự khác biệt ấy hình như đã hé mở những éo le, trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung, trong tình yêu của nữ sĩ nói riêng. + Nếu cấu trúc điệp cú pháp của hai câu thơ làm đậm thêm những éo le, những xa xôi, cách trở thì từ dầu điệp lại ở đầu hai câu thơ lại khẳng định bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ - bản lĩnh của những cô gái tự ngàn xưa “Yêu nhau mấy núi cũng trèo - mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.” Và riêng với Xuân Quỳnh, khó khăn trong tình yêu hình như không chỉ là những gian truân, vất vả mà còn là những trắc trở éo le. + Ý thơ của Xuân Quỳnh có lẽ còn chứa đựng một hàm ý: không dễ dàng để tới được bến bờ của hạnh phúc, nhưng khi con người có thể vượt qua những thử thách, khó khăn thì tình yêu lại càng bền vững, bến bờ hạnh phúc của tình yêu sẽ càng thêm quý giá. + Xuân Quỳnh đã cho thấy một quan niệm thật đẹp khi khẳng định tình yêu đích thực không phụ thuộc vào những không gian Nam, Bắc, những phương hướng ngược, xuôi, trái tim chỉ biết yêu thương mà không bận tâm đến những logic khách quan của cuộc đời. + Hơn thế nữa, khi cái logic thông thường của lí trí đã bị xoá mờ thì trong tâm hồn người phụ nữ đang khao khát yêu thương chỉ còn lại hai miền ngược xuôi để hướng về anh, hướng về tình yêu. - Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói “Xuôi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xuân Quỳnh lại nói “Xuôi Bắc, ngược Nam” là cách nói ngược. Phải chăng tình yêu đã làm cho con người bị đảo lộn phương hướng ? Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không thể nào nguôi nhớ đó là phương anh: “Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương” + Từ cuối cùng của khổ thơ lại là từ phương, một từ chỉ hướng trong không gian, tình yêu của người phụ nữ đã đem đến một sáng tạo mới mẻ, độc đáo cho ngôn từ: với tình yêu, không có phương Nam hay phương Bắc, mọi không gian khách quan đều vô nghĩa trước không gian kì diệu của tình yêu, người phụ nữ son sắt thuỷ chung chỉ duy nhất hướng về phương anh, phương có người yêu dấu - giữa cuộc đời rộng lớn, giữa vũ trụ bao la, anh là bến bờ hạnh phúc duy nhất để lòng em hướng tim. “Chỉ riêng điều được sống cùng anh Niềm mơ ước trong em là lớn nhất Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực Giây phút nào tim đập chẳng vì anh” + Nỗi nhớ và sự thuỷ chung trong tình yêu khiển vũ trụ không còn Nam Bắc Đông Tây mà như được chia đôi: phương trời có anh đẹp đẽ, ấm áp, tươi sáng, mọi phương không có anh đều trở nên lạnh lẽo, u buồn “Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại Ngọn gió buồn vẫn thổi phía không anh.”
  • 10. + Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã thành “hệ quy chiếu” của đời em, thành ý nghĩ luôn canh cánh, thường trực trong lòng em; nếu nhớ là xúc cảm tự nhiên, cảm tính thì nghĩ là tình cảm lâu bền, lắng đọng những suy tư sâu sắc, chín chắn... - Những khát vọng tình yêu sôi nổi, cháy bỏng được bày tỏ vừa mạnh mẽ, táo bạo, vừa chân thành, nữ tính, qua đó làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ vừa hiện đại, vừa truyền thống. - Giữa những ngược xuôi Nam Bắc của cuộc đời, người phụ nữ chỉ hướng về một phương duy nhất, nơi có anh. Cũng như thế, giữa muôn vời cách trở của đại dương xa xôi, mọi con sóng đều chỉ tha thiết hướng tới bờ: “Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở.” + Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. + Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. + Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu. + Nếu để ý kỹ ta sẽ thấy, khổ thơ có cấu trúc đảo độc đáo. Chúng ta có thể thay đổi trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau: “dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ”; nhưng không làm mất đi kết cấu của khổ thơ, cũng như không làm mất đi nội dung của khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. + Điều này thêm một lần Xuân Quỳnh khẳng định: với người phụ nữ khi yêu, một khi đã lấy “phương anh” làm hướng để quy về thì dù vật đổi sao dời cũng không thể nào làm em thay đổi. Có lẽ vì vậy mà trong đời thường Xuân Quỳnh luôn lấy niềm tin như cứu cánh của đời mình, chị đã bám vào niềm tin mà đứng dậy sau những đổ vỡ, lấy tin yêu vá lại trái tim đầy tổn thương của chính mình để tiếp tục “Tự hát” với đời: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai chẳng có Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
  • 11. + Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế: “Tình ta như hàng cây Đã qua mùa bão gió Tình ta như dòng sông Đã yên ngày thác lũ” + “Hàng cây”, “dòng sông” phải trải qua “bão gió, thác lũ” nhưng cuối cùng thì tất cả cũng “đã qua”, “đã yên” như tình yêu của anh và em với “muôn vời cách trở” nhưng cuối cùng vẫn trọn vẹn đường yêu. Vâng! Chính niềm tin ấy trong tình yêu của Xuân Quỳnh đã đưa chị đến với đời để cho tiếng thơ đi vào cõi bất tử. 5. Khát vọng tình yêu mãnh liệt - Không dừng lại trong niềm tin vào tình yêu như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm giàu suy tư của Xuân Quỳnh tiếp tục mở ra những trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những hình ảnh của thời gian và không gian: “Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa” + “Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. + Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. + Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều có thật như chính Xuân Quỳnh đã từng viết cho Lưu Quang Vũ: “Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng em lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống. Em nhìn mặt em trong gương, em thấy em không xứng đáng với anh. […] Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em buồn lắm….Em rất muốn em trẻ đẹp lại cho tuổi tác và hình thức của mình. Có thể anh không cần như thế, nhưng em cần như thế. Vì chắc chắn rằng em trẻ hơn và đẹp hơn, anh sẽ yêu em hơn”.
  • 12. + Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. + Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. + Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời. - Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu: “Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” + Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hòa mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người. + “Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uytman). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người. - Hai câu cuối mở ra cảm giác mênh mang của không gian biển lớn cùng sự vĩnh hằng của thời gian ngàn năm. + Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi”
  • 13. “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt, đời thường ai chẳng có Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát) - Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.