SlideShare a Scribd company logo
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------
NGUYỄN VĂN DOÃN
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ
CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------
NGUYỄN VĂN DOÃN
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ
CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM VĂN BEO
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những
tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn vừa mang tính kế thừa các công trình khoa học trước
đây nhưng chưa từng được công bố trong các công trình khoa học khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Văn Doãn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ............................................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt trong pháp luật hình sự .........8
1.2. Lý luận chung về hình phạt tù có thời hạn ...................................................13
1.3. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự........................20
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY..............................................23
2.1. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1945 đến 1955 .........................................................................................23
2.2. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1955 – 1985.............................................................................................31
2.3. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1985 đến 1999 .........................................................................................37
2.4. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1999 đến 2015 .........................................................................................42
2.5. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 2015 đến nay ...........................................................................................47
Chương 3: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
VIỆC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................55
3.1. Những yêu cầu và định hướng cải thiện quy định hình phạt tù có thời hạn.55
3.2. Hạn chế từ các quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự
hiện hành..............................................................................................................56
3.3. Các giải pháp định hướng hoàn thiện và đề xuất các quy định về hình phạt
tù có thời hạn .......................................................................................................59
KẾT LUẬN..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐNPL : Định nghĩa pháp lý
HTHP : Hệ thống hình phạt
SĐBS : Sửa đổi bổ sung
TCTH : Tù có thời hạn
PLHS : Pháp luật hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu thống kê tội danh có chứa chế tài với các loại hình phạt chính
trong các BLHS 1985, BLHS 1999, BLHS 2015.
Bảng 2.2. Tỷ lệ các loại hình phạt chính trên số tội danh trong các BLHS 1985,
BLHS 1999, BLHS 2015.
Bảng 2.3. Tỷ lệ các loại hình phạt chính so với nhau trong các BLHS 1985,
BLHS 1999, BLHS 2015.
Bảng 2.4. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối
thiểu thấp nhất theo BLHS 1985.
Bảng 2.5. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối đa
cao nhất theo BLHS 1985.
Bảng 2.6. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối
thiểu thấp nhất theo BLHS 2009.
Bảng 2.7. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối đa
cao nhất theo BLHS 2009.
Bảng 2.8. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa các mức thời gian tối
đa cao nhất theo BLHS 2015.
Bảng 2.9. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối
thiểu thấp nhất theo BLHS 2015.
Bảng 3.1. Số liệu thống kê các khung hình phạt có cải tạo không giam giữ
BLHS 2015.
Bảng 3.2. Số liệu thống kê BLHS 2015 các khung quy định hình phạt có cải tạo
không giam giữ được phép lựa chọn thay thế với hình phạt tù có thời hạn.
Bảng 3.3. Số liệu thống kê quy định mức thấp nhất và cao nhất của hình phạt
TCHT trong BLHS một số nước và Việt Nam hiện nay.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phan Chu Trinh, một chí sĩ yêu nước đấu tranh trong thời kỳ Thực dân Pháp
đô hộ từng bị tù đày một thời gian dài có những trải nhiệm thực rất gian lao và với
khí chất bất khuất của mình có những câu thơ bất hủ về cảnh phải chịu tù:
“Dầu ai tại ngoại đù thiên thu
So lại không qua nhất nhật tù” [27]
Hay như tục ngữ dân gian ta có câu: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”
nghĩa là một ngày phải chịu tù đày như dài bằng cả nghìn năm ở ngoài, ý chỉ rằng
sự khó khăn và khổ sở khi phải chịu đựng cảnh tù giam chỉ một thời gian ngắn cũng
thật sự khủng khiếp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ đấu tranh dành độc lập từng bị giam
cầm tại Hồng Kông viết tập trong Nhật ký trong tù rất nhiều bài thơ nói lên nỗi gian
khổ cùng cực, nếu cần biết về sự gian khó trong giam cầm, ta chỉ cần đọc hết tập
thơ ấy là cũng có thể hình dung.
Qua dẫn chứng với những con người bất khuất trong hoàn cảnh lao tù để
thấy rằng hình phạt tù là một điều lớn phải chịu đựng gian khó ở mức cực độ cao
cho người bình thường phải thi hành. Sự phản ánh thực tế bằng lịch sử và văn học
nước nhà như trên thể hiện sự chịu đựng cảnh tù lao xưa nay đã là một sự thử thách
rất khó khăn gian khổ để vượt qua. Vậy ta cũng nên tìm hiểu xem hình phạt tù có
lịch sử thế nào, hình thành và phát triển ra sao trong lịch sử nhân loại.
Dưới phương diện Luật học, ta cần tiếp cận ở góc độ rằng bị giam giữ là một
hình phạt mà pháp luật quy định cho một tội phạm cụ thể nào đó nếu người đó
phạm phải. Hình phạt nói chung là một trong những chế định quan trọng của Pháp
luật hình sự (PLHS), qua nghiên cứu lịch sử có thể thấy hình phạt có từ trước khi
nhà nước và pháp luật được hình thành nhưng tồn tại như một hành vi phản ứng tự
phát của xã hội đại diện kẻ có sức mạnh quyền lực ban hành, thời kỳ nguyên thủy
khi con người còn sống theo bộ lạc với những tục lệ riêng của từng khu vực, nó
biểu hiện trong thời chiếm hữu nô lệ bắt đầu rõ nét hơn khi xuất hiện nhà nước sơ
2
khai, xa xưa nhất được biết đến là thời Tây Chu bên Trung Quốc đã có hệ thống
hình phạt (HTHP) trong luật định và được đánh giá tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên
khi nhà nước Phong kiến bắt đầu hình thành, nó trở thành công cụ một điều chỉnh
và quản lý trật tự xã hội một cách hợp thức hóa và chấp nhận rộng rãi hơn trong các
quy định của nhà cầm quyền gọi là pháp luật của chủ nghĩa pháp gia. Tại vùng
Trung Đông, một cổ luật nổi tiếng ngày nay được đưa vào giảng dạy và nghiên cứu
trong nhiều chương trình luật học đó là Bộ Luật Hammurabi hay tương tự có Bộ
Luật La Mã mà ta thường gọi là Luật 12 bảng. Trải qua các thời kỳ thuộc các nền
văn minh của các quốc gia và thể chế chính trị tuy có sự khác nhau nhưng tựu
chung ngày nay HTHP phân hoá rõ ràng, xắp xếp mang tính logic và khoa học hơn.
Ngày nay các hệ thống PLHS tại các quốc gia đặt loại hình phạt tù có thời
hạn (TCTH) là trọng tâm và tìm cách tùy biến nó bằng các điều kiện và hình thức
khác đi kèm để có thể gia giảm tính chất cũng như mức độ nặng nhẹ của nó để đảm
bảo mục đích của hình phạt.
Tuy có thể có những hình thái thể hiện khác nhau nhưng đặc tính của hình
phạt TCTH vẫn hiện hữu thường xuyên trong các HTHP. Về thực chất hình phạt
TCTH là một hình phạt tước đi sự tự do của một người bằng cách thức tách một đối
tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội và cộng đồng cụ thể trong một khoảng thời
gian nhất định.
Tại Việt Nam, HTHP trong thời kỳ ban đầu của các triều đại Phong kiến
cũng rất đa đạng và khắc nghiệt, qua đối chiếu có thể thấy rằng HTHP ở nước ta
thời kỳ Phong kiến ảnh hưởng nặng nề từ Phong kiến Trung Quốc. Trong đó hình
phạt TCTH được biểu thị bằng nhiều hình thức, là một hình phạt điển hình nổi bật
với các hình phạt khác trong một hệ thống gọi là “Ngũ hình: Xuy hình (đánh roi);
Trượng hình (đánh trượng); Đồ hình, có ba bậc; Lưu hình, có ba bậc; Tử hình, có
ba bậc” [65, tr.19] và chế định hình phạt TCTH với nhiều đặc tính biến thể thay đổi
qua các thời kỳ cần được nghiên cứu kỹ hơn.
Đất nước Việt Nam đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm,
một ngàn năm bắc thuộc, trăm năm bị thực dân xâm chiếm và nội chiến đặc biệt là
3
giai đoạn cận đại khi chyển giao giữa các ý thức hệ Phong kiến, Tư bản và Xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước và Pháp luật cũng dần hình thành, biến đổi và có những sự vận
động hoàn thiện nhất định cho đến ngày nay.
Ngày 2/9/1945 là ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, mở ra một thời kỳ mới,
thời kỳ rũ bỏ chế độ Phong kiến và xây dựng một đất nước với tư duy mới và nền
tảng là các giá trị chung của nhân loại và phù hợp với tình hình đất nước từng thời
kỳ.
Quy định hình phạt TCTH thay đổi diễn ra mạnh mẽ và tạo ra sự khác biệt
lớn giữa hai thời kỳ trước và sau khi pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985 cả về
quan điểm lập pháp, về hình thức cũng như nội dung. Thời gian gần đây trong các
Bộ luật hình sự (BLHS) thì hình phạt TCTH gần như có mặt 100% trong các điều
quy định về hình phạt cho tội phạm, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng và mức ảnh
hưởng của nó đến tổng thể hình phạt và PLHS.
Theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/05/2005, Nghị quyết 49-
NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về việc cải cách tư pháp và hệ thống
pháp luật. Liên quan đến tính kế thừa với quan điểm: “Cải cách tư pháp phải kế
thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã
hội chủ nghĩa Việt Nam…”[14, Mục I.2.4]. Trong đó có những vấn đề liên quan đến
Hình phạt đặc biệt là Hình phạt TCTH như chủ trương: “Hoàn thiện chính sách
hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa; hạn chế hình phạt tử hình,
giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền; cải tạo không giam giữ đối với
các loại tội ít nghiêm trọng” [13, Mục II.5]. Hoặc mục tiêu định hướng
chung“Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không
giam giữ đối với một số loại tội phạm” đồng thời còn nêu vấn đề “Giảm bớt khung
hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm” [14, Mục II.2]. Cùng với sự
thay đổi của xã hội, của tư duy nhà làm luật và các xu hướng mới trong vấn đề bảo
vệ quyền con người, hình phạt nói chung có phần bớt phần hà khắc hơn, giảm dần
tính trừng trị trong hình phạt và chuyển hướng mạnh về mục đích giáo dục và cải
tạo người phạm tội.
4
Quá trình thay đổi để phù hợp với sự chuyển biến của xã hội, ít nhiều cũng
gặp những vấn đề khó khăn. Đồng thời những lần thay đổi đó có những yếu tố
mang tích tích cực, có những yếu tố còn hạn chế dẫn đến chưa đạt hiệu quả như
mong muốn. Ngay cả các quy định về hình phạt TCTH hiện nay còn nhiều mặt hạn
chế và cũng sẽ có sự thay đổi cùng với xã hội trong tương lai, và các nhà làm luật
cũng cần có một công cụ hệ thống hóa các thay đổi xuyên suốt để có thể có cái nhìn
tổng quan và sự nhìn nhận xác thực hơn vào quy luật vận động trong hoàn cảnh
thực tế của đất nước.
Với vai trò rất quan trọng của hình phạt TCTH trong quy định của PLHS
nước ta, cùng các điều kiện thay đổi của xã hội, xu hướng chung của nhân loại cùng
chính sách chủ trương của Đảng và nhà nước, vấn đề này là một điều đáng được
quan tâm nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng PLHS đặc biệt là vấn đề
hình phạt và tội phạm. Đây cũng là lý do tác giả đã chọn đề tài "Lịch sử phát triển
các quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam từ
năm 1945 đến nay" để làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về nghiên cứu vấn đề HTHP và hình phạt TCTH trong nước theo trình tự
thời gian cũng chỉ dừng lại ở mức độ sơ khởi và liệt kê so sánh, cũng có những
nghiên cứu riêng lẻ về các hình phạt khác. Lấy một số dẫn chứng các đề tài và các
công trình nghiên cứu có liên quan một phần như:
Sách chuyên khảo của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp “Hình phạt trong
Luật Hình sự Việt Nam”, xuất bản 1995. Sách chuyên Khảo “Pháp luật hình sự Việt
Nam từ thế kỷ X đến nay- lịch sử và thực tại”, do tác giả TSKH.GS. Lê Cảm (chủ
biên) phát hành năm 2018, tác phẩm này thật sự là một công trình nghiên cứu công
phu toàn diện về PLHS, các định chế pháp luật, các triều đại nhà nước khác nhau
qua các giai đoạn lịch sử đất nước tự chủ từ thế kỷ thứ X đến nay với sự phân đoạn
nghiên cứu theo từng thời kỳ lịch sử và các lần pháp điển hóa hình sự rất chi tiết;
Một số nhóm khác trong các nghiên cứu của các luận văn thạc sĩ viết về các
đề tài liên quan đến hình phạt và hình phạt TCTH như “Hình phạt tù và thi hành
5
hình phạt tù - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Thu Hằng năm 2011,
nghiên cứu về hình phạt tù và sự tương quan với thi hành hình phạt tù từ lý luận và
thực tiễn áp dụng trong những năm 2004-2008, và có một số kiến nghị giải pháp
trong việc thi hành hình phạt tù có thời hạn.
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Võ Hồng Nam
năm 2014; Đề tài đã nghiên cứu về lý luận hình phạt tù có thời hạn và liên hệ thực
tiễn xét xử trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nhằn tìm ra những giải pháp hiệu
quả hơn trong việc áp dụng hình phạt TCTH tại TP.HCM;
Đề tài“Áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ninh” năm 2018 của tác giả Nguyễn Thành Chung; Đề tài nghiên
cứu lý luận và thực tiễn về hình phạt TCTH và việc áp dụng thực tế trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh;
Ngoài các đề tài trên, trong một số tạp chí luật học chuyên ngành còn các các
bài nghiên cứu một số vấn đề chung về hình phạt trong đó có hình phạt TCTH so
sánh giữa BLHS nước ta với các nước: Bài nghiên cứu “Hệ thống hình phạt theo
pháp luật hình sự của một số nước ở Châu Á, Châu Âu và Hoa Kỳ” của tác giả
Trương Quang Vinh đăng trên Tạp chí luật học; Bài nghiên cứu của TS. Dương
Tuyết Miên “So sánh chế định hình phạt một số nước Asean và Việt Nam” đăng
trên Tạp chí luật học số 12/2009; Hoặc bài nghiên cứu “Hình phạt trong luật hình
sự Anh trong sự so sánh với Luật hình sự Việt Nam” đăng trên Tạp chí luật học số
8/2014 của TS. Đào Lệ Thu; Các bài nghiên cứu nêu trên đa phần so sánh HTHP
của Luật Hình sự Việt Nam với các nước tiêu biểu trong đó có đề cập một số vấn đề
tổng quan của hình phạt TCTH, nhắc đến như một phần cấu thành chứ chưa hẳn
phân tích dưới góc độ riêng biệt về hình phạt TCTH.
Hiện nay chưa có nghiên cứu nào cụ thể và toàn diện và chuyên sâu về sự
biến đổi quy định hình phạt TCTH từ năm 1945 đến nay dựa theo tiến trình lịch sử
của Nhà nước và lập pháp thông qua các tài liệu quy định về hình phạt để tìm ra
nguồn gốc, trình tự, nguyên nhân hình thành các quy định, các mối liên hệ và xu
6
hướng biến đổi giữa các quy định về hình phạt khác nhau trong những thời kỳ khác
nhau.
Một số đã nghiên cứu về tổng thể hơn trong vấn đề lịch sử pháp luật hoặc
lịch sử luật hình sự mà chưa đi vào cụ thể quá trình thay đổi của hình phạt TCTH và
các chế định có liên quan. Vì thế thật sự hữu ích nếu có một sự nghiên cứu nghiêm
túc các quy định trong hình phạt TCTH qua từng thời kỳ lịch sử lập pháp của nhà
nước và pháp luật thời kỳ cận đại từ khi nước ta dành được độc lập năm 1945 đến
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận
chung cũng như những quy định cụ thể về hình phạt TCTH dưới khía cạnh lập pháp
hình sự nhằm tìm ra những mặt tích cực và hạn chế trong quy định hình phạt tù mỗi
thời kỳ. Từ đó kiến nghị hoàn thiện và dự báo xu thế sự biến đổi của hình phạt
TCTH trong PLHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu như trên, đề tài có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Trình bày những vấn đề lý luận chung về hình phạt TCTH.
Trình bày phân tích so sánh đối chiếu thêm những quy định về hình phạt
TCTH của một số nước trên thế giới với quy định tại Việt Nam.
Trình bày so sánh và đánh giá quy định về hình phạt TCTH trong luật hình
sự từ năm 1945 đến nay theo từng giai đoạn cụ thể của lịch sử.
Đề xuất các giải pháp khắc phục các mặt hạn chế của quy định về hình phạt
tù hiện này từ nghiên cứu lịch sử, thực tại và xu hướng của thế giới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quy định về hình phạt TCTHtrong pháp luật hình sự
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:Luận văn nghiên cứu hình phạt TCTH dưới góc độ lập
pháp tập trung trong giai đoạn từ 1945 đến hiện nay với nhiều phân đoạn từ sơ khai
đến các lần pháp điển hoá PLHS nước ta.
7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp sau:
+ Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
+ Phương pháp sử học;
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống;
+ Phương pháp phân tích, so sánh;
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Lý luận về hình phạt TCTH dưới góc độ lịch sử một cách tổng quan.
Hệ thống hóa sự thay đổi của các quy định về hình phạt TCTH trong các văn
bản về Hình sự trước khi pháp điển hóa và các BLHS ban hành từng thời kỳ đến
nay.
Tìm ra nguyên nhân, lý giải quá trình hình thành và biến đổi hình phạt TCTH
trong HTHP của PLHS Việt Nam từ thời kỳ bắt đầu độc lập từ năm 1945 đến nay.
Đánh giá sự tác động của lịch sử và bối cảnh xã hội đất nước lên các quy
định về hình phạt đặc biệt là hình phạt TCTH.
Từ những lần thay đổi trong các quy định có thể tìm ra quy luật, xu hướng
của sự thay đổi, hạn chế của quy định hiện tại và bài học của lịch sử để lại qua đó
có thể dự báo đóng góp những ý kiến mang tính khoa học trong việc hoàn thiện
HTHP cụ thể là hình phạt TCTH trong PLHS hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hình phạt tù có thời hạn trong Pháp luật
hình sự.
Chương 2: Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến nay.
Chương 3: Một số hạn chế và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc quy định về
hình phạt tù có thời hạn trong Pháp luật hình sự Việt Nam.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt trong pháp luật hình sự
1.1.1. Khái niệm về hình phạt
Hình phạt đã gắn liền với sự hình thành Nhà nước và Pháp luật từ thời cổ
đại, cho đến ngày nay hình phạt được xem như là một trong những biện pháp quản
lý xã hội bằng pháp luật rất hữu hiệu. Hình phạt thường được áp dụng cho những
người phạm tội bị cấm mà theo theo khoa học hình sự hiện đại là gắn liền với tội
phạm nhất định
Theo Tự điển giải thích thuật ngữ luật học, Nhà xuất bản Công an nhân dân
thì giải thích rằng: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Luật hình sự
quy định và do toà án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội nhằm trừng trị giáo dục họ cũng như nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm”. [20, tr.64]
Trên phương diện lịch sử PLHS của nước ta, khái niệm về hình phạt chỉ
được chính thức quy định lần đầu tiên tại BLHS 1999. Trước đó hầu hết các hình
phạt cụ thể được phân bổ trong các quy định về tội phạm tại các văn bản riêng lẻ,
các nhà lập pháp chưa có quy chuẩn hệ thống hình phạt mang tính khái quát khoa
học. Ngay cả BLHS 1985 là BLHS đầu tiên cũng không nêu khái niệm hình phạt
trong phần chung của BLHS. Theo Điều 26 BLHS 1999 quy định rằng: “Hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình
sự và do Toà án quyết định”. Trải qua nhiều lần thay đổi bổ sung và thay thế, đến
hiện nay khái niệm hình phạt trong BLHS 2015 xét về nội dung vẫn giữ lại các nội
dung trước đó nhưng có bổ sung mở rộng thêm đối tượng áp dụng hình phạt đó là
pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 30 BLHS 2015).
Một cách biểu thị khái quát, đầy đủ và cân bằng hơn sẽ là quan điểm của
Giáo sư Võ Khánh Vinh trong tác phẩm Luật hình sự của mình có nêu “Hình phạt
9
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được Bộ luật hình sự quy định do Tòa án
nhân dân nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm và thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp do
luật quy định đối với người bị kế án” [66, tr.347], đây có thể được xem là khái niệm
chứa đầy đủ nội hàm của của hình phạt nhất.
Như vậy tác giả có thể khái quát một cách tổng quan để dễ nhận diện hơn, có
thể đưa ra khái niệm hình phạt như sau: Hình phạt là một trong những công cụ bảo
đảm và thể hiện các mức độ thi hành việc phải chịu trách nhiệm hình sự cho tội
phạm đã thực hiện (ở cả cá nhân và pháp nhân thương mại), nó hướng chính đến
việc trực tiếp giáo dục cải tạo đối tượng phải chịu và gián tiếp phòng ngừa tội phạm
để tái lập cân bằng trật tự xã hội khi xảy ra xáo trộn bởi hành vi phạm tội gây nên,
thông qua việc Toà án áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhằm vào lợi
ích, sự tự do và cả sự sống bằng các mức độ khác nhau.
1.1.2. Đặc điểm của hình phạt
Hình phạt trong PLHS có các đặc điểm chính sau:
(1) Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước so với
các biện pháp cưỡng chế khác như về hành chính hoặc kỷ luật.
(2) Hình phạt được quy định trong BLHS hay mang tính chất pháp định,
tránh được sự suy đoán tùy tiện hoặc lạm dụng của Tòa án.
(3) Hình phạt phải chỉ được áp dụng bởi Toà án nhân danh Nhà nước áp
dụng.
(4) Đối tượng chịu hình phạt là phải là đối tượng phạm tội, mang tính chất cá
thể hóa trách nhiệm hình sự, không có sự thay thế khi áp dụng hình phạt. Với ý đó
C.Mác viết rằng: “Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất
yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính người đó” [7,
tr.181].
(6) Hình phạt phải đồng nhau nghĩa là sự công bằng giữa các đối tượng
phạm tội, không phân biệt đối tượng, tuy nhiên đây chỉ là đặc tính tương đối, với
một số đối tượng có những điều kiện nhất định thì hình phạt sẽ có tính chất tăng
10
nặng hoặc giảm nhẹ, nhưng sự gia giảm này cũng phải có quy định rõ ràng và điều
kiện hết sức nghiêm ngặt.
(7) Hình phạt tạo nên án tích cho người chịu hình phạt, án tích này chỉ được
xóa đi khi đảm bảo được một số điều kiện về thời gian và hành vi sau khi thụ lý
hình phạt.
1.1.3. Mục đích của hình phạt
Mục đích của hình phạt có nhiều quan điểm, trước đây, các Nhà nước Phong
kiến thực dân luôn xem mục đích hình phạt là sự trừng phạt đối tượng phạm tội, nó
được xem là cái giá phải trả theo nguyên tắc cổ xưa là luật về sự trả thù ngang bằng
(theo nguyên tắc lex talionis) thể hiện trong bộ luật cổ Hamurabi tại Babylon cổ đại,
hay trong Kinh thánh Do Thái cũng có nhắc đến nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền
răng” như câu ngạn ngữ nổi tiếng “an eye for an eye and a tooth for a tooth”, những
nguyên tắc trả thù ngang bằng đã rất phổ biến thời cổ đại ăn sâu vào tiềm thức của
các tầng lớp thống trị cũng như toàn xã hội thời đó. Tuy nhiên phong trào bảo vệ
quyền con người cũng như các ngành khoa học xã hội đã phát triển, xã hội không
còn quan niệm hình phạt có mục đích trừng phạt ngang hàng hoặc trừng phạt là yếu
tố chính của hình phạt nữa, mà nó kèm theo rất nhiều mục đích nhân văn khác mang
tính chất cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa khả năng tội phạm diễn ra, nghĩa là
quan điểm về việc phòng ngừa tội phạm được đề cao đó cũng được xem là nhiệm
vụ của nhà nước và pháp luật đề ra vậy.
Tuy còn nhiều tranh cãi giữa các quan điểm nhưng quan điểm được chấp
nhận rộng rãi nhất là mục đích của hình phạt có 3 mục đích chính:
“Một là giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân thủ theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; Hai là
ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng); Ba là phòng ngừa
người khác phạm tội (Phòng ngừa chung)”. [66, tr.348]
Quan điểm này được các làm luật Việt Nam thể hiện rõ trong quá trình xây
dựng và quy định BLHS bắt đầu từ BLHS 1985 về nội dung mục đích hình phạt
không có gì thay đổi.
11
Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng nên loại trừ từ ngữ “không chỉ nhằm để
trừng trị” trong điều luật đã quy định trong mục đích hình phạt nhằm tránh gây sự
hiểu lầm về mục đích của hình phạt, vì rõ ràng xét theo ngôn từ nó thể hiện tính
chất “trừng trị” vào mục đích đầu tiên, và nên xem mục đích của hình phạt thêm
một sự trọng yếu nữa là “góp phần phục hồi lại công lý…”[8, tr.462], tuy nhiên qua
các lần sửa đổi bổ sung BLHS và ban hành BLHS mới, các nhà làm luật vẫn giữ
nguyên cấu trúc này cho đến ngày nay.
Tuy thống nhất rằng Hình phạt không mang mục đích trừng trị nhưng không
thể loại trừ được nó khỏi hình phạt, và các nhà lý luận cũng đáng cố gắng biện giải
bằng cách này hay cách khác. Một số khác giải thích rằng vì chỉ nên coi “trừng trị”
là thuộc tính vốn có trong bản chất của hình phạt chứ không nên xếp vào là mục
đích của nó hướng đến. Cho đến lần sửa đổi cuối cùng là BLHS 2015 thì các nhà
làm luật vẫn giữ nguyên quy định trong Điều 31 mục đích hình phạt là “hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị…”. Tuy nhiên một cách tổng quan cũng cần phải xem xét
toàn bộ lại lịch sử và văn hóa nước ta nói riêng và cả khu vực nói chung, đều ảnh
hưởng rất lớn và lâu đời từ hai học thuyết lớn lớn về Nhân trị với đại diện là Khổng
giáo của Khổng Tử và Pháp trị với đại diện là Quản Tử hay Thương Ưởng đề xuất
từ thời Tần Hiếu Công sau này được phát triển bởi Hàn Phi Tử. Các triều đại lớn
bên Trung Quốc thời Phong kiến cũng ảnh hưởng hai tư tưởng này rất nhiều. Chính
hai quan điểm này đan xen và cùng nảy nở trong lòng xã hội, dẫn đến hình thành
các quan điểm trái ngược cùng tồn tại hai mặt trong qua các thời kỳ trong xã hội ta,
ngay cả trong cổ luật nước ta như các Bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê và Hoàng Việt
Luật Lệ thời nhà Nguyễn cũng có những điểm thể hiện sự trái ngược này. Vì thế
cũng có thể giải thích phần nào do việc kế thừa truyền thống nên dẫn đến các nhà
làm luật vẫn duy trì một cách thể hiện như điều luật trên đã nêu.
1.1.4. Phân chia hình phạt trong hệ thống hình phạt
Để dễ dàng xắp xếp, phân loại cho các hoạt động nghiên cứu và đặc biệt cho
việc soạn thảo cũng như áp dụng hình phạt trong BLHS, hình phạt ngày nay được
chia ra thành một hệ thống chặt chẽ, có thứ tự theo sự nghiêm khắc từ thấp đến cao,
12
theo đó hệ thống cơ bản nhất ngày này đa số các nước áp dụng đó là: (1) Hình phạt
không giam giữ: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền, tước một số quyền
công dân, tịch thu tài sản, trục xuất; (2) Hình phạt giam giữ: TCTH và tù không thời
hạn còn gọi là tù chung thân; (3) Hình phạt tử hình.
Với cách phân loại khác mà các nhà nghiên cứu luật học trong giai đoạn
1963-1975 tại Sài Gòn Miền nam Việt Nam có nêu lên là có ba loại hình phạt chính
gọi là chính hình: Một là Thể hình: Hình phạt duy nhất là hình phạt tử hình, đây là
hình phạt duy nhất không thể sửa cũng không thể phân chia; Hai là Hình phạt bác
đoạt tự do hay hạn chế tự do: Là hình phạt TCTH hoặc chung thân, khổ sai hữu
hạn, cấm cố, cấm lưu trú, phạt giam…; Ba là Ngân hình (hình phạt vào tài sản):
Phạt tiền hoặc tịch thu tài sản.
Một cách thức phân loại khác để áp dụng thực tế thuận tiện hơn thì có thể
chia ra làm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, theo đó thì hình phạt chính là hình
phạt được áp dụng độc lập với hình phạt khác và chỉ duy nhất hình phạt chính áp
dụng. Hình phạt bổ sung là hình phạt có thể được tuyên án kèm theo khi có hình
phạt chính. Với cách phân loại này sẽ dẫn đến một hình phạt tùy lúc lại là hình phạt
chính, có lúc lại là hình phạt bổ sung điển hình như phạt tiền. Cách phân loại này
phù hợp với thực tiễn áp dụng hơn nên phần lớn các nước sử dụng cách phân loại
này và Việt Nam trong BLHS cho đến nay cũng phân chia theo cách này. PLHS
Việt Nam tập hợp các hình phạt sau quy định vào hình phạt chính: Cảnh cáo; Phạt
Tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; TCTH; Tù chung thân; Tử hình. Bên cạnh
đó còn có các hình phạt bổ sung như: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân;
Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi
không áp dụng là hình phạt chính. Những hình phạt này quy định trong BLHS 1999
và BLHS 2015 là giống nhau, ở BLHS 1985 cũng cấu trúc tương tự tuy nhiên chưa
quy định hình phạt trục xuất ở cả hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung.
Ngoài ra một cách phân chia tổng quát hơn của Luật Hình sự Pháp đó là căn
cứ theo tính chất sự nặng nhẹ của hình phạt mà chia ra: “Hình phạt đại hình, hình
13
phạt tiểu hình, hình phạt vi cảnh” [26, tr.813]. Đây cũng là những cách thức hữu
ích cần được tham khảo áp dụng khi có các cách tiếp cận bằng các góc độ khác
nhau để nghiên cứu về hình phạt.
1.2. Lý luận chung về hình phạt tù có thời hạn
1.2.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn
Theo tự điển Hán Việt chữ “tù” gốc chữ Hán nghĩa động từ là bắt người nào
đó phạm tội giam lại, danh từ là giam hãm, trói buộc lại một chỗ. Tiếp cận dưới góc
độ chiết tự chữ Hán, kết cấu chữ “Tù” là “囚” được kết hợp bởi bộ Nhân (人- nghĩa
là con người) ghép nằm trong với bộ “Vi” (囗- nghĩa là vây, bao quanh). Sự kết hợp
là chữ tượng hình diễn tả sự việc người bị đóng lại trong một ô giới hạn bao quanh.
Vậy theo chiết tự về mặt nguồn gốc ngôn ngữ nói lên được rằng “tù” là một sự giới
hạn không gian hoạt động nhất định của con người.
Đặc tính “có thời hạn” nghĩa là một việc được diễn ra theo thời gian và giới
hạn tại một mức nào đó bằng cách cách xác định điểm mốc không vượt qua theo
một quy ước hoặc được quy định cụ thể.
Vậy hình phạt TCTH theo nghĩa chung cơ bản để nhận diện là một hình phạt
bằng việc giam giữ một người trong một thời hạn nhất định với các chế độ cách ly
người đó đến mức tối đa đối với các quyền tự do và quan hệ xã hội bình thường.
Tuy nhiên với khoa học pháp lý, khái niệm trên là chưa đầy đủ để nói lên
được tính pháp lý nội hàm của nó, vì đây chỉ là khái lược bản chất nội tại của hình
phạt TCTH, vì thế cần phải xem xét sâu xa hơn về các đặc điểm và các điều kiện
pháp lý khác để có được khái niệm mang tính khoa học pháp lý cao hơn. Chính vì
thế các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm có kèm theo các khía cạnh khác
của hình phạt này để cố gắng có được cái nhìn toàn diện hơn với hình phạt TCTH.
Một sự giải thích nổi bật được đặc tính đặc trưng hình phạt tù của Từ điển
luật học, Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp (Nhà xuất bản Tư pháp) giải thích như
sau:
“Hình phạt tù là hình phạt tước quyền tự do của con người, buộc người bị
kết án phải cách ly khỏi cuộc sống bình thường của xã hội, sống trong mội trường
14
riêng biệt, có sự kiểm soát chặt chẽ (trại giam)”[64, tr.361], và còn cho rằng đây là
hình phạt magn tính truyền thống trong luật hình sự các nước nói chung và cũng là
loại hình phạt được áp dụng phổ biến nhất trong thực tế của chúng ta hiện nay.
Một quan điểm về hình phạt TCTH ngắn gọn nhưng đầy đủ và xúc tích làm
nổi bật khía cạnh giáo dục người phạm tội hơn trong phần khái niệm là “Tù có thời
hạn về thực chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra
khỏi môi trường xã hội bình thường trong một thời gian nhất định để giáo dục và
cải tạo họ”.[66, tr.359]
Lịch sử phát triển PLHS của Việt Nam cho thấy hình phạt TCTH là một
hình phạt có truyền thống rất lâu đời từ thời Phong kiến đến nay. Chỉ đến khi pháp
điển hoá về PLHS lần thứ nhất với BLHS 1985 mới được quy định rõ ràng trong
phần chung của BLHS, về sau qua nhiều lần sửa đổi và ban hành các BLHS khác
thay thế, chế định chỉ xuất hiện cụ thể trong các quy định hình phạt dành cho các tội
phạm, sau này đều được quy định rõ ràng bằng một điều trong phần chung của bộ
luật. BLHS 1985 là bộ luật đầu tiên quy định hình phạt tù dưới hình thức như là
định nghĩa pháp lý (ĐNPL), quy định tại điều 25; BLHS năm 1999 quy định tại
Điều 33; và mới nhất là BLHS năm 2015 quy định tại Điều 38. Nội dung quy định
có sự thay đổi không nhiều qua các thời kỳ, nếu như ở lần pháp điển hoá lần thứ
nhất khá đơn giản và tổng quát, thì đến hiện nay đã rất chi tiết và hoàn thiện hơn.
Vậy có thể khái niệm hình phạt TCTH như sau: Hình phạt TCTH một trong
những hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của luật hình sự, hình phạt này về
nội dung buộc người bị kết án với một thời hạn nhất định phải bị giam giữ tại một
địa điểm riêng biệt trong tình trạng cách ly nghiêm ngặt khỏi đời sống xã hội, đồng
thời hạn chế tối đa các quyền tự do cũng như các mối quan hệ xã hội với mục đích
là giáo dục cải tạo họ trở nên một công dân phù hợp với xã hội.
1.2.2. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn
Hình phạt TCTH là một trong những hình phạt trong hệ thống hình phạt của
PLHS vì thế mang đầy đủ đặc điểm đặc trưng cơ bản của hình phạt như đã phân tích
ở trên. Ngoài ra hình phạt tù còn có những đặc điểm mang tính chất riêng đặc thù so
15
với một số hình phạt khác trong hệ thống hình phạt.
Đối tượng quy định của hình phạt tù là người phạm tội trong các quy định về
tội phạm và có năng lực trách nhiệm hình sự. Hình phạt tù không áp dụng cho tội
phạm là pháp nhân thương mại như quy định tại chương XI BLHS 2015.
Hình phạt TCTH là hình phạt phạm vào tự do của người phạm tội. Từ những
phân tích về mặt khái niệm trên đây cho ta thấy được hai yếu tố nổi bật và quyết
định quan trọng nhất của hình phạt này là người phải thi hành sẽ hạn chế tự do bởi
chịu sự giới hạn về không gian và một giới hạn thời gian để thực hiện nó, từ đó dẫn
đến sự giới hạn tự do về phương diện thân thể, quan hệ xã hội và một số nhu cầu
khác so với cuộc sống bình thường.
Một số quan điểm cho rằng hình phạt tù nói chung hay hình phạt TCTH nói
riêng nó là sự tước đoạt tự do, theo tác giả nên hiểu theo nghĩa hạn chế tự do ở mức
cao, vì các biến số về hạn chế sự tự do thay đổi tuỳ theo các quy định tội phạm và
các chế định khác có liên quan nhưng sự tự do của người đang thi hành hình phạt tù
chỉ bị thu hẹp ở mức cao nhất chứ chưa hoàn toàn bị tước bỏ mất, họ vẫn được
sống, sinh hoạt, lao động, học tập ở mức cơ bản trong khuôn khổ ràng buộc nhất
định và những điều khiện giới hạn.
Một sự hạn chế tự do ở một mức độ nào đó là điều hợp lý khi cần có sự giới
hạn đó vì lợi ích chung, lợi ích của cộng đồng, trên nguyên tắc ấy, các nhà lập pháp
cũng đã hình thành nên các loại hình phạt mà hình phạt TCTH là hình phạt mang
tính toàn diện nhất giữa các khía cạnh trừng trị, giáo dục mang tính nhân bản và
phòng ngừa riêng lẫn phòng ngừa chung.
TCTH có thể ít khắc nghiệt với một thời gian ngắn nhưng cũng rất khắc
nghiệt với một thời gian giam giữ lâu dài vì thế nó có khả năng đáp ứng được mục
đích của hình phạt một cách sâu rộng hơn.
Yếu tố thời gian là một cấu thành quan trọng trong hình phạt TCTH, một yếu
tố rất đặc trưng trong hình phạt TCTH, yếu tố này sẽ làm căn cứ để xác định việc
nặng hoặc nhẹ đi hình phạt này. Nghĩa là một biến số thời gian trong hình phạt
TCTH có thể dùng để đo lường sự nặng hay nhẹ của hình phạt TCTH. Yếu tố thời
16
gian đảm bảo được định lượng cho việc quy định hình phạt tù cho các tội phạm.
Hình phạt TCTH so với hình phạt tù chung thân tuy có đặc tính tương tự nhau về
mặt hạn chế không gian nhưng khác biệt lớn nhất là về mặt thời gian phải chịu hình
phạt.
Về tính giới hạn thời gian của hình phạt TCTH, đa phần các bộ luật của các
nước trong giai đoạn hiện nay đều có quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình
phạt TCTH. Các nhà lầm luật cho rằng, ngoài việc giới hạn mức thời hạn ở mức tối
đa và tối thiểu thì việc hình thành các cộc mốc này còn có ý nghĩa rằng, với mức
thấp nhất là để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật không được phép áp dụng
thấp hơn trong hình phạt tù, với mức cao nhất để bảo đảm quyền con người và tính
nhân văn của khung hình phạt vì không được phép áp dụng vượt qua nó trong
khuôn khổ hình phạt tù. Trong khoảng thời gian trước đây khi chưa chính thức pháp
điển hóa để có BLHS thì ở Việt Nam cũng chưa có điều luật cụ thể nào quy định
mức tối thiểu và tối đa cho hình phạt TCTH, tuy nhiên khảo sát các văn bản trong
cùng thời kỳ thì có thể tìm ra được mức thấp nhất và cao nhất trong tổng thể của các
văn bản PLHS trong một giai đoạn nhất định nào đó. Về mức thấp nhất, hiện nay
trên thế giới có rất nhiều quy định cho mức tối thiểu cho hình phạt TCTH nhưng
thường trung bình từ 3 tháng, một số nước có thể quy định thấp hơn như tại Thuỵ
Điển là 14 ngày (Chương 26 BLHS Thuỵ Điển). Về mức cao nhất quy định cho
hình phạt TCTH trong một tội phạm trên thế giới thường là 20 năm, có một số quốc
gia quy định thấp hơn như Trung Quốc là 15 năm, hoặc là 18 năm tại Thuỵ Điển.
Một số quốc gia như nước Anh không quy định giới hạn tối đa của hình phạt TCTH.
Đặc biệt hơn ở Hoa kỳ, pháp luật nước này không quy định mức tối thiểu và tối đa
của hình phạt tù nói chung, nghĩa là mức hình phạt tù cao nhất ở một số tội có thể sẽ
là con số cụ thể do toà án tuyên hoặc tuyên thời gian suốt đời tương tự như hình
phạt tù chung thân.
Về vấn đề quy định mức tối thiểu và tối đa cho hình phạt này, thông thường
các nhà lập pháp sẽ dựa vào các yếu tố như thông lệ truyền thống, sự kế thừa hoặc
sự đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, các mức tham khảo của các nước khu vực hoặc
17
hệ thống PLHS bị hưởng bởi một hệ thống pháp luật khác, nó cũng tuỳ thuộc vào
các thể chế chính trị và tình hình thực tế và mục đích, kết quả của mức thời gian áp
dụng cho hình phạt tù.
Hình phạt TCTH là một hình phạt mang tính tương đối. Sự tương đối thể
hiện ở cả khía cạnh không gian và thời gian, tương đối về mặt không gian tuy bị
giam giữ nghiêm ngặt, riêng biệt với xã hội nhưng vẫn có sự sinh hoạt cần thiết
giữa những người đang chấp hành với nhau, với các cán bộ thực hiện nhiệm vụ, một
mối liên hệ giới hạn ở mức cần thiết với xã hội đặc biệt là người thân, gia đình và
chăm sóc y tế theo hướng nhân đạo và giáo dục. Tính tương đối về thời gian thể
hiện là việc quy định khoảng thời gian trong hình phạt TCTH trong các khung hình
phạt cụ thể, theo kỹ thuật lập pháp hiện nay hình phạt TCTH thường có cấu trúc quy
định từ mức thấp đến mức cao cho một khung hình phạt; Tính tương đối về mặt thời
gian còn thể hiện ở mức áp dụng thời gian tù có thể thay đổi phụ thuộc vào các điều
kiện, đối tượng khác nhau mà luật quy định ở các chế định khác có liên quan.
Trong sự tương quan với hệ thống hình phạt tổng thể, hình phạt TCTH luôn
là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của PLHS của các quốc gia trên thế
giới. Hình phạt TCTH trong kết cấu phân loại là hình phạt chính nên còn có thể
kèm theo các hình phạt bổ sung theo các quy định của PLHS. Tuy nhiên ở chiều
ngược lại, hình phạt TCTH với các tội phạm ít nghiêm trọng có xu hướng chuyển
quy định về áp dụng các hình phạt khác thay thế như cải tạo không giam giữ hoặc
phạt tiền.
Mức độ phổ biến của hình phạt TCTH là rất lớn, xu hướng này vẫn có khả
năng xảy ra trong tương lai khi các hình phạt như tù chung thân và tử hình ngày
càng có xu hướng giảm hoặc loại bỏ. Hình phạt TCTH có sự phổ biến lợi thế trong
sử dụng so với các hình phạt khác bởi sự tuỳ biến cao về biến số thời gian, đồng
thời có thể có các điều kiện khác đi kèm dẫn đến hiệu quả của hình phạt vẫn đảm
bảo với từng yêu cầu của xã hội trong nhiều giai đoạn. Và như vậy hình phạt TCTH
sẽ gần như là hình phạt trung tâm với sự phổ biến và hiện diện hầu hết trong các
quy định về tội phạm. Khảo sát qua các BLHS của nhiều quốc gia, từ trước đến nay
18
thì hình phạt TCTH chiếm đa số trong tỷ lệ các hình phạt áp dụng cho các loại tội
phạm, thậm chí vài trường hợp nó còn có mặt 100% trong các điều quy định về tội
phạm tại một số BLHS ở các quốc gia hoặc tại Việt Nam trong một số thời kỳ trước
đây.
Hình phạt TCTH có thể gia giảm mức hình phạt khi tuyên án, và hình thức
áp dụng thi hành cũng có thể khác nhau, tuy nhiên việc này các nhà lập pháp đã hết
sức hạn chế và chỉ có thể chuyển đổi thực hiện theo xu hướng nhẹ hơn, ít nghiêm
khắc hơn và có lợi cho người phải chấp hành để tránh sự lạm dụng của tòa án và có
tính chất nhân đạo đối với người bị tuyên án như: Được trừ thời hạn tạm giam, tạm
giữ trước đó đã thực hiện vào thời hạn tù; PLHS ở nước ta và các nước có các chế
định khác quy định có thể làm giảm nhẹ mức hình phạt tù thực tế mà một người
phải chịu nếu đáp ứng được các điều kiện cụ thể nào đó do luật định như các chế
định tha miễn. Ngoài ra người bị tuyên án hình phạt tù có thể được giảm nhẹ hơn
bởi các chế định khác trước khi tuyên án là các chế định có tình tiết giảm nhẹ, hoặc
là đối tượng vị thành niên. Ngược lại hình phạt TCTH không quy định cách thức
chuyển đổi hoặc thực tế thi hành theo hướng tăng nặng hơn so với bản án có hiệu
lực.
Một ngoại lệ cho việc tăng thời gian hình phạt tù là khi có sự tổng hợp nhiều
bản án hoặc nhiều tội, sự tổng hợp dẫn đến hình phạt có thể cao hơn mức hình phạt
của một tội hoặc cao hơn cả mức tối đa mà luật quy định cho hình phạt TCTH, tuy
nhiên sự tổng hợp này cũng luôn có cách tính mang nội dung giảm nhẹ hơn so với
sự tổng hợp theo logic toán học thông thường.
Hình phạt tù còn có thể được thực hiện thi hành một cách không liên tục, có
thể phân chia, hoặc chưa phải thực hiện ngay. Trên nguyên tắc chung là thực hiện
xuyên suốt để đảm bảo tính nghiêm minh và khoa học hình sự nhưng do yếu tố
nhân đạo nên một số trường hợp đặc biệt có thể được tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ
khi người bị kết án tù gặp phải tình trạng mà không thể khắc phục ngay được trong
một thời gian ngắn bằng nỗ của bản thân và người khác như bệnh nặng sức khoẻ
yếu kém, phụ nữ có thai và nuôi con nhỏ, nhu cầu công vụ cần thiết…
19
1.2.3. Mục đích của hình phạt tù có thời hạn
Về tổng thể, mục đích của hình phạt như đã phân tích ở trên theo khoa học
hình sự và quan điểm của các nhà lập pháp bao gồm: Giáo dục cải tạo và phòng
ngừa kèm theo bản chất nội tại là trừng trị. Vì hình phạt TCTH nằm trong hệ thống
hình phạt nên chắc chắn vẫn phải tuân thủ các yếu tố trên. So với các hình phạt
khác, hình phạt TCTH có mục đích không những đáp ứng được đầy đủ và các mục
đích mà luật hình sự quy định mà còn có sự cân bằng và hiệu quả cao hơn so với
các hình phạt khác do đặc điểm riêng của nó mang lại. Ngoài ra hình phạt TCTH
cũng mang những mục đích cụ thể hơn:
(1) Giam giữ người bị kết án mục đích để tách biệt họ ra khỏi xã hội thông
thường mà họ đã tác động đến các mối quan hệ xã hội đó, trước tiên nhằm tránh cho
họ khả năng tái phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội tiếp
theo sau đó, vì tâm lý tội phạm sẽ có xu hướng lặp lại hoặc gia tăng hành vi nếu
không được sự kiểm soát.
(2) Hình phạt TCTH xét về mặt giới hạn thời gian thực hiện hình phạt: Nhằm
kiểm soát được các hành vi và đời sống người phải bị chấp hành trong một thời hạn
nhất định. Khoảng thời gian mà khoa học hình sự nghiên cứu từ tâm lý, sinh lý, giáo
dục để phù hợp và cần thiết với quá trình cải tạo lại một con người tùy theo mức độ
tội phạm.
(3) TCTH giam giữ người bị kết án nhằm đến sự hiệu quả của sự giáo dục
cải tạo bởi sự tập trung và kiểm soát người chấp hành về mặt không gian.
(4) Hình phạt TCTH như một tấm gương soi công lý bền bỉ hiện hữu trong
thời gian dài cho các thành viên khác có thể nhận biết hậu quả phải chịu hình phạt
khi thực hiện tội phạm giúp cho các cá nhân khác điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp tránh tác động xấu đến các giá trị mà PLHS bảo vệ. Tuy nhiên luận điểm
này còn tranh cãi bởi một số nhà hoạt động nhân quyền cho rằng không thể dùng
hình phạt của một người để làm gương hoặc một biện pháp giáo dục cho người
khác, đó là điều không nên có.
1.2.4. Bản chất của hình phạt tù có thời hạn
20
Bản chất của xã hội của hình phạt tù có thời hạn
Bản chất của hình phạt nói chung và hình phạt TCTH nói riêng là bản chất
xã hội; Đa số các nhà nhà nghiên cứu luật học đồng ý với bản chất xã hội này của
hình phạt bởi các tư tưởng lớn tiến bộ trong triết học lập pháp đều quan điểm hình
phạt là những phản ứng của xã hội khi những sự xâm hại có nguy cơ không đảm
bảo sự tồn tại của nó. Bentham cho rằng xã hội như một sinh vật sống và muốn tồn
tại nó phải có hành động phản ứng và trừng phạt lại các tác động có phương hại đến
sự sinh tồn của nó một cách tự nhiên. Tương tự theo C.Mác cũng nhận định rằng:
“…hình phạt chẳng qua chỉ là thủ đoạn tự vệ của xã hội chống lại sự vi phạm
những điều kiện tồn tại của nó” [7, tr.673]. Với học thuyết khế ước xã hội của
J.J.Rousean tương tự, cũng cho rằng“quyền trừng phạt (quyền sử dụng trừng phạt)
có nguồn gốc từ sự thỏa thuận giữa những người đã tạo nên xã hội, nhằm gìn giữ
trật tự xã hội, cái cốt yếu để giữ cho xã hội tồn tại”. [5, tr.54]
Bản chất giai cấp của hình phạt
Hình phạt hay hình phạt tù nói riêng mang bản chất của giai cấp, tức là nó
phục vụ cho sự củng cố cũng như bảo vệ xã hội cho sự thống trị của nhà nước. Vì
thế giai cấp nào, Nhà nước nào quy định và áp dụng hình phạt thì mang bản chất
của Nhà nước và giai cấp đó. Với chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa hình phạt lại
mang ý nghĩa bảo vệ và củng cố lợi ích của đa số tầng lớp nhân dân lao động nên
rất được chú trọng đến sự giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
1.3. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự
1.3.1. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn với xã hội
Hình phạt TCTH là một trong những hình phạt phát huy tác dụng như mong
muốn của các nhà lập pháp trên thế giới từ xưa đến nay, việc quy định hình phạt
TCTH đóng vai trò hết sức quan trọng trong PLHS bởi nó là một yếu tố cấu thành
cần thiết trong hệ thống hình phạt giúp hệ thống hình phạt có sự hoàn thiện đa dạng
và phát huy tác dụng. Sự ưu thế của hình phạt TCTH so với các hình phạt khác bởi
sự tùy biến cao trong quy định sẽ phù hợp với nhiều tình huống và áp dụng phù hợp
với nhiều loại tội phạm ở nhiều mức độ khác nhau vì nếu loại trừ hình phạt TCTH
21
ra hoàn toàn trong hệ thống hình phạt, sẽ không còn hình phạt khác có sự tuỳ biến
cao đủ sức răn đen mà vẫn có tính nhân đạo ở một mức độ tương đối chấp nhận
được tùy vào mức độ thời gian và điều kiện chấp hành.
Vai trò cân bằng xã hội về mặt quản lý nhà nước bằng pháp luật: Các vấn đề
tội phạm không thể để tự nhiên xã hội điều tiết cân bằng được, vì thế hình phạt nói
chung và hình phạt tù nói riêng đóng vai trò là một trong các nhân tố làm cân bằng
lại các sự xáo trộn được đánh giá là nguyên nhân dẫn đến tội phạm.
Hình phạt tù là một hình phạt trung gian giữa hai quan điểm Nhân trị và
Pháp trị như phân tích ở trên, có thể nói, nó giải pháp dung hòa thể hiện cả hai quan
điểm trong tư duy và xây dựng nên hình phạt này.
1.3.2. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn đối với người chấp hành
Hình phạt TCTH đóng vai trò chính yếu trong việc tách các đối tượng phạm
tội ra khỏi xã hội trước tiên để họ không tiếp tục thực hiện các tội phạm mới bởi
nguy cơ rất cao khi một người thực hiện tội phạm sẽ thực hiện tiếp một tội phạm
khác nếu không được tách ra khỏi cộng đồng và giáo dục cải tạo bằng các biện pháp
cưỡng chế. Vai trò này nhằm đáp ứng mục đích của hình phạt nói chung là phòng
ngừa tội phạm.
Hình phạt TCTH cũng có vai trò hạn chế và ngăn cản người phạm tội khỏi sự
trả thù ngược lại từ các đối tượng là nạn nhân, là quan hệ xã hội mà người đó đã tác
động tội phạm, hoặc sự bất bình của đám đông, dẫn đến diễn biến phức tạp nối tiếp
nhau, hình phạt TCTH đóng vai trò là nhân tố giảm tối đa sự mâu thuẫn xung đột
đang còn tồn tại giữa các đối tượng này. Sự tách biệt về thời gian và không gian đối
với xã hội bình thường, vô hình trung là biện pháp bảo vệ tốt nhất cho kẻ phạm tội
khỏi bị trừng phạt một cách vô pháp bởi đám đông như thời còn chưa có pháp luật.
Vai trò thúc đẩy cải tạo con người: đây là vai trò mang tính nhân văn và niềm
hy vọng của xã hội, hình phạt TCTH dưới góc nhìn mục đích để giáo dục thì rõ ràng
mang tính nhân văn rất cao, mọi người đều hy vọng rằng khi một người chịu án
phạt TCTH sẽ trở nên tốt hơn và tích cực hơn. Vai trò như một ngôi trường đặc biệt
tập trung giáo dục của nhà tù là một tín hiệu cho thấy rằng các nhà lập pháp luôn
mong muốn rằng con người có thể được cải tạo và giáo dục trở nên tốt hơn, có ích
22
hơn và đúng theo chuẩn mực xã hội hơn.
Vai trò giải thoát tâm lý cho người thực hiện tội phạm về mặt luân lý và đạo
đức xã hội. Một người phạm tội mà không chịu án hình phạt cảm giác về mặt tâm lý
sẽ rất phức tạp có thể gây nguy hại cho bản thân người đó bằng các hành động bộc
phát bởi sự ràng buộc luân lý và đạo đức theo họ suốt thời gian còn lại. Vậy có thể
xem hình phạt tù có ý nghĩa cân bằng tâm lý cho người phải thực hiện án phạt để
không có những suy nghĩ dẫn đến các hành vi tiêu cực.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu phân tích lý luận
chung về hình phạt TCTH trong PLHS ở các phương diện:
Lịch sử của hình phạt và hình phạt TCTH, sự tác động của chế độ xã hội,
Nhà nước của mỗi thời kỳ lịch sử lên hệ thống hình phạt, trong đó có hình phạt
TCTH.
Lý luận chung về hình phạt và hệ thống hình phạt, từ đó tìm ra mối tương
quan và vị trí của hình phạt TCTH trong HTHP và PLHS. Trình bày nghiên cứu các
đặc điểm chung của hình phạt TCTH như khái niệm, mục đích, bản chất của hình
phạt TCTH, mức độ phổ biến gần tuyệt đối trong quy định của hình phạt cho tội
phạm.
Nghiên cứu các yếu tố cấu thành như yếu tố giới hạn về tự do không gian,
giới hạn về thời gian, Ngoài ra tác giả còn trình bày vai trò của hình phạt tù có thời
với xã hội, với người phải chấp hành.
Việc nghiên cứu bản chất, đặc điểm vai trò và mục đích cùng mối tương
quan giữa hình phạt TCTH và các hình phạt khác là rất quan trọng, trên nền tảng
các yếu tố này để làm cơ sở cho việc nghiên cứu lý luận quy định hình phạt TCTH
ởchương 2 và tìm ra các giải pháp phù hợp và hiệu quả hơn trong việc quy định và
áp dụng hình phạt TCTH trong PLHS Việt Nam hiện nay.
23
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY
2.1. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự
giai đoạn từ năm 1945 đến 1955
2.1.1. Đặc điểm chung của pháp luật hình sự trong giai đoạn năm 1945 -
1955
Việc chọn năm 1945 làm mốc phân tích và căn cứ để chia các giai đoạn về
sau đều dựa vào thực trạng xã hội, các cột mốc lịch sử quan trong của đất nước
cũng như sự phát triển của PLHS, ở mỗi giai đoạn phân chia như vậy đều có đặc
trưng riêng và có sự biến đổi lớn của PLHS trong giai đoạn ấy. Nếu như giai đoạn
1945-1955 thường sử dụng kết hợp các văn bản luật cũ của Pháp ở cả 3 miền thì
giai đoạn 1955-1985 thì lại có sự khác biệt là tuyệt đối không sử dụng các văn bản
luật của Pháp nữa mà là tự ban hành và hoàn thiện dần cùng sự kết hợp với các văn
bản PLHS của Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam. Giai đoạn 1985-1999 là
giai đoạn áp dụng BLHS 1985, đây là sự đánh dấu bước tiến quan trọng trong
PLHS bằng việc pháp điển hoá lần đầu tiên. Giai đoạn 1999-2015 là giai đoạn áp
dụng BLHS thứ 2 là BLHS 1999; Giai đoạn 2015 đến nay là việc ban hành và áp
dụng BLHS 2015, có sửa đổi bổ sung 2017. Ở mỗi giai đoạn như vậy rất nhiều yếu
tố khác nhau ảnh hưởng đến các chính sách hình sự và PLHS đều mang những đặc
trưng riêng mà các nhà nghiên cứu thường căn cứ để phân đoạn nếu có nghiên cứu
PLHS dưới góc nhìn lịch sử.
Năm 1945 đánh dấu mộc cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc, với Cách
mạng tháng 8 thành công và bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 chấm dứt thời
kỳ thuộc địa và phong kiến, mở ra một quốc gia độc lập với đầy tự hào, vị thế được
nâng cao trong khu vực và quốc tế. Mặc dù vậy, thực dân Pháp không từ bỏ thuộc
địa cũ, vẫn tiến hành những bước đi của việc xâm lược tái lập thuộc địa. Trước tình
hình đó Chủ Tịch Hồ chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 để
quyết tâm loại trừ thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam một cách toàn diện.
24
Về phương diện PLHS, với yêu cầu về thời gian gấp rút để đáp ứng cho
chính quyền nhân dân mới còn non trẻ đảm bảo an ninh và cơ sở pháp lý để hoạt
động, chính quyền đã ban hành một số văn bản PLHS song song với việc sử dụng
các luật cũ với tinh thần mới vì chưa kịp thời ban hành điều chỉnh tất cả các lĩnh
vực. Tuy rất quan tâm đến hệ thống pháp luật và đặc biệt là PLHS nhưng vẫn chưa
ban hành được BLHS hoàn chỉnh vì mục tiêu chính giai đoạn này là dồn hết tâm
sức tập trung cho việc dành lại độc lập là ưu tiên hàng đầu.
Về định hướng trong việc xây dựng PLHS trong giai đoạn này chủ yếu: (1)
Bãi bỏ phần lớn các các đạo luật hình sự cũ; (2) tạm thời giữ nguyên một số đạo
luật cũ để áp dụng một cách hữu hạn và thật sự cần thiết; (3) ban hành các đạo luật
mới trong các lĩnh vực khác nhau để thay phù hợp và thay thế dần các đạo luật cũ
không phù hợp.
Về kết cấu, hệ thống PLHS là các văn bản PLHS riêng lẻ, ban hành nhiều
thời kỳ để đáp ứng được kịp thời diễn biến nhanh của tình hình chính trị, kinh tế xã
hội khi vừa dành được độc lập và toàn quốc tiếp tục kháng chiến. Nên về mặt kỹ
thuật lập pháp trong PLHS vẫn còn mang tính chất sơ khai, ban hành với tính cách
tạm thời và là giải pháp tình thế trong thời kỳ Cách mạng còn nhiều khó khăn.
Văn bản PLHS được áp dụng bởi một là văn bản PLHS (bao gồm cả văn bản
pháp luật có tính chất hình sự) được ban hành mới, hai là văn bản PLHS kế thừa
hoặc phủ nhận các văn bản luật hình sự của chế độ trước đó với tinh thần và chủ
trương mới như quy định tại Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời.
PLHS thời kỳ này chưa phải là một Bộ luật hoàn chỉnh nên chưa phân chia
phần chung và phần riêng như cách kết cấu Bộ luật sau khi pháp điển hóa, cũng vì
thế các chế định về tội phạm, hình phạt, các chế định về áp dụng hình phạt…chỉ
xuất hiện riêng lẻ trong các văn bản một cách cơ bản, không đầy đủ và hoàn thiện
như các chế định ngày nay.
Nội dung điều chỉnh chủ yếu trong PLHS trong giai đoạn này tuy chưa hoàn
chỉnh nhưng tập trung chủ yếu vào các vấn đề:
25
(1) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến công cuộc xây dựng tổ
chức bộ máy nhà nước.
(2) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến tính mạng, sức khỏe, tài
sản và các quyền tự do của công dân.
(3) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến văn hóa- xã hội.
Một đặc điểm nhỏ cũng cần lưu ý là một số chi tiết có sự ảnh hưởng bởi một
số yếu tố của Luật nước Cộng Hòa Pháp. Điển hình như các quy định chế định hình
phạt, các thuật ngữ đặc thù và các điều luật kế thừa từ hệ thống cũ mà Pháp đã áp
dụng rất lâu tại Việt Nam dẫn đến ít nhiều ảnh hưởng rõ nét.
2.1.2. Đặc điểm của quy định hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật
hình sự giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1955
2.1.2.1. Các đặc điểm cơ bản
Văn bản PLHS như đã phân tích phía trên do hoàn cảnh đất nước, xã hội nên
về hình thức mới ở dạng các Sắc lệnh, Đạo luật đơn lẻ, mặt khác có sự tổng hợp cả
về mặt phạt hành chính lẫn hình phạt hoặc cả lĩnh vực tố tụng hình sự vào trong một
văn bản. Hình phạt TCTH vì thế chưa được định nghĩa một cách độc lập như một
chế định riêng biệt. Vì thể để nghiên cứu các đặc điểm của hình phạt TCTH, phải
khảo sát các văn bản mà có các quy định về hình phạt tù được quy định áp dụng cho
hình phạt hoặc các văn bản về tố tụng, thậm chí cả các văn bản hành chính mang
tính chất hình sự.
Hình phạt TCTH trong giai đoạn này được hiểu theo nghĩa là phải thực hiện
trong nhà giam với các quy định riêng biệt đặc thù, như vậy hình phạt TCTH sẽ
giới hạn và kiểm soát với mức độ rất cao về không gian tự do của người bị kết án về
những tội phạm trong một thời gian nhất định. Tuy có sử dụng lại các bộ luật cũ
nhưng các hình phạt được quy định có sự khác biệt so với thời kỳ trước nên hình
phạt TCTH không phân chia nhiều hình thái như các bộ luật của Pháp trước đó áp
dụng như cấm cố, khổ sai.
Phân loại trong hệ thống hình phạt
Vì đặc thù của PLHS giai đoạn này nên hình phạt chưa hệ thống thành một
26
điều luật hoặc quy định rõ ràng, mà chỉ tồn tại trong các văn bản PLHS gắn kèm với
các tội danh quy định trong một số lĩnh vực cụ thể. Qua khảo cứu các văn bản
PLHS, có thể nhận thấy tồn tại 8 hình phạt tạm xắp xếp theo mức độ từ nặng đến
nhẹ như sau: Tử hình; Tù chung thân; TCTH; Khổ sai; Tội đồ; Tịch thu tài sản;
Buộc bồi thường thiệt hại đã gây ra; Tước quyền công dân; Quản chế; Phạt tiền.
Nếu tạm chia theo cách phân loại hiện hành thì hình phạt TCTH là hình phạt
chính trong phân loại. Riêng hình phạt khổ sai thời kỳ này được nhắc đến bởi Sắc
lệnh số 21 ngày 14/02/1946 ; Sắc lệnh số 223 ngày 27/11/1946 về tội đưa, nhận hối
lộ của công chức; hoặc tại điều 2 Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/03/1948 tuy vậy thực
tế không sử dụng hình phạt này. Hình phạt khổ sai được các điều luật trên nhắc đến
có nguồn gốc từ hình phạt khổ sai hữu hạn mà thời kỳ Pháp thuộc đã áp dụng trong
các bộ luật tại Việt Nam. Vì lý do đó đa phần các nhà nghiên cứu đã không xếp
hình phạt ấy vào hệ thống hình phạt trong thời kỳ này.
Tương tự vậy, với hình phạt tội đồ, hình phạt này ít được quy định tuy nhiên
cũng xuất hiện một cách hạn chế như quy định tại điều 19 Sắc lệnh số 40 ngày
29/03/1946: “Những nhân viên sau này sẽ bị phạt từ 5 năm đến 10 năm tội đồ và
3.000 đồng, đến 100.000 đồng tiền phạt…”. Hình phạt này cũng có nguồn gốc từ
thời Phong kiến và việc ít xuất hiện nên các nhà nghiên cứu sau này cũng bỏ qua
trong phần thống kê phân loại hình phạt giai đoạn này. Mặt khác đến năm 1950
bằng một Sắc lệnh số 150-SL ngày 7/11/1950 về tổ chức trại giam thì Điều 1 quy
định rằng “phạm nhân phải được giam giữ trong các trại giam để trừng trị và giáo
hoá”. Với ý nghĩa rằng các phạm nhân đã bị kết án sẽ thực hiện án tù trong trại
giam để chịu sự trừng trị các tội phạm đã thực hiện và được giáo dục cải tạo thành
người tốt, bằng quy định này đã gián tiếp loại bỏ hai hình phạt tù khổ sai và tội đồ
ra khỏi HTHP.
Về mức độ nặng nhẹ và nghiêm khắc của hình phạt này chỉ đứng sau hình
phạt tù chung thân và tử hình. Vì là hình phạt chính nên có có thể áp dụng kèm theo
hình phạt bổ sung như trên theo quy định.
Mục đích của hình phạt tù có thời hạn
27
Mục đích của hình phạt nói chung trong giai đoạn này chưa được quy định rõ
ràng trong bất kỳ một điều luật nào, nhưng cách thể hiện và dựa theo quy định gián
tiếp trong một số văn bản PLHS hoặc như điều 1 Sắc lệnh 150/SL ngày 12/01/1953
về nhiệm vụ của toà án có nêu “Trừng trị những kẻ phản cách mạng, những cường
hào gian ác, những kẻ chống lại hoặc phá hoại chính sách ruộng đất…” cũng như
chủ trương trong tình hình chính trị xã hội lúc đó cho thấy rằng, mục đích chính là
trừng trị, phòng ngừa và bảo vệ thành quả cách mạngvới tính khắc nghiệt và răn đe
cao độ, tiếp đến là cải tạo giáo dục người phạm tội là mục đích sau. Điều này thể
hiện rõ nhất trong văn bản quy định về tổ chức trại giam điển hình là sắc lệnh 150-
SL ngày 7/11/1950, ngay tại điều một của sắc lệnh 150/SL đã khẳng định rằng:
“phạm nhân phải được giam giữ trong các trại giam để trừng trị và giáo hoá”.
Tính trừng trị bằng pháp luật và hình phạt cũng được thể hiện ở Thông tư số
281/TTg ngày 22/6/1953 “Bọn Việt gian cố tâm bán nước, hại dân không chịu hối
cải, thì cương quyết trừng trị”
Qua đó thấy rằng quan điểm giai đoạn này là hình phạt không nằm ngoài
mục đích là trừng trị là thiết yếu, đặc biệt là với các tội xâm phạm đến an ninh quốc
gia, phá hoại đất nước, chống phá cách mạng, bởi tình hình xã hội và đất nước lúc
này rất phức tạp, nguy cấp, bên cạnh đó nhiều quan niệm cũ kế thừa từ các nhà làm
luật từ thời phong kiến vẫn ăn sâu vào tư duy của xã hội ta bấy giờ, nên việc quan
niệm hình phạt trừng trị tội phạm là điều không tránh khỏi.
Đối tượng của hình phạt tù có thời hạn
Qua khảo sát các văn bản hình sự và mang tính chất hình sự giai đoạn này
cho thấy không có quy định nào quy định về đối tượng loại trừ áp dụng hình phạt
tù. PLHS giai đoạn này cũng chưa quy định về các đối tượng được miễn trách
nhiệm hình sự, nên có thể xem đối tượng của hình phạt TCTH là người phạm tội
trong các quy định của hình phạt mà các văn bản luật hình sự quy định
Về đặc tính giới hạn tự do và không gian
TCTH giai đoạn này cũng được hiểu là giới hạn tự do bằng cách phải thực
hiện ở một nơi giam giữ riêng biệt là trại giam. Tuy chưa có ĐNPL hoặc một điều
28
luật nào quy định về hình phạt TCTH nhưng có thể hình dung dựa vào các văn bản
có liên quan về tổ chức Tòa án hoặc thi hành án như Sắc lệnh về trại giam có quy
định một số điều cần thiết để thi hành hình phạt TCTH. Các văn bản tiêu biểu như
Sắc lệnh 150-SL ngày 7 tháng 11 năm 1950 về tổ chức các trại giam, hướng dẫn Sắc
lệnh này có Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/06/1951; Thông tư số 17-NV/6/TT
ngày 12/06/1951Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/06/1951 trong đó quy định cách
thức tổ chức về cách tiếp nhận, trích xuất, tổ chức xắp xếp sinh hoạt, lao động cho
phạm nhân. Đến tháng 8/1953, trong phiên họp của Hội đồng Chính phủ, Thứ bộ
Công an được tách ra khỏi Bộ Nội vụ để thành lập Bộ Công an. Cũng từ đây, Chính
phủ giao cho Bộ Công an quản lý hệ thống trại giam toàn quốc.
Về đặc tính giới hạn thời gian
PLHS giai đoạn này tuy chưa quy định rõ ràng bởi một điều luật nào về giới
hạn của thấp nhất và cao nhất hình phạt tù, nhưng qua các quy định gián tiếp được
tổng hợp lại cho ta tạm thời định hình được các đặc điểm giới hạn này.
(1) Về thời gian tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn
Qua khảo sát hình phạt tại các văn bản trong thời kỳ này, một số văn bản có
hình phạt tù được tính bằng thời hạn ngày như phạt tù từ 6 ngày đến 2 tháng về tội
lập hội trái phép quy định tại Điều 9 Sắc lệnh số 52 ngày 22/4/1946; Hoặc tại điều
112 Sắc lệnh số 49-SL ngày 18/06/1949 về Luật Thuế trực thu Việt Nam có quy
định tội trốn thuế hình phạt tù từ 6 ngày đến 1 tháng; Có Điều luật quy định phạt tù
từ 10 ngày đến 2 năm như về vi phạm làm hư hỏng các công trình thuỷ nông tại
Điều 8 Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949. Một số văn bản có quy định thời hạn tù
từ 3 ngày như quy định tại điều 3 Sắc lệnh 157-SL ngày 16/8/1946 nguyên văn như
sau: “Các người không tuân theo Sắc lệnh này, sẽ bị phạt bạc đến một vạn đồng
bạc (10.000đ) và có thể bị bắt đóng cửa hiệu bào chế. Khi tái phạm có thể bị phạt
tù từ 3 đến 10 ngày”.
Thậm chí trong điều 2 sắc lệnh số 185-SLN ngày 26/05/1948 về thẩm quyền
của các Toà án thì Toà sơ thẩm có quyền xử những án vi cảnh phạt giam từ 1 đến 5
ngày. Tuy nhiên khảo cứu trong tất cả các văn bản hình sự ban hành trong giai đoạn
29
này thì chưa thấy có quy định hình phạt nào là 1 ngày. Như vậy xét về thống kê số
liệu trên các văn bản thì ta có thể tạm thời xem thời hạn ngắn nhất của hình phạt
TCTH được quy định ở một tội danh trong gian đoạn này là được thể hiện ngắn
nhất 3 ngày.
(2) Về thời hạn tối đa của hình phạt tù có thời hạn
Về thời gian dài nhất của hình phạt TCTH trong các tội danh quy định, khảo
cứu các văn bản đã ban hành trong giai đoạn này có các khoảng thời gian giới hạn
cao như đến 10 năm, 15 năm, 20 năm; chưa thấy quy định nào vượt quá định mức
20 năm tù giam như đã nêu. Ở mức hình phạt cao hơn sẽ là hình phạt tù chung thân
hoặc tử hình.
(3) Sự khấu trừ thời gian của hình phạt tù có thời hạn
PLHS cũng không quy định có sự khấu trừ thời gian vào hình phạt tù khi đã
bị tạm giam hoặc tạm giữ trước đó.
(4) Vấn đề định lượng thời gian cho quy định hình phạt tù có thời hạn
trong các khung hình phạt dành cho tội phạm
Về định lượng thời gian phạt tù cho một tội phạm cụ thể, cách quy định thời
kỳ này có những vấn đề có khác so với hiện tại cần phân tích:
Về thời hạn ngắn nhất trong một số điều luật quy định cho hình phạt, trong
giai đoạn này có xuất hiện quy định một cách không rõ ràng là cách quy định hình
phạt TCTH với giới hạn tối đa mà không có tối thiểu trong một số tội danh, điển
hình có thể kể đến một số điều tại Sắc lệnh 133-SL ngày 20/1/1953 như khoản c
Điều 4: “phạt tù từ 10 năm trở xuống”; tương tự ở khoản b Điều 5; khoản b Điều 7;
Điều 9; Điều 10; Điều 11 tại sắc lệnh này đều có quy định “từ 10 năm trở xuống”…
Việc quy định hình phạt TCTH theo cấu trúc quy định như vậy là một bất hợp lý
gây khó khăn cho việc toà án khi tuyên án. Đây thật sự là một hạn chế dẫn đến khó
khăn bất cập mà khi áp dụng vào thực tế sẽ tạo ra kẽ hở và bất hợp lý.
Tương tự một vấn đề trong cách quy định định lượng hình phạt TCTH cho
một tội phạm cũng xuất hiện một số quy định không có mức tối đa, nghĩa là chỉ quy
định tuyên mức năm từ tối thiểu sau đó vượt lên cho đến hình phạt chung thân, tử
30
hình. Rõ ràng điều này là một sự bất cập lớn, ví dụ tại điều 8 Sắc lệnh số 68-SL
ngày 18 tháng 6 năm 1947 quy định “Những người nào phạm vào điều 7 sẽ bị phạt
như sau: …Phạt tù từ 1 năm đến chung thân, nếu thiệt hại cho nhân dân trong một
tỉnh; từ 3 năm đến tử hình, nếu thiệt hại cho nhân dân nhiều tỉnh…”. Hoặc điều 6
Sắc lệnh số 151-SL ngày 12 tháng 4 năm 1953 quy định “Địa chủ nào phạm một
trong các tội sau đây… thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc bị xử tử
hình”; Cách quy định định lượng như vậy rất khó cho người áp dụng. Về mặt cấu
trúc logic, thì quy định khoảng thời gian phải có từ mốc thấp đến điểm dừng ở mốc
cao, sau đó mới chuyển qua hình loại hình phạt khác.
Phạm vi hình phạt tù có thời hạn trong phần quy định các tội phạm
Hình phạt TCTH trong giai đoạn này chiếm tỷ trọng cao trong kết cấu so với
các hình phạt khác, tuy không phải tất cả các văn bản PLHS quy định hình phạt đều
có hình phạt TCTH nhưng hình phạt này cũng chiếm một vị trí quan trọng và gần
như được ghi nhận một cách mặc nhiên cho hầu hết các hình phạt, chỉ trừ một vài
hình phạt tiền rất ít được thay thế với các vi phạm nhẹ hoặc ngay cả với những vụ
việc mang tính chất hành chính, dân sự với quan điểm ngày nay. Lý giải cho việc
phổ biến hình phạt TCTH, có thể kể đến các nguyên nhân chính: như có tính trừng
trị nghiêm khắc phù hợp với giai đoạn này để bảo đảm thành quả cách mạng của
dân tộc trong lúc tình hình phức tạp của chính trị và kinh tế xã hội, mặt khác do hạn
chế việc áp dụng các hình phạt phạt của chế độ cũ nên hình phạt TCTH là chọn lựa
quy định ưu tiện hơn.
2.1.2.2. Hình phạt tù có thời hạn và chế định đối với người chưa thành niên
phạm tội.
Giai đoạn này việc phân biệt đối tượng là người chưa thành niên chưa được
quy định bằng những chế tài riêng thậm chí không được nhắc đến trong các quy
định của PLSH. Việc áp dụng hình phạt hoặc các chế tài khác trong các văn bản
hình sự hầu hết không quy định đối tượng về độ tuổi vì thế có thể xem đây là một
khoảng trống thiếu sót của PLHS giai đoạn này vì như vậy rất khó để xác định tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, hoặc xác định được các hình phạt nào áp dụng cho các đối
31
tượng nào phạm tội.
2.2. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự
giai đoạn từ năm 1955 – 1985
2.2.1. Đặc điểm chung của Pháp luật hình sự trong giai đoạn năm 1955 -
1985
Lịch sử đấu tranh dành độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng Xã hội chủ
nghĩa giai đoạn 1955- 1985 rất quan trọng, rất nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc
trong giai đoạn này, các yếu tố chính trị, xã hội ảnh hưởng sâu sắc đến các chính
sách của nhà nước trên mọi lĩnh vực, và pháp luật cũng không nằm ngoài ảnh
hưởng đó. PLHS phản ảnh rõ rệt để bảo vệ thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH ở
Miền Bắc (1955-1975) và giai đoạn cả nước tiến lên CNXH sau khi thống nhất đất
nước (1975-1985). Tuy có cố gắng xây dựng và hoàn thiện nhưng nhân lực và vật
lực lúc này đang tập trung cho phục vụ thống nhất đất nước, về phía cuối giai đoạn
này cũng đã có kế hoạch chủ trương hình thành nên BLHS, vì thế chế định hình
phạt tù có thời hạn cũng như các chế định khác cũng chưa được cụ thể hoá bằng các
định nghĩa pháp lý mà chỉ tồn tại việc quy định áp dụng cho các tội phạm cụ thể.
Xét chung qua PLHS trong giai đoạn nhận thấy có 3 hệ thống PLHS riêng
biệt do yếu tố lịch sử chính trị mang lại là: (1) Hệ thống PLHS của Việt Nam Dân
chủ cộng hòa, tại Miền Bắc Việt Nam; (2) Hệ thống PLHS của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa tại miền nam Việt Nam; (3) Hệ thống PLHS của chính phủ Cách
mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam, mặt trận dân tộc giải phóng Miền
nam Việt Nam
Mỗi một hệ thống PLHS đều mang tính chất đặc trưng và bản chất của Chính
phủ Nhà nước đó ban hành. Tuy nhiên, trong bài luận văn này, tác giả đặt trọng tâm
khảo cứu hệ thống PLHS của Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách mạnh
lâm thời miền nam vì chính thể này tiếp tục thống nhất duy trì và phát triển hệ
thống luật pháp của Việt Nam đến hiện nay trên nền tảng PLHS trước đó, có sự kế
thừa một cách liên tục cũng như hệ thống luật đồng nhất trong hệ tư tưởng XHCN,
còn lại hệ thống PLHS của Việt Nam Cộng hòa chấm dứt vào năm 1975, được xem
32
như là một phần của lịch sử đất nước, nên chỉ khảo cứu nếu các chi tiết quan trọng
và có sự liên quan mật thiết đến các chế định của hệ thống PLHS hiện tại.
Xét về các lĩnh vực quy định của PLHS thì giai đoạn này có ban hành các
văn bản mới liên quan đến nhiều nhóm nội dung và mục đích chính ở giai đoạn đầu:
(1) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến công cuộc xây dựng tổ
chức bộ máy nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng: Tiêu biểu như Sắc lệnh 267-
SL ngày 15/06/1956.
(2) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến tính mạng, sức khỏe, tài
sản và các quyền tự do công dân như: Pháp lệnh 150-LCT Ngày 21/10/1970 Trừng
trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
(3) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến văn hóa - xã hội. Tiêu
biểu có các sắc lệnh như: Sắc lệnh 282 ngày 14/12/; Luật số 100-SL/L.002 ngày
20/05/1957.
(4) Về lĩnh vực liên quan đến tư pháp: Liên quan đến việc tư pháp và ban
hành các văn bản hệ thống luật, nhằm chính thức chấm dứt việc sử dụng các văn
bản luật của thời kỳ trước do chế độ cũ ban hành Sắc lệnh số 150-SL ngày
7/11/1950 tổ chức các trại giam;
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, công tác hoàn thiện hệ thống PLHS
cũng được quan tâm và triển khai, bằng việc ban hành các văn bản luật hình sự khoa
học và phù hợp hơn, điển hình:
Sắc Luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976 của Chính phủ Cách mạng lâm thời
miền nam Việt Nam về tội phạm và hình phạt; Pháp lệnh trừng trị tối hối lộ ngày
20/05/1981của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn
lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 10/07/1982 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội…
2.2.2. Đặc điểm của quy định hình phạt tù có thời hạn trong giai đoạn năm
1955– 1985
2.2.2.1. Các đặc điểm cơ bản
Giai đoạn 1955-1985 các quy định về hình sự được chứa đựng phân bố trong
33
rất nhiều văn bản về hình sự được ban hành qua nhiều thời điểm và nhiều cơ quan
ban hành tương tự như giai đoạn trước. Các văn bản chủ yếu là các Sắc lệnh, Sắc
luật, Nghị định, Thông tư về sau có ban hành các Pháp lệnh, Luật, về một số lĩnh
vực cụ thể cấp thiết.
Vì chưa có BLHS thống nhất các văn bản trong một bộ luật chính thức, nên
để khảo cứu các đặc tính của PLHS trong giai đoạn này cần tra cứu các văn bản
riêng lẻ có liên quan mang tính chất hình sự để đúc kết ra các đặc tính mà chưa có
quy định chính thức.
Phân loại trong hệ thống hình phạt:
Hình phạt và HTHP cũng không được một điều luật nào nhắc đến trong giai
đoạn này bằng một ĐNPL. Tuy nhiên qua khảo sát văn bản và các nhà nghiên cứu
cũng nhận thấy rằng “Toàn bộ HTHP đã được quy định trong giai đoạn trước đây
vẫn còn tiếp tục giữ nguyên hiệu lực trong giai đoạn này” [8, tr.163]. Ngoài ra giai
đoạn này còn xuất hiện thêm một số hình phạt mà ở giai đoạn trước đó chưa có.
Vậy có thể thống kê hệ thống thống hình phạt trong giai đoạn này như sau:
Hình phạt chính: Hình phạt tử hình; Hình phạt tù chung thân; Hình phạt
TCTH; Cải tạo không giam giữ; Hình phạt quản chế (từ 1 đến 5 năm); Hình phạt
tiền.
Hình phạt bổ sung: Hình phạt tịch thu tài sản; Buộc bồi thường thiệt hại đã
gây ra; Tước quyền công dân; Hình phạt quản chế (khi không là hình phạt chính);
Phạt tiền (khi không là hình phạt chính); Tước quyền giữ chức vụ nhất định hoặc
làm nghề nhất định; Cư trú bắt buộc; Cấm cư trú (từ 1 đến 5 năm)
Theo cách phân trên, với hình phạt TCTH giai đoạn này sẽ là hình phạt chính
trong phân loại, mang đặc tính này hình phạt TCTH còn có thế có thêm các hình
phạt bổ sung kèm theo như liệt kê ở trên phần hình phạt bổ sung.
Giai đoạn này, tuy chưa có quy định mang tính chất ĐNPL hình phạt TCTH
trong bất kỳ điều luật nào, hình phạt TCTH sẽ được hiểu theo cách thông thường
như thời kỳ trước là hình phạt vào tự do của con người trong thời gian nhất định.
Mục đích của hình phạt tù có thời hạn
34
Qua khảo sát các văn bản ban hành và áp dụng trong giai đoạn, một số các
văn bản PLHS lại nhắc đến một cách gián tiếp là mục đích nhằm trừng trị là mục
đích chính yếu tương tự như giai đoạn trước đó. Ta có thể khảo qua các văn bản tiêu
biểu:
Trong Thông tư có 442-TTG ngày 19/01/1955 của Thủ tướng chính phủ có
nêu lên rằng: “Cũng nhằm tăng cường bảo vệ trật tự, an ninh trong giai đoạn hiện
tại, Chính phủ lại ra quyết nghị trừng trị nặng bọn lưu manh chuyên sinh sống về
nghề trộm cướp”.
Tương tự trong ngay tên lời nói đầu của pháp lệnh trừng trị các tội phản cách
mạng ngày 30/01/1967 có nêu lên mục đích của hình phạt trong pháp lệnh này là
một sự trừng trị thể hiện thông qua hình phạt: “Pháp lệnh này nêu những tội phản
cách mạng và quy định hình phạt trừng trị những kẻ phạm tội phản cách mạng”.
Cũng trong Pháp lệnh ban hành ngày 21/10/1970 với tên gọi trừng trị các tội xâm
phạm tài sản Xã hội chủ nghĩa, trong một phần lời nói đầu cũng thể hiện rõ: “Pháp
lệnh này quy định việc trừng trị những tội xâm phạm tài sản Xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy khái niệm và tinh thần cùng mục đích ban hành có “trừng trị”
xuyên suốt trong các văn bản PLHS quy định về tội phạm và hình phạt xuất hiện
với tuần xuất rất nhiều thể hiện ý chí của nhà làm luật một cách rõ ràng về mục đích
của chính sách hình sự và hình phạt là trừng trị.
Tuy nhiên ở một khía cạnh khác, tồn tại trong các văn bản luật khác như về
thi hành án, các văn bản hướng dẫn, tổng kết của tòa án nhân dân thì thể hiện thêm
rõ hơn vai trò của cải tạo và giáo dục rõ nét trong hình phạt tù, đặc biệt là TCTH,
thể hiện gián tiếp và trực tiếp qua các văn bản như sau:
Trong báo cáo tổng kết công tác 1959 của Tòa án nhân dân tối cao có đề cập
rằng “…Hình phạt không chỉ để trừng trị kẻ phạm pháp. Nó cũng nhằm giáo dục và
cải tạo phạm nhân…”; Điều 1 Luật số 18 ngày 14/07/1960 về tổ chức Tòa án nhân
dân: “…Tòa án nhân dân không chỉ trừng trị phạm nhân mà còn nhằm giáo dục và
cải tạo họ”.
Phần sau của giai đoạn này các nhà làm luật có sự thay đổi tư duy trong cách
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY
Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY

More Related Content

Similar to Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY

Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...
Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...
Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...
akirahitachi
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...
Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...
Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
TieuNgocLy
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAYLuận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Nhận Viết Thuê Đề Tài Baocaothuctap.net 0973.287.149
 
De tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdf
De tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdfDe tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdf
De tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdf
DoanHoaithuong1
 
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Zalo/Tele: 0973.287.149 Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói
 
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dânLuận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAYLuận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAYLuận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...
Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...
Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khacQuy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
Hung Nguyen
 
Cm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là sai
Cm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là saiCm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là sai
Cm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là sai
ThoNguynTh36
 
Tư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị
Tư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu TrịTư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị
Tư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sựCác tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóaLuận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY (20)

Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...
Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...
Giới thiệu pháp luật 1 số quốc gia đỉnh hình trong hệ thống xã hộ...
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...
Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...
Tiểu luận Pháp Luật đại cương Trình bày và so sánh các kiểu pháp luật trong l...
 
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAYLuận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
De tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdf
De tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdfDe tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdf
De tai_Luat thua ke, dien va hang thua ke (Final).pdf
 
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
 
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dânLuận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
 
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAYLuận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
 
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAYLuận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
 
Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...
Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...
Luận Văn Thạc Sĩ Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Hình Sự Việt Nam Thời Kỳ Phong...
 
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khacQuy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
 
Cm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là sai
Cm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là saiCm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là sai
Cm hiến pháp 1959 là hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của việt nam là sai
 
Tư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị
Tư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu TrịTư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị
Tư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị
 
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sựCác tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
 
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóaLuận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
giangnguyen312210254
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
nhanviet247
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
nvlinhchi1612
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 

Recently uploaded (12)

GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 

Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -------------------- NGUYỄN VĂN DOÃN LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -------------------- NGUYỄN VĂN DOÃN LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM VĂN BEO HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn vừa mang tính kế thừa các công trình khoa học trước đây nhưng chưa từng được công bố trong các công trình khoa học khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Doãn
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ............................................................................8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt trong pháp luật hình sự .........8 1.2. Lý luận chung về hình phạt tù có thời hạn ...................................................13 1.3. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự........................20 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY..............................................23 2.1. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 1945 đến 1955 .........................................................................................23 2.2. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 1955 – 1985.............................................................................................31 2.3. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 1985 đến 1999 .........................................................................................37 2.4. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 1999 đến 2015 .........................................................................................42 2.5. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 2015 đến nay ...........................................................................................47 Chương 3: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................55 3.1. Những yêu cầu và định hướng cải thiện quy định hình phạt tù có thời hạn.55 3.2. Hạn chế từ các quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự hiện hành..............................................................................................................56 3.3. Các giải pháp định hướng hoàn thiện và đề xuất các quy định về hình phạt tù có thời hạn .......................................................................................................59 KẾT LUẬN..............................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT: BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự CNXH : Chủ nghĩa xã hội ĐNPL : Định nghĩa pháp lý HTHP : Hệ thống hình phạt SĐBS : Sửa đổi bổ sung TCTH : Tù có thời hạn PLHS : Pháp luật hình sự
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số liệu thống kê tội danh có chứa chế tài với các loại hình phạt chính trong các BLHS 1985, BLHS 1999, BLHS 2015. Bảng 2.2. Tỷ lệ các loại hình phạt chính trên số tội danh trong các BLHS 1985, BLHS 1999, BLHS 2015. Bảng 2.3. Tỷ lệ các loại hình phạt chính so với nhau trong các BLHS 1985, BLHS 1999, BLHS 2015. Bảng 2.4. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối thiểu thấp nhất theo BLHS 1985. Bảng 2.5. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối đa cao nhất theo BLHS 1985. Bảng 2.6. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối thiểu thấp nhất theo BLHS 2009. Bảng 2.7. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối đa cao nhất theo BLHS 2009. Bảng 2.8. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa các mức thời gian tối đa cao nhất theo BLHS 2015. Bảng 2.9. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối thiểu thấp nhất theo BLHS 2015. Bảng 3.1. Số liệu thống kê các khung hình phạt có cải tạo không giam giữ BLHS 2015. Bảng 3.2. Số liệu thống kê BLHS 2015 các khung quy định hình phạt có cải tạo không giam giữ được phép lựa chọn thay thế với hình phạt tù có thời hạn. Bảng 3.3. Số liệu thống kê quy định mức thấp nhất và cao nhất của hình phạt TCHT trong BLHS một số nước và Việt Nam hiện nay.
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phan Chu Trinh, một chí sĩ yêu nước đấu tranh trong thời kỳ Thực dân Pháp đô hộ từng bị tù đày một thời gian dài có những trải nhiệm thực rất gian lao và với khí chất bất khuất của mình có những câu thơ bất hủ về cảnh phải chịu tù: “Dầu ai tại ngoại đù thiên thu So lại không qua nhất nhật tù” [27] Hay như tục ngữ dân gian ta có câu: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” nghĩa là một ngày phải chịu tù đày như dài bằng cả nghìn năm ở ngoài, ý chỉ rằng sự khó khăn và khổ sở khi phải chịu đựng cảnh tù giam chỉ một thời gian ngắn cũng thật sự khủng khiếp. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ đấu tranh dành độc lập từng bị giam cầm tại Hồng Kông viết tập trong Nhật ký trong tù rất nhiều bài thơ nói lên nỗi gian khổ cùng cực, nếu cần biết về sự gian khó trong giam cầm, ta chỉ cần đọc hết tập thơ ấy là cũng có thể hình dung. Qua dẫn chứng với những con người bất khuất trong hoàn cảnh lao tù để thấy rằng hình phạt tù là một điều lớn phải chịu đựng gian khó ở mức cực độ cao cho người bình thường phải thi hành. Sự phản ánh thực tế bằng lịch sử và văn học nước nhà như trên thể hiện sự chịu đựng cảnh tù lao xưa nay đã là một sự thử thách rất khó khăn gian khổ để vượt qua. Vậy ta cũng nên tìm hiểu xem hình phạt tù có lịch sử thế nào, hình thành và phát triển ra sao trong lịch sử nhân loại. Dưới phương diện Luật học, ta cần tiếp cận ở góc độ rằng bị giam giữ là một hình phạt mà pháp luật quy định cho một tội phạm cụ thể nào đó nếu người đó phạm phải. Hình phạt nói chung là một trong những chế định quan trọng của Pháp luật hình sự (PLHS), qua nghiên cứu lịch sử có thể thấy hình phạt có từ trước khi nhà nước và pháp luật được hình thành nhưng tồn tại như một hành vi phản ứng tự phát của xã hội đại diện kẻ có sức mạnh quyền lực ban hành, thời kỳ nguyên thủy khi con người còn sống theo bộ lạc với những tục lệ riêng của từng khu vực, nó biểu hiện trong thời chiếm hữu nô lệ bắt đầu rõ nét hơn khi xuất hiện nhà nước sơ
  • 8. 2 khai, xa xưa nhất được biết đến là thời Tây Chu bên Trung Quốc đã có hệ thống hình phạt (HTHP) trong luật định và được đánh giá tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên khi nhà nước Phong kiến bắt đầu hình thành, nó trở thành công cụ một điều chỉnh và quản lý trật tự xã hội một cách hợp thức hóa và chấp nhận rộng rãi hơn trong các quy định của nhà cầm quyền gọi là pháp luật của chủ nghĩa pháp gia. Tại vùng Trung Đông, một cổ luật nổi tiếng ngày nay được đưa vào giảng dạy và nghiên cứu trong nhiều chương trình luật học đó là Bộ Luật Hammurabi hay tương tự có Bộ Luật La Mã mà ta thường gọi là Luật 12 bảng. Trải qua các thời kỳ thuộc các nền văn minh của các quốc gia và thể chế chính trị tuy có sự khác nhau nhưng tựu chung ngày nay HTHP phân hoá rõ ràng, xắp xếp mang tính logic và khoa học hơn. Ngày nay các hệ thống PLHS tại các quốc gia đặt loại hình phạt tù có thời hạn (TCTH) là trọng tâm và tìm cách tùy biến nó bằng các điều kiện và hình thức khác đi kèm để có thể gia giảm tính chất cũng như mức độ nặng nhẹ của nó để đảm bảo mục đích của hình phạt. Tuy có thể có những hình thái thể hiện khác nhau nhưng đặc tính của hình phạt TCTH vẫn hiện hữu thường xuyên trong các HTHP. Về thực chất hình phạt TCTH là một hình phạt tước đi sự tự do của một người bằng cách thức tách một đối tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội và cộng đồng cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Tại Việt Nam, HTHP trong thời kỳ ban đầu của các triều đại Phong kiến cũng rất đa đạng và khắc nghiệt, qua đối chiếu có thể thấy rằng HTHP ở nước ta thời kỳ Phong kiến ảnh hưởng nặng nề từ Phong kiến Trung Quốc. Trong đó hình phạt TCTH được biểu thị bằng nhiều hình thức, là một hình phạt điển hình nổi bật với các hình phạt khác trong một hệ thống gọi là “Ngũ hình: Xuy hình (đánh roi); Trượng hình (đánh trượng); Đồ hình, có ba bậc; Lưu hình, có ba bậc; Tử hình, có ba bậc” [65, tr.19] và chế định hình phạt TCTH với nhiều đặc tính biến thể thay đổi qua các thời kỳ cần được nghiên cứu kỹ hơn. Đất nước Việt Nam đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm, một ngàn năm bắc thuộc, trăm năm bị thực dân xâm chiếm và nội chiến đặc biệt là
  • 9. 3 giai đoạn cận đại khi chyển giao giữa các ý thức hệ Phong kiến, Tư bản và Xã hội chủ nghĩa. Nhà nước và Pháp luật cũng dần hình thành, biến đổi và có những sự vận động hoàn thiện nhất định cho đến ngày nay. Ngày 2/9/1945 là ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ rũ bỏ chế độ Phong kiến và xây dựng một đất nước với tư duy mới và nền tảng là các giá trị chung của nhân loại và phù hợp với tình hình đất nước từng thời kỳ. Quy định hình phạt TCTH thay đổi diễn ra mạnh mẽ và tạo ra sự khác biệt lớn giữa hai thời kỳ trước và sau khi pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985 cả về quan điểm lập pháp, về hình thức cũng như nội dung. Thời gian gần đây trong các Bộ luật hình sự (BLHS) thì hình phạt TCTH gần như có mặt 100% trong các điều quy định về hình phạt cho tội phạm, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng và mức ảnh hưởng của nó đến tổng thể hình phạt và PLHS. Theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/05/2005, Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về việc cải cách tư pháp và hệ thống pháp luật. Liên quan đến tính kế thừa với quan điểm: “Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam…”[14, Mục I.2.4]. Trong đó có những vấn đề liên quan đến Hình phạt đặc biệt là Hình phạt TCTH như chủ trương: “Hoàn thiện chính sách hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa; hạn chế hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền; cải tạo không giam giữ đối với các loại tội ít nghiêm trọng” [13, Mục II.5]. Hoặc mục tiêu định hướng chung“Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm” đồng thời còn nêu vấn đề “Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm” [14, Mục II.2]. Cùng với sự thay đổi của xã hội, của tư duy nhà làm luật và các xu hướng mới trong vấn đề bảo vệ quyền con người, hình phạt nói chung có phần bớt phần hà khắc hơn, giảm dần tính trừng trị trong hình phạt và chuyển hướng mạnh về mục đích giáo dục và cải tạo người phạm tội.
  • 10. 4 Quá trình thay đổi để phù hợp với sự chuyển biến của xã hội, ít nhiều cũng gặp những vấn đề khó khăn. Đồng thời những lần thay đổi đó có những yếu tố mang tích tích cực, có những yếu tố còn hạn chế dẫn đến chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Ngay cả các quy định về hình phạt TCTH hiện nay còn nhiều mặt hạn chế và cũng sẽ có sự thay đổi cùng với xã hội trong tương lai, và các nhà làm luật cũng cần có một công cụ hệ thống hóa các thay đổi xuyên suốt để có thể có cái nhìn tổng quan và sự nhìn nhận xác thực hơn vào quy luật vận động trong hoàn cảnh thực tế của đất nước. Với vai trò rất quan trọng của hình phạt TCTH trong quy định của PLHS nước ta, cùng các điều kiện thay đổi của xã hội, xu hướng chung của nhân loại cùng chính sách chủ trương của Đảng và nhà nước, vấn đề này là một điều đáng được quan tâm nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng PLHS đặc biệt là vấn đề hình phạt và tội phạm. Đây cũng là lý do tác giả đã chọn đề tài "Lịch sử phát triển các quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay" để làm đề tài luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về nghiên cứu vấn đề HTHP và hình phạt TCTH trong nước theo trình tự thời gian cũng chỉ dừng lại ở mức độ sơ khởi và liệt kê so sánh, cũng có những nghiên cứu riêng lẻ về các hình phạt khác. Lấy một số dẫn chứng các đề tài và các công trình nghiên cứu có liên quan một phần như: Sách chuyên khảo của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp “Hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam”, xuất bản 1995. Sách chuyên Khảo “Pháp luật hình sự Việt Nam từ thế kỷ X đến nay- lịch sử và thực tại”, do tác giả TSKH.GS. Lê Cảm (chủ biên) phát hành năm 2018, tác phẩm này thật sự là một công trình nghiên cứu công phu toàn diện về PLHS, các định chế pháp luật, các triều đại nhà nước khác nhau qua các giai đoạn lịch sử đất nước tự chủ từ thế kỷ thứ X đến nay với sự phân đoạn nghiên cứu theo từng thời kỳ lịch sử và các lần pháp điển hóa hình sự rất chi tiết; Một số nhóm khác trong các nghiên cứu của các luận văn thạc sĩ viết về các đề tài liên quan đến hình phạt và hình phạt TCTH như “Hình phạt tù và thi hành
  • 11. 5 hình phạt tù - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Thu Hằng năm 2011, nghiên cứu về hình phạt tù và sự tương quan với thi hành hình phạt tù từ lý luận và thực tiễn áp dụng trong những năm 2004-2008, và có một số kiến nghị giải pháp trong việc thi hành hình phạt tù có thời hạn. Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Võ Hồng Nam năm 2014; Đề tài đã nghiên cứu về lý luận hình phạt tù có thời hạn và liên hệ thực tiễn xét xử trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nhằn tìm ra những giải pháp hiệu quả hơn trong việc áp dụng hình phạt TCTH tại TP.HCM; Đề tài“Áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” năm 2018 của tác giả Nguyễn Thành Chung; Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hình phạt TCTH và việc áp dụng thực tế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Ngoài các đề tài trên, trong một số tạp chí luật học chuyên ngành còn các các bài nghiên cứu một số vấn đề chung về hình phạt trong đó có hình phạt TCTH so sánh giữa BLHS nước ta với các nước: Bài nghiên cứu “Hệ thống hình phạt theo pháp luật hình sự của một số nước ở Châu Á, Châu Âu và Hoa Kỳ” của tác giả Trương Quang Vinh đăng trên Tạp chí luật học; Bài nghiên cứu của TS. Dương Tuyết Miên “So sánh chế định hình phạt một số nước Asean và Việt Nam” đăng trên Tạp chí luật học số 12/2009; Hoặc bài nghiên cứu “Hình phạt trong luật hình sự Anh trong sự so sánh với Luật hình sự Việt Nam” đăng trên Tạp chí luật học số 8/2014 của TS. Đào Lệ Thu; Các bài nghiên cứu nêu trên đa phần so sánh HTHP của Luật Hình sự Việt Nam với các nước tiêu biểu trong đó có đề cập một số vấn đề tổng quan của hình phạt TCTH, nhắc đến như một phần cấu thành chứ chưa hẳn phân tích dưới góc độ riêng biệt về hình phạt TCTH. Hiện nay chưa có nghiên cứu nào cụ thể và toàn diện và chuyên sâu về sự biến đổi quy định hình phạt TCTH từ năm 1945 đến nay dựa theo tiến trình lịch sử của Nhà nước và lập pháp thông qua các tài liệu quy định về hình phạt để tìm ra nguồn gốc, trình tự, nguyên nhân hình thành các quy định, các mối liên hệ và xu
  • 12. 6 hướng biến đổi giữa các quy định về hình phạt khác nhau trong những thời kỳ khác nhau. Một số đã nghiên cứu về tổng thể hơn trong vấn đề lịch sử pháp luật hoặc lịch sử luật hình sự mà chưa đi vào cụ thể quá trình thay đổi của hình phạt TCTH và các chế định có liên quan. Vì thế thật sự hữu ích nếu có một sự nghiên cứu nghiêm túc các quy định trong hình phạt TCTH qua từng thời kỳ lịch sử lập pháp của nhà nước và pháp luật thời kỳ cận đại từ khi nước ta dành được độc lập năm 1945 đến nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung cũng như những quy định cụ thể về hình phạt TCTH dưới khía cạnh lập pháp hình sự nhằm tìm ra những mặt tích cực và hạn chế trong quy định hình phạt tù mỗi thời kỳ. Từ đó kiến nghị hoàn thiện và dự báo xu thế sự biến đổi của hình phạt TCTH trong PLHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu như trên, đề tài có những nhiệm vụ chủ yếu sau: Trình bày những vấn đề lý luận chung về hình phạt TCTH. Trình bày phân tích so sánh đối chiếu thêm những quy định về hình phạt TCTH của một số nước trên thế giới với quy định tại Việt Nam. Trình bày so sánh và đánh giá quy định về hình phạt TCTH trong luật hình sự từ năm 1945 đến nay theo từng giai đoạn cụ thể của lịch sử. Đề xuất các giải pháp khắc phục các mặt hạn chế của quy định về hình phạt tù hiện này từ nghiên cứu lịch sử, thực tại và xu hướng của thế giới 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quy định về hình phạt TCTHtrong pháp luật hình sự Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu:Luận văn nghiên cứu hình phạt TCTH dưới góc độ lập pháp tập trung trong giai đoạn từ 1945 đến hiện nay với nhiều phân đoạn từ sơ khai đến các lần pháp điển hoá PLHS nước ta.
  • 13. 7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp sau: + Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; + Phương pháp sử học; + Phương pháp nghiên cứu hệ thống; + Phương pháp phân tích, so sánh; + Phương pháp thống kê, tổng hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Lý luận về hình phạt TCTH dưới góc độ lịch sử một cách tổng quan. Hệ thống hóa sự thay đổi của các quy định về hình phạt TCTH trong các văn bản về Hình sự trước khi pháp điển hóa và các BLHS ban hành từng thời kỳ đến nay. Tìm ra nguyên nhân, lý giải quá trình hình thành và biến đổi hình phạt TCTH trong HTHP của PLHS Việt Nam từ thời kỳ bắt đầu độc lập từ năm 1945 đến nay. Đánh giá sự tác động của lịch sử và bối cảnh xã hội đất nước lên các quy định về hình phạt đặc biệt là hình phạt TCTH. Từ những lần thay đổi trong các quy định có thể tìm ra quy luật, xu hướng của sự thay đổi, hạn chế của quy định hiện tại và bài học của lịch sử để lại qua đó có thể dự báo đóng góp những ý kiến mang tính khoa học trong việc hoàn thiện HTHP cụ thể là hình phạt TCTH trong PLHS hiện nay. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về hình phạt tù có thời hạn trong Pháp luật hình sự. Chương 2: Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Chương 3: Một số hạn chế và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc quy định về hình phạt tù có thời hạn trong Pháp luật hình sự Việt Nam.
  • 14. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt trong pháp luật hình sự 1.1.1. Khái niệm về hình phạt Hình phạt đã gắn liền với sự hình thành Nhà nước và Pháp luật từ thời cổ đại, cho đến ngày nay hình phạt được xem như là một trong những biện pháp quản lý xã hội bằng pháp luật rất hữu hiệu. Hình phạt thường được áp dụng cho những người phạm tội bị cấm mà theo theo khoa học hình sự hiện đại là gắn liền với tội phạm nhất định Theo Tự điển giải thích thuật ngữ luật học, Nhà xuất bản Công an nhân dân thì giải thích rằng: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Luật hình sự quy định và do toà án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm trừng trị giáo dục họ cũng như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm”. [20, tr.64] Trên phương diện lịch sử PLHS của nước ta, khái niệm về hình phạt chỉ được chính thức quy định lần đầu tiên tại BLHS 1999. Trước đó hầu hết các hình phạt cụ thể được phân bổ trong các quy định về tội phạm tại các văn bản riêng lẻ, các nhà lập pháp chưa có quy chuẩn hệ thống hình phạt mang tính khái quát khoa học. Ngay cả BLHS 1985 là BLHS đầu tiên cũng không nêu khái niệm hình phạt trong phần chung của BLHS. Theo Điều 26 BLHS 1999 quy định rằng: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định”. Trải qua nhiều lần thay đổi bổ sung và thay thế, đến hiện nay khái niệm hình phạt trong BLHS 2015 xét về nội dung vẫn giữ lại các nội dung trước đó nhưng có bổ sung mở rộng thêm đối tượng áp dụng hình phạt đó là pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 30 BLHS 2015). Một cách biểu thị khái quát, đầy đủ và cân bằng hơn sẽ là quan điểm của Giáo sư Võ Khánh Vinh trong tác phẩm Luật hình sự của mình có nêu “Hình phạt
  • 15. 9 là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được Bộ luật hình sự quy định do Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp do luật quy định đối với người bị kế án” [66, tr.347], đây có thể được xem là khái niệm chứa đầy đủ nội hàm của của hình phạt nhất. Như vậy tác giả có thể khái quát một cách tổng quan để dễ nhận diện hơn, có thể đưa ra khái niệm hình phạt như sau: Hình phạt là một trong những công cụ bảo đảm và thể hiện các mức độ thi hành việc phải chịu trách nhiệm hình sự cho tội phạm đã thực hiện (ở cả cá nhân và pháp nhân thương mại), nó hướng chính đến việc trực tiếp giáo dục cải tạo đối tượng phải chịu và gián tiếp phòng ngừa tội phạm để tái lập cân bằng trật tự xã hội khi xảy ra xáo trộn bởi hành vi phạm tội gây nên, thông qua việc Toà án áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhằm vào lợi ích, sự tự do và cả sự sống bằng các mức độ khác nhau. 1.1.2. Đặc điểm của hình phạt Hình phạt trong PLHS có các đặc điểm chính sau: (1) Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước so với các biện pháp cưỡng chế khác như về hành chính hoặc kỷ luật. (2) Hình phạt được quy định trong BLHS hay mang tính chất pháp định, tránh được sự suy đoán tùy tiện hoặc lạm dụng của Tòa án. (3) Hình phạt phải chỉ được áp dụng bởi Toà án nhân danh Nhà nước áp dụng. (4) Đối tượng chịu hình phạt là phải là đối tượng phạm tội, mang tính chất cá thể hóa trách nhiệm hình sự, không có sự thay thế khi áp dụng hình phạt. Với ý đó C.Mác viết rằng: “Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính người đó” [7, tr.181]. (6) Hình phạt phải đồng nhau nghĩa là sự công bằng giữa các đối tượng phạm tội, không phân biệt đối tượng, tuy nhiên đây chỉ là đặc tính tương đối, với một số đối tượng có những điều kiện nhất định thì hình phạt sẽ có tính chất tăng
  • 16. 10 nặng hoặc giảm nhẹ, nhưng sự gia giảm này cũng phải có quy định rõ ràng và điều kiện hết sức nghiêm ngặt. (7) Hình phạt tạo nên án tích cho người chịu hình phạt, án tích này chỉ được xóa đi khi đảm bảo được một số điều kiện về thời gian và hành vi sau khi thụ lý hình phạt. 1.1.3. Mục đích của hình phạt Mục đích của hình phạt có nhiều quan điểm, trước đây, các Nhà nước Phong kiến thực dân luôn xem mục đích hình phạt là sự trừng phạt đối tượng phạm tội, nó được xem là cái giá phải trả theo nguyên tắc cổ xưa là luật về sự trả thù ngang bằng (theo nguyên tắc lex talionis) thể hiện trong bộ luật cổ Hamurabi tại Babylon cổ đại, hay trong Kinh thánh Do Thái cũng có nhắc đến nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” như câu ngạn ngữ nổi tiếng “an eye for an eye and a tooth for a tooth”, những nguyên tắc trả thù ngang bằng đã rất phổ biến thời cổ đại ăn sâu vào tiềm thức của các tầng lớp thống trị cũng như toàn xã hội thời đó. Tuy nhiên phong trào bảo vệ quyền con người cũng như các ngành khoa học xã hội đã phát triển, xã hội không còn quan niệm hình phạt có mục đích trừng phạt ngang hàng hoặc trừng phạt là yếu tố chính của hình phạt nữa, mà nó kèm theo rất nhiều mục đích nhân văn khác mang tính chất cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa khả năng tội phạm diễn ra, nghĩa là quan điểm về việc phòng ngừa tội phạm được đề cao đó cũng được xem là nhiệm vụ của nhà nước và pháp luật đề ra vậy. Tuy còn nhiều tranh cãi giữa các quan điểm nhưng quan điểm được chấp nhận rộng rãi nhất là mục đích của hình phạt có 3 mục đích chính: “Một là giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; Hai là ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng); Ba là phòng ngừa người khác phạm tội (Phòng ngừa chung)”. [66, tr.348] Quan điểm này được các làm luật Việt Nam thể hiện rõ trong quá trình xây dựng và quy định BLHS bắt đầu từ BLHS 1985 về nội dung mục đích hình phạt không có gì thay đổi.
  • 17. 11 Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng nên loại trừ từ ngữ “không chỉ nhằm để trừng trị” trong điều luật đã quy định trong mục đích hình phạt nhằm tránh gây sự hiểu lầm về mục đích của hình phạt, vì rõ ràng xét theo ngôn từ nó thể hiện tính chất “trừng trị” vào mục đích đầu tiên, và nên xem mục đích của hình phạt thêm một sự trọng yếu nữa là “góp phần phục hồi lại công lý…”[8, tr.462], tuy nhiên qua các lần sửa đổi bổ sung BLHS và ban hành BLHS mới, các nhà làm luật vẫn giữ nguyên cấu trúc này cho đến ngày nay. Tuy thống nhất rằng Hình phạt không mang mục đích trừng trị nhưng không thể loại trừ được nó khỏi hình phạt, và các nhà lý luận cũng đáng cố gắng biện giải bằng cách này hay cách khác. Một số khác giải thích rằng vì chỉ nên coi “trừng trị” là thuộc tính vốn có trong bản chất của hình phạt chứ không nên xếp vào là mục đích của nó hướng đến. Cho đến lần sửa đổi cuối cùng là BLHS 2015 thì các nhà làm luật vẫn giữ nguyên quy định trong Điều 31 mục đích hình phạt là “hình phạt không chỉ nhằm trừng trị…”. Tuy nhiên một cách tổng quan cũng cần phải xem xét toàn bộ lại lịch sử và văn hóa nước ta nói riêng và cả khu vực nói chung, đều ảnh hưởng rất lớn và lâu đời từ hai học thuyết lớn lớn về Nhân trị với đại diện là Khổng giáo của Khổng Tử và Pháp trị với đại diện là Quản Tử hay Thương Ưởng đề xuất từ thời Tần Hiếu Công sau này được phát triển bởi Hàn Phi Tử. Các triều đại lớn bên Trung Quốc thời Phong kiến cũng ảnh hưởng hai tư tưởng này rất nhiều. Chính hai quan điểm này đan xen và cùng nảy nở trong lòng xã hội, dẫn đến hình thành các quan điểm trái ngược cùng tồn tại hai mặt trong qua các thời kỳ trong xã hội ta, ngay cả trong cổ luật nước ta như các Bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê và Hoàng Việt Luật Lệ thời nhà Nguyễn cũng có những điểm thể hiện sự trái ngược này. Vì thế cũng có thể giải thích phần nào do việc kế thừa truyền thống nên dẫn đến các nhà làm luật vẫn duy trì một cách thể hiện như điều luật trên đã nêu. 1.1.4. Phân chia hình phạt trong hệ thống hình phạt Để dễ dàng xắp xếp, phân loại cho các hoạt động nghiên cứu và đặc biệt cho việc soạn thảo cũng như áp dụng hình phạt trong BLHS, hình phạt ngày nay được chia ra thành một hệ thống chặt chẽ, có thứ tự theo sự nghiêm khắc từ thấp đến cao,
  • 18. 12 theo đó hệ thống cơ bản nhất ngày này đa số các nước áp dụng đó là: (1) Hình phạt không giam giữ: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, trục xuất; (2) Hình phạt giam giữ: TCTH và tù không thời hạn còn gọi là tù chung thân; (3) Hình phạt tử hình. Với cách phân loại khác mà các nhà nghiên cứu luật học trong giai đoạn 1963-1975 tại Sài Gòn Miền nam Việt Nam có nêu lên là có ba loại hình phạt chính gọi là chính hình: Một là Thể hình: Hình phạt duy nhất là hình phạt tử hình, đây là hình phạt duy nhất không thể sửa cũng không thể phân chia; Hai là Hình phạt bác đoạt tự do hay hạn chế tự do: Là hình phạt TCTH hoặc chung thân, khổ sai hữu hạn, cấm cố, cấm lưu trú, phạt giam…; Ba là Ngân hình (hình phạt vào tài sản): Phạt tiền hoặc tịch thu tài sản. Một cách thức phân loại khác để áp dụng thực tế thuận tiện hơn thì có thể chia ra làm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, theo đó thì hình phạt chính là hình phạt được áp dụng độc lập với hình phạt khác và chỉ duy nhất hình phạt chính áp dụng. Hình phạt bổ sung là hình phạt có thể được tuyên án kèm theo khi có hình phạt chính. Với cách phân loại này sẽ dẫn đến một hình phạt tùy lúc lại là hình phạt chính, có lúc lại là hình phạt bổ sung điển hình như phạt tiền. Cách phân loại này phù hợp với thực tiễn áp dụng hơn nên phần lớn các nước sử dụng cách phân loại này và Việt Nam trong BLHS cho đến nay cũng phân chia theo cách này. PLHS Việt Nam tập hợp các hình phạt sau quy định vào hình phạt chính: Cảnh cáo; Phạt Tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; TCTH; Tù chung thân; Tử hình. Bên cạnh đó còn có các hình phạt bổ sung như: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Những hình phạt này quy định trong BLHS 1999 và BLHS 2015 là giống nhau, ở BLHS 1985 cũng cấu trúc tương tự tuy nhiên chưa quy định hình phạt trục xuất ở cả hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung. Ngoài ra một cách phân chia tổng quát hơn của Luật Hình sự Pháp đó là căn cứ theo tính chất sự nặng nhẹ của hình phạt mà chia ra: “Hình phạt đại hình, hình
  • 19. 13 phạt tiểu hình, hình phạt vi cảnh” [26, tr.813]. Đây cũng là những cách thức hữu ích cần được tham khảo áp dụng khi có các cách tiếp cận bằng các góc độ khác nhau để nghiên cứu về hình phạt. 1.2. Lý luận chung về hình phạt tù có thời hạn 1.2.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn Theo tự điển Hán Việt chữ “tù” gốc chữ Hán nghĩa động từ là bắt người nào đó phạm tội giam lại, danh từ là giam hãm, trói buộc lại một chỗ. Tiếp cận dưới góc độ chiết tự chữ Hán, kết cấu chữ “Tù” là “囚” được kết hợp bởi bộ Nhân (人- nghĩa là con người) ghép nằm trong với bộ “Vi” (囗- nghĩa là vây, bao quanh). Sự kết hợp là chữ tượng hình diễn tả sự việc người bị đóng lại trong một ô giới hạn bao quanh. Vậy theo chiết tự về mặt nguồn gốc ngôn ngữ nói lên được rằng “tù” là một sự giới hạn không gian hoạt động nhất định của con người. Đặc tính “có thời hạn” nghĩa là một việc được diễn ra theo thời gian và giới hạn tại một mức nào đó bằng cách cách xác định điểm mốc không vượt qua theo một quy ước hoặc được quy định cụ thể. Vậy hình phạt TCTH theo nghĩa chung cơ bản để nhận diện là một hình phạt bằng việc giam giữ một người trong một thời hạn nhất định với các chế độ cách ly người đó đến mức tối đa đối với các quyền tự do và quan hệ xã hội bình thường. Tuy nhiên với khoa học pháp lý, khái niệm trên là chưa đầy đủ để nói lên được tính pháp lý nội hàm của nó, vì đây chỉ là khái lược bản chất nội tại của hình phạt TCTH, vì thế cần phải xem xét sâu xa hơn về các đặc điểm và các điều kiện pháp lý khác để có được khái niệm mang tính khoa học pháp lý cao hơn. Chính vì thế các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm có kèm theo các khía cạnh khác của hình phạt này để cố gắng có được cái nhìn toàn diện hơn với hình phạt TCTH. Một sự giải thích nổi bật được đặc tính đặc trưng hình phạt tù của Từ điển luật học, Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp (Nhà xuất bản Tư pháp) giải thích như sau: “Hình phạt tù là hình phạt tước quyền tự do của con người, buộc người bị kết án phải cách ly khỏi cuộc sống bình thường của xã hội, sống trong mội trường
  • 20. 14 riêng biệt, có sự kiểm soát chặt chẽ (trại giam)”[64, tr.361], và còn cho rằng đây là hình phạt magn tính truyền thống trong luật hình sự các nước nói chung và cũng là loại hình phạt được áp dụng phổ biến nhất trong thực tế của chúng ta hiện nay. Một quan điểm về hình phạt TCTH ngắn gọn nhưng đầy đủ và xúc tích làm nổi bật khía cạnh giáo dục người phạm tội hơn trong phần khái niệm là “Tù có thời hạn về thực chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra khỏi môi trường xã hội bình thường trong một thời gian nhất định để giáo dục và cải tạo họ”.[66, tr.359] Lịch sử phát triển PLHS của Việt Nam cho thấy hình phạt TCTH là một hình phạt có truyền thống rất lâu đời từ thời Phong kiến đến nay. Chỉ đến khi pháp điển hoá về PLHS lần thứ nhất với BLHS 1985 mới được quy định rõ ràng trong phần chung của BLHS, về sau qua nhiều lần sửa đổi và ban hành các BLHS khác thay thế, chế định chỉ xuất hiện cụ thể trong các quy định hình phạt dành cho các tội phạm, sau này đều được quy định rõ ràng bằng một điều trong phần chung của bộ luật. BLHS 1985 là bộ luật đầu tiên quy định hình phạt tù dưới hình thức như là định nghĩa pháp lý (ĐNPL), quy định tại điều 25; BLHS năm 1999 quy định tại Điều 33; và mới nhất là BLHS năm 2015 quy định tại Điều 38. Nội dung quy định có sự thay đổi không nhiều qua các thời kỳ, nếu như ở lần pháp điển hoá lần thứ nhất khá đơn giản và tổng quát, thì đến hiện nay đã rất chi tiết và hoàn thiện hơn. Vậy có thể khái niệm hình phạt TCTH như sau: Hình phạt TCTH một trong những hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của luật hình sự, hình phạt này về nội dung buộc người bị kết án với một thời hạn nhất định phải bị giam giữ tại một địa điểm riêng biệt trong tình trạng cách ly nghiêm ngặt khỏi đời sống xã hội, đồng thời hạn chế tối đa các quyền tự do cũng như các mối quan hệ xã hội với mục đích là giáo dục cải tạo họ trở nên một công dân phù hợp với xã hội. 1.2.2. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn Hình phạt TCTH là một trong những hình phạt trong hệ thống hình phạt của PLHS vì thế mang đầy đủ đặc điểm đặc trưng cơ bản của hình phạt như đã phân tích ở trên. Ngoài ra hình phạt tù còn có những đặc điểm mang tính chất riêng đặc thù so
  • 21. 15 với một số hình phạt khác trong hệ thống hình phạt. Đối tượng quy định của hình phạt tù là người phạm tội trong các quy định về tội phạm và có năng lực trách nhiệm hình sự. Hình phạt tù không áp dụng cho tội phạm là pháp nhân thương mại như quy định tại chương XI BLHS 2015. Hình phạt TCTH là hình phạt phạm vào tự do của người phạm tội. Từ những phân tích về mặt khái niệm trên đây cho ta thấy được hai yếu tố nổi bật và quyết định quan trọng nhất của hình phạt này là người phải thi hành sẽ hạn chế tự do bởi chịu sự giới hạn về không gian và một giới hạn thời gian để thực hiện nó, từ đó dẫn đến sự giới hạn tự do về phương diện thân thể, quan hệ xã hội và một số nhu cầu khác so với cuộc sống bình thường. Một số quan điểm cho rằng hình phạt tù nói chung hay hình phạt TCTH nói riêng nó là sự tước đoạt tự do, theo tác giả nên hiểu theo nghĩa hạn chế tự do ở mức cao, vì các biến số về hạn chế sự tự do thay đổi tuỳ theo các quy định tội phạm và các chế định khác có liên quan nhưng sự tự do của người đang thi hành hình phạt tù chỉ bị thu hẹp ở mức cao nhất chứ chưa hoàn toàn bị tước bỏ mất, họ vẫn được sống, sinh hoạt, lao động, học tập ở mức cơ bản trong khuôn khổ ràng buộc nhất định và những điều khiện giới hạn. Một sự hạn chế tự do ở một mức độ nào đó là điều hợp lý khi cần có sự giới hạn đó vì lợi ích chung, lợi ích của cộng đồng, trên nguyên tắc ấy, các nhà lập pháp cũng đã hình thành nên các loại hình phạt mà hình phạt TCTH là hình phạt mang tính toàn diện nhất giữa các khía cạnh trừng trị, giáo dục mang tính nhân bản và phòng ngừa riêng lẫn phòng ngừa chung. TCTH có thể ít khắc nghiệt với một thời gian ngắn nhưng cũng rất khắc nghiệt với một thời gian giam giữ lâu dài vì thế nó có khả năng đáp ứng được mục đích của hình phạt một cách sâu rộng hơn. Yếu tố thời gian là một cấu thành quan trọng trong hình phạt TCTH, một yếu tố rất đặc trưng trong hình phạt TCTH, yếu tố này sẽ làm căn cứ để xác định việc nặng hoặc nhẹ đi hình phạt này. Nghĩa là một biến số thời gian trong hình phạt TCTH có thể dùng để đo lường sự nặng hay nhẹ của hình phạt TCTH. Yếu tố thời
  • 22. 16 gian đảm bảo được định lượng cho việc quy định hình phạt tù cho các tội phạm. Hình phạt TCTH so với hình phạt tù chung thân tuy có đặc tính tương tự nhau về mặt hạn chế không gian nhưng khác biệt lớn nhất là về mặt thời gian phải chịu hình phạt. Về tính giới hạn thời gian của hình phạt TCTH, đa phần các bộ luật của các nước trong giai đoạn hiện nay đều có quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt TCTH. Các nhà lầm luật cho rằng, ngoài việc giới hạn mức thời hạn ở mức tối đa và tối thiểu thì việc hình thành các cộc mốc này còn có ý nghĩa rằng, với mức thấp nhất là để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật không được phép áp dụng thấp hơn trong hình phạt tù, với mức cao nhất để bảo đảm quyền con người và tính nhân văn của khung hình phạt vì không được phép áp dụng vượt qua nó trong khuôn khổ hình phạt tù. Trong khoảng thời gian trước đây khi chưa chính thức pháp điển hóa để có BLHS thì ở Việt Nam cũng chưa có điều luật cụ thể nào quy định mức tối thiểu và tối đa cho hình phạt TCTH, tuy nhiên khảo sát các văn bản trong cùng thời kỳ thì có thể tìm ra được mức thấp nhất và cao nhất trong tổng thể của các văn bản PLHS trong một giai đoạn nhất định nào đó. Về mức thấp nhất, hiện nay trên thế giới có rất nhiều quy định cho mức tối thiểu cho hình phạt TCTH nhưng thường trung bình từ 3 tháng, một số nước có thể quy định thấp hơn như tại Thuỵ Điển là 14 ngày (Chương 26 BLHS Thuỵ Điển). Về mức cao nhất quy định cho hình phạt TCTH trong một tội phạm trên thế giới thường là 20 năm, có một số quốc gia quy định thấp hơn như Trung Quốc là 15 năm, hoặc là 18 năm tại Thuỵ Điển. Một số quốc gia như nước Anh không quy định giới hạn tối đa của hình phạt TCTH. Đặc biệt hơn ở Hoa kỳ, pháp luật nước này không quy định mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tù nói chung, nghĩa là mức hình phạt tù cao nhất ở một số tội có thể sẽ là con số cụ thể do toà án tuyên hoặc tuyên thời gian suốt đời tương tự như hình phạt tù chung thân. Về vấn đề quy định mức tối thiểu và tối đa cho hình phạt này, thông thường các nhà lập pháp sẽ dựa vào các yếu tố như thông lệ truyền thống, sự kế thừa hoặc sự đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, các mức tham khảo của các nước khu vực hoặc
  • 23. 17 hệ thống PLHS bị hưởng bởi một hệ thống pháp luật khác, nó cũng tuỳ thuộc vào các thể chế chính trị và tình hình thực tế và mục đích, kết quả của mức thời gian áp dụng cho hình phạt tù. Hình phạt TCTH là một hình phạt mang tính tương đối. Sự tương đối thể hiện ở cả khía cạnh không gian và thời gian, tương đối về mặt không gian tuy bị giam giữ nghiêm ngặt, riêng biệt với xã hội nhưng vẫn có sự sinh hoạt cần thiết giữa những người đang chấp hành với nhau, với các cán bộ thực hiện nhiệm vụ, một mối liên hệ giới hạn ở mức cần thiết với xã hội đặc biệt là người thân, gia đình và chăm sóc y tế theo hướng nhân đạo và giáo dục. Tính tương đối về thời gian thể hiện là việc quy định khoảng thời gian trong hình phạt TCTH trong các khung hình phạt cụ thể, theo kỹ thuật lập pháp hiện nay hình phạt TCTH thường có cấu trúc quy định từ mức thấp đến mức cao cho một khung hình phạt; Tính tương đối về mặt thời gian còn thể hiện ở mức áp dụng thời gian tù có thể thay đổi phụ thuộc vào các điều kiện, đối tượng khác nhau mà luật quy định ở các chế định khác có liên quan. Trong sự tương quan với hệ thống hình phạt tổng thể, hình phạt TCTH luôn là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của PLHS của các quốc gia trên thế giới. Hình phạt TCTH trong kết cấu phân loại là hình phạt chính nên còn có thể kèm theo các hình phạt bổ sung theo các quy định của PLHS. Tuy nhiên ở chiều ngược lại, hình phạt TCTH với các tội phạm ít nghiêm trọng có xu hướng chuyển quy định về áp dụng các hình phạt khác thay thế như cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền. Mức độ phổ biến của hình phạt TCTH là rất lớn, xu hướng này vẫn có khả năng xảy ra trong tương lai khi các hình phạt như tù chung thân và tử hình ngày càng có xu hướng giảm hoặc loại bỏ. Hình phạt TCTH có sự phổ biến lợi thế trong sử dụng so với các hình phạt khác bởi sự tuỳ biến cao về biến số thời gian, đồng thời có thể có các điều kiện khác đi kèm dẫn đến hiệu quả của hình phạt vẫn đảm bảo với từng yêu cầu của xã hội trong nhiều giai đoạn. Và như vậy hình phạt TCTH sẽ gần như là hình phạt trung tâm với sự phổ biến và hiện diện hầu hết trong các quy định về tội phạm. Khảo sát qua các BLHS của nhiều quốc gia, từ trước đến nay
  • 24. 18 thì hình phạt TCTH chiếm đa số trong tỷ lệ các hình phạt áp dụng cho các loại tội phạm, thậm chí vài trường hợp nó còn có mặt 100% trong các điều quy định về tội phạm tại một số BLHS ở các quốc gia hoặc tại Việt Nam trong một số thời kỳ trước đây. Hình phạt TCTH có thể gia giảm mức hình phạt khi tuyên án, và hình thức áp dụng thi hành cũng có thể khác nhau, tuy nhiên việc này các nhà lập pháp đã hết sức hạn chế và chỉ có thể chuyển đổi thực hiện theo xu hướng nhẹ hơn, ít nghiêm khắc hơn và có lợi cho người phải chấp hành để tránh sự lạm dụng của tòa án và có tính chất nhân đạo đối với người bị tuyên án như: Được trừ thời hạn tạm giam, tạm giữ trước đó đã thực hiện vào thời hạn tù; PLHS ở nước ta và các nước có các chế định khác quy định có thể làm giảm nhẹ mức hình phạt tù thực tế mà một người phải chịu nếu đáp ứng được các điều kiện cụ thể nào đó do luật định như các chế định tha miễn. Ngoài ra người bị tuyên án hình phạt tù có thể được giảm nhẹ hơn bởi các chế định khác trước khi tuyên án là các chế định có tình tiết giảm nhẹ, hoặc là đối tượng vị thành niên. Ngược lại hình phạt TCTH không quy định cách thức chuyển đổi hoặc thực tế thi hành theo hướng tăng nặng hơn so với bản án có hiệu lực. Một ngoại lệ cho việc tăng thời gian hình phạt tù là khi có sự tổng hợp nhiều bản án hoặc nhiều tội, sự tổng hợp dẫn đến hình phạt có thể cao hơn mức hình phạt của một tội hoặc cao hơn cả mức tối đa mà luật quy định cho hình phạt TCTH, tuy nhiên sự tổng hợp này cũng luôn có cách tính mang nội dung giảm nhẹ hơn so với sự tổng hợp theo logic toán học thông thường. Hình phạt tù còn có thể được thực hiện thi hành một cách không liên tục, có thể phân chia, hoặc chưa phải thực hiện ngay. Trên nguyên tắc chung là thực hiện xuyên suốt để đảm bảo tính nghiêm minh và khoa học hình sự nhưng do yếu tố nhân đạo nên một số trường hợp đặc biệt có thể được tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ khi người bị kết án tù gặp phải tình trạng mà không thể khắc phục ngay được trong một thời gian ngắn bằng nỗ của bản thân và người khác như bệnh nặng sức khoẻ yếu kém, phụ nữ có thai và nuôi con nhỏ, nhu cầu công vụ cần thiết…
  • 25. 19 1.2.3. Mục đích của hình phạt tù có thời hạn Về tổng thể, mục đích của hình phạt như đã phân tích ở trên theo khoa học hình sự và quan điểm của các nhà lập pháp bao gồm: Giáo dục cải tạo và phòng ngừa kèm theo bản chất nội tại là trừng trị. Vì hình phạt TCTH nằm trong hệ thống hình phạt nên chắc chắn vẫn phải tuân thủ các yếu tố trên. So với các hình phạt khác, hình phạt TCTH có mục đích không những đáp ứng được đầy đủ và các mục đích mà luật hình sự quy định mà còn có sự cân bằng và hiệu quả cao hơn so với các hình phạt khác do đặc điểm riêng của nó mang lại. Ngoài ra hình phạt TCTH cũng mang những mục đích cụ thể hơn: (1) Giam giữ người bị kết án mục đích để tách biệt họ ra khỏi xã hội thông thường mà họ đã tác động đến các mối quan hệ xã hội đó, trước tiên nhằm tránh cho họ khả năng tái phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội tiếp theo sau đó, vì tâm lý tội phạm sẽ có xu hướng lặp lại hoặc gia tăng hành vi nếu không được sự kiểm soát. (2) Hình phạt TCTH xét về mặt giới hạn thời gian thực hiện hình phạt: Nhằm kiểm soát được các hành vi và đời sống người phải bị chấp hành trong một thời hạn nhất định. Khoảng thời gian mà khoa học hình sự nghiên cứu từ tâm lý, sinh lý, giáo dục để phù hợp và cần thiết với quá trình cải tạo lại một con người tùy theo mức độ tội phạm. (3) TCTH giam giữ người bị kết án nhằm đến sự hiệu quả của sự giáo dục cải tạo bởi sự tập trung và kiểm soát người chấp hành về mặt không gian. (4) Hình phạt TCTH như một tấm gương soi công lý bền bỉ hiện hữu trong thời gian dài cho các thành viên khác có thể nhận biết hậu quả phải chịu hình phạt khi thực hiện tội phạm giúp cho các cá nhân khác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp tránh tác động xấu đến các giá trị mà PLHS bảo vệ. Tuy nhiên luận điểm này còn tranh cãi bởi một số nhà hoạt động nhân quyền cho rằng không thể dùng hình phạt của một người để làm gương hoặc một biện pháp giáo dục cho người khác, đó là điều không nên có. 1.2.4. Bản chất của hình phạt tù có thời hạn
  • 26. 20 Bản chất của xã hội của hình phạt tù có thời hạn Bản chất của hình phạt nói chung và hình phạt TCTH nói riêng là bản chất xã hội; Đa số các nhà nhà nghiên cứu luật học đồng ý với bản chất xã hội này của hình phạt bởi các tư tưởng lớn tiến bộ trong triết học lập pháp đều quan điểm hình phạt là những phản ứng của xã hội khi những sự xâm hại có nguy cơ không đảm bảo sự tồn tại của nó. Bentham cho rằng xã hội như một sinh vật sống và muốn tồn tại nó phải có hành động phản ứng và trừng phạt lại các tác động có phương hại đến sự sinh tồn của nó một cách tự nhiên. Tương tự theo C.Mác cũng nhận định rằng: “…hình phạt chẳng qua chỉ là thủ đoạn tự vệ của xã hội chống lại sự vi phạm những điều kiện tồn tại của nó” [7, tr.673]. Với học thuyết khế ước xã hội của J.J.Rousean tương tự, cũng cho rằng“quyền trừng phạt (quyền sử dụng trừng phạt) có nguồn gốc từ sự thỏa thuận giữa những người đã tạo nên xã hội, nhằm gìn giữ trật tự xã hội, cái cốt yếu để giữ cho xã hội tồn tại”. [5, tr.54] Bản chất giai cấp của hình phạt Hình phạt hay hình phạt tù nói riêng mang bản chất của giai cấp, tức là nó phục vụ cho sự củng cố cũng như bảo vệ xã hội cho sự thống trị của nhà nước. Vì thế giai cấp nào, Nhà nước nào quy định và áp dụng hình phạt thì mang bản chất của Nhà nước và giai cấp đó. Với chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa hình phạt lại mang ý nghĩa bảo vệ và củng cố lợi ích của đa số tầng lớp nhân dân lao động nên rất được chú trọng đến sự giáo dục và phòng ngừa tội phạm. 1.3. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự 1.3.1. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn với xã hội Hình phạt TCTH là một trong những hình phạt phát huy tác dụng như mong muốn của các nhà lập pháp trên thế giới từ xưa đến nay, việc quy định hình phạt TCTH đóng vai trò hết sức quan trọng trong PLHS bởi nó là một yếu tố cấu thành cần thiết trong hệ thống hình phạt giúp hệ thống hình phạt có sự hoàn thiện đa dạng và phát huy tác dụng. Sự ưu thế của hình phạt TCTH so với các hình phạt khác bởi sự tùy biến cao trong quy định sẽ phù hợp với nhiều tình huống và áp dụng phù hợp với nhiều loại tội phạm ở nhiều mức độ khác nhau vì nếu loại trừ hình phạt TCTH
  • 27. 21 ra hoàn toàn trong hệ thống hình phạt, sẽ không còn hình phạt khác có sự tuỳ biến cao đủ sức răn đen mà vẫn có tính nhân đạo ở một mức độ tương đối chấp nhận được tùy vào mức độ thời gian và điều kiện chấp hành. Vai trò cân bằng xã hội về mặt quản lý nhà nước bằng pháp luật: Các vấn đề tội phạm không thể để tự nhiên xã hội điều tiết cân bằng được, vì thế hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng đóng vai trò là một trong các nhân tố làm cân bằng lại các sự xáo trộn được đánh giá là nguyên nhân dẫn đến tội phạm. Hình phạt tù là một hình phạt trung gian giữa hai quan điểm Nhân trị và Pháp trị như phân tích ở trên, có thể nói, nó giải pháp dung hòa thể hiện cả hai quan điểm trong tư duy và xây dựng nên hình phạt này. 1.3.2. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn đối với người chấp hành Hình phạt TCTH đóng vai trò chính yếu trong việc tách các đối tượng phạm tội ra khỏi xã hội trước tiên để họ không tiếp tục thực hiện các tội phạm mới bởi nguy cơ rất cao khi một người thực hiện tội phạm sẽ thực hiện tiếp một tội phạm khác nếu không được tách ra khỏi cộng đồng và giáo dục cải tạo bằng các biện pháp cưỡng chế. Vai trò này nhằm đáp ứng mục đích của hình phạt nói chung là phòng ngừa tội phạm. Hình phạt TCTH cũng có vai trò hạn chế và ngăn cản người phạm tội khỏi sự trả thù ngược lại từ các đối tượng là nạn nhân, là quan hệ xã hội mà người đó đã tác động tội phạm, hoặc sự bất bình của đám đông, dẫn đến diễn biến phức tạp nối tiếp nhau, hình phạt TCTH đóng vai trò là nhân tố giảm tối đa sự mâu thuẫn xung đột đang còn tồn tại giữa các đối tượng này. Sự tách biệt về thời gian và không gian đối với xã hội bình thường, vô hình trung là biện pháp bảo vệ tốt nhất cho kẻ phạm tội khỏi bị trừng phạt một cách vô pháp bởi đám đông như thời còn chưa có pháp luật. Vai trò thúc đẩy cải tạo con người: đây là vai trò mang tính nhân văn và niềm hy vọng của xã hội, hình phạt TCTH dưới góc nhìn mục đích để giáo dục thì rõ ràng mang tính nhân văn rất cao, mọi người đều hy vọng rằng khi một người chịu án phạt TCTH sẽ trở nên tốt hơn và tích cực hơn. Vai trò như một ngôi trường đặc biệt tập trung giáo dục của nhà tù là một tín hiệu cho thấy rằng các nhà lập pháp luôn mong muốn rằng con người có thể được cải tạo và giáo dục trở nên tốt hơn, có ích
  • 28. 22 hơn và đúng theo chuẩn mực xã hội hơn. Vai trò giải thoát tâm lý cho người thực hiện tội phạm về mặt luân lý và đạo đức xã hội. Một người phạm tội mà không chịu án hình phạt cảm giác về mặt tâm lý sẽ rất phức tạp có thể gây nguy hại cho bản thân người đó bằng các hành động bộc phát bởi sự ràng buộc luân lý và đạo đức theo họ suốt thời gian còn lại. Vậy có thể xem hình phạt tù có ý nghĩa cân bằng tâm lý cho người phải thực hiện án phạt để không có những suy nghĩ dẫn đến các hành vi tiêu cực. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1 luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu phân tích lý luận chung về hình phạt TCTH trong PLHS ở các phương diện: Lịch sử của hình phạt và hình phạt TCTH, sự tác động của chế độ xã hội, Nhà nước của mỗi thời kỳ lịch sử lên hệ thống hình phạt, trong đó có hình phạt TCTH. Lý luận chung về hình phạt và hệ thống hình phạt, từ đó tìm ra mối tương quan và vị trí của hình phạt TCTH trong HTHP và PLHS. Trình bày nghiên cứu các đặc điểm chung của hình phạt TCTH như khái niệm, mục đích, bản chất của hình phạt TCTH, mức độ phổ biến gần tuyệt đối trong quy định của hình phạt cho tội phạm. Nghiên cứu các yếu tố cấu thành như yếu tố giới hạn về tự do không gian, giới hạn về thời gian, Ngoài ra tác giả còn trình bày vai trò của hình phạt tù có thời với xã hội, với người phải chấp hành. Việc nghiên cứu bản chất, đặc điểm vai trò và mục đích cùng mối tương quan giữa hình phạt TCTH và các hình phạt khác là rất quan trọng, trên nền tảng các yếu tố này để làm cơ sở cho việc nghiên cứu lý luận quy định hình phạt TCTH ởchương 2 và tìm ra các giải pháp phù hợp và hiệu quả hơn trong việc quy định và áp dụng hình phạt TCTH trong PLHS Việt Nam hiện nay.
  • 29. 23 Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY 2.1. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 1945 đến 1955 2.1.1. Đặc điểm chung của pháp luật hình sự trong giai đoạn năm 1945 - 1955 Việc chọn năm 1945 làm mốc phân tích và căn cứ để chia các giai đoạn về sau đều dựa vào thực trạng xã hội, các cột mốc lịch sử quan trong của đất nước cũng như sự phát triển của PLHS, ở mỗi giai đoạn phân chia như vậy đều có đặc trưng riêng và có sự biến đổi lớn của PLHS trong giai đoạn ấy. Nếu như giai đoạn 1945-1955 thường sử dụng kết hợp các văn bản luật cũ của Pháp ở cả 3 miền thì giai đoạn 1955-1985 thì lại có sự khác biệt là tuyệt đối không sử dụng các văn bản luật của Pháp nữa mà là tự ban hành và hoàn thiện dần cùng sự kết hợp với các văn bản PLHS của Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam. Giai đoạn 1985-1999 là giai đoạn áp dụng BLHS 1985, đây là sự đánh dấu bước tiến quan trọng trong PLHS bằng việc pháp điển hoá lần đầu tiên. Giai đoạn 1999-2015 là giai đoạn áp dụng BLHS thứ 2 là BLHS 1999; Giai đoạn 2015 đến nay là việc ban hành và áp dụng BLHS 2015, có sửa đổi bổ sung 2017. Ở mỗi giai đoạn như vậy rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến các chính sách hình sự và PLHS đều mang những đặc trưng riêng mà các nhà nghiên cứu thường căn cứ để phân đoạn nếu có nghiên cứu PLHS dưới góc nhìn lịch sử. Năm 1945 đánh dấu mộc cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc, với Cách mạng tháng 8 thành công và bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 chấm dứt thời kỳ thuộc địa và phong kiến, mở ra một quốc gia độc lập với đầy tự hào, vị thế được nâng cao trong khu vực và quốc tế. Mặc dù vậy, thực dân Pháp không từ bỏ thuộc địa cũ, vẫn tiến hành những bước đi của việc xâm lược tái lập thuộc địa. Trước tình hình đó Chủ Tịch Hồ chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 để quyết tâm loại trừ thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam một cách toàn diện.
  • 30. 24 Về phương diện PLHS, với yêu cầu về thời gian gấp rút để đáp ứng cho chính quyền nhân dân mới còn non trẻ đảm bảo an ninh và cơ sở pháp lý để hoạt động, chính quyền đã ban hành một số văn bản PLHS song song với việc sử dụng các luật cũ với tinh thần mới vì chưa kịp thời ban hành điều chỉnh tất cả các lĩnh vực. Tuy rất quan tâm đến hệ thống pháp luật và đặc biệt là PLHS nhưng vẫn chưa ban hành được BLHS hoàn chỉnh vì mục tiêu chính giai đoạn này là dồn hết tâm sức tập trung cho việc dành lại độc lập là ưu tiên hàng đầu. Về định hướng trong việc xây dựng PLHS trong giai đoạn này chủ yếu: (1) Bãi bỏ phần lớn các các đạo luật hình sự cũ; (2) tạm thời giữ nguyên một số đạo luật cũ để áp dụng một cách hữu hạn và thật sự cần thiết; (3) ban hành các đạo luật mới trong các lĩnh vực khác nhau để thay phù hợp và thay thế dần các đạo luật cũ không phù hợp. Về kết cấu, hệ thống PLHS là các văn bản PLHS riêng lẻ, ban hành nhiều thời kỳ để đáp ứng được kịp thời diễn biến nhanh của tình hình chính trị, kinh tế xã hội khi vừa dành được độc lập và toàn quốc tiếp tục kháng chiến. Nên về mặt kỹ thuật lập pháp trong PLHS vẫn còn mang tính chất sơ khai, ban hành với tính cách tạm thời và là giải pháp tình thế trong thời kỳ Cách mạng còn nhiều khó khăn. Văn bản PLHS được áp dụng bởi một là văn bản PLHS (bao gồm cả văn bản pháp luật có tính chất hình sự) được ban hành mới, hai là văn bản PLHS kế thừa hoặc phủ nhận các văn bản luật hình sự của chế độ trước đó với tinh thần và chủ trương mới như quy định tại Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời. PLHS thời kỳ này chưa phải là một Bộ luật hoàn chỉnh nên chưa phân chia phần chung và phần riêng như cách kết cấu Bộ luật sau khi pháp điển hóa, cũng vì thế các chế định về tội phạm, hình phạt, các chế định về áp dụng hình phạt…chỉ xuất hiện riêng lẻ trong các văn bản một cách cơ bản, không đầy đủ và hoàn thiện như các chế định ngày nay. Nội dung điều chỉnh chủ yếu trong PLHS trong giai đoạn này tuy chưa hoàn chỉnh nhưng tập trung chủ yếu vào các vấn đề:
  • 31. 25 (1) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến công cuộc xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước. (2) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến tính mạng, sức khỏe, tài sản và các quyền tự do của công dân. (3) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến văn hóa- xã hội. Một đặc điểm nhỏ cũng cần lưu ý là một số chi tiết có sự ảnh hưởng bởi một số yếu tố của Luật nước Cộng Hòa Pháp. Điển hình như các quy định chế định hình phạt, các thuật ngữ đặc thù và các điều luật kế thừa từ hệ thống cũ mà Pháp đã áp dụng rất lâu tại Việt Nam dẫn đến ít nhiều ảnh hưởng rõ nét. 2.1.2. Đặc điểm của quy định hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1955 2.1.2.1. Các đặc điểm cơ bản Văn bản PLHS như đã phân tích phía trên do hoàn cảnh đất nước, xã hội nên về hình thức mới ở dạng các Sắc lệnh, Đạo luật đơn lẻ, mặt khác có sự tổng hợp cả về mặt phạt hành chính lẫn hình phạt hoặc cả lĩnh vực tố tụng hình sự vào trong một văn bản. Hình phạt TCTH vì thế chưa được định nghĩa một cách độc lập như một chế định riêng biệt. Vì thể để nghiên cứu các đặc điểm của hình phạt TCTH, phải khảo sát các văn bản mà có các quy định về hình phạt tù được quy định áp dụng cho hình phạt hoặc các văn bản về tố tụng, thậm chí cả các văn bản hành chính mang tính chất hình sự. Hình phạt TCTH trong giai đoạn này được hiểu theo nghĩa là phải thực hiện trong nhà giam với các quy định riêng biệt đặc thù, như vậy hình phạt TCTH sẽ giới hạn và kiểm soát với mức độ rất cao về không gian tự do của người bị kết án về những tội phạm trong một thời gian nhất định. Tuy có sử dụng lại các bộ luật cũ nhưng các hình phạt được quy định có sự khác biệt so với thời kỳ trước nên hình phạt TCTH không phân chia nhiều hình thái như các bộ luật của Pháp trước đó áp dụng như cấm cố, khổ sai. Phân loại trong hệ thống hình phạt Vì đặc thù của PLHS giai đoạn này nên hình phạt chưa hệ thống thành một
  • 32. 26 điều luật hoặc quy định rõ ràng, mà chỉ tồn tại trong các văn bản PLHS gắn kèm với các tội danh quy định trong một số lĩnh vực cụ thể. Qua khảo cứu các văn bản PLHS, có thể nhận thấy tồn tại 8 hình phạt tạm xắp xếp theo mức độ từ nặng đến nhẹ như sau: Tử hình; Tù chung thân; TCTH; Khổ sai; Tội đồ; Tịch thu tài sản; Buộc bồi thường thiệt hại đã gây ra; Tước quyền công dân; Quản chế; Phạt tiền. Nếu tạm chia theo cách phân loại hiện hành thì hình phạt TCTH là hình phạt chính trong phân loại. Riêng hình phạt khổ sai thời kỳ này được nhắc đến bởi Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946 ; Sắc lệnh số 223 ngày 27/11/1946 về tội đưa, nhận hối lộ của công chức; hoặc tại điều 2 Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/03/1948 tuy vậy thực tế không sử dụng hình phạt này. Hình phạt khổ sai được các điều luật trên nhắc đến có nguồn gốc từ hình phạt khổ sai hữu hạn mà thời kỳ Pháp thuộc đã áp dụng trong các bộ luật tại Việt Nam. Vì lý do đó đa phần các nhà nghiên cứu đã không xếp hình phạt ấy vào hệ thống hình phạt trong thời kỳ này. Tương tự vậy, với hình phạt tội đồ, hình phạt này ít được quy định tuy nhiên cũng xuất hiện một cách hạn chế như quy định tại điều 19 Sắc lệnh số 40 ngày 29/03/1946: “Những nhân viên sau này sẽ bị phạt từ 5 năm đến 10 năm tội đồ và 3.000 đồng, đến 100.000 đồng tiền phạt…”. Hình phạt này cũng có nguồn gốc từ thời Phong kiến và việc ít xuất hiện nên các nhà nghiên cứu sau này cũng bỏ qua trong phần thống kê phân loại hình phạt giai đoạn này. Mặt khác đến năm 1950 bằng một Sắc lệnh số 150-SL ngày 7/11/1950 về tổ chức trại giam thì Điều 1 quy định rằng “phạm nhân phải được giam giữ trong các trại giam để trừng trị và giáo hoá”. Với ý nghĩa rằng các phạm nhân đã bị kết án sẽ thực hiện án tù trong trại giam để chịu sự trừng trị các tội phạm đã thực hiện và được giáo dục cải tạo thành người tốt, bằng quy định này đã gián tiếp loại bỏ hai hình phạt tù khổ sai và tội đồ ra khỏi HTHP. Về mức độ nặng nhẹ và nghiêm khắc của hình phạt này chỉ đứng sau hình phạt tù chung thân và tử hình. Vì là hình phạt chính nên có có thể áp dụng kèm theo hình phạt bổ sung như trên theo quy định. Mục đích của hình phạt tù có thời hạn
  • 33. 27 Mục đích của hình phạt nói chung trong giai đoạn này chưa được quy định rõ ràng trong bất kỳ một điều luật nào, nhưng cách thể hiện và dựa theo quy định gián tiếp trong một số văn bản PLHS hoặc như điều 1 Sắc lệnh 150/SL ngày 12/01/1953 về nhiệm vụ của toà án có nêu “Trừng trị những kẻ phản cách mạng, những cường hào gian ác, những kẻ chống lại hoặc phá hoại chính sách ruộng đất…” cũng như chủ trương trong tình hình chính trị xã hội lúc đó cho thấy rằng, mục đích chính là trừng trị, phòng ngừa và bảo vệ thành quả cách mạngvới tính khắc nghiệt và răn đe cao độ, tiếp đến là cải tạo giáo dục người phạm tội là mục đích sau. Điều này thể hiện rõ nhất trong văn bản quy định về tổ chức trại giam điển hình là sắc lệnh 150- SL ngày 7/11/1950, ngay tại điều một của sắc lệnh 150/SL đã khẳng định rằng: “phạm nhân phải được giam giữ trong các trại giam để trừng trị và giáo hoá”. Tính trừng trị bằng pháp luật và hình phạt cũng được thể hiện ở Thông tư số 281/TTg ngày 22/6/1953 “Bọn Việt gian cố tâm bán nước, hại dân không chịu hối cải, thì cương quyết trừng trị” Qua đó thấy rằng quan điểm giai đoạn này là hình phạt không nằm ngoài mục đích là trừng trị là thiết yếu, đặc biệt là với các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia, phá hoại đất nước, chống phá cách mạng, bởi tình hình xã hội và đất nước lúc này rất phức tạp, nguy cấp, bên cạnh đó nhiều quan niệm cũ kế thừa từ các nhà làm luật từ thời phong kiến vẫn ăn sâu vào tư duy của xã hội ta bấy giờ, nên việc quan niệm hình phạt trừng trị tội phạm là điều không tránh khỏi. Đối tượng của hình phạt tù có thời hạn Qua khảo sát các văn bản hình sự và mang tính chất hình sự giai đoạn này cho thấy không có quy định nào quy định về đối tượng loại trừ áp dụng hình phạt tù. PLHS giai đoạn này cũng chưa quy định về các đối tượng được miễn trách nhiệm hình sự, nên có thể xem đối tượng của hình phạt TCTH là người phạm tội trong các quy định của hình phạt mà các văn bản luật hình sự quy định Về đặc tính giới hạn tự do và không gian TCTH giai đoạn này cũng được hiểu là giới hạn tự do bằng cách phải thực hiện ở một nơi giam giữ riêng biệt là trại giam. Tuy chưa có ĐNPL hoặc một điều
  • 34. 28 luật nào quy định về hình phạt TCTH nhưng có thể hình dung dựa vào các văn bản có liên quan về tổ chức Tòa án hoặc thi hành án như Sắc lệnh về trại giam có quy định một số điều cần thiết để thi hành hình phạt TCTH. Các văn bản tiêu biểu như Sắc lệnh 150-SL ngày 7 tháng 11 năm 1950 về tổ chức các trại giam, hướng dẫn Sắc lệnh này có Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/06/1951; Thông tư số 17-NV/6/TT ngày 12/06/1951Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/06/1951 trong đó quy định cách thức tổ chức về cách tiếp nhận, trích xuất, tổ chức xắp xếp sinh hoạt, lao động cho phạm nhân. Đến tháng 8/1953, trong phiên họp của Hội đồng Chính phủ, Thứ bộ Công an được tách ra khỏi Bộ Nội vụ để thành lập Bộ Công an. Cũng từ đây, Chính phủ giao cho Bộ Công an quản lý hệ thống trại giam toàn quốc. Về đặc tính giới hạn thời gian PLHS giai đoạn này tuy chưa quy định rõ ràng bởi một điều luật nào về giới hạn của thấp nhất và cao nhất hình phạt tù, nhưng qua các quy định gián tiếp được tổng hợp lại cho ta tạm thời định hình được các đặc điểm giới hạn này. (1) Về thời gian tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn Qua khảo sát hình phạt tại các văn bản trong thời kỳ này, một số văn bản có hình phạt tù được tính bằng thời hạn ngày như phạt tù từ 6 ngày đến 2 tháng về tội lập hội trái phép quy định tại Điều 9 Sắc lệnh số 52 ngày 22/4/1946; Hoặc tại điều 112 Sắc lệnh số 49-SL ngày 18/06/1949 về Luật Thuế trực thu Việt Nam có quy định tội trốn thuế hình phạt tù từ 6 ngày đến 1 tháng; Có Điều luật quy định phạt tù từ 10 ngày đến 2 năm như về vi phạm làm hư hỏng các công trình thuỷ nông tại Điều 8 Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949. Một số văn bản có quy định thời hạn tù từ 3 ngày như quy định tại điều 3 Sắc lệnh 157-SL ngày 16/8/1946 nguyên văn như sau: “Các người không tuân theo Sắc lệnh này, sẽ bị phạt bạc đến một vạn đồng bạc (10.000đ) và có thể bị bắt đóng cửa hiệu bào chế. Khi tái phạm có thể bị phạt tù từ 3 đến 10 ngày”. Thậm chí trong điều 2 sắc lệnh số 185-SLN ngày 26/05/1948 về thẩm quyền của các Toà án thì Toà sơ thẩm có quyền xử những án vi cảnh phạt giam từ 1 đến 5 ngày. Tuy nhiên khảo cứu trong tất cả các văn bản hình sự ban hành trong giai đoạn
  • 35. 29 này thì chưa thấy có quy định hình phạt nào là 1 ngày. Như vậy xét về thống kê số liệu trên các văn bản thì ta có thể tạm thời xem thời hạn ngắn nhất của hình phạt TCTH được quy định ở một tội danh trong gian đoạn này là được thể hiện ngắn nhất 3 ngày. (2) Về thời hạn tối đa của hình phạt tù có thời hạn Về thời gian dài nhất của hình phạt TCTH trong các tội danh quy định, khảo cứu các văn bản đã ban hành trong giai đoạn này có các khoảng thời gian giới hạn cao như đến 10 năm, 15 năm, 20 năm; chưa thấy quy định nào vượt quá định mức 20 năm tù giam như đã nêu. Ở mức hình phạt cao hơn sẽ là hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. (3) Sự khấu trừ thời gian của hình phạt tù có thời hạn PLHS cũng không quy định có sự khấu trừ thời gian vào hình phạt tù khi đã bị tạm giam hoặc tạm giữ trước đó. (4) Vấn đề định lượng thời gian cho quy định hình phạt tù có thời hạn trong các khung hình phạt dành cho tội phạm Về định lượng thời gian phạt tù cho một tội phạm cụ thể, cách quy định thời kỳ này có những vấn đề có khác so với hiện tại cần phân tích: Về thời hạn ngắn nhất trong một số điều luật quy định cho hình phạt, trong giai đoạn này có xuất hiện quy định một cách không rõ ràng là cách quy định hình phạt TCTH với giới hạn tối đa mà không có tối thiểu trong một số tội danh, điển hình có thể kể đến một số điều tại Sắc lệnh 133-SL ngày 20/1/1953 như khoản c Điều 4: “phạt tù từ 10 năm trở xuống”; tương tự ở khoản b Điều 5; khoản b Điều 7; Điều 9; Điều 10; Điều 11 tại sắc lệnh này đều có quy định “từ 10 năm trở xuống”… Việc quy định hình phạt TCTH theo cấu trúc quy định như vậy là một bất hợp lý gây khó khăn cho việc toà án khi tuyên án. Đây thật sự là một hạn chế dẫn đến khó khăn bất cập mà khi áp dụng vào thực tế sẽ tạo ra kẽ hở và bất hợp lý. Tương tự một vấn đề trong cách quy định định lượng hình phạt TCTH cho một tội phạm cũng xuất hiện một số quy định không có mức tối đa, nghĩa là chỉ quy định tuyên mức năm từ tối thiểu sau đó vượt lên cho đến hình phạt chung thân, tử
  • 36. 30 hình. Rõ ràng điều này là một sự bất cập lớn, ví dụ tại điều 8 Sắc lệnh số 68-SL ngày 18 tháng 6 năm 1947 quy định “Những người nào phạm vào điều 7 sẽ bị phạt như sau: …Phạt tù từ 1 năm đến chung thân, nếu thiệt hại cho nhân dân trong một tỉnh; từ 3 năm đến tử hình, nếu thiệt hại cho nhân dân nhiều tỉnh…”. Hoặc điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12 tháng 4 năm 1953 quy định “Địa chủ nào phạm một trong các tội sau đây… thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc bị xử tử hình”; Cách quy định định lượng như vậy rất khó cho người áp dụng. Về mặt cấu trúc logic, thì quy định khoảng thời gian phải có từ mốc thấp đến điểm dừng ở mốc cao, sau đó mới chuyển qua hình loại hình phạt khác. Phạm vi hình phạt tù có thời hạn trong phần quy định các tội phạm Hình phạt TCTH trong giai đoạn này chiếm tỷ trọng cao trong kết cấu so với các hình phạt khác, tuy không phải tất cả các văn bản PLHS quy định hình phạt đều có hình phạt TCTH nhưng hình phạt này cũng chiếm một vị trí quan trọng và gần như được ghi nhận một cách mặc nhiên cho hầu hết các hình phạt, chỉ trừ một vài hình phạt tiền rất ít được thay thế với các vi phạm nhẹ hoặc ngay cả với những vụ việc mang tính chất hành chính, dân sự với quan điểm ngày nay. Lý giải cho việc phổ biến hình phạt TCTH, có thể kể đến các nguyên nhân chính: như có tính trừng trị nghiêm khắc phù hợp với giai đoạn này để bảo đảm thành quả cách mạng của dân tộc trong lúc tình hình phức tạp của chính trị và kinh tế xã hội, mặt khác do hạn chế việc áp dụng các hình phạt phạt của chế độ cũ nên hình phạt TCTH là chọn lựa quy định ưu tiện hơn. 2.1.2.2. Hình phạt tù có thời hạn và chế định đối với người chưa thành niên phạm tội. Giai đoạn này việc phân biệt đối tượng là người chưa thành niên chưa được quy định bằng những chế tài riêng thậm chí không được nhắc đến trong các quy định của PLSH. Việc áp dụng hình phạt hoặc các chế tài khác trong các văn bản hình sự hầu hết không quy định đối tượng về độ tuổi vì thế có thể xem đây là một khoảng trống thiếu sót của PLHS giai đoạn này vì như vậy rất khó để xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hoặc xác định được các hình phạt nào áp dụng cho các đối
  • 37. 31 tượng nào phạm tội. 2.2. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn từ năm 1955 – 1985 2.2.1. Đặc điểm chung của Pháp luật hình sự trong giai đoạn năm 1955 - 1985 Lịch sử đấu tranh dành độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng Xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1955- 1985 rất quan trọng, rất nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc trong giai đoạn này, các yếu tố chính trị, xã hội ảnh hưởng sâu sắc đến các chính sách của nhà nước trên mọi lĩnh vực, và pháp luật cũng không nằm ngoài ảnh hưởng đó. PLHS phản ảnh rõ rệt để bảo vệ thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH ở Miền Bắc (1955-1975) và giai đoạn cả nước tiến lên CNXH sau khi thống nhất đất nước (1975-1985). Tuy có cố gắng xây dựng và hoàn thiện nhưng nhân lực và vật lực lúc này đang tập trung cho phục vụ thống nhất đất nước, về phía cuối giai đoạn này cũng đã có kế hoạch chủ trương hình thành nên BLHS, vì thế chế định hình phạt tù có thời hạn cũng như các chế định khác cũng chưa được cụ thể hoá bằng các định nghĩa pháp lý mà chỉ tồn tại việc quy định áp dụng cho các tội phạm cụ thể. Xét chung qua PLHS trong giai đoạn nhận thấy có 3 hệ thống PLHS riêng biệt do yếu tố lịch sử chính trị mang lại là: (1) Hệ thống PLHS của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tại Miền Bắc Việt Nam; (2) Hệ thống PLHS của chính quyền Việt Nam Cộng hòa tại miền nam Việt Nam; (3) Hệ thống PLHS của chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam, mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt Nam Mỗi một hệ thống PLHS đều mang tính chất đặc trưng và bản chất của Chính phủ Nhà nước đó ban hành. Tuy nhiên, trong bài luận văn này, tác giả đặt trọng tâm khảo cứu hệ thống PLHS của Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Chính phủ cách mạnh lâm thời miền nam vì chính thể này tiếp tục thống nhất duy trì và phát triển hệ thống luật pháp của Việt Nam đến hiện nay trên nền tảng PLHS trước đó, có sự kế thừa một cách liên tục cũng như hệ thống luật đồng nhất trong hệ tư tưởng XHCN, còn lại hệ thống PLHS của Việt Nam Cộng hòa chấm dứt vào năm 1975, được xem
  • 38. 32 như là một phần của lịch sử đất nước, nên chỉ khảo cứu nếu các chi tiết quan trọng và có sự liên quan mật thiết đến các chế định của hệ thống PLHS hiện tại. Xét về các lĩnh vực quy định của PLHS thì giai đoạn này có ban hành các văn bản mới liên quan đến nhiều nhóm nội dung và mục đích chính ở giai đoạn đầu: (1) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến công cuộc xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng: Tiêu biểu như Sắc lệnh 267- SL ngày 15/06/1956. (2) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến tính mạng, sức khỏe, tài sản và các quyền tự do công dân như: Pháp lệnh 150-LCT Ngày 21/10/1970 Trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. (3) Nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến văn hóa - xã hội. Tiêu biểu có các sắc lệnh như: Sắc lệnh 282 ngày 14/12/; Luật số 100-SL/L.002 ngày 20/05/1957. (4) Về lĩnh vực liên quan đến tư pháp: Liên quan đến việc tư pháp và ban hành các văn bản hệ thống luật, nhằm chính thức chấm dứt việc sử dụng các văn bản luật của thời kỳ trước do chế độ cũ ban hành Sắc lệnh số 150-SL ngày 7/11/1950 tổ chức các trại giam; Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, công tác hoàn thiện hệ thống PLHS cũng được quan tâm và triển khai, bằng việc ban hành các văn bản luật hình sự khoa học và phù hợp hơn, điển hình: Sắc Luật số 03/SL-76 ngày 15/3/1976 của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền nam Việt Nam về tội phạm và hình phạt; Pháp lệnh trừng trị tối hối lộ ngày 20/05/1981của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 10/07/1982 của Ủy ban thường vụ Quốc hội… 2.2.2. Đặc điểm của quy định hình phạt tù có thời hạn trong giai đoạn năm 1955– 1985 2.2.2.1. Các đặc điểm cơ bản Giai đoạn 1955-1985 các quy định về hình sự được chứa đựng phân bố trong
  • 39. 33 rất nhiều văn bản về hình sự được ban hành qua nhiều thời điểm và nhiều cơ quan ban hành tương tự như giai đoạn trước. Các văn bản chủ yếu là các Sắc lệnh, Sắc luật, Nghị định, Thông tư về sau có ban hành các Pháp lệnh, Luật, về một số lĩnh vực cụ thể cấp thiết. Vì chưa có BLHS thống nhất các văn bản trong một bộ luật chính thức, nên để khảo cứu các đặc tính của PLHS trong giai đoạn này cần tra cứu các văn bản riêng lẻ có liên quan mang tính chất hình sự để đúc kết ra các đặc tính mà chưa có quy định chính thức. Phân loại trong hệ thống hình phạt: Hình phạt và HTHP cũng không được một điều luật nào nhắc đến trong giai đoạn này bằng một ĐNPL. Tuy nhiên qua khảo sát văn bản và các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy rằng “Toàn bộ HTHP đã được quy định trong giai đoạn trước đây vẫn còn tiếp tục giữ nguyên hiệu lực trong giai đoạn này” [8, tr.163]. Ngoài ra giai đoạn này còn xuất hiện thêm một số hình phạt mà ở giai đoạn trước đó chưa có. Vậy có thể thống kê hệ thống thống hình phạt trong giai đoạn này như sau: Hình phạt chính: Hình phạt tử hình; Hình phạt tù chung thân; Hình phạt TCTH; Cải tạo không giam giữ; Hình phạt quản chế (từ 1 đến 5 năm); Hình phạt tiền. Hình phạt bổ sung: Hình phạt tịch thu tài sản; Buộc bồi thường thiệt hại đã gây ra; Tước quyền công dân; Hình phạt quản chế (khi không là hình phạt chính); Phạt tiền (khi không là hình phạt chính); Tước quyền giữ chức vụ nhất định hoặc làm nghề nhất định; Cư trú bắt buộc; Cấm cư trú (từ 1 đến 5 năm) Theo cách phân trên, với hình phạt TCTH giai đoạn này sẽ là hình phạt chính trong phân loại, mang đặc tính này hình phạt TCTH còn có thế có thêm các hình phạt bổ sung kèm theo như liệt kê ở trên phần hình phạt bổ sung. Giai đoạn này, tuy chưa có quy định mang tính chất ĐNPL hình phạt TCTH trong bất kỳ điều luật nào, hình phạt TCTH sẽ được hiểu theo cách thông thường như thời kỳ trước là hình phạt vào tự do của con người trong thời gian nhất định. Mục đích của hình phạt tù có thời hạn
  • 40. 34 Qua khảo sát các văn bản ban hành và áp dụng trong giai đoạn, một số các văn bản PLHS lại nhắc đến một cách gián tiếp là mục đích nhằm trừng trị là mục đích chính yếu tương tự như giai đoạn trước đó. Ta có thể khảo qua các văn bản tiêu biểu: Trong Thông tư có 442-TTG ngày 19/01/1955 của Thủ tướng chính phủ có nêu lên rằng: “Cũng nhằm tăng cường bảo vệ trật tự, an ninh trong giai đoạn hiện tại, Chính phủ lại ra quyết nghị trừng trị nặng bọn lưu manh chuyên sinh sống về nghề trộm cướp”. Tương tự trong ngay tên lời nói đầu của pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/01/1967 có nêu lên mục đích của hình phạt trong pháp lệnh này là một sự trừng trị thể hiện thông qua hình phạt: “Pháp lệnh này nêu những tội phản cách mạng và quy định hình phạt trừng trị những kẻ phạm tội phản cách mạng”. Cũng trong Pháp lệnh ban hành ngày 21/10/1970 với tên gọi trừng trị các tội xâm phạm tài sản Xã hội chủ nghĩa, trong một phần lời nói đầu cũng thể hiện rõ: “Pháp lệnh này quy định việc trừng trị những tội xâm phạm tài sản Xã hội chủ nghĩa”. Như vậy khái niệm và tinh thần cùng mục đích ban hành có “trừng trị” xuyên suốt trong các văn bản PLHS quy định về tội phạm và hình phạt xuất hiện với tuần xuất rất nhiều thể hiện ý chí của nhà làm luật một cách rõ ràng về mục đích của chính sách hình sự và hình phạt là trừng trị. Tuy nhiên ở một khía cạnh khác, tồn tại trong các văn bản luật khác như về thi hành án, các văn bản hướng dẫn, tổng kết của tòa án nhân dân thì thể hiện thêm rõ hơn vai trò của cải tạo và giáo dục rõ nét trong hình phạt tù, đặc biệt là TCTH, thể hiện gián tiếp và trực tiếp qua các văn bản như sau: Trong báo cáo tổng kết công tác 1959 của Tòa án nhân dân tối cao có đề cập rằng “…Hình phạt không chỉ để trừng trị kẻ phạm pháp. Nó cũng nhằm giáo dục và cải tạo phạm nhân…”; Điều 1 Luật số 18 ngày 14/07/1960 về tổ chức Tòa án nhân dân: “…Tòa án nhân dân không chỉ trừng trị phạm nhân mà còn nhằm giáo dục và cải tạo họ”. Phần sau của giai đoạn này các nhà làm luật có sự thay đổi tư duy trong cách