Corpo Delirante, Discurso Atuante (por lílith marques)Panacéia Delirante
Artigo apresentado ao Programa BNB (Banco do Nordeste) de Cultura e ao BNDES (Banco Nacional de Desenvolvimento), resultante do projeto Panacéia Viajante, Circulação do Espetáculo Dorotéia. Autoria: Lílith Marques.
Tudo no Universo se organiza em ciclos. A evolução da vida ocorre em ciclos. Os dias, os meses, os anos, seguem os ciclos da natureza. Desde tempos imemoriais várias culturas ancestrais à volta do globo festejam o solstício de inverno com comemorações que, na sociedade ocidental cristã, deram origem a vários costumes hoje relacionados com o Natal, que coincide com o fim do ciclo solar. O solstício de inverno, o menor dia do ano, a partir de quando a duração do dia começa a crescer, simbolizava o início da vitória da luz sobre a escuridão. No hemisfério sul, na verdade, ocorre o contrário, o solstício de verão, mas, por tradição cultural herdada, comemoramos da mesma forma que no hemisfério norte. Ligado a esse ciclo surge o mito da Criança Sagrada, que também aparece na mitologia de muitas culturas e apresenta algumas características em comum que não se devem a mera coincidência. Na verdade, são diferentes expressões de um mesmo princípio arquetípico, que corresponde a uma necessidade humana básica: a necessidade de evolução espiritual.
Cơ Sở Lý Luận Chuyên Đề Tốt Nghiệp Khoa Kinh Tế Và Phát Triển. Đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ sở lý luận về pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Môi trường không khí là một thành phần của môi trường, là tập hợp tất cả các khí bao quanh chúng ta. Không khí có nhiệm vụ cung cấp sự sống cho tất cả các sinh vật trên trái đất, trong đó có con người. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự sinh tồn và phát triển của tất cả các sinh vật trên trái đất. Con người có thể nhịn ăn, nhịn uống trong vài ngày nhưng không thể nhịn thở trong 5 phút.
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfLngHu10
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về triết học nói chung,
những điều kiện ra đời của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, giúp sinh viên nhận thức được
thực chất cuộc cách mạng trong triết học do
C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện và các giai đoạn hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin;
vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong thời đại ngày nay.
2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng tri thức đã học làm cơ sở cho việc nhận
thức những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin; biết đấu tranh chống lại những luận
điểm sai trái phủ nhận sự hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin.
3. Về tư tưởng: Giúp sinh viên củng cố niềm tin vào bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng.
B. NỘI DUNG
I- TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a) Nguồn gốc của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả phương Đông và
phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện
không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của
sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu
cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung
nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết
học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân
loại.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về mặt lịch
sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con
người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết nối những hiểu
biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgích... của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang
tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn
9
giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là
thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo
nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng
nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và có
tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng với sự tiến
bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn
trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCNGTRC3
Cháy, nổ trong công nghiệp không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế, con người mà còn gây ra bất ổn, mất an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Vì vậy phòng chông cháy nổ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của cơ sở sản xuất, của mổi công dân và của toàn thể xã hội. Để hạn chế các vụ tai nạn do cháy, nổ xảy ra thì chúng ta cần phải đi tìm hiểu nguyên nhân gây ra các vụ cháy nố là như thế nào cũng như phải hiểu rõ các kiến thức cơ bản về nó từ đó chúng ta mới đi tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống và sử lý sự cố cháy nổ.
Mục tiêu:
- Nêu rõ các nguy cơ xảy ra cháy, nổ trong công nghiệp và đời sống; nguyên nhân và các biện pháp đề phòng phòng;
- Sử dụng được vật liệu và phương tiện vào việc phòng cháy, chữa cháy;
- Thực hiện được việc cấp cứa khẩn cấp khi tai nạn xảy ra;
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực sáng tạo trong học tập.
1. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ KHẢ NĂNG THÍCH NGHI VỚI NHỮNG TÁC ĐỘNG
Khí hậu trái đất đang nóng lên. Theo
tổ chức liên Chính phủ về biến đổi
khí hậu (IPCC) thì sự nóng lên của
khí hậu trái đất không còn đơn thuần
là vấn đề môi trường mà đã trở
thành vấn đề của sự phát triển. Sự
biến đổi diễn ra trên toàn cầu, trong
các khu vực, bao gồm cả các thay
đổi trong thành phần hoá học của khí
quyển, biến đổi nhiệt độ bề mặt,
nước biển dâng, các hiện tượng khí
hậu cực đoan và thiên tai tăng lên
đáng kể về số lượng và cường độ.
Những thay đổi này dẫn đến những thay đổi trong các hệ thống vật lý, hệ sinh học và hệ thống
kinh tế xã hội trên toàn bộ hành tinh. Những thay đổi này cũng đang đe doạ sự phát triển, đe doạ cuộc
sống của tất cả các loài, các hệ sinh thái.
Thế giới đang có nhiều nỗ lực để giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu, nhưng để ứng phó
với biến đổi khí hậu thì thích ứng với biến đổi khí hậu là một giải pháp vô cùng quan trọng.
Tài liệu này giới thiệu một số thông tin về biến đổi khí hậu, nguyên nhân làm cho khí hậu thay
đổi, đồng thời giới thiệu một số tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu và những khả năng để thích
ứng với những biến đổi đó.
* Sự thay đổi của khí hậu toàn cầu:
Những nghiên cứu cổ sinh khí hậu đã khẳng định rằng hàng ngàn năm trước thời kỳ tiền công nghiệp
khí hậu đã không bị nóng lên, nhưng xu thế đó đã thay đổi, đặc biệt trong những thập niên gần đây.
Điễn biến của nhiệt độ bề mặt được trình bày dưới đây cho thấy rất rõ những biết thiên nói trên.
2. Theo tính toán của IPCC, trong những thập niên gần đây, trung bình tăng 0,30C / mỗi thập niên.
* Nguyên nhân của Biến đổi khí hậu
Khí hậu trái đất được giữ ổn định nhờ sự cân bằng và ổn định cán cân bức xạ mặt trời. Sự ổn
định đó có được là nhờ sự ổn định các thành phần quan trọng trong khí quyển đặc biệt là các loại khí
có khả năng bức xạ và phản xạ bức xạ mặt trời các bước sóng khác nhau. Thành phần quan trọng
trong khí quyển có khả năng bức xạ và phản xạ bức xạ đó là khí nhà kính. Là các loại khí trong suốt
đối với các bức xạ sóng ngắn nhưng có khả năng phản xạ và ngăn cản bức xạ sóng dài.
* Khí hậu trong tương lai thay đổi như thế nào?
Các nghiên cứu và tính toán mới nhất về khả năng biến đổi khí hậu trong tương lai cho thấy
đến năm 2100 nhiệt độ bề mặt có thể tăng từ 1,5o đến 4,5o .
N2O : +0.14 W/m2 hết tồn tại trong tự nhiên. Nhờ có chúng mà khí hậu trái đất ấm áp với muôn loài
sinh sống hiện nay.
Tuy nhiên phát triển khoa học kỹ thuật đã bổ sung thêm một khối lượng lớn các loại khí nhà kính đã có
và những loại khí nhà kính do con người tạo ra.
Hiệu ứng bức xạ do thay đổi nồng độ khí nhà kính:
• CO2 : +1,6 W/m2
• Mê tan :+0,47 W/m2
• Ô zôn đối lưu: +0.4 W/m2
• Ôzôn bình lưu: -0.1 W/m2
• Hiệu ứng tổng cộng: + 2.45 W/m2(2.1-2.8)
Mực nước biển có thể dâng lên từ 30 đến 90 cm
* Tình hình biến đổi khí hậu ở Việt Nam và tác động của BĐKH
Biến đổi khí hậu làm tăng các hiện tượng nguy hiểm. Tần suất và cường độ các hiện tượng bão,
mưa lớn, nhiệt độ cao, hạn hán tăng hơn nhiều trong thập kỷ vừa qua.
- Ở Việt Nam nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,10C mỗi thập kỷ, nhiệt độ trung bình một số
tháng mùa hè tăng khoảng 0,1-0,30C mỗi thập kỷ. Về mùa đông, nhiệt độ giảm đi trong các tháng
đầu mùa và tăng lên trong các tháng cuối mùa. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa hè có xu thế
tăng rõ rệt trong khi nhiệt độ trung bình của các tháng khác không tăng hoặc giảm chút ít, dẫn đến
nhiệt độ trung bình năm có xu thế tăng lên;
- Xu thế biến đổi của lượng mưa không nhất quán giữa các khu vực và các thời kỳ. Sự thay
đổi về tổng lượng mưa tháng và mưa năm không thể hiện xu thế tăng hay giảm nhưng cường
độ mưa đang có xu hướng tăng lên rõ rệt. Trên phần lớn lãnh thổ lượng mưa mùa giảm đi
3. trong tháng 7, 8 và tăng lên trong các tháng 9, 10, 11. Mưa phùn giảm đi rõ rệt ở Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ;
- Trung bình hàng năm có khoảng 4,7 cơn bão và ATNĐ ảnh hưởng đến Việt Nam. Ba thập
kỷ gần đây, số cơn bão ảnh hưởng đến nước ta và mức độ ảnh hưởng cũng có xu hướng
tăng rõ rệt. Bão thường xuất hiện muộn hơn và dịch chuyển xuống vĩ độ thấp hơn;
- Lũ lụt, hạn hán: Trong thời gian gần đây lũ lụt lớn xảy ra ở các tỉnh miền Trung và đồng
bằng sông Cửu Long có xu thế tăng hơn nửa đầu thế kỷ trước. Năm 1999, 2003 miền Trung
đã ghi nhận một trận lụt lịch sử xảy ra vào cuối mùa mưa;
- Về hạn hán, ở Nam Bộ và Tây Nguyên hầu như năm nào cũng có hạn gay gắt hơn trong
mùa khô. Các thập kỷ gần đây hạn có phần nhiều hơn so với các thập kỷ trước;
- Nước biển dâng 5 cm mỗi thập niên và sẽ dâng 33 đến 45 cm năm 2070 và 100 cm năm
2100
- Tần suất và cường độ ElNino tăng lên rõ rệt trong những năm cuối thế kỷ trước và những
năm đâu thế kỷ này. Trong 5 thập kỷ gần đây hiện tượng ENSO ngày càng có tác động mạnh
mẽ đến chế độ thời tiết và đặc trưng khí hậu trên nhiều khu vực của Việt Nam.
* Những thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu gây ra.
Trên phạm vi toàn cầu những thiệt hại do các tai biến khí hậu thời tiết là rất lớn
Một số thiệt hại về kinh tế của một số địa phương ở nước ta trong những năm có nhiều thiên
tai được trình bày trong bảng dưới đây:
Thiệt hại do thiên tai các năm gần đây ở nước ta
Diện tích thất Tổng gía trị
Số người bị Nhà cửa bị hư Các công trình
Số người chết thu thiệt hại
thương hại hư hỏng
(ha) (tỉ đồng)
1483 đập, cầu
Năm 305271 ngôi
358 254 45849 cống, công 877,5
2002 nhà bị sập
trình thủy lợi
70185 ngôi
Năm
140 180 nhà, trường 215788 1276,2
2003
học bị sập
* Thích nghi với biến đổi khí hậu.
Rõ ràng khí hậu đó và đang biến đổi và trái đất đã phải trải qua nhiều lần biến đổi. Vì thế sự
thích nghi trở nên quan trọng và nhận được nhiều sự quan tâm hơn ở cả khía cạnh nghiên cứu và thực
hiện Công ước Khung của liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC).
4. Thích nghi là một khái niệm rất rộng, và khi áp dụng vào lĩnh vực biến đổi khí hậu nó được
dùng trong rất nhiều trường hợp:
- Sự thích nghi với khí hậu là một quá trình, qua đó con người làm giảm những tác động bất lợi
của khí hậu về sức khoẻ và đời sống, và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang
lại (Burton, 1992);
- Thuật ngữ thích nghi có nghĩa là điều chỉnh, một cách chủ động, tác động trở lại hoặc dự tính
trước, nhằm làm giảm thiểu những hậu quả có hại của biến đổi khí hậu (Stakhiv, 1993);
- Tính thích nghi đề cập đến mức độ điều chỉnh có thể trong hành động, xử lý, cấu trúc của hệ
thống đối với những biến đổi dự kiến có thể xảy ra hay thật sự sẽ xảy ra của khí hậu. Sự thích nghi có
thể là tự phát hay được lập kế hoạch, và có thể được thực hiện thích ứng với những biến đổi trong
nhiều điều kiện khác nhau (IPCC,1996).
Có rất nhiều phương pháp thích nghi có khả năng được thực hiện trong việc đối phó với biến
đổi khí hậu. Bản báo cáo đánh giá thứ 2 của nhóm công tác IPCC 2 đề cập và miêu tả 228 phương
pháp thích nghi khác nhau (IPCC,1995). Vì thế sẽ có ích nếu phân loại các phương pháp thích nghi sử
dụng một cấu trúc tổng quát. Một cách phân loại thường dùng chia các phương pháp thích nghi ra làm
8 nhóm (Burtonet al.,1993):
• Chấp nhận những tổn thất: Tất cả các phương pháp thích nghi khác có thể được so
sánh với biểu hiện cơ bản của việc “không làm gì cả” ngoại trừ chịu đựng hay chấp nhận những tổn
thất. Trên lý thuyết, chấp nhận tổn thất xảy ra khi phải chịu tác động mà không có khả năng chống chọi
lại bằng bất kỳ cách nào (ví dụ như ở tầng lớp dân nghèo) hay ở nơi mà giá phải trả của các hoạt động
thích nghi là cao so với sự rủi ro hay là các thiệt hại.
• Chia sẻ những tổn thất: Loại phản ứng thích nghi này liên quan đến việc chia sẻ những
tổn thất giữa một cộng đồng dân cư lớn. Như là những hoạt động trong một xã hội truyền thống và
trong xã hội công nghệ cao. Trong xã hội truyền thống, nhiều cơ chế tồn tại để chia sẻ những tổn thất
giữa cộng đồng mở rộng, như là các hộ gia đình, làng mạc hay là các cộng đồng nhỏ tương tự. Với
một sự phân bổ khác, các xã hội lớn chia sẻ những tổn thất thông qua cứu trợ cộng đồng, phục hồi và
tái thiết thông qua viện trợ của các quỹ cộng đồng. Chia sẻ tổn thất cũng có thể được thực hiện thông
qua bảo hiểm xã hội.
• Làm giảm sự nguy hiểm: Đối với một vài sự rủi ro, bản thân nó có thể là sự luyện tập
về mức độ kiểm soát hiểm hoạ môi trường. Một hiện tượng tự nhiên như là lũ lụt hay hạn hán, những
phương pháp thích hợp là gồm các công tác kiểm soát lũ lụt (đắp đập, đào mương, đắp đê). Đối với
biến đổi khí hậu, điều chỉnh thích hợp làm chậm tốc độ biến đổi khí hậu bằng cách giảm phát thải khí
nhà kính và cuối cùng là ổn định nồng độ của khí nhà kính trong khí quyển. Trong UNFCCC, phương
pháp này được đề cập đến như là sự giảm nhẹ biến đổi khí hậu và được coi là một phần của phương
pháp thích nghi.
• Ngăn chặn các tác động: Thường xuyên sử dụng các phương pháp thích nghi từng
bước một để ngăn chặn các tác động của biến đổi khí hậu và sự cố dao động khác. Ví dụ trong lĩnh
vực nông nghiệp, thay đổi trong việc thực hiện quản lý mùa vụ như là tăng việc tưới tiêu, chăm bón
thêm, kiểm soát côn trùng và sâu bọ gây hại.
• Thay đổi cách sử dụng: Chỗ nào có hiểm hoạ của biến đổi khí hậu thực sự tiến triển
của các hoạt động kinh tế là không thể hoặc là rất mạo hiểm, sự tính toán có thể mang lại thay đổi về
cách sử dụng. Ví dụ, có thể chọn lựa để thay thế những cây chịu lũ hay là chuyển sang các giống chịu
được độ ẩm thấp hơn. Tương tự, đất trồng trọt có thể trở thành đồng cỏ hay rừng, hoặc có những cách
sử dụng khác như cho đất nghỉ.
• Thay đổi địa điểm: Một sự đối phó mạnh mẽ hơn là thay đổi địa điểm của các hoạt
động kinh tế. Cần nghiên cứu tính toán kỹ, ví dụ, chuyển các cây trồng chủ chốt và vùng nông trại ra
khỏi khu vực khô hạn đến một khu vực ôn hoà hơn và có thể sẽ thích hợp hơn cho một vài vụ trong
tương lai (Rosenzweig and Parry, 1994).
• Nghiên cứu: Quá trình thích nghi có thể được phát triển bằng cách nghiên cứu trong
lĩnh vực công nghệ mới và phương pháp mới về thích nghi.
5. • Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Một kiểu khác của thích nghi là
sự phổ biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc thay đổi
hành vi. Những hoạt động đó trước đây ít được biết đến và ít được ưu tiên, nhưng tầm quan trọng của
nó được tăng lên khi sự cần thiết đến sự hợp tác của nhiều cộng đồng, lĩnh vực, khu vực trong thích
nghi trở nên rõ rệt.
Hiểu biết về sự thích nghi với biến đổi khí hậu có thể được nâng cao bằng cách đầu tư vào
thích nghi với khí hậu hiện tại cũng như khí hậu trong tương lai. Thích nghi với khí hậu hiện tại không
giống như thích nghi với khí hậu trong tương lai. Theo Burton etal.,1993, không thể qui kết những thiệt
hại này cho duy nhất các hiện tượng mà nó cũng do sự thiếu khả năng thích nghi một cách thích hợp
của con người (cũng có thể gọi là sự điều chỉnh của con người) và những thiệt hại trong vài trường
hợp lại gia tăng do sự thích nghi không tốt.
Nước ta nằm ở khu vực Đông Nam Á. Với 3260km đường bờ biển và hơn 3000 đảo gần và xa
bờ. Khí hậu Việt Nam chịu ảnh hưởng của gió mùa nhiệt đới nóng và ẩm, và là một trong những nước
chịu nhiều thiên tai nhất thể giới, đặc biệt là các thiên tai có liên quan tới nước. Trung bình, có từ 4 đến
6 cơn bão đổ bộ vào Việt Nam mỗi năm. Những vùng chịu ảnh hưởng nhiều thiên tai nhất liên quan tới
nước là châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long- hai vùng nông nghiệp chủ yếu. Một khu vực lớn của
hai vùng châu thổ này chỉ cao hơn 1m so với mực nước biển; một vài nơi thậm chí thấp hơn mực nước
biển. Đó là lý do mà Việt Nam có sự quan tâm nhiều đến biến đổi khí hậu, ngoài ra còn những chương
trình đầu tư và trợ giúp trực tiếp của nước ngoài.
Mục tiêu ưu tiên của đất nước là đạt được sự tăng trưởng kinh tế một cách nhanh chóng,
nhưng chính phủ cho rằng, kiểm soát và giảm hậu quả của thiên tai cũng là một vấn đề then chốt, và
đó phát triển một kế hoạch hành động cho việc giảm thiên tai cũng như chương trình nghị sự quốc gia
21 của Việt Nam.
Đó là một số nghiên cứu về sự thích nghi trong dự án Thông báo quốc gia đầu tiên và những
chiến lược thích nghi chung cho những vùng và lĩnh vực dễ bị tổn thương đó được kiến nghị một cách
định tính. Những nghiên cứu sâu hơn cần thực hiện để có thể trả lời những câu hỏi sau:
· Những vùng nào sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu?
· Những khu vực nào sẽ không phải chịu ảnh hưởng? Những hoạt động được tiến hành sẽ
mang lại lợi ích gì ?
· Tiêu chuẩn để đánh giá mức độ bị tổn thương và chỉ tiêu đánh giá mức độ giảm.
· Làm thế nào sự thích nghi có thể được kết hợp với những chiến lược ưu tiên phát triển
khác?
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu do con người gây ra trong tương lai sẽ gây ảnh hưởng mạnh mẽ
không chỉ về sự thay đổi tính bất ổn của khí hậu mà còn về cường độ và tần suất xuất hiện và sẽ gây
thiệt hại cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước.
Những chiến lược thích nghi về biến đổi khí hậu trong nước sẽ thay đổi khái niệm thích nghi từ
bị động thành chủ động ra quyết định hơn là một sự thích nghi “trông và chờ” truyền thống. Trọng tâm
nhất của những chọn lựa thích nghi là nhằm vào những lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng nhất như tài nguyên
nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, những vùng ven biển, năng lượng, giao thông vận tải, và y tế.
Trên cơ sở đó Viện Khí tượng Thuỷ văn sẽ chủ trì thực hiện dự án “Nghiên cứu chính sách
thích ứng với biến đổi khí hậu” do Chương trình nghiên cứu Biến đổi khí hậu Hà Lan giúp đỡ.
Mục tiêu của dự án xây dựng một chương trình ở cấp độ quốc gia để lồng ghép những biện
pháp thích nghi vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội để giảm thiểu các tác động tiêu cực và tổn thất
do thiên tai về biến đổi khí hậu gây ra.
Nâng cao hiểu biết để cộng tác với các nhà hoạch định chiến lược và các tổ chức kinh tế, các
địa phương và người dân để tìm ra các phương pháp thích nghi với biến đổi khí hậu, kết hợp với kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội để giảm thiểu các tác động tiêu cực và tổn thất do biến đổi khí hậu và
phục hồi hiệu quả và sử dụng những lợi thế của các tác động tích cực.
6. Dự án có sáu nội dung hoạt động mà nội dung quan trọng nhất là: Phát triển khuôn khổ chính
sách và kế hoạch hành động chiến lược ở cấp quốc gia về sự thích nghi đối với biến đổi khí hậu và sự
thay đổi của môi trường.
Nguyễn Hồng Trường
Trung tâm dự báo KTTV Ninh Thuận
(Thông tin và trao đổi)