Máy tính ra đời kéo theo rất nhiều thay đổi trong cuộc sống, và sự xuất hiện của mạng Internet là một minh chứng rõ rang nhất. Thế nhưng, ở thời buổi ban đầu, việc xây dựng một mạng máy tính hoàn toàn không đơn giản. Bạn chỉ cần một sợi dây cáp chéo UTP/STP được bấm bởi các đầu nối RJ45 là có thể giúp cho 2 máy tính giao tiếp được. Thế nhwung, trên các sợi dây kết nối luôn xuất hiện sự suy hao tín hiệu và nhiễu bên ngoài ảnh hưởng vào. Kết quả là các máy tính ở quá xa nhau không thể nhận được đúng dữ liệu được truyền đi. Do vậy, người ta chế tạo một thiết bị gọi ra Repeater (bộ lặp) để giúp mở rộng khoảng cách kết nối giữa các máy tính. Repeater không đơn giản là bộ khuếch đại tín hiệu bởi vì nếu chỉ thuần túy khuếch đại tín hiệu thì nó cũng khuếch đại cả nhiễu xuất hiện trong tín hiệu gốc. Nói một cách chính xác, tín hiệu do repeater nhận được sẽ được lọc nhiễu, lọc méo, tái tạo rồi mới phát tiếp đến máy đầu xa. Hub (bộ tập trung) là thiết bị cải tiến của repeater và thường có nhiều port (cổng) hơn cả repeater. Cả hub và repeater đều hoạt động trên nguyên tắc là thu tín hiệu, sau đó lọc nhiễu, lọc méo, tái tạo lại tín hiệu và truyền đi, chúng không quan tâm đến dữ liệu đang truyền là gì, do đó chúng được xếp loại là thiết bị lớp Physical (lớp vật lý) trong mô hình OIS. Các thiết bị nối vào hub hay repeater buộc phải hoạt động ở chế độ half-duplex (bán song công) và sử dụng cơ chế đa truy nhập nhận song mang và phát hiện đụng độ CSMA/CD (Carrier Sense Multi Access/Collision Detection). Do đặc tính half-duplex làm cho mạng hoạt động chậm nên hiện nay hub và repeater rất ít được sử dụng trong mạng LAN.
Máy tính ra đời kéo theo rất nhiều thay đổi trong cuộc sống, và sự xuất hiện của mạng Internet là một minh chứng rõ rang nhất. Thế nhưng, ở thời buổi ban đầu, việc xây dựng một mạng máy tính hoàn toàn không đơn giản. Bạn chỉ cần một sợi dây cáp chéo UTP/STP được bấm bởi các đầu nối RJ45 là có thể giúp cho 2 máy tính giao tiếp được. Thế nhwung, trên các sợi dây kết nối luôn xuất hiện sự suy hao tín hiệu và nhiễu bên ngoài ảnh hưởng vào. Kết quả là các máy tính ở quá xa nhau không thể nhận được đúng dữ liệu được truyền đi. Do vậy, người ta chế tạo một thiết bị gọi ra Repeater (bộ lặp) để giúp mở rộng khoảng cách kết nối giữa các máy tính. Repeater không đơn giản là bộ khuếch đại tín hiệu bởi vì nếu chỉ thuần túy khuếch đại tín hiệu thì nó cũng khuếch đại cả nhiễu xuất hiện trong tín hiệu gốc. Nói một cách chính xác, tín hiệu do repeater nhận được sẽ được lọc nhiễu, lọc méo, tái tạo rồi mới phát tiếp đến máy đầu xa. Hub (bộ tập trung) là thiết bị cải tiến của repeater và thường có nhiều port (cổng) hơn cả repeater. Cả hub và repeater đều hoạt động trên nguyên tắc là thu tín hiệu, sau đó lọc nhiễu, lọc méo, tái tạo lại tín hiệu và truyền đi, chúng không quan tâm đến dữ liệu đang truyền là gì, do đó chúng được xếp loại là thiết bị lớp Physical (lớp vật lý) trong mô hình OIS. Các thiết bị nối vào hub hay repeater buộc phải hoạt động ở chế độ half-duplex (bán song công) và sử dụng cơ chế đa truy nhập nhận song mang và phát hiện đụng độ CSMA/CD (Carrier Sense Multi Access/Collision Detection). Do đặc tính half-duplex làm cho mạng hoạt động chậm nên hiện nay hub và repeater rất ít được sử dụng trong mạng LAN.
1. III. Frame Relay và mô hình OSI 7 lớp.
Trong mẫu 7 lớp của OSI (Open System Interconnection) X25 và Frame Relay có mặt ở 3
lớp dưới. Hình vẽ 9.
Tương tự như DTE (Data Terminal Equipment) và DCE (Data Circuit Equipment) cuả X25,
ở Frame Relay gọi FRAD (Frame Relay Access Device) và FRND (Frame Relay Network
Device).
1. Level 1. Lớp vật lý - physical layer.
Lớp 1 của Frame relay cũng định nghĩa giao diện vật lý, điện lý dùng chung giữa FRAD và
FRND, Frame relay dùng ở tốc độ cao nên vẫn hay dùng giao diện V35.
2. Level 2. Lớp kết nối - Link Layer.
Lớp này định nghĩa thể lệ và thủ tục kết nối liên lạc, được coi như LAP (Link Access
Protocol). Frame Relay hiện tại đang dùng 2 loại LAP là:
• LAP-D là giao thức cơ bản của lớp 2 của ISDN - D channel , nó cũng được dùng cho
Frame relay để chuyển tải thông tin theo tiêu chuẩn CCITT I.441/Q821.
• LAP-F. Giao thức của Frame relay cải tiến từ LAP-D do tiêu chuẩn Q922 định nghĩa và
được sử dụng nhiều hơn (Cấu trúc khung nêu ở trên theo LAP-F).
Lớp 2 của Frame Relay chia thành 2 lớp chức nǎng là Core Funtion và Upper Function ,
chức nǎng của lớp 2 cũng đảm bảo thủ tục kết nối LAP-F:
• Core function: Kiểm soát để các Frame không bị đúp hay mất, kiểm tra độ dài của một
khung, phân tích lỗi truyền dẫn qua FCS, điều khiển nghẽn qua FENC/BECN.
• Upper function: Điều khiển DLCI (Data Link Connection Identification) định nghĩa đường
nối Logic giữa FRAD và FRND.
FRND
Hình vẽ 9 . Frame relay trong OSI 7 lớp .
2. 3. Level 3. Lớp mạng - Network layer.
Lớp 3 không có thủ tục gì vì vậy nó nhanh hơn nhiều so với X25 hay SNA.
Lớp mạng định nghĩa các khung dữ liệu chuyển dịch như thế nào giữa các hệ thống, đảm
bảo định tuyến trong một mạng hay giữa các mạng với nhau.
Giao thức kết nối 2 mạng X25 là X75 còn giao thức kết nối giữa 2 mạng Frame relay là NNI
- Network to Network Interface (Hình vẽ 10)
Hình vẽ 10 : Giao thức kết nối hai mạng Frame Relay .