Chuyên đề Pháp luật về đánh giá tác động môi trường – lý luận và thực tiễn.doc
Suy ngam ve vai tro cua danh gia tac dong moi truong cac du an dau tu phat trien bai 1 hien trang danh gia tac dong moi truong
1. Suy ngẫm về vai trò của đánh giá tác động môi
trường các dự án đầu tư phát triển - Bài 1 Hiện
trạng đánh giá tác động môi trường
Cho đến nay, văn bản quy định về ĐTM liên tục được thay đổi để ban hành sau đó như: Thông tư
715/MTg ngày 3/4/1995, Thông tư 1100/TT-MTg ngày 20/8/1997; Thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT
ngày 29/4/1998, Thông tư 08/2006/TT-BTNMT ngày 8/9/2006 và hiện nay là Thông tư 05/2008/TT-
BTNMT. Ngoài ra còn rất nhiều văn bản hướng dẫn chuyên ngành về ĐTM cho các loại hình dự án thuộc
các ngành công nghiệp khác nhau. Tuy nhiên, sau nhiều năm áp dụng ĐTM trong thực tiễn Việt Nam cho
thấy có một số vấn đề cần trao đổi, thảo luận.
Về bản chất ĐTM, Điều 3, mục 20 Luật Bảo vệ môi trường giải thích từ ngữ về ĐTM: “Đánh giá
tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư
cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”. Phân tích kỹ quy
định này thì rõ ràng ĐTM không thể làm thay đổi nội dung dự án đầu tư, kể cả những dự án có
công nghệ lạc hậu, có lượng phát thải lớn nhưng chủ đầu tư cam kết có hệ thống xử lý giảm
thiểu đạt quy chuẩn VN về môi trường thì vẫn được thông qua ĐTM. Thẩm định không đạt yêu
cầu thì sẽ thẩm định lại rồi cũng sẽ qua. Thực tế đã xảy ra ở dự án sản xuất phân Urê tại Gia
Minh-Hải Phòng. Cho đến nay, chưa thấy dự án nào bị từ chối vì lý do ĐTM.
ĐTM cũng không thể thay đổi được địa điểm. Khi đầu tư dự án vào khu vực đang có nguy cơ ô
nhiễm cao, thậm chí vượt tiêu chuẩn môi trường (xung quanh), nhất là môi trường nước cũng
chưa có quy định cụ thể nào ngăn cấm việc đầu tư. Như vậy, một số loại dự án đâu cần phải
ĐTM/Cam kết BVMT như dự án cầu, đường giao thông, sân bay, cơ sở hạ tầng khu dân cư,
trường học, văn phòng, trụ sở cơ quan...
ĐTM thực chất là môn khoa học về dự báo ô nhiễm, suy thoái môi trường do các hoạt động
phát triển kinh tế xã hội rồi dự kiến các giải pháp giảm thiểu sao cho đạt yêu cầu... mà cơ quan
Nhà nước rất cần chủ đầu tư phải tự hiểu, tự phải biết để vận hành dự án và các giải pháp đó
sau này sao cho không gây ô nhiễm cho môi trường.
Thông thường, luật pháp điều chỉnh hành vi của các đối tượng. Còn ĐTM được dùng để điều
chỉnh hành vi có thể gây ô nhiễm môi trường trong tương lai của các dự án đầu tư. Có lẽ vì thế
nên trong thực tế, công cụ ĐTM ít hiệu quả, chủ đầu tư thường chỉ coi ĐTM là một thủ tục trong
quy trình xét duyệt dự án, thế thôi.
Về lập báo cáo ĐTM: Trong thực tế, hầu hết các báo cáo ĐTM đều do cơ quan tư vấn lập và
giúp chủ đầu tư mọi thủ tục liên quan từ lập báo cáo ĐTM, trình nộp rồi bảo vệ thay chủ đầu tư
trước Hội đồng thẩm định... Rất nhiều chủ đầu tư thậm chí không đọc duyệt báo cáo ĐTM
trước khi ký trình nên hoàn toàn không biết, không nhận thức được đầy đủ trách nhiệm thực
hiện Luật BVMT trong quá trình triển khai xây dựng và vận hành dự án. Họ coi ĐTM chỉ là một
thủ tục hành chính trong quá trình xin phê duyệt dự án đầu tư.
Khi mở rộng quy mô, nhiều chủ đầu tư không có ý nghĩ rằng phải lập báo cáo ĐTM bổ sung,
hay báo cáo, giải trình gì đó về môi trường cho đúng thủ tục.
Chất lượng của báo cáo ĐTM càng đáng lo. Điều 8, Nghị định 80/2006/NĐ-CP, quy định chỉ
những cơ quan tư vấn có đủ điều kiện thì mới được tư vấn lập báo cáo ĐTM mà thực tế không
có nhiều đơn vị đủ điều kiện, trong khi nhu cầu lập ĐTM thì rất lớn. Tình trạng rất phổ biến là
ĐTM được xây dựng từ một vài thủ thuật cắt dán từ những tài liệu sẵn có, từ những báo cáo
ĐTM trước, chỉnh sửa rồi trình nộp.
Số liệu sử dụng để phân tích tác động môi trường thì sao chép, vay mượn từ những nguồn số
liệu nào đó không chính thức. Kể cả trường hợp có tiến hành quan trắc, lấy mẫu, phân tích mới
nhưng cũng không có độ tin cậy vì hiện tại có rất ít phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO/EEC-
17025 hay LAS...
Các giải pháp xử lý giảm thiểu ô nhiễm đưa ra cũng rất chung chung. Đặc biệt phần lấy ý kiến
cộng đồng thì hoàn toàn vô giá trị về học thuật trong ĐTM.
Về thẩm định: cơ cấu Hội đồng thẩm định tại các tỉnh, thành phố thường bao gồm lãnh đạo các
sở, ngành và địa phương (quận, huyện) nên hạn chế về chuyên môn môi trường, nhất là về