SlideShare a Scribd company logo
1 of 60
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo
Khoá Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Các hoạt động kinh tế luôn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Khi những hoạt động này diễn ra sẽ không thể tránh khỏi những
mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân. Cùng với sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số lượng các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng
tăng với mức độ ngày càng phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là
điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh
doanh.
Để thực hiện chức năng kinh tế của mình, nhà nước ta đã ban hành Hệ thống quy
phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Nhà nước thông qua các cơ quan
chức năng hoặc các tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết các tranh chấp, mâu
thuẫn.
Hiện nay, có thể nói, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp quan trọng và phổ
biến nhất ở Việt Nam. Trong hệ thống Tòa án nhân dân thì giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại thuộc chức năng của Tòa kinh tế, là một Toà chuyên trách thành lập
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội
thông qua ngày 28/12/1993 và có hiệu lực ngày 01/07/1994.
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được thực hiện đúng đắn,
kịp thời; góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như đảm
bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia. Đây là mối quan tâm của
nhiều người trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay. Chính từ thực tiễn
này, trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi lựa chọn vấn đề
“Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Các hoạt động kinh doanh, thương mại trong thời kỳ hội nhập quá phong phú, đa
dạng làm cho số lượng tranh chấp phát sinh trong hoạt động này ngày càng nhiều và ngày
càng phức tạp. Nếu trước đây, các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường là tranh
chấp về mua bán hàng hóa và một phần về cung ứng dịch vụ; thì hiện nay, nhiều loại
tranh chấp mới đã phát sinh như tranh chấp về mua bán licence, nhượng quyền thương
mại, …Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với mục tiêu lợi nhuận
được đặt lên hàng đầu, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thu hút rất nhiều
các chủ thể; và cũng chính trong mối quan hệ kinh tế này luôn tìm ẩn các nguy cơ phát
sinh tranh chấp nhằm tranh giành lợi ích giữa các bên tham gia. Do đó, hiện nay các vấn
đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh, thương mại được rất nhiều người quan tâm, bao
gồm cả các phương thức giải quyết tranh chấp khi nó phát sinh.
Trước tình hình chung đó, sự phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Nam trong những
năm trở lại đây đã kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các mô hình doanh nghiệp với quy
mô khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh lực kinh tế. Và điều này cũng làm cho các
tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn Tỉnh gia tăng trong những năm vừa qua
về cả số lượng và mức độ phức tạp. Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại phát sinh là yêu cầu cấp thiết đối với tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả
nước nói chung.
Ở nước ta hiện nay, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại phổ biến nhất và việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại được quy
định trong khá nhiều văn bản pháp lý. Theo điều 29, BLTTDS thì các tranh chấp kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, liên quan đến
nhiều lĩnh vực kinh tế; và văn bản pháp lý giải quyết các tranh chấp trên có thể là Bộ luật
dân sự hay Luật chuyên ngành như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doạnh nghiệp,...
3. Phạm vi nghiên cứu
Tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại là vấn đề rộng lớn, có thể nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Trong
phạm vi của chuyên đề tốt nghiệp, tôi chỉ giới hạn nghiên cứu về thực trạng giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
4. Mục đích nghiên cứu
Thông qua chuyên đề, tôi muốn mô tả một “bức tranh” cụ thể về thực trạng cũng
như việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Và với tình hình thực tiễn cùng với
những kinh nghiệm, hiểu biết có được trong quá trình thực tập, tôi xin đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
5. Bố cục của chuyên đề
Chuyên đề trình bày các nội dung chính sau: ngoài phần mở đầu, kết luận và tài
liệu tham khảo, nội dung được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Pháp luật về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án
Chương II: Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam
Chương III: Giải pháp và kiến nghị
CHƯƠNG I
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TẠI TÒA ÁN
1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ quen thuộc
trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng
rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường bước của khái
niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc trong cơ chế kinh doanh kế hoạch
hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật thương mại
ngày 10/5/1997; theo văn bản này thì tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do do
việc không thực hiện hoặc thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt
động thương mại. Nhưng thực tế, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ
chế thị trường và sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, thì thuật ngữ tranh chấp
kinh doanh, thương mại không chỉ bó hẹp là những tranh chấp như Luật thương mại 1997
đã xác định mà nó còn bao hàm nhiều loại tranh chấp khác phát sinh trong hoạt động
kinh doanh, thương mại diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cùng với thời kỳ hội
nhập như hiện nay.
Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở
hữu khác nhau, đã tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy nền sản
xuất hàng hóa nước ta phát triển. Tìm kiếm lợi nhuận trong kinh doanh không những là
động lực phát triển mà còn là lý do tồn tại của hầu hết các chủ thể tham gia. Nhưng cũng
chính sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh, đầu tư cùng với quy luật cạnh tranh mà các
quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp hơn; những mâu thuẫn phát sinh ngày càng
nhiều, cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn. Biểu hiện cụ thể đó là các tranh chấp
kinh doanh, thương mại mà các bên không thể tự thỏa thuận được với nhau. Do đó, việc
có một tổ chức giúp các bên giải quyết các mâu thuẫn phát sinh là điều quan trọng và cần
thiết, để đảm bảo tâm lý và sự công bằng cho các chủ thể khi tham gia kinh doanh.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn hay
xung đột về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, tranh chấp kinh
doanh, thương mại có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Dù
tồn tại dưới hình thức nào và bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì đặc
trưng chung của tranh chấp kinh doanh, thương mại là luôn gắn với hoạt động kinh doanh
và chủ thể tham gia chủ yếu là các cá nhân, đơn vị kinh doanh. Về bản chất, mỗi tranh
chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia
vào quan hệ kinh tế đó.
Khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004 quy định rõ rằng những tranh chấp về kinh doanh
thương mại là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Những tranh chấp đó bao gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối;
đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển
hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và
giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; các tranh chấp khác
về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Trong nền kinh tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp được thành lập với hình thức khác
nhau, trong những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau thì việc liên kết, hợp tác thậm chí
cạnh tranh với nhau cũng là điều dễ hiểu. Xung đột về quyền và lợi ích giữa các chủ thể
khi tham gia kinh doanh là không thể tránh khỏi. Một số loại hình tranh chấp phổ biến
hiện nay có thể kể đến là tranh chấp về hợp đồng kinh doanh, thương mại; tranh chấp
giữa công ty với thành viên công ty hay giữa các thành viên công ty với nhau liên quan
đến thiết lập, giải thể công ty … Trong điều kiện kinh tế thị trường với sự đa dạng về đối
tượng làm phát sinh nhiều tranh chấp mới như tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, mua
bán cổ phiếu, … Một khi các tranh chấp xảy ra, có nghĩa là lợi ích kinh tế của một bên
chủ thể kinh doanh đã bị vi phạm. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của chính chủ thể đó mà còn gián tiếp tác động tiêu cực đến sự phát triển lành
mạnh của nền kinh tế. Đối với một số tranh chấp xảy ra trong nội bộ đơn vị, chẳng hạn
tranh chấp về quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp, nếu không được giải quyết kịp
thời sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung của đơn vị đó. Trong một số trường hợp, các bên
hoặc một số bên tranh chấp không quan tâm quan tâm đến lợi ích và sự phát triển của
doanh nghiệp, mà vì lợi ích của mình một cách thái quá dẫn đến đình trệ sản xuất. Các
bên đều cố ý can thiệp, ngăn cản hoạt động bình thường của doanh nghiệp dưới các hình
thức khác nhau, gây thiệt hại thêm cho chính họ và các bên liên quan. Tranh chấp kinh
doanh, thương mại phát sinh là điều tất yếu, vấn đề là phải có biện pháp giải quyết hợp lý
những tranh chấp đó để giúp cho các chủ thể kinh doanh có được sự tin tưởng trong cơ
chế điều hành, quản lý kinh tế của Nhà nước. Chính vì thế, việc đổi mới và hoàn thiện hệ
thống giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phù hợp với cơ chế thị trường không
chỉ là đòi hỏi bức thiết của xã hội mà còn là yêu cầu để đảm bảo thực hiện chức năng
kinh tế của Nhà nước ta.
2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
2.1. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà
án
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là một hệ quả tất yếu của quá trình vận động
các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động kinh doanh, thương mại. Khi tranh
chấp xảy ra, các bên cần có cơ chế giải quyết tranh chấp để mở đường cho sự hợp tác và
phát triển. Tòa án là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp như thế.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là
cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột,
nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác, bảo vệ trật tự kỷ cương
của xã hội.
Mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều
57, Hiến pháp 1992). Đó là quyền tự do trong lựa chọn hình thức tổ chức kinh tế, lựa
chọn ngành nghề, quy mô và cả lựa chọn phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tùy vào điều kiện kinh doanh cũng như mong
muốn khác nhau của các chủ thể, họ sẽ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù
hợp nhất với mình. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì các hình thức giải quyết
tranh chấp trong thương mại gồm: thương lượng, hòa giải, giải quyết tại Trọng tài hoặc
Tòa án (Điều 317, Luật Thương mại 2005).
Ở Việt Nam hiện nay, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết
bằng con đường Tòa án chiếm tỷ lệ lớn. Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng phương thức
trọng tài đã có từ khá lâu, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều cá nhân và doanh nghiệp
chưa quan tâm đến cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng như sự hiện diện của
Trung tâm trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại không phải là điều quá mới mẻ
nhưng vẫn còn mờ nhạt và khá xa lạ trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở môi trường kinh
doanh của nước ta.
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền
lực của Nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án
hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Ở Việt Nam, tranh chấp kinh
doanh, thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa kinh tế - Tòa chuyên trách
trong hệ thống Tòa án nhân dân.
2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
Tòa án là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi
quyền lực này lại ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà
nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả
hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân cần phải tuân thủ
theo các nguyên tắc, thủ tục do luật pháp quy định để đảm bảo hiệu quả xét xử, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đảm bảo vai trò quan trọng trong hoạt
động quản lý xã hội.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật của nhà nước ta, tòa kinh tế ra
đời thực hiện chức năng xét xử các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Cũng như Tòa án nhân dân nói chung, Tòa kinh tế cũng áp dụng và tuân theo các nguyên
tắc đã được pháp luật quy định trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại. Với mục đích giải quyết các tranh chấp nhanh chóng, có hiệu quả và hợp
pháp, tạo điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia; hoạt động của Tòa
kinh tế cần dựa trên các nguyên tắc, thủ tục tố tụng trong giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Tất cả các hoạt động trong quá trình tố tụng như khởi kiện, xét xử, ra
quyết định hay bản án, …phải được thực hiện theo đúng các nguyên tắc đã được quy
định. Nếu có sự vi phạm các nguyên tắc này trong quá trình thực hiện giải quyết các
tranh chấp thì đều bị coi là bất hợp pháp và phải loại bỏ.
Là một bộ phận của Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế phải tuân thủ theo các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tòa án nói chung được quy định trong Hiến pháp
năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Bên cạnh đó, với tư cách là một
Tòa chuyên trách độc lập trong hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế cũng phải tuân thủ
những nguyên tắc riêng khi tiến hành giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của
mình. Một số các nguyên tắc chung được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 và
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 như: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, xét xử tập thể
và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho đương sự được dùng tiếng nói và chữ viết
của dân tộc mình trước tòa; … Trên cơ sở các nguyên tắc chung này, thủ tục giải quyết
các vụ án kinh doanh, thương mại được xây dựng với những đặc thù riêng của mình.
Các nguyên tắc riêng mà Tòa kinh tế phải tuân thủ trong hoạt động giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại đó là: nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của
các đương sự; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc Tòa án không tiến hành
điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ; nguyên tắc hòa giải; nguyên tắc giải quyết
vụ án nhanh chóng kịp thời; nguyên tắc xét xử công khai.
2.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
Trong pháp luật tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự biểu hiện ở khả năng
khi tham gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Nguyên tắc này được ghi nhận
tại Điều 5, BLTTDS 2004. Theo đó, các đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện,
yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, yêu cầu
giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu đó; trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay
đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật
và đạo đức xã hội. Quyền định đoạt của đương sự được thể hiện qua nội dung của một số
quyền khác như: quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút các yêu cầu; quyền hòa giải, thương
lượng; quyền đưa ra chứng cứ và chứng minh; quyền kháng cáo.
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản nhất
trong tố tụng vụ án kinh doanh thương mại. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc đảm
bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền tự do kinh doanh không có nghĩa là
các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh có thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm
kiếm lợi nhuận của mình; mà khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên
đều phải tuân theo những quy tắc nhất định của pháp luật. Và khi có tranh chấp xảy ra,
trình tự cũng như thủ tục giải quyết phải tuân theo pháp luật. Với nguyên tắc tôn trọng
quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình tố tụng, pháp luật đã tạo điều kiện
thuận lợi trong việc lựa chọn cách giải quyết tranh chấp cho các bên, tạo ra sự chủ động
của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ kinh doanh với các đối tác của mình,
không ai mong muốn tranh chấp xảy ra, gây thiệt hại cho lợi ích kinh tế của các bên.
Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, khi xảy ra tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp
một cách thấu tình đạt lý nhưng vẫn đảm bảo uy tín kinh doanh, không làm ảnh hưởng
đến quan hệ “bạn hàng” là điều mà các bên đều mong muốn. Chính vì vậy, trong nguyên
tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, quyền khởi kiện có thể coi là quan trọng
nhất. Bởi lẽ, theo quy định thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết các tranh chấp này nếu có đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu của các đương sự; nếu đương sự không khởi kiện ra tòa thì tòa án
không có thẩm quyền giải quyết. Có thể thấy rằng, việc tranh chấp có được đưa ra tòa án
giải quyết hau không là sự lựa chọn của các chủ thể. Trên thực tế, khi phát sinh các tranh
chấp trong hoạt động kinh doanh, thì các bên sẽ cố gắng tự giải quyết vì như vậy sẽ tiết
kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí, đặc biệt là không ảnh hưởng đến quan hệ làm
ăn cũng như uy tín của họ được bảo đảm; việc nhờ đến cơ quan luật pháp là sự lựa chọn
cuối cùng nếu các bên không thống nhất được với nhau.
2.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ
bản của luật pháp nước ta. Điều 52, Hiến pháp 1992 có ghi rõ mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật; còn quy định cụ thể đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc
mọi thành phần kinh tế thì được ghi nhận tại Điều 22, Hiến pháp 1992.
Các chủ thể khi tham gia quan hệ sản xuất kinh doanh đều được pháp luật thừa
nhận quyền bình đẳng. Bình đẳng trong kinh doanh nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức khi
tham gia vào các quan hệ kinh tế, từ việc lựa chọn ngành nghề, địa điểm kinh doanh, lựa
chọn hình thức kinh doanh cho đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình sản
xuất kinh doanh đều bình đẳng theo quy định của pháp luật. Quyền bình đẳng không chỉ
thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ kinh doanh mà còn thể hiện khi họ tham gia
vào quan hệ tố tụng tại Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho các đương sự
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng (Điều 8, BLTTDS
2004).
Có thể nói nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng vì nó
không chỉ thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Khi có tranh chấp xảy ra thì trước tòa án sẽ không phân biệt các
bên thuộc loại hình doanh nghiệp nào, thuộc thành phần kinh tế gì; các bên đều có quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Với nguyên tắc này, các tổ chức, các
nhân sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn trong đầu tư, sản xuất kinh doanh; từ đó khuyến khích,
tạo động lực thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; góp
phần không nhỏ tạo sự tăng trưởng kinh tế - xã hội.
2.2.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập
chứng cứ
Chứng minh và chứng cứ là yếu tố cốt lõi của pháp luật tố tụng; mọi hoạt động tố
tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng việc thu thập và đánh
giá chứng cứ. Về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật
được cơ thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho
việc giải quyết đúng đắn các vụ án, tranh chấp.
Nếu trong Tố tụng hình sự, khi có tội phạm xảy ra, việc thu thập chứng cứ thuộc
thẩm quyền của cơ quan điều tra hoặc các cơ quan, đơn vị khác có liên quan theo quy
định của pháp luật; thì trong Tố tụng dân sự nói chung và trong Tố tụng án kinh doanh
thương mại nói riêng thì khi cần khởi kiện ra Tòa để giải quyết tranh chấp, các đương sự
phải tự mình thu thập và cung cấp chứng cứ, chuyển gia chứng cứ, tài liệu cho Tòa kinh
tế.
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng mình
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 6, BLTTDS). Ngoài ra, các cá
nhân, tổ chức khởi kiện, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác thì
cũng có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh như đương sự. Quyền và
nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ của đương sự được pháp luật quy định cụ thể
và rõ ràng trong Bộ luật dân sự 2004 (Điều 58, 79, 80, 81). Trong trường hợp đương sự
không cung cấp được chứng cứ hoặc không đưa ra đầy đủ chứng cứ thì đương sự phải
chịu hậu quả về việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ. Cụ thể,
khi giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại, Tòa án chủ yếu chỉ căn cứ vào những
chứng cứ mà đương sự đưa ra; Tòa sẽ nghe các bên trình bày và xác minh chứng cứ; các
bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là đúng và cần thiết. Nếu các
chứng cứ cung cấp chưa đầy đủ hoặc chưa chính xác, thì Tòa án sẽ yêu cầu đương sự thu
thập thêm chứng cứ hoặc xác minh sự chính xác đó. Tòa án không nhất thiết phải thu
thập thêm chứng cứ mà chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi thấy cần thiết để là
rõ thên yêu cầu của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Như vậy,
để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy ra tranh chấp, các đương sự cần
tự mình thu thập đầy đủ các chứng cứ để xác nhận và chứng minh cho yêu cầu của mình,
phản đối yêu cầu của người khác là có căn cứ hợp pháp.
Việc chứng minh và cung cấp đầy đủ chứng cứ của các đương sự góp phần giúp
cho hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án được nhanh chóng và chính xác. Tuy
nhiên, trong các vụ án kinh doanh, thương mại thì các đương sự là những người tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì thế thời gian, có thể nói là một “vấn đề” của
họ. Do đó, khi “vướng” vào một vụ tranh chấp, liệu các đương sự có thời gian thu thập
đầy đủ các bằng chứng hay không là một điều cần quan tâm. Việc giải quyết án một cách
nhanh chóng và đúng đắn là cấp thiết không chỉ đối với các đương sự mà còn đối với các
cơ quan chức năng có liên quan. Nhận thấy rằng việc thu thập chứng cứ có thể mất nhiều
thời gian, chi phí của các đương sự; đó là chưa kể đến việc có những chứng cứ mà đương
sự không thể tự mình thu thập được, hoặc áp dụng mọi biện pháp để thu thập chứng cứ
nhưng không có kết quả. Trong những trường hợp như vậy, đương sự phải làm đơn yêu
cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, trong đơn phải ghi rõ vấn đề cần chứng minh,
chứng cứ cần thu thập, lý do không thu thập được chứng cứ, tên cơ quan, tổ chức lưu giữ
chứng cứ đó.
Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ tranh chấp,
đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đương sự trong hoạt động tố tụng dân
sự, cụ thể là trong tố tụng án kinh doanh, thương mại. Đây là một nguyên tắc đặc thù của
tố tụng kinh doanh, thương mại, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia trong việc bảo
vệ lợi ích của chính mình trước các xâm hại.
2.2.4. Nguyên tắc hòa giải
Trong hoạt động thương mại ngày nay, vấn đề xảy ra tranh chấp là điều không
mong muốn của cả cá nhân, tổ chức tham gia kinh doanh và của cả xã hội. Việc kiện
nhau ra tòa do không giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột một cách ổn thỏa sẽ không
đem lại sự thuận lợi cho quá trình hoạt động, kinh doanh của các bên, ảnh hưởng đến sự
phát triển lành mạnh của nền kinh tế - xã hội. Tranh chấp gây ra sự căng thẳng, mất đoàn
kết, làm giảm uy tín của các chủ thể trong môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, nguyên
tắc hòa giải theo quy định của pháp luật nước ta là một nguyên tắc quan trọng của pháp
luật tố tụng, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự và trách nhiệm của Tòa án
trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân; giúp các bên giải quyết mâu thuẫn một cách ổn
thỏa; góp phần hạn chế thiệt hại không đáng có do hậu quả của các tranh chấp gây ra.
Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự trong việc giải quyết vụ án. Việc các
đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng luôn được Nhà
nước khuyến khích; bởi vì, khi các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án
không chỉ có nội dung tranh chấp mà mâu thuẫn của các đương sự cũng được giải quyết
triệt để, nhanh chóng, tiết kiệm nhất và thường Nhà nước không phải sử dụng sức mạnh
cưỡng chế để thi hành thỏa thuận đó. Hòa giải là quyền tố tụng của đương sự và chỉ có
đương sự mới có quyền hòa giải vì đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung
nên có quyền tự mình quyết định những vấn đề của vụ tranh chấp.
Do đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại là phản ánh về vấn đề lợi ích
kinh tế của chủ thể kinh doanh nên hòa giải là biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi
các bên tranh chấp phải nhờ tới cơ quan có thẩm quyền tài phán. Đây là nguyên tắc được
xây dựng trước tiên do yêu cầu của chính đơn vị kinh doanh.
Theo nguyên tắc này, khi có tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra, trước hết
các bên tự tiến hành hòa giải với nhau. Khi không tự hòa giải được, các bên mới yêu cầu
cơ quan tòa án can thiệp. Nhưng khi đã yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp, các đương sự
vẫn có thể tiến hành hòa giải dưới sự hướng dẫn, công nhận của Tòa án. Chỉ khi hòa giải
không thành, Tòa án mới đưa vụ việc ra xét xử. Hơn nữa, tại phiên tòa, thẩm phán cũng
tạo điều kiện để cho các bên tranh chấp hòa giải được với nhau ( Điều 10, BLTTDS). Khi
hòa giải, Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù
hợp với ý chí của mình. Ngoài ra, trong BLTTDS 2004 cũng quy định những vụ án dân
sự không được hòa giải và những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được (Điều 181,
182 BLTTDS).
2.2.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những phải
đảm bảo đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây dưa, kéo dài.
Hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình diễn ra liên tục với mục đích sinh lời
của người tham gia kinh doanh. Đối với các chủ thể kinh doanh, dường như yếu tố thời
gian có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công việc của họ; sự linh hoạt và năng động
của môi trường kinh doanh không cho phép họ lãng phí thời gian. Nhưng khi những tranh
chấp ngoài ý muốn phát sinh thì việc bỏ thời gian để giải quyết chúng để bảo vệ lợi ích
của mình là điều đương nhiên. Do đó, việc giải quyết các vụ án một cách đúng đắn,
nhanh chóng, kịp thời là mối quan tâm của hầu hết những người tham gia kinh doanh,
đặc biệt là các đương sự trong các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời được thể hiện trong một số quy
định của pháp luật. Chẳng hạn, trong tố tụng kinh doanh, thương mại quy định thời gian
tố tụng ngắn hơn so với các tố tụng dân sự khác; các quy định rút ngắn thời hiệu, thời
hạn; trong quá trình giải quyết vụ án, tòa không cần thực hiện việc chứng minh và thu
thập chứng cứ; hạn chế việc giao vụ án cho tòa cấp dưới xét xử lại; hạn chế thấp nhất
việc quay vòng vụ án để xét xử lại nhiều lần …Việc quy định như vậy nhằm rút ngắn thời
gian cho việc giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ thể, phù
hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh.
2.2.6. Nguyên tắc xét xử công khai
Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của hoạt động xét xử.
Điều 131, Hiến pháp 1992 có ghi rõ “ Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp
do luật định”. Công khai là thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ. Trong xã hội dân
chủ, công khai được coi là tư tưởng xuyên suốt quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, không phải vụ án nào đưa xét xử công khai cũng đểu đem lại những tác
động tích cực, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đó, Điều 15,
BLTTDS quy định “Trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ
tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân
theo yêu cầu chính đáng của đương sự”. Trong kinh doanh, thương mại, bí mật kinh
doanh có thể là những phát minh, sáng chế,… có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh của các chủ thể. Những bí mật kinh doanh của doanh nghiệp là những
điều không thể tiết lộ, không thể chia sẻ cho tất cả các doanh nghiệp khác biết; nếu không
sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp, thậm chí
là doanh nghiệp bị phá sản. Do đó, các cá nhân, tổ chức có thể yêu cầu Tòa án xét xử kín
để cho các bí mật kinh doanh được đảm bảo.
Ngoài ra, nguyên tắc này tạo điều kiện cho nhân dân có thể giám sát hoạt động của
Tòa án, cơ quan điều tra; điều này sẽ làm cho các chủ thể tham gia tố tụng nâng cao hơn
nữa vai trò và trách nhiệm của mình; đồng thời nó mang ý nghĩa giáo dục mọi công dân
trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
2.3. Chức năng và nhiệm vụ của Tòa Kinh tế
Tòa kinh tế là một tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân, được thành lập theo lập
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân ngày
28/12/1993. Tòa kinh tế được tổ chức ở hai cấp. Ở trung ương, Tòa kinh tế được thành
lập trong Tòa án nhân dân tối cao; ở địa phương, Tòa kinh tế chỉ được tổ chức ở cấp tỉnh.
2.3.1. Chức năng của Tòa Kinh tế
Tòa kinh tế thuộc cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án nhân dân ra đời đáp ứng yêu
cầu xây dựng thiết chế tài phán kinh tế trong nền kinh tế thị trường và yêu cầu giải quyết
nhiều loại tranh chấp khác nhau. Tòa kinh tế nói riêng và Tòa án nhân dân nói chung đều
là cơ quan xét xử của nhà nước, nằm trong hệ thống cấu trúc, hoạt động từ nguồn kinh
phí được cung cấp từ ngân sách nhà nước. Tòa kinh tế nhân danh nhà nước giải quyết các
vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
tham gia kinh doanh. Theo quy định của pháp luật thì Tòa kinh tế có hai chức năng cơ
bản là chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại và chức năng tuyên bố phá
sản doanh nghiệp.
 Chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại
Đây là chức năng cơ bản của tòa án nói chung được quy định tại Điều 127, Hiến
pháp năm 1992 “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án
quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo đó, pháp luật nước ta khẳng định, Tòa án nhân dân là cơ
quan duy nhất có chức năng xét xử nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quy định về chức năng của Tòa án được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân
dân được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 4 năm 2002. Theo đó, Tòa kinh tế được gắn
với chức năng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Theo BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2005, Tòa kinh tế
không chỉ giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế mà còn giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty, tranh chấp liên quan đến cổ phiếu,
trái phiếu, tranh chấp trong hoạt động đầu tư... Phạm vi giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại mở rộng hơn nhiều so với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế.
Tòa kinh tế dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp. Các quy
định được áp dụng tuân thủ cả về mặt nội dung và mặt tố tụng để đảm bảo tính hợp pháp
và hợp lý cho quá trình xét xử. Kết thúc việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại sau các phiên tòa xét xử, Tòa kinh tế sẽ ra bản án hoặc quyết định để giải quyết tranh
chấp đó. Bản án hay quyết định của Tòa kinh tế có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các
bên chủ thể có liên quan.
 Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả
của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản không chỉ
là xung đột lợi ích giữa doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán với các chủ nợ
của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích tập thể của người lao động làm việc cho
doanh nghiệp, hợp tác xã, đến lợi ích chung của xã hội. Phá sản là hiện tượng bình
thường và cần thiết của kinh tế thị trường, để giải quyết hiện tượng này, cần có sự can
thiệp của nhà nước để hạn chế tác động tiêu cực của nó đến môi trường hoạt động kinh
doanh lành mạnh.
Ngoài chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại thì Tòa kinh tế còn có
chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chức năng này được được thừa nhận với sự ra
đời của Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm
1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1994. Hiện nay, để thực hiện chức năng
này, Tòa kinh tế dựa vào các quy định của Luật phá sản 2004 là chủ yếu và một số quy
định khác liên quan của pháp luật.
2.3.2. Nhiệm vụ của Tòa Kinh tế
Điều 1, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 4
năm 2002 có quy định cụ thể về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa kinh tế
nói riêng. Theo đó, “ trong phạm vi chức năng của mình, tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo về tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân”.
Ngoài ra, Tòa án nói chung có nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục, củng cố
việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của xã hội; nâng cao
ý thức đấu tranh chống các vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp cũng như các chủ thể
tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại.
2.4. Thẩm quyền của Tòa kinh tế trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại
Việc xác định đúng thẩm quyền của cơ quan giải quyết là điều cần thiết trong hoạt
động tố tụng nói chung và tố tụng kinh doanh, thương mại nói riêng. Khi có tranh chấp
phát sinh, cần xác định rõ cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp
luật để đảm bảo việc giải quyết được đúng đắn, chính xác và hợp pháp. Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa kinh tế là quyền hạn và nghĩa vụ của
Tòa kinh tế trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Việc xác
định thẩm quyền giải quyết tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị
hồ sơ và giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại, cũng như thi hành quyết định,
bản án của Tòa kinh tế. Tòa cần phải cẩn trọng xem xét cáo trạng, yêu cầu khởi kiện hoặc
nội dung kháng cáo, kháng nghị, cân nhắc thật kỹ các yêu cầu mới phát sinh trong quá
trình giải quyết các tranh chấp. Pháp luật đã quy định khá rõ phạm vi, giới hạn xét xử của
Tòa; vì vậy khi tham gia giải quyết các tranh chấp, Tòa cần phải thực hiện đầy đủ và
đúng thẩm quyền của mình, tránh trường hợp Tòa trốn tránh nhiệm vụ hay Tòa xử “quá
dài tay” dẫn đến hậu quả phải hủy bản án; gây tốn kém, lãng phí thời gian, công sức, tiền
bạc của cả cơ quan chức năng lân người tham gia tố tụng. Đối với các vụ án mà sau khi
thụ lý thì Tòa phát hiện không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa phải chuyển vụ việc
đó cho tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý (Điều 37, BLTTDS 2004). Theo quy định
tại BLTTDS 2004 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa
kinh tế được thể hiện với các nội dung: thẩm quyền theo vụ việc; thẩm quyền theo cấp
xét xử; thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
2.4.1. Thẩm quyền theo vụ việc
Thẩm quyền theo vụ việc là việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại thuộc cơ quan nào: cơ quan quản lý cấp trên, tòa dân sự hay tòa kinh
tế.
Theo quy định của bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 1/1/2005 thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bao gồm những tranh chấp về kinh doanh,
thương mại và những yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
 Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án (Điều 29, BLTTDS 2004)
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê,
thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt,
đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng
không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính,
ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định
 Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án (Điều 30, BLTTDS 2004)
- Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các
vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài.
- Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định
2.4.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử
 Tòa án nhân dân cấp huyện
Đối với những tranh chấp kinh doanh, thương mại; Tòa kinh tế có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp sau: Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện,
đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng
hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa.
Nếu những tranh chấp trên có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy
thác cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Đối với những yêu cầu về kinh doanh, thương mại; Tòa án nhân dân cấp huyện
cũng không có thẩm quyền giải quyết
 Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm tất cả những tranh
chấp kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS 2004, trừ
những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy lên để
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Trường hợp cần thiết là những trường hợp:
- Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
- Vụ án có nhiều đương sựở trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và xa nhau.
- Tòa án cấp huyện chưa có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại, hoặc tuy có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại, nhưng thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi Thẩm phán
mà không có Thẩm phán khác để thay thế.
Cũng theo sự phân cấp, tòa án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh doanh,
thương mại mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp
huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quyđịnh của pháp luật tố tụng.
Đối với những bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng
nghị thìỦy ban Thẩm phán của tòa án cấp tỉnh xem xét và giải quyết theo trình tự giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm.
 Tòa án nhân dân tối cao
- Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tiến hành phúc thẩm những vụ án
mà bản án, quyết định sơ thẩm của tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng
cáo, kháng nghị.
- Tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những
vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quyđịnh của pháp
luật tố tụng.
- Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao xem xét theo trình tự giám đốc
thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án
cấp dưới
2.4.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án theo lãnh
thổ được xác định là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị
đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại điều 29, BLTTDS.
Tuy nhiên, Luật cũng cho phép các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau
bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ
quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều
29 của BLTTDS.
Trong trường hợp tranh chấp chỉ liên quan đến bất động sản, thì Tòa án nơi có bất
động sản giải quyết.
Đối với giải quyết việc kinh doanh, thương mại của Tòa án theo lãnh thổ được xác
định như sau:
- Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định kinh doanh, thương mại
của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là các cá nhân hoặc
nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc
nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài có
thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài.
- Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân
hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa
án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Tòa án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tàu nước ngoài cư trú,
làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu
người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành
quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc
yêu cầu Trọng tài thương mại Việc Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo
quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại.
2.4.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp trong các
trường hợp sau đây:
- Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn, thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn giải
quyết tranh chấp.
- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp, thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó
giải quyết tranh chấp.
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Tòa án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết tranh chấp.
- Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau, thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Tòa án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết tranh
chấp.
- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản ở nhiều địa phương khác
nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
- Như vậy theo quy định tại Điều 36 của BLTTDS thì trong một số trường
hợp nhất định, có nhiều Tòa án có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp kinh doanh,
thương mại cụ thể và nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong các Tòa án đó. Để tránh
việc có tranh chấp về thẩm quyền thì Tòa án nào thuộc một trong các Tòa có thẩm quyền
mà nhận được đơn khởi kiện trước tiên của nguyên đơn, đã dự tính tiền tạm ứng án phí,
có thẩm quyền thụ lý vụ án theo đúng quy định.
Sau khi thụ lý tranh chấp kinh doanh, thương mại, nếu phát hiện việc giải quyết
tranh chấp không thuộc thẩm quyền của mình, thì Tòa án đã thụ lý phải ra quyết định
chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết, trong đó cần nêu rõ lý do
chuyển hồi sơ vụ án, đồng thời phải thông báo ngay cho nguyên đơn biết.
Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền thì những Tòa án có tranh chấp đó
phải báo cáo ngay lên Tòa án cấp trên trực tiếp để Tòa án đó quyết định việc giao cho
Tòa án nào giải quyết tranh chấp, cụ thể như sau:
- Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng
một tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
- Tranh chấp về thẩm quyền giải giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp
tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết.
2.5. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
kinh tế
BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Đây là các bước trong hoạt động tố
tụng của Tòa án đối với việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
2.5.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại
 Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại
Theo tinh thần của Hiến pháp 1992, Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Khi các quyền và lợi ích bị xâm hại, các công dân đều có quyền yêu cầu
nhà nước bảo vệ. Một trong những phương thức yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền đó là
quyền khởi kiện. Khởi kiện là thủ tục đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại.
Theo Điều 161, BLTTDS, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc trưng của phương thức khởi kiện này là
trao cho đương sự quyền tự do hành động, xuất phát từ quyền tự định đoạt của các chủ
thể khởi kiện làm cơ sở tố tụng. Với hành vi khởi kiện kịp thời, các cơ quan tố tụng sẽ có
hành động can thiệp giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; các thiệt hại
trong tranh chấp sẽ sớm được ngăn chặn và khắc phục; tạo các mối quan hệ tốt đẹp, cởi
mở giữa các bên trong môi trường hoạt động kinh doanh.
Ngoài việc các cá nhân, tổ chức có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình; pháp luật còn cho phép một số tổ chức có quyền khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích công cộng và lợi ích nhà
nước.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi
lĩnh vực đều có văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Ví dụ, hợp đồng xây dựng
chịu sự điều chỉnh của Luật xây dựng, hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật
kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực hàng hải chịu sự điều chỉnh của Bộ luật
hàng hải, hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tài chính, ngân hàng…
Thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực này, cũng có
thể được văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh, nếu không được văn bản luật
chuyên ngành điều chỉnh thì sẽ áp dụng quy định của Luật thương mại 2005 về thời hiệu
khởi kiện, theo đó, thời hiệu khởi kiện các tranh chấp trong hoạt động thương mại là hai
năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp được quy định
tại điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại.
Để đảm bảo tính pháp lý về nội dung của đơn khởi kiện và cung cấp đầy đủ các
thông tin ban đầu về các yêu cầu khởi kiện, thì đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung
chính sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
- Tên Toà án nhận đơn khởi kiện;
- Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
- Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
- Tên, địa chỉ của người bị kiện;
- Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;
- Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
- Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và
hợp pháp;
- Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải
quyết vụ án;
- Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức
khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần
cuối đơn.
Việc khởi kiện được thể hiện bằng đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại Tòa án
hoặc gởi qua đường bưu điện. Cùng với đơn khởi kiện thì người khởi kiện phải gửi kèm
theo các tài liệu, chứng cứ để chứng minh những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Yêu cầu này xuất phát từ nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác
minh thu thập chứng cứ của pháp luật tố tụng.
 Thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại
Thụ lý vụ án là việc Tòa án chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ
lý của Tòa án. Thụ lý vụ án là công việc đầu tiên của Tòa án trong quá trình tố tụng. Đây
là khâu có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt ra trách nhiệm của Tòa án phải giải quyết các
tranh chấp trong thời hạn luật định. Cũng giống như khởi kiện, nếu không có việc thụ lý
của Tòa án thì không có các bước tiếp theo của hoạt động tố tụng. Khác với các vụ án
hình sự, việc thụ lý vụ án được thực hiện sau khi có quyết định khởi tố vụ án, quyết định
khởi tố bị can; trong vụ án kinh doanh, thương mại thì việc thụ lý vụ án được thực hiện
khi có đơn kiện của đương sự, yêu cầu của cơ quan tổ chức.
Khi nhận được đơn khởi kiện, tòa án nghiên cứu kỹ đơn kiện, xem xét tư cách
pháp lý của người gửi đơn kiện, xác định thẩm quyền của Tòa án mình với việc giải
quyết vụ án, để quyết định thụ lý hay trả lại đơn kiện. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình thì Tòa án phải thông báo ngay cho người khởi kiện đến làm thủ tục nộp
tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của
Tòa án về việc nộp tiền, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu người khởi
kiện được miễn, hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì Tòa án phải thụ lý ngay vụ
án khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo.
2.5.2. Chuẩn bị xét xử
Chuẩn bị xét xử là bước tiếp theo trong trình tự giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án. Đối với các vụ án tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thì thời hạn chuẩn bị xét xử là hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối
với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án
có thể quyết định gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử nhưng không quá một tháng. Nếu
trong trường hợp trên mà phiên tòa không được mở trong thời hạn một tháng kể từ ngày
có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng thì thời hạn chuẩn bị xét xử
được cộng thêm tối đa là một tháng nữa.
Những vụ án có tính chất phức tạp là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan
đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau nên cần
có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham
khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ thuật phức tạp;
những vụ án mà đương sự là người nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học
tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài cần phải có thời gian ủy thác cho cơ
quan lãnh sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài,….Tuy
nhiên, đối với trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ
kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả ủy thác tư pháp mà đã hết
thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án.
Trong thời hạn ba ngày (không tính ngày nghỉ), kể từ ngày thụ lý, Chánh án tòa án
phải phân công một thẩm phán giải quyết vụ án. Trong quá trình giải quyết, nếu thẩm
phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được, thì Chánh án phải phân công
thẩm phán khác đảm nhiệm. Trường hợp đang xét xử mà không có thẩm phán dự khuyết
thì vụ án được xét xử lại từ đầu.
Trong thời hạn ba ngày (không tính ngày nghỉ) kể từ ngày thụ lý, Tòa án phải
thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan biết việc thụ lý vụ án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
thông báo, người được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối
với yêu cầu của người khởi kiện. Nếu muốn gia hạn, thì người được thông báo phải có
đơn gửi Tòa án, nêu rõ lý do. Việc gia hạn, nếu được chấp nhận thì cũng không quá mười
lăm ngày. Người được thông báo có quyền yêu cầu Tòa án cho xem, ghi chép, sao chụp
đơn kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn kiện.
Sau đó, Thẩm phán phụ trách cần tiến hành việc xác minh, thu thập chứng cứ, tài
liệu để chuẩn bị cho việc xét xử, lấy lời khai của những người có liên quan.
Trong công tác chuẩn bị xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại; Tòa kinh
tế phải tiến hành hòa giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
các tranh chấp. Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với
Tòa án. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án thì Tòa án tiến hành hòa giải để các
đương sự thỏa thuận với nau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa
giải hoặc không tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 181, 182, BLTTDS. Xuất phát
từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, Tòa án kiên trì hòa giải, giáo
dục, thuyết phục để các bên đương sự có thể hòa giải và thỏa thuận với nhau về những
vấn đề tranh chấp.. Việc hòa giải rất quan trọng vì nó giúp cho vụ án sớm được giải
quyết, đảm bảo sự đoàn kết, ổn định trong nội bộ chủ thể kinh doanh; tiết kiệm và hạn
chế tối đa chi phí về thời gian và tiền bạc cho các bên tranh chấp.
Qua hòa giải nếu các đương sự tự nguyện thỏa thuận được mọi vấn đề tranh chấp
cần giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành nêu rõ nội dung sự
việc tranh chấp và những vấn đề mà các bên đương sự đã thỏa thuận. Hết thời hạn bảy
ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến
thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trường hợp các
đương sự không thỏa thuận được, hoặc chỉ thỏa thuận được một phần những vấn đề có
tranh chấp thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải không thành và quyết định đưa vụ án ra
xét xử. Nội dung biên bản phải thể hiện rõ nguyện vọng của các đương sự tham gia hòa
giải; từ đó Thẩm phán có kế hoạch hòa giải tiếp tục hay đưa vụ án ra xét xử.
2.5.3. Phiên tòa sơ thẩm
Xét xử tại phiên tòa sơ thẩm là giai đoạn tố tụng quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết
định nhất; bởi vì, tại phiên tòa sơ thẩm, tòa án sẽ xem xét và giải quyết tất cả những vấn
đề của vụ án; đồng thời, các đương sự sẽ được công khai bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước tòa án. Với những chứng cứ và tài liệu mà các đương sự cung cấp
thì chưa đủ điều kiện cho Tòa dựa vào đó để giải quyết vụ tranh chấp, vì vậy tại phiên tòa
sơ thẩm, Hội đồng xét xử xác định lại chúng để đảm bảo tính chính xác. Tòa sẽ làm rõ
thêm các tình tiết của vụ tranh chấp thông qua việc lắng nghe ý kiến trình bày của các
đương sự và những người tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, bằng chứng. Chỉ
sau khi nghe ý kiến của người tham gia tố tụng và kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ
tại phiên tòa, hội đồng xét xử mới nghị án để ra các quyết định về việc giải quyết vụ án.
Thời hạn mở phiên tòa là không quá một tháng (đối với trường hợp có lý do chính
đáng là hai tháng) kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thành phần của hội đồng
xét xử gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trường hợp đặc biệt thì Hội đồng
xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân.
Xuất phát từ tính chất quan trọng đối với sự tham gia tố tụng tại phiên tòa của các
chủ thể tham gia pháp luật tố tụng dân sự, BLTTDS quy định các trường hợp Hội đồng
xét xử phải hoãn phiên tòa. Theo đó, phiên tòa sơ thẩm có thể bị hoãn do thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án, Kiểm sát viê, người giám định, người phiên
dịch hoặc do sự vắng mặt của các bên đương sự, những người tham gia tố tụng khác hoặc
các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 72, các Điều 199, 200,
201,203, 204, 205, 206, 207, 215 và khoảm 4 Điều 230 BLTTDS.
Thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm bao gồm:
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa
- Thẩm vấn tại phiên tòa
- Tranh luận tại phiên tòa
- Thủ tục nghị án
- Thủ tục tuyên án
- Hoàn chỉnh biên bản phiên tòa
- Cấp trích lập bản sao bản án hoặc quyết định của Tòa án
2.5.4. Thủ tục phúc thẩm
Từ trước đến nay hệ thống toà án của chúng ta vẫn thực hiện theo chế độ hai cấp
xét xử, đến năm 2002 điều này mới được ghi nhận trong Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Tại Điều 242 BLTTDS khẳng định xét xử phúc thẩm là việc toà án cấp trên trực tiếp xét
xử lại vụ án mà bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo hoặc kháng nghị. Việc BLTTDS quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm
nhằm khẳng định phúc thẩm là một cấp xét xử và là cấp xét xử thứ hai, được tiến hành
sau thủ tục sơ thẩm.
Phúc thẩm nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm trong các bản án, quyết định
chưa có hiệu lực của Tòa án. Mặt khác, khi tiến hành phúc thẩm, Tòa án cấp trên sẽ kiểm
tra, giám sát được chất lượng trong hoạt động xét xủa sơ thẩm của Tòa cấp dưới.
Chủ thể của quyền kháng cáo, kháng nghị
Người có quyền kháng cáo là đương sự, đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức
khởi kiện kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của Tòa án; còn Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc cấp trên có quyền kháng nghị bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm.
Đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị
Khi có nhu cầu kháng cáo, kháng nghị thì các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng
nghị phải làm đơn gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án quyết định sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị. Và gửi kèm theo là các tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng
minh cho kháng cáo, kháng nghị của mình là có căn cứ và hợp pháp; điều này có ý nghĩa
buộc người kháng cáo, kháng nghị phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình nếu họ
muốn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.
Nếu đơn kháng cáo không có đầy đủ nội dung theo quy định của BLTTDS thì Tòa
án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo. Trong trường
hợp đơn kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ
lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. Quy định này tạo điều kiện cho người có
quyền kháng cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đồng thời tạo
điều kiện cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án được chính xác.
Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm và quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm là khác nhau. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm là mười lăm ngày; thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với
bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là
ba mươi ngày; kể từ ngày tuyên án. Nếu đương sự, Viện kiểm sát có mặt tại phiên tòa thì
thời hạng kháng cáo, kháng nghị tính từ ngày tòa tuyên án; nếu đương sự, Viện kiểm sát
không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được
niêm yết hoặc ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án.
Thời hạn kháng cáo đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là bảy ngày; thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
cũng là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày; kể từ ngày chủ thể
có quyền kháng cáo hay kháng nghị nhận được quyết định.
Việc quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị như trên sẽ giúp tránh tình trạng
kéo dài thời gian giải quyết vụ án; đảm bảo sự nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn trong giải
quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Với thời hạn kháng cáo đã quy định, các chủ thể có quyền kháng cáo phải tuân thủ
theo thời hạn đó. Tuy nhiên, pháp luật vẫn có những quy định đối với các kháng cáo quá
hạn, là những kháng cáo quá thời hạn luật định. Kháng cáo quá hạn có thể được hoặc
không được chấp nhận. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, toà án cấp sơ thẩm
phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn
và tài liệu, chứng cứ, nếu có cho toà án cấp phúc thẩm. Trong thời hạn mười ngày kể từ
ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo; Toà án cấp phúc
thẩm thành lập hội đồng gồm ba thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng có
quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi
rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Toà án cấp phúc
thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn và toà án cấp sơ thẩm; nếu toà án
cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành
các thủ tục theo quy định của pháp luật và gửi hồ sơ vụ án cho toà án cấp phúc thẩm.
Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị
Mặc dù đã nộp đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị nhưng trước khi bắt đầu
phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung
kháng cáo; Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng
nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu. Tuy nhiên, pháp luật
không quy định rõ ràng thế nào là không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những
phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng
nghị. Khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị
thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xử phúc thẩm và bản án, quyết định sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm (Điều 256, 260, BLTTDS).
Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
- Toà án cấp phúc thẩm vào sổ thụ lý vụ án ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án,
kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo (Điều 257, BLTTDS).
- Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn
cứ đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa
có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ
chức đó; một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định
được người đại diện theo pháp luật; chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa
có người thay thế; cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được
pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được
vụ án; các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Bên cạnh đó, BLTTDS cũng quy
định thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
được thực hiện như giai đoạn sơ thẩm (Điều 259, BLTTDS).
- Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn cứ
nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa
kế; cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ
quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; người kháng
cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị; các trường hợp
khác mà pháp luật có quy định. Trong trường hợp toà án cấp phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc viện
kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ
ngày toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 260,
BLTTDS).
- Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn
rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường
hợp này toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm. (Điều 269, BLTTDS).
- Theo Điều 258 BLTTDS trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy
từng trường hợp, Toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Thủ tục xét xử phúc thẩm
- Hoãn phiên tòa phúc thẩm
Điều 266 BLTTDS quy định người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do
chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt. Người
tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà thì việc hoãn
phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện như ở giai đoạn sơ thẩm
theo quy định tại các Điều 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206 BLTTDS. Thời hạn
hoãn phiên toà và quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được thực hiện như giai đoạn sơ
thẩm theo quy định tại Điều 208 BLTTDS.
- Thủ tục phiên tòa phúc thẩm
BLTTDS đã quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục tiến hành phiên Toà phúc
thẩm từ khi chuẩn bị khai mạc phiên toà đến khi kết thúc phiên toà, các quy định để đáp
ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, mở rộng quyền dân chủ, phát huy tính tích cực, chủ
động của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong việc trình bày yêu
cầu, đề nghị, xuất trình chứng cứ, xét hỏi và tranh luận tại phiên toà.
Trước khi khai mạc phiên toà, thư ký toà án phải tiến hành các công việc để chuẩn
bị khai mạc phiên toà. Sau đó, chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà; giải quyết yêu cầu
thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; xem xét, quyết
định, hoãn phiên toà khi có người vắng mặt; bảo đảm tính khách quan của người làm
chứng.
Đối với thủ tục hỏi tại phiên tòa; thứ nhất, chủ toạ phiên toà hỏi và hội đồng xét
xử xem xét việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo,
kháng nghị, việc thoả thuận của các đương sự tại phiên Tòa phúc thẩm. Nếu bị đơn
không đồng ý thì hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên
đơn và phiên toà phúc thẩm vẫn tiến hành bình thường. Nếu bị đơn đồng ý thì hội đồng
xét xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và ra quyết định huỷ bản án sơ
thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Quy định này thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc quyền
tự định đoạt của các đương sự và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
khác. Nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thoả thuận
của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, thì hội đồng xét xử phúc
thẩm ra bản án phúc thẩm sửa lại bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của đương sự.
Thứ hai, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thường trình
bày trước sau đó đương sự bổ sung ý kiến. Việc trình bày ý kiến trước của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ giúp các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình một cách tốt nhất, nâng cao chất lượng xét xử; bởi lẽ, những người
đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thường là những người am
hiểu luật pháp, có kiến thức và chuyên môn cao.
Việc tiến hành tranh luận, nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án,
tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm tuy
nhiên việc hỏi và tranh luận chỉ về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm.
Kết thúc phiên tòa phúc thẩm, Tòa án có thể ra một trong các quyết định sau:
- Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm.
- Sửa đổi một phần hoặc toàn bộ quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm.
- Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết.
- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay kể từ ngày tuyên án. Trong thời hạn mười lăm
ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án,
quyết định phúc thẩm cho Toà án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường
hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài
hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày.
2.5.5. Thủ tục xem xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực
Mục đích của tố tụng dân sự là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự trong vụ việc dân sự. Do vậy, để có thể bảo vệ một cách tốt nhât các quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo việc xét xử của Tòa án được đúng đắn thì pháp
luật tố tụng dân sự cần phải xây dựng được một cơ chế tố tụng thích hợp. Trong quá trình
tố tụng thì giám đốc thẩm và tái thẩm là các trình tự đặc biệt của quá trình tố tụng. Chế
định giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự là nhằm sửa chữa những sai lầm, thiếu
sót trong hoạt động xét xử hoặc phát hiện những tình tiết mới làm thay đổi nội dung bản
án, quyết định đã có hiệu lực trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền.
2.5.5.1. Thủ tục giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là việc xét lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án.
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là:
- Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án.
- Có sự vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng.
- Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc áp dụng pháp luật.
Chủ thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là giai đoạn mà Tòa án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ
đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trên cơ sở
kháng nghị của người có thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật, chỉ những người sau
mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
- Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao
- Chánh Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc
kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực
pháp luật. Sở dĩ thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dài hơn so với kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là do tính chất của giám đốc thẩm; để đảm bảo
thời gian cho việc phát hiện các vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Thủ tục tại phiên tòa giám đốc thẩm
Phiên tòa giám đốc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại do Ủy ban thẩm phán Tòa
án nhân dân câp tỉnh, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao tiến hành.
Theo quy định của BLTTDS 2004 thì phiên tòa giám đốc thẩm diễn ra theo các
thủ tục sau:
- Sau khi chủ tọa khai mạc phiên toà, một thành viên của Hội đồng giám đốc
thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án,
quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và đề nghị của người kháng
nghị.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện về quyết định kháng nghị.
- Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án
triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về
quyết định kháng nghị.
- Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến
của mình về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
- Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án
Phiên toà giám đốc thẩm được tiến hành với hình thức như một cuộc họp. Nếu
người tham gia tố tụng đã được Toà án triệu tập nhưng vắng mặt, phiên toà vẫn được tiến
hành. Hầu hết các phiên toà giám đốc thẩm không có mặt những người tham gia tố tụng
như: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người
làm chứng. Sắp xếp trong phòng xử án không theo quy định bắt buộc như phiên toà sơ
thẩm, phúc thẩm. Đại diện Viện kiểm sát và thư ký Toà án ngồi chung với Hội đồng xét
xử. Hơn nữa, với thủ tục một phiên toà như vậy, nguyên tắc xét xử công khai dường như
chưa được bảo đảm bởi có quá ít người được biết phiên toà đã diễn ra như thế nào.
Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền sau đây:
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án
Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án

More Related Content

More from Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562

Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562
 

More from Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562 (20)

Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
Luận Văn Tác Động Của Quản Trị Vốn Lưu Động Đến Khả Năng Sinh Lợi Của Các Doa...
 
Luận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công Ty
Luận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công TyLuận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công Ty
Luận Văn Phân Tích Thực Trạng Nhập Khẩu Hàng Hoá Tại Công Ty
 
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa
Luận Văn Thạc Sĩ  Quản Lý Nhà Nước Về Văn HóaLuận Văn Thạc Sĩ  Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa
 
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
Luận Văn Quản Lý Di Tích Lịch Sử Khu Lăng Mộ Và Đền Thờ Các Vị Vua Triều Lý.
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Thu...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.
Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.
Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.
 
Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...
Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...
Luận Văn Tác Động Của Chính Sách Vốn Lưu Động Đến Hiệu Quả Tài Chính Của Các ...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh ViênLuận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Dạy Học Sli, Lượn Trong Giờ Ngoại Khóa Cho Sinh Viên
 
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.
Luận Văn Quản Lý Nhà Nước Của Ủy Ban Nhân Dân Về Di Sản Văn Hóa Vật Thể.
 
Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.
Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.
Luận Văn Quyền Tự Do Tôn Giáo Của Cá Nhân Tại Việt Nam.
 
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Của Trung Tâm Văn Hóa - Thể Thao.
 
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Bồi Dưỡng Giáo Viên Trung Học Cơ Sở.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Bồi Dưỡng Giáo Viên Trung Học Cơ Sở.Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Bồi Dưỡng Giáo Viên Trung Học Cơ Sở.
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Bồi Dưỡng Giáo Viên Trung Học Cơ Sở.
 
Tổng 320+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Tài Nguyên Rừng – Hay Nhất Hiện ...
Tổng 320+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Tài Nguyên Rừng – Hay Nhất Hiện ...Tổng 320+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Tài Nguyên Rừng – Hay Nhất Hiện ...
Tổng 320+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Tài Nguyên Rừng – Hay Nhất Hiện ...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Giám Sát Hoạt Động Của Hội Đồng Nhân Dân
Luận Văn Thạc Sĩ Giám Sát Hoạt Động Của Hội Đồng Nhân DânLuận Văn Thạc Sĩ Giám Sát Hoạt Động Của Hội Đồng Nhân Dân
Luận Văn Thạc Sĩ Giám Sát Hoạt Động Của Hội Đồng Nhân Dân
 
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành NiênLuận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
 
Luận Văn Pháp Luật Về Kiểm Soát Ô Nhiễm Môi Trường Không Khí.
Luận Văn Pháp Luật Về Kiểm Soát Ô Nhiễm Môi Trường Không Khí.Luận Văn Pháp Luật Về Kiểm Soát Ô Nhiễm Môi Trường Không Khí.
Luận Văn Pháp Luật Về Kiểm Soát Ô Nhiễm Môi Trường Không Khí.
 
Luận Văn Quản Lý Thu Ngân Sách Nhà Nước Từ Khu Vực Ngoài Quốc Doanh.
Luận Văn Quản Lý Thu Ngân Sách Nhà Nước Từ Khu Vực Ngoài Quốc Doanh.Luận Văn Quản Lý Thu Ngân Sách Nhà Nước Từ Khu Vực Ngoài Quốc Doanh.
Luận Văn Quản Lý Thu Ngân Sách Nhà Nước Từ Khu Vực Ngoài Quốc Doanh.
 
Luận Văn Thạc Sĩ Bảo Tồn Và Phát Huy Nghệ Thuật Múa Cơ Tu.
Luận Văn Thạc Sĩ Bảo Tồn Và Phát Huy Nghệ Thuật Múa Cơ Tu.Luận Văn Thạc Sĩ Bảo Tồn Và Phát Huy Nghệ Thuật Múa Cơ Tu.
Luận Văn Thạc Sĩ Bảo Tồn Và Phát Huy Nghệ Thuật Múa Cơ Tu.
 
Luận Văn Tăng Cường Hoạt Động Kiểm Soát Trong Công Tác Tổ Chức Quản Lý Về Tìn...
Luận Văn Tăng Cường Hoạt Động Kiểm Soát Trong Công Tác Tổ Chức Quản Lý Về Tìn...Luận Văn Tăng Cường Hoạt Động Kiểm Soát Trong Công Tác Tổ Chức Quản Lý Về Tìn...
Luận Văn Tăng Cường Hoạt Động Kiểm Soát Trong Công Tác Tổ Chức Quản Lý Về Tìn...
 

Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Kinh Doanh, Thương Mại Tại Tòa Án

  • 1. KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo Khoá Luận, Luận Văn ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562
  • 2. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Các hoạt động kinh tế luôn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi những hoạt động này diễn ra sẽ không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân. Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số lượng các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng tăng với mức độ ngày càng phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là điều cần thiết để đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh. Để thực hiện chức năng kinh tế của mình, nhà nước ta đã ban hành Hệ thống quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng hoặc các tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn. Hiện nay, có thể nói, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp quan trọng và phổ biến nhất ở Việt Nam. Trong hệ thống Tòa án nhân dân thì giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc chức năng của Tòa kinh tế, là một Toà chuyên trách thành lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và có hiệu lực ngày 01/07/1994. Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được thực hiện đúng đắn, kịp thời; góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng như đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia. Đây là mối quan tâm của nhiều người trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay. Chính từ thực tiễn này, trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi lựa chọn vấn đề “Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Các hoạt động kinh doanh, thương mại trong thời kỳ hội nhập quá phong phú, đa dạng làm cho số lượng tranh chấp phát sinh trong hoạt động này ngày càng nhiều và ngày càng phức tạp. Nếu trước đây, các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường là tranh chấp về mua bán hàng hóa và một phần về cung ứng dịch vụ; thì hiện nay, nhiều loại tranh chấp mới đã phát sinh như tranh chấp về mua bán licence, nhượng quyền thương mại, …Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với mục tiêu lợi nhuận được đặt lên hàng đầu, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thu hút rất nhiều các chủ thể; và cũng chính trong mối quan hệ kinh tế này luôn tìm ẩn các nguy cơ phát sinh tranh chấp nhằm tranh giành lợi ích giữa các bên tham gia. Do đó, hiện nay các vấn đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh, thương mại được rất nhiều người quan tâm, bao gồm cả các phương thức giải quyết tranh chấp khi nó phát sinh. Trước tình hình chung đó, sự phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Nam trong những năm trở lại đây đã kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các mô hình doanh nghiệp với quy mô khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh lực kinh tế. Và điều này cũng làm cho các
  • 3. tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn Tỉnh gia tăng trong những năm vừa qua về cả số lượng và mức độ phức tạp. Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh là yêu cầu cấp thiết đối với tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Ở nước ta hiện nay, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phổ biến nhất và việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại được quy định trong khá nhiều văn bản pháp lý. Theo điều 29, BLTTDS thì các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế; và văn bản pháp lý giải quyết các tranh chấp trên có thể là Bộ luật dân sự hay Luật chuyên ngành như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doạnh nghiệp,... 3. Phạm vi nghiên cứu Tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là vấn đề rộng lớn, có thể nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi của chuyên đề tốt nghiệp, tôi chỉ giới hạn nghiên cứu về thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. 4. Mục đích nghiên cứu Thông qua chuyên đề, tôi muốn mô tả một “bức tranh” cụ thể về thực trạng cũng như việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Và với tình hình thực tiễn cùng với những kinh nghiệm, hiểu biết có được trong quá trình thực tập, tôi xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. 5. Bố cục của chuyên đề Chuyên đề trình bày các nội dung chính sau: ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung được trình bày theo 3 chương: Chương I: Pháp luật về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án Chương II: Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam Chương III: Giải pháp và kiến nghị
  • 4. CHƯƠNG I PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN 1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc trong cơ chế kinh doanh kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam. Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật thương mại ngày 10/5/1997; theo văn bản này thì tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do do việc không thực hiện hoặc thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Nhưng thực tế, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường và sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, thì thuật ngữ tranh chấp kinh doanh, thương mại không chỉ bó hẹp là những tranh chấp như Luật thương mại 1997 đã xác định mà nó còn bao hàm nhiều loại tranh chấp khác phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cùng với thời kỳ hội nhập như hiện nay. Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa nước ta phát triển. Tìm kiếm lợi nhuận trong kinh doanh không những là động lực phát triển mà còn là lý do tồn tại của hầu hết các chủ thể tham gia. Nhưng cũng chính sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh, đầu tư cùng với quy luật cạnh tranh mà các quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp hơn; những mâu thuẫn phát sinh ngày càng nhiều, cạnh tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn. Biểu hiện cụ thể đó là các tranh chấp kinh doanh, thương mại mà các bên không thể tự thỏa thuận được với nhau. Do đó, việc có một tổ chức giúp các bên giải quyết các mâu thuẫn phát sinh là điều quan trọng và cần thiết, để đảm bảo tâm lý và sự công bằng cho các chủ thể khi tham gia kinh doanh. Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Dù tồn tại dưới hình thức nào và bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì đặc trưng chung của tranh chấp kinh doanh, thương mại là luôn gắn với hoạt động kinh doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các cá nhân, đơn vị kinh doanh. Về bản chất, mỗi tranh chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia vào quan hệ kinh tế đó. Khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004 quy định rõ rằng những tranh chấp về kinh doanh thương mại là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
  • 5. Những tranh chấp đó bao gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Trong nền kinh tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp được thành lập với hình thức khác nhau, trong những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau thì việc liên kết, hợp tác thậm chí cạnh tranh với nhau cũng là điều dễ hiểu. Xung đột về quyền và lợi ích giữa các chủ thể khi tham gia kinh doanh là không thể tránh khỏi. Một số loại hình tranh chấp phổ biến hiện nay có thể kể đến là tranh chấp về hợp đồng kinh doanh, thương mại; tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty hay giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến thiết lập, giải thể công ty … Trong điều kiện kinh tế thị trường với sự đa dạng về đối tượng làm phát sinh nhiều tranh chấp mới như tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, mua bán cổ phiếu, … Một khi các tranh chấp xảy ra, có nghĩa là lợi ích kinh tế của một bên chủ thể kinh doanh đã bị vi phạm. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của chính chủ thể đó mà còn gián tiếp tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Đối với một số tranh chấp xảy ra trong nội bộ đơn vị, chẳng hạn tranh chấp về quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chung của đơn vị đó. Trong một số trường hợp, các bên hoặc một số bên tranh chấp không quan tâm quan tâm đến lợi ích và sự phát triển của doanh nghiệp, mà vì lợi ích của mình một cách thái quá dẫn đến đình trệ sản xuất. Các bên đều cố ý can thiệp, ngăn cản hoạt động bình thường của doanh nghiệp dưới các hình thức khác nhau, gây thiệt hại thêm cho chính họ và các bên liên quan. Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh là điều tất yếu, vấn đề là phải có biện pháp giải quyết hợp lý những tranh chấp đó để giúp cho các chủ thể kinh doanh có được sự tin tưởng trong cơ chế điều hành, quản lý kinh tế của Nhà nước. Chính vì thế, việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phù hợp với cơ chế thị trường không chỉ là đòi hỏi bức thiết của xã hội mà còn là yêu cầu để đảm bảo thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta. 2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án 2.1. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án Tranh chấp kinh doanh, thương mại là một hệ quả tất yếu của quá trình vận động các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động kinh doanh, thương mại. Khi tranh
  • 6. chấp xảy ra, các bên cần có cơ chế giải quyết tranh chấp để mở đường cho sự hợp tác và phát triển. Tòa án là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp như thế. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột, nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác, bảo vệ trật tự kỷ cương của xã hội. Mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57, Hiến pháp 1992). Đó là quyền tự do trong lựa chọn hình thức tổ chức kinh tế, lựa chọn ngành nghề, quy mô và cả lựa chọn phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tùy vào điều kiện kinh doanh cũng như mong muốn khác nhau của các chủ thể, họ sẽ lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất với mình. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì các hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại gồm: thương lượng, hòa giải, giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án (Điều 317, Luật Thương mại 2005). Ở Việt Nam hiện nay, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng con đường Tòa án chiếm tỷ lệ lớn. Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài đã có từ khá lâu, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều cá nhân và doanh nghiệp chưa quan tâm đến cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng như sự hiện diện của Trung tâm trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại không phải là điều quá mới mẻ nhưng vẫn còn mờ nhạt và khá xa lạ trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở môi trường kinh doanh của nước ta. Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực của Nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Ở Việt Nam, tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa kinh tế - Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân. 2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Tòa án là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi quyền lực này lại ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc, thủ tục do luật pháp quy định để đảm bảo hiệu quả xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đảm bảo vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý xã hội. Xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật của nhà nước ta, tòa kinh tế ra đời thực hiện chức năng xét xử các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
  • 7. Cũng như Tòa án nhân dân nói chung, Tòa kinh tế cũng áp dụng và tuân theo các nguyên tắc đã được pháp luật quy định trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Với mục đích giải quyết các tranh chấp nhanh chóng, có hiệu quả và hợp pháp, tạo điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia; hoạt động của Tòa kinh tế cần dựa trên các nguyên tắc, thủ tục tố tụng trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Tất cả các hoạt động trong quá trình tố tụng như khởi kiện, xét xử, ra quyết định hay bản án, …phải được thực hiện theo đúng các nguyên tắc đã được quy định. Nếu có sự vi phạm các nguyên tắc này trong quá trình thực hiện giải quyết các tranh chấp thì đều bị coi là bất hợp pháp và phải loại bỏ. Là một bộ phận của Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tòa án nói chung được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Bên cạnh đó, với tư cách là một Tòa chuyên trách độc lập trong hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng khi tiến hành giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình. Một số các nguyên tắc chung được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 như: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho đương sự được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa; … Trên cơ sở các nguyên tắc chung này, thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại được xây dựng với những đặc thù riêng của mình. Các nguyên tắc riêng mà Tòa kinh tế phải tuân thủ trong hoạt động giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đó là: nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ; nguyên tắc hòa giải; nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng kịp thời; nguyên tắc xét xử công khai. 2.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự Trong pháp luật tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự biểu hiện ở khả năng khi tham gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5, BLTTDS 2004. Theo đó, các đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền định đoạt của đương sự được thể hiện qua nội dung của một số quyền khác như: quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút các yêu cầu; quyền hòa giải, thương lượng; quyền đưa ra chứng cứ và chứng minh; quyền kháng cáo. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng vụ án kinh doanh thương mại. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền tự do kinh doanh không có nghĩa là các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh có thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm
  • 8. kiếm lợi nhuận của mình; mà khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên đều phải tuân theo những quy tắc nhất định của pháp luật. Và khi có tranh chấp xảy ra, trình tự cũng như thủ tục giải quyết phải tuân theo pháp luật. Với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình tố tụng, pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn cách giải quyết tranh chấp cho các bên, tạo ra sự chủ động của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ kinh doanh với các đối tác của mình, không ai mong muốn tranh chấp xảy ra, gây thiệt hại cho lợi ích kinh tế của các bên. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, khi xảy ra tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp một cách thấu tình đạt lý nhưng vẫn đảm bảo uy tín kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến quan hệ “bạn hàng” là điều mà các bên đều mong muốn. Chính vì vậy, trong nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, quyền khởi kiện có thể coi là quan trọng nhất. Bởi lẽ, theo quy định thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết các tranh chấp này nếu có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của các đương sự; nếu đương sự không khởi kiện ra tòa thì tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Có thể thấy rằng, việc tranh chấp có được đưa ra tòa án giải quyết hau không là sự lựa chọn của các chủ thể. Trên thực tế, khi phát sinh các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thì các bên sẽ cố gắng tự giải quyết vì như vậy sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời gian và chi phí, đặc biệt là không ảnh hưởng đến quan hệ làm ăn cũng như uy tín của họ được bảo đảm; việc nhờ đến cơ quan luật pháp là sự lựa chọn cuối cùng nếu các bên không thống nhất được với nhau. 2.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ bản của luật pháp nước ta. Điều 52, Hiến pháp 1992 có ghi rõ mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; còn quy định cụ thể đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế thì được ghi nhận tại Điều 22, Hiến pháp 1992. Các chủ thể khi tham gia quan hệ sản xuất kinh doanh đều được pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng. Bình đẳng trong kinh doanh nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, từ việc lựa chọn ngành nghề, địa điểm kinh doanh, lựa chọn hình thức kinh doanh cho đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình sản xuất kinh doanh đều bình đẳng theo quy định của pháp luật. Quyền bình đẳng không chỉ thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ kinh doanh mà còn thể hiện khi họ tham gia vào quan hệ tố tụng tại Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng (Điều 8, BLTTDS 2004). Có thể nói nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng vì nó không chỉ thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi có tranh chấp xảy ra thì trước tòa án sẽ không phân biệt các bên thuộc loại hình doanh nghiệp nào, thuộc thành phần kinh tế gì; các bên đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Với nguyên tắc này, các tổ chức, các nhân sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn trong đầu tư, sản xuất kinh doanh; từ đó khuyến khích,
  • 9. tạo động lực thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; góp phần không nhỏ tạo sự tăng trưởng kinh tế - xã hội. 2.2.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ Chứng minh và chứng cứ là yếu tố cốt lõi của pháp luật tố tụng; mọi hoạt động tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn các vụ án, tranh chấp. Nếu trong Tố tụng hình sự, khi có tội phạm xảy ra, việc thu thập chứng cứ thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra hoặc các cơ quan, đơn vị khác có liên quan theo quy định của pháp luật; thì trong Tố tụng dân sự nói chung và trong Tố tụng án kinh doanh thương mại nói riêng thì khi cần khởi kiện ra Tòa để giải quyết tranh chấp, các đương sự phải tự mình thu thập và cung cấp chứng cứ, chuyển gia chứng cứ, tài liệu cho Tòa kinh tế. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng mình cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 6, BLTTDS). Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức khởi kiện, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác thì cũng có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh như đương sự. Quyền và nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ của đương sự được pháp luật quy định cụ thể và rõ ràng trong Bộ luật dân sự 2004 (Điều 58, 79, 80, 81). Trong trường hợp đương sự không cung cấp được chứng cứ hoặc không đưa ra đầy đủ chứng cứ thì đương sự phải chịu hậu quả về việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ. Cụ thể, khi giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại, Tòa án chủ yếu chỉ căn cứ vào những chứng cứ mà đương sự đưa ra; Tòa sẽ nghe các bên trình bày và xác minh chứng cứ; các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là đúng và cần thiết. Nếu các chứng cứ cung cấp chưa đầy đủ hoặc chưa chính xác, thì Tòa án sẽ yêu cầu đương sự thu thập thêm chứng cứ hoặc xác minh sự chính xác đó. Tòa án không nhất thiết phải thu thập thêm chứng cứ mà chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi thấy cần thiết để là rõ thên yêu cầu của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Như vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy ra tranh chấp, các đương sự cần tự mình thu thập đầy đủ các chứng cứ để xác nhận và chứng minh cho yêu cầu của mình, phản đối yêu cầu của người khác là có căn cứ hợp pháp. Việc chứng minh và cung cấp đầy đủ chứng cứ của các đương sự góp phần giúp cho hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án được nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên, trong các vụ án kinh doanh, thương mại thì các đương sự là những người tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì thế thời gian, có thể nói là một “vấn đề” của họ. Do đó, khi “vướng” vào một vụ tranh chấp, liệu các đương sự có thời gian thu thập đầy đủ các bằng chứng hay không là một điều cần quan tâm. Việc giải quyết án một cách nhanh chóng và đúng đắn là cấp thiết không chỉ đối với các đương sự mà còn đối với các cơ quan chức năng có liên quan. Nhận thấy rằng việc thu thập chứng cứ có thể mất nhiều
  • 10. thời gian, chi phí của các đương sự; đó là chưa kể đến việc có những chứng cứ mà đương sự không thể tự mình thu thập được, hoặc áp dụng mọi biện pháp để thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả. Trong những trường hợp như vậy, đương sự phải làm đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, trong đơn phải ghi rõ vấn đề cần chứng minh, chứng cứ cần thu thập, lý do không thu thập được chứng cứ, tên cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ đó. Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ tranh chấp, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự, cụ thể là trong tố tụng án kinh doanh, thương mại. Đây là một nguyên tắc đặc thù của tố tụng kinh doanh, thương mại, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia trong việc bảo vệ lợi ích của chính mình trước các xâm hại. 2.2.4. Nguyên tắc hòa giải Trong hoạt động thương mại ngày nay, vấn đề xảy ra tranh chấp là điều không mong muốn của cả cá nhân, tổ chức tham gia kinh doanh và của cả xã hội. Việc kiện nhau ra tòa do không giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột một cách ổn thỏa sẽ không đem lại sự thuận lợi cho quá trình hoạt động, kinh doanh của các bên, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế - xã hội. Tranh chấp gây ra sự căng thẳng, mất đoàn kết, làm giảm uy tín của các chủ thể trong môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, nguyên tắc hòa giải theo quy định của pháp luật nước ta là một nguyên tắc quan trọng của pháp luật tố tụng, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự và trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân; giúp các bên giải quyết mâu thuẫn một cách ổn thỏa; góp phần hạn chế thiệt hại không đáng có do hậu quả của các tranh chấp gây ra. Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự trong việc giải quyết vụ án. Việc các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng luôn được Nhà nước khuyến khích; bởi vì, khi các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án không chỉ có nội dung tranh chấp mà mâu thuẫn của các đương sự cũng được giải quyết triệt để, nhanh chóng, tiết kiệm nhất và thường Nhà nước không phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế để thi hành thỏa thuận đó. Hòa giải là quyền tố tụng của đương sự và chỉ có đương sự mới có quyền hòa giải vì đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung nên có quyền tự mình quyết định những vấn đề của vụ tranh chấp. Do đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại là phản ánh về vấn đề lợi ích kinh tế của chủ thể kinh doanh nên hòa giải là biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi các bên tranh chấp phải nhờ tới cơ quan có thẩm quyền tài phán. Đây là nguyên tắc được xây dựng trước tiên do yêu cầu của chính đơn vị kinh doanh. Theo nguyên tắc này, khi có tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra, trước hết các bên tự tiến hành hòa giải với nhau. Khi không tự hòa giải được, các bên mới yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp. Nhưng khi đã yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp, các đương sự vẫn có thể tiến hành hòa giải dưới sự hướng dẫn, công nhận của Tòa án. Chỉ khi hòa giải không thành, Tòa án mới đưa vụ việc ra xét xử. Hơn nữa, tại phiên tòa, thẩm phán cũng tạo điều kiện để cho các bên tranh chấp hòa giải được với nhau ( Điều 10, BLTTDS). Khi hòa giải, Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được
  • 11. dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Ngoài ra, trong BLTTDS 2004 cũng quy định những vụ án dân sự không được hòa giải và những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được (Điều 181, 182 BLTTDS). 2.2.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những phải đảm bảo đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây dưa, kéo dài. Hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình diễn ra liên tục với mục đích sinh lời của người tham gia kinh doanh. Đối với các chủ thể kinh doanh, dường như yếu tố thời gian có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công việc của họ; sự linh hoạt và năng động của môi trường kinh doanh không cho phép họ lãng phí thời gian. Nhưng khi những tranh chấp ngoài ý muốn phát sinh thì việc bỏ thời gian để giải quyết chúng để bảo vệ lợi ích của mình là điều đương nhiên. Do đó, việc giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, nhanh chóng, kịp thời là mối quan tâm của hầu hết những người tham gia kinh doanh, đặc biệt là các đương sự trong các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời được thể hiện trong một số quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong tố tụng kinh doanh, thương mại quy định thời gian tố tụng ngắn hơn so với các tố tụng dân sự khác; các quy định rút ngắn thời hiệu, thời hạn; trong quá trình giải quyết vụ án, tòa không cần thực hiện việc chứng minh và thu thập chứng cứ; hạn chế việc giao vụ án cho tòa cấp dưới xét xử lại; hạn chế thấp nhất việc quay vòng vụ án để xét xử lại nhiều lần …Việc quy định như vậy nhằm rút ngắn thời gian cho việc giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ thể, phù hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh. 2.2.6. Nguyên tắc xét xử công khai Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của hoạt động xét xử. Điều 131, Hiến pháp 1992 có ghi rõ “ Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định”. Công khai là thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ. Trong xã hội dân chủ, công khai được coi là tư tưởng xuyên suốt quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, không phải vụ án nào đưa xét xử công khai cũng đểu đem lại những tác động tích cực, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đó, Điều 15, BLTTDS quy định “Trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự”. Trong kinh doanh, thương mại, bí mật kinh doanh có thể là những phát minh, sáng chế,… có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Những bí mật kinh doanh của doanh nghiệp là những điều không thể tiết lộ, không thể chia sẻ cho tất cả các doanh nghiệp khác biết; nếu không sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp, thậm chí là doanh nghiệp bị phá sản. Do đó, các cá nhân, tổ chức có thể yêu cầu Tòa án xét xử kín để cho các bí mật kinh doanh được đảm bảo.
  • 12. Ngoài ra, nguyên tắc này tạo điều kiện cho nhân dân có thể giám sát hoạt động của Tòa án, cơ quan điều tra; điều này sẽ làm cho các chủ thể tham gia tố tụng nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình; đồng thời nó mang ý nghĩa giáo dục mọi công dân trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. 2.3. Chức năng và nhiệm vụ của Tòa Kinh tế Tòa kinh tế là một tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân, được thành lập theo lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân ngày 28/12/1993. Tòa kinh tế được tổ chức ở hai cấp. Ở trung ương, Tòa kinh tế được thành lập trong Tòa án nhân dân tối cao; ở địa phương, Tòa kinh tế chỉ được tổ chức ở cấp tỉnh. 2.3.1. Chức năng của Tòa Kinh tế Tòa kinh tế thuộc cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án nhân dân ra đời đáp ứng yêu cầu xây dựng thiết chế tài phán kinh tế trong nền kinh tế thị trường và yêu cầu giải quyết nhiều loại tranh chấp khác nhau. Tòa kinh tế nói riêng và Tòa án nhân dân nói chung đều là cơ quan xét xử của nhà nước, nằm trong hệ thống cấu trúc, hoạt động từ nguồn kinh phí được cung cấp từ ngân sách nhà nước. Tòa kinh tế nhân danh nhà nước giải quyết các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia kinh doanh. Theo quy định của pháp luật thì Tòa kinh tế có hai chức năng cơ bản là chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại và chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp.  Chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại Đây là chức năng cơ bản của tòa án nói chung được quy định tại Điều 127, Hiến pháp năm 1992 “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo đó, pháp luật nước ta khẳng định, Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định về chức năng của Tòa án được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 4 năm 2002. Theo đó, Tòa kinh tế được gắn với chức năng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Theo BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2005, Tòa kinh tế không chỉ giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế mà còn giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty, tranh chấp liên quan đến cổ phiếu, trái phiếu, tranh chấp trong hoạt động đầu tư... Phạm vi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại mở rộng hơn nhiều so với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Tòa kinh tế dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp. Các quy định được áp dụng tuân thủ cả về mặt nội dung và mặt tố tụng để đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý cho quá trình xét xử. Kết thúc việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
  • 13. mại sau các phiên tòa xét xử, Tòa kinh tế sẽ ra bản án hoặc quyết định để giải quyết tranh chấp đó. Bản án hay quyết định của Tòa kinh tế có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên chủ thể có liên quan.  Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản không chỉ là xung đột lợi ích giữa doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích tập thể của người lao động làm việc cho doanh nghiệp, hợp tác xã, đến lợi ích chung của xã hội. Phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị trường, để giải quyết hiện tượng này, cần có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế tác động tiêu cực của nó đến môi trường hoạt động kinh doanh lành mạnh. Ngoài chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại thì Tòa kinh tế còn có chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chức năng này được được thừa nhận với sự ra đời của Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1994. Hiện nay, để thực hiện chức năng này, Tòa kinh tế dựa vào các quy định của Luật phá sản 2004 là chủ yếu và một số quy định khác liên quan của pháp luật. 2.3.2. Nhiệm vụ của Tòa Kinh tế Điều 1, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 4 năm 2002 có quy định cụ thể về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa kinh tế nói riêng. Theo đó, “ trong phạm vi chức năng của mình, tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo về tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. Ngoài ra, Tòa án nói chung có nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục, củng cố việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của xã hội; nâng cao ý thức đấu tranh chống các vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp cũng như các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại. 2.4. Thẩm quyền của Tòa kinh tế trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Việc xác định đúng thẩm quyền của cơ quan giải quyết là điều cần thiết trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng kinh doanh, thương mại nói riêng. Khi có tranh chấp phát sinh, cần xác định rõ cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo việc giải quyết được đúng đắn, chính xác và hợp pháp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa kinh tế là quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa kinh tế trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại, cũng như thi hành quyết định, bản án của Tòa kinh tế. Tòa cần phải cẩn trọng xem xét cáo trạng, yêu cầu khởi kiện hoặc
  • 14. nội dung kháng cáo, kháng nghị, cân nhắc thật kỹ các yêu cầu mới phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Pháp luật đã quy định khá rõ phạm vi, giới hạn xét xử của Tòa; vì vậy khi tham gia giải quyết các tranh chấp, Tòa cần phải thực hiện đầy đủ và đúng thẩm quyền của mình, tránh trường hợp Tòa trốn tránh nhiệm vụ hay Tòa xử “quá dài tay” dẫn đến hậu quả phải hủy bản án; gây tốn kém, lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc của cả cơ quan chức năng lân người tham gia tố tụng. Đối với các vụ án mà sau khi thụ lý thì Tòa phát hiện không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa phải chuyển vụ việc đó cho tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý (Điều 37, BLTTDS 2004). Theo quy định tại BLTTDS 2004 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa kinh tế được thể hiện với các nội dung: thẩm quyền theo vụ việc; thẩm quyền theo cấp xét xử; thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn. 2.4.1. Thẩm quyền theo vụ việc Thẩm quyền theo vụ việc là việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc cơ quan nào: cơ quan quản lý cấp trên, tòa dân sự hay tòa kinh tế. Theo quy định của bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 1/1/2005 thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bao gồm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại và những yêu cầu về kinh doanh, thương mại.  Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (Điều 29, BLTTDS 2004) - Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. - Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. - Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. - Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định  Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (Điều 30, BLTTDS 2004) - Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại. - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
  • 15. - Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài. - Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định 2.4.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử  Tòa án nhân dân cấp huyện Đối với những tranh chấp kinh doanh, thương mại; Tòa kinh tế có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp sau: Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa. Nếu những tranh chấp trên có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Đối với những yêu cầu về kinh doanh, thương mại; Tòa án nhân dân cấp huyện cũng không có thẩm quyền giải quyết  Tòa án nhân dân cấp tỉnh Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm tất cả những tranh chấp kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS 2004, trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Trường hợp cần thiết là những trường hợp: - Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. - Vụ án có nhiều đương sựở trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và xa nhau. - Tòa án cấp huyện chưa có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại, hoặc tuy có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại, nhưng thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi Thẩm phán mà không có Thẩm phán khác để thay thế. Cũng theo sự phân cấp, tòa án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh doanh, thương mại mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quyđịnh của pháp luật tố tụng. Đối với những bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị thìỦy ban Thẩm phán của tòa án cấp tỉnh xem xét và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.  Tòa án nhân dân tối cao - Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tiến hành phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm của tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.
  • 16. - Tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quyđịnh của pháp luật tố tụng. - Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao xem xét theo trình tự giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp dưới 2.4.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án theo lãnh thổ được xác định là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại điều 29, BLTTDS. Tuy nhiên, Luật cũng cho phép các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 của BLTTDS. Trong trường hợp tranh chấp chỉ liên quan đến bất động sản, thì Tòa án nơi có bất động sản giải quyết. Đối với giải quyết việc kinh doanh, thương mại của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau: - Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là các cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài. - Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. - Tòa án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tàu nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc yêu cầu Trọng tài thương mại Việc Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại. 2.4.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
  • 17. - Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn giải quyết tranh chấp. - Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết tranh chấp. - Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết tranh chấp. - Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết tranh chấp. - Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết. - Như vậy theo quy định tại Điều 36 của BLTTDS thì trong một số trường hợp nhất định, có nhiều Tòa án có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp kinh doanh, thương mại cụ thể và nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong các Tòa án đó. Để tránh việc có tranh chấp về thẩm quyền thì Tòa án nào thuộc một trong các Tòa có thẩm quyền mà nhận được đơn khởi kiện trước tiên của nguyên đơn, đã dự tính tiền tạm ứng án phí, có thẩm quyền thụ lý vụ án theo đúng quy định. Sau khi thụ lý tranh chấp kinh doanh, thương mại, nếu phát hiện việc giải quyết tranh chấp không thuộc thẩm quyền của mình, thì Tòa án đã thụ lý phải ra quyết định chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết, trong đó cần nêu rõ lý do chuyển hồi sơ vụ án, đồng thời phải thông báo ngay cho nguyên đơn biết. Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền thì những Tòa án có tranh chấp đó phải báo cáo ngay lên Tòa án cấp trên trực tiếp để Tòa án đó quyết định việc giao cho Tòa án nào giải quyết tranh chấp, cụ thể như sau: - Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. - Tranh chấp về thẩm quyền giải giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết. 2.5. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Đây là các bước trong hoạt động tố tụng của Tòa án đối với việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. 2.5.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại  Khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại Theo tinh thần của Hiến pháp 1992, Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khi các quyền và lợi ích bị xâm hại, các công dân đều có quyền yêu cầu
  • 18. nhà nước bảo vệ. Một trong những phương thức yêu cầu nhà nước bảo vệ quyền đó là quyền khởi kiện. Khởi kiện là thủ tục đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Theo Điều 161, BLTTDS, các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc trưng của phương thức khởi kiện này là trao cho đương sự quyền tự do hành động, xuất phát từ quyền tự định đoạt của các chủ thể khởi kiện làm cơ sở tố tụng. Với hành vi khởi kiện kịp thời, các cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; các thiệt hại trong tranh chấp sẽ sớm được ngăn chặn và khắc phục; tạo các mối quan hệ tốt đẹp, cởi mở giữa các bên trong môi trường hoạt động kinh doanh. Ngoài việc các cá nhân, tổ chức có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; pháp luật còn cho phép một số tổ chức có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích công cộng và lợi ích nhà nước. Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều có văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Ví dụ, hợp đồng xây dựng chịu sự điều chỉnh của Luật xây dựng, hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực hàng hải chịu sự điều chỉnh của Bộ luật hàng hải, hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tài chính, ngân hàng… Thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực này, cũng có thể được văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh, nếu không được văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh thì sẽ áp dụng quy định của Luật thương mại 2005 về thời hiệu khởi kiện, theo đó, thời hiệu khởi kiện các tranh chấp trong hoạt động thương mại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại. Để đảm bảo tính pháp lý về nội dung của đơn khởi kiện và cung cấp đầy đủ các thông tin ban đầu về các yêu cầu khởi kiện, thì đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung chính sau: - Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; - Tên Toà án nhận đơn khởi kiện; - Tên, địa chỉ của người khởi kiện; - Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có; - Tên, địa chỉ của người bị kiện; - Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có; - Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; - Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có; - Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp; - Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án;
  • 19. - Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Việc khởi kiện được thể hiện bằng đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gởi qua đường bưu điện. Cùng với đơn khởi kiện thì người khởi kiện phải gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ để chứng minh những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Yêu cầu này xuất phát từ nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ của pháp luật tố tụng.  Thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại Thụ lý vụ án là việc Tòa án chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý của Tòa án. Thụ lý vụ án là công việc đầu tiên của Tòa án trong quá trình tố tụng. Đây là khâu có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt ra trách nhiệm của Tòa án phải giải quyết các tranh chấp trong thời hạn luật định. Cũng giống như khởi kiện, nếu không có việc thụ lý của Tòa án thì không có các bước tiếp theo của hoạt động tố tụng. Khác với các vụ án hình sự, việc thụ lý vụ án được thực hiện sau khi có quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; trong vụ án kinh doanh, thương mại thì việc thụ lý vụ án được thực hiện khi có đơn kiện của đương sự, yêu cầu của cơ quan tổ chức. Khi nhận được đơn khởi kiện, tòa án nghiên cứu kỹ đơn kiện, xem xét tư cách pháp lý của người gửi đơn kiện, xác định thẩm quyền của Tòa án mình với việc giải quyết vụ án, để quyết định thụ lý hay trả lại đơn kiện. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Tòa án phải thông báo ngay cho người khởi kiện đến làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu người khởi kiện được miễn, hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì Tòa án phải thụ lý ngay vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. 2.5.2. Chuẩn bị xét xử Chuẩn bị xét xử là bước tiếp theo trong trình tự giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án. Đối với các vụ án tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì thời hạn chuẩn bị xét xử là hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử nhưng không quá một tháng. Nếu trong trường hợp trên mà phiên tòa không được mở trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng thì thời hạn chuẩn bị xét xử được cộng thêm tối đa là một tháng nữa. Những vụ án có tính chất phức tạp là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau nên cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước ngoài cần phải có thời gian ủy thác cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài,….Tuy
  • 20. nhiên, đối với trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả ủy thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời hạn ba ngày (không tính ngày nghỉ), kể từ ngày thụ lý, Chánh án tòa án phải phân công một thẩm phán giải quyết vụ án. Trong quá trình giải quyết, nếu thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được, thì Chánh án phải phân công thẩm phán khác đảm nhiệm. Trường hợp đang xét xử mà không có thẩm phán dự khuyết thì vụ án được xét xử lại từ đầu. Trong thời hạn ba ngày (không tính ngày nghỉ) kể từ ngày thụ lý, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết việc thụ lý vụ án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Nếu muốn gia hạn, thì người được thông báo phải có đơn gửi Tòa án, nêu rõ lý do. Việc gia hạn, nếu được chấp nhận thì cũng không quá mười lăm ngày. Người được thông báo có quyền yêu cầu Tòa án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn kiện. Sau đó, Thẩm phán phụ trách cần tiến hành việc xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu để chuẩn bị cho việc xét xử, lấy lời khai của những người có liên quan. Trong công tác chuẩn bị xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại; Tòa kinh tế phải tiến hành hòa giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các tranh chấp. Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với Tòa án. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án thì Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 181, 182, BLTTDS. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, Tòa án kiên trì hòa giải, giáo dục, thuyết phục để các bên đương sự có thể hòa giải và thỏa thuận với nhau về những vấn đề tranh chấp.. Việc hòa giải rất quan trọng vì nó giúp cho vụ án sớm được giải quyết, đảm bảo sự đoàn kết, ổn định trong nội bộ chủ thể kinh doanh; tiết kiệm và hạn chế tối đa chi phí về thời gian và tiền bạc cho các bên tranh chấp. Qua hòa giải nếu các đương sự tự nguyện thỏa thuận được mọi vấn đề tranh chấp cần giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành nêu rõ nội dung sự việc tranh chấp và những vấn đề mà các bên đương sự đã thỏa thuận. Hết thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được, hoặc chỉ thỏa thuận được một phần những vấn đề có tranh chấp thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải không thành và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nội dung biên bản phải thể hiện rõ nguyện vọng của các đương sự tham gia hòa giải; từ đó Thẩm phán có kế hoạch hòa giải tiếp tục hay đưa vụ án ra xét xử.
  • 21. 2.5.3. Phiên tòa sơ thẩm Xét xử tại phiên tòa sơ thẩm là giai đoạn tố tụng quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định nhất; bởi vì, tại phiên tòa sơ thẩm, tòa án sẽ xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề của vụ án; đồng thời, các đương sự sẽ được công khai bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án. Với những chứng cứ và tài liệu mà các đương sự cung cấp thì chưa đủ điều kiện cho Tòa dựa vào đó để giải quyết vụ tranh chấp, vì vậy tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử xác định lại chúng để đảm bảo tính chính xác. Tòa sẽ làm rõ thêm các tình tiết của vụ tranh chấp thông qua việc lắng nghe ý kiến trình bày của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, bằng chứng. Chỉ sau khi nghe ý kiến của người tham gia tố tụng và kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ tại phiên tòa, hội đồng xét xử mới nghị án để ra các quyết định về việc giải quyết vụ án. Thời hạn mở phiên tòa là không quá một tháng (đối với trường hợp có lý do chính đáng là hai tháng) kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thành phần của hội đồng xét xử gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Xuất phát từ tính chất quan trọng đối với sự tham gia tố tụng tại phiên tòa của các chủ thể tham gia pháp luật tố tụng dân sự, BLTTDS quy định các trường hợp Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Theo đó, phiên tòa sơ thẩm có thể bị hoãn do thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án, Kiểm sát viê, người giám định, người phiên dịch hoặc do sự vắng mặt của các bên đương sự, những người tham gia tố tụng khác hoặc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 72, các Điều 199, 200, 201,203, 204, 205, 206, 207, 215 và khoảm 4 Điều 230 BLTTDS. Thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm bao gồm: - Thủ tục bắt đầu phiên tòa - Thẩm vấn tại phiên tòa - Tranh luận tại phiên tòa - Thủ tục nghị án - Thủ tục tuyên án - Hoàn chỉnh biên bản phiên tòa - Cấp trích lập bản sao bản án hoặc quyết định của Tòa án 2.5.4. Thủ tục phúc thẩm Từ trước đến nay hệ thống toà án của chúng ta vẫn thực hiện theo chế độ hai cấp xét xử, đến năm 2002 điều này mới được ghi nhận trong Luật tổ chức Toà án nhân dân. Tại Điều 242 BLTTDS khẳng định xét xử phúc thẩm là việc toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Việc BLTTDS quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm nhằm khẳng định phúc thẩm là một cấp xét xử và là cấp xét xử thứ hai, được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm. Phúc thẩm nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm trong các bản án, quyết định chưa có hiệu lực của Tòa án. Mặt khác, khi tiến hành phúc thẩm, Tòa án cấp trên sẽ kiểm tra, giám sát được chất lượng trong hoạt động xét xủa sơ thẩm của Tòa cấp dưới.
  • 22. Chủ thể của quyền kháng cáo, kháng nghị Người có quyền kháng cáo là đương sự, đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của Tòa án; còn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc cấp trên có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm. Đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị Khi có nhu cầu kháng cáo, kháng nghị thì các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị phải làm đơn gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Và gửi kèm theo là các tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng minh cho kháng cáo, kháng nghị của mình là có căn cứ và hợp pháp; điều này có ý nghĩa buộc người kháng cáo, kháng nghị phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình nếu họ muốn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án. Nếu đơn kháng cáo không có đầy đủ nội dung theo quy định của BLTTDS thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo. Trong trường hợp đơn kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. Quy định này tạo điều kiện cho người có quyền kháng cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đồng thời tạo điều kiện cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án được chính xác. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là khác nhau. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày; thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày; kể từ ngày tuyên án. Nếu đương sự, Viện kiểm sát có mặt tại phiên tòa thì thời hạng kháng cáo, kháng nghị tính từ ngày tòa tuyên án; nếu đương sự, Viện kiểm sát không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết hoặc ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là bảy ngày; thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm cũng là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày; kể từ ngày chủ thể có quyền kháng cáo hay kháng nghị nhận được quyết định. Việc quy định thời hạn kháng cáo, kháng nghị như trên sẽ giúp tránh tình trạng kéo dài thời gian giải quyết vụ án; đảm bảo sự nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Với thời hạn kháng cáo đã quy định, các chủ thể có quyền kháng cáo phải tuân thủ theo thời hạn đó. Tuy nhiên, pháp luật vẫn có những quy định đối với các kháng cáo quá hạn, là những kháng cáo quá thời hạn luật định. Kháng cáo quá hạn có thể được hoặc không được chấp nhận. Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ, nếu có cho toà án cấp phúc thẩm. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo; Toà án cấp phúc thẩm thành lập hội đồng gồm ba thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng có
  • 23. quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định cho người kháng cáo quá hạn và toà án cấp sơ thẩm; nếu toà án cấp phúc thẩm chấp nhận việc kháng cáo quá hạn thì toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật và gửi hồ sơ vụ án cho toà án cấp phúc thẩm. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị Mặc dù đã nộp đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị nhưng trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo; Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu. Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ ràng thế nào là không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị. Khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xử phúc thẩm và bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 256, 260, BLTTDS). Chuẩn bị xét xử phúc thẩm - Toà án cấp phúc thẩm vào sổ thụ lý vụ án ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo (Điều 257, BLTTDS). - Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn cứ đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó; một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật; chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế; cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Bên cạnh đó, BLTTDS cũng quy định thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm được thực hiện như giai đoạn sơ thẩm (Điều 259, BLTTDS). - Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn cứ nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị; các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Trong trường hợp toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 260, BLTTDS).
  • 24. - Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Trong trường hợp này toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm. (Điều 269, BLTTDS). - Theo Điều 258 BLTTDS trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Thủ tục xét xử phúc thẩm - Hoãn phiên tòa phúc thẩm Điều 266 BLTTDS quy định người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Toà án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt. Người tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà thì việc hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện như ở giai đoạn sơ thẩm theo quy định tại các Điều 199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206 BLTTDS. Thời hạn hoãn phiên toà và quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được thực hiện như giai đoạn sơ thẩm theo quy định tại Điều 208 BLTTDS. - Thủ tục phiên tòa phúc thẩm BLTTDS đã quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục tiến hành phiên Toà phúc thẩm từ khi chuẩn bị khai mạc phiên toà đến khi kết thúc phiên toà, các quy định để đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, mở rộng quyền dân chủ, phát huy tính tích cực, chủ động của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong việc trình bày yêu cầu, đề nghị, xuất trình chứng cứ, xét hỏi và tranh luận tại phiên toà. Trước khi khai mạc phiên toà, thư ký toà án phải tiến hành các công việc để chuẩn bị khai mạc phiên toà. Sau đó, chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà; giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; xem xét, quyết định, hoãn phiên toà khi có người vắng mặt; bảo đảm tính khách quan của người làm chứng. Đối với thủ tục hỏi tại phiên tòa; thứ nhất, chủ toạ phiên toà hỏi và hội đồng xét xử xem xét việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị, việc thoả thuận của các đương sự tại phiên Tòa phúc thẩm. Nếu bị đơn không đồng ý thì hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và phiên toà phúc thẩm vẫn tiến hành bình thường. Nếu bị đơn đồng ý thì hội đồng xét xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Quy định này thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác. Nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, thì hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa lại bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của đương sự. Thứ hai, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thường trình bày trước sau đó đương sự bổ sung ý kiến. Việc trình bày ý kiến trước của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ giúp các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích
  • 25. hợp pháp của mình một cách tốt nhất, nâng cao chất lượng xét xử; bởi lẽ, những người đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thường là những người am hiểu luật pháp, có kiến thức và chuyên môn cao. Việc tiến hành tranh luận, nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm tuy nhiên việc hỏi và tranh luận chỉ về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm. Kết thúc phiên tòa phúc thẩm, Tòa án có thể ra một trong các quyết định sau: - Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm. - Sửa đổi một phần hoặc toàn bộ quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm. - Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết. - Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay kể từ ngày tuyên án. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Toà án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày. 2.5.5. Thủ tục xem xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực Mục đích của tố tụng dân sự là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ việc dân sự. Do vậy, để có thể bảo vệ một cách tốt nhât các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo việc xét xử của Tòa án được đúng đắn thì pháp luật tố tụng dân sự cần phải xây dựng được một cơ chế tố tụng thích hợp. Trong quá trình tố tụng thì giám đốc thẩm và tái thẩm là các trình tự đặc biệt của quá trình tố tụng. Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự là nhằm sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động xét xử hoặc phát hiện những tình tiết mới làm thay đổi nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền. 2.5.5.1. Thủ tục giám đốc thẩm Giám đốc thẩm là việc xét lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là: - Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. - Có sự vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng. - Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc áp dụng pháp luật. Chủ thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Giám đốc thẩm là giai đoạn mà Tòa án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trên cơ sở
  • 26. kháng nghị của người có thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật, chỉ những người sau mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: - Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao - Chánh Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Sở dĩ thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dài hơn so với kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là do tính chất của giám đốc thẩm; để đảm bảo thời gian cho việc phát hiện các vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Thủ tục tại phiên tòa giám đốc thẩm Phiên tòa giám đốc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại do Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân câp tỉnh, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành. Theo quy định của BLTTDS 2004 thì phiên tòa giám đốc thẩm diễn ra theo các thủ tục sau: - Sau khi chủ tọa khai mạc phiên toà, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. - Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện về quyết định kháng nghị. - Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị. - Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. - Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. - Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án Phiên toà giám đốc thẩm được tiến hành với hình thức như một cuộc họp. Nếu người tham gia tố tụng đã được Toà án triệu tập nhưng vắng mặt, phiên toà vẫn được tiến hành. Hầu hết các phiên toà giám đốc thẩm không có mặt những người tham gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người làm chứng. Sắp xếp trong phòng xử án không theo quy định bắt buộc như phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm. Đại diện Viện kiểm sát và thư ký Toà án ngồi chung với Hội đồng xét xử. Hơn nữa, với thủ tục một phiên toà như vậy, nguyên tắc xét xử công khai dường như chưa được bảo đảm bởi có quá ít người được biết phiên toà đã diễn ra như thế nào. Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền sau đây: