Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Chế định Ban kiểm soát của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005, cho các bạn tham khảo
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại địa phương - Đại học Mở Hà Nội
Liên hệ lấy bài tại: sdt/ zalo 093 189 2701
Giá viết thuê báo cáo thực tập ngành luật TOPICA: http://vietthuewriter.com/bao-cao-thuc-tap-phap-luat-ve-nganh-nghe-kinh-doanh-co-dieu-kien/
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn có thể tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về chấm dứt Doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng thực tiễn để từng bước mở rộng và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Do vậy, để tiếp thu có sàng lọc những thành tựu hiện có, để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về chấm dứt Doanh nghiệp và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, học viên lựa chọn đề tài “Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn cao học luật của mình
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
Với những lý do trên, nghiên cứu về “Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam” là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng được đòi hỏi đối với Luận văn thạc sĩ khoa học luật.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Chế định Ban kiểm soát của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005, cho các bạn tham khảo
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại địa phương - Đại học Mở Hà Nội
Liên hệ lấy bài tại: sdt/ zalo 093 189 2701
Giá viết thuê báo cáo thực tập ngành luật TOPICA: http://vietthuewriter.com/bao-cao-thuc-tap-phap-luat-ve-nganh-nghe-kinh-doanh-co-dieu-kien/
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn có thể tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về chấm dứt Doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng thực tiễn để từng bước mở rộng và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Do vậy, để tiếp thu có sàng lọc những thành tựu hiện có, để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về chấm dứt Doanh nghiệp và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, học viên lựa chọn đề tài “Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn cao học luật của mình
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
Với những lý do trên, nghiên cứu về “Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam” là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng được đòi hỏi đối với Luận văn thạc sĩ khoa học luật.
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
Với những lý do trên, nghiên cứu về “Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam” là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng được đòi hỏi đối với Luận văn thạc sĩ khoa học luật.
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Pháp luật về quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp trực thuộc Bộ, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các Doanh nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý, hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu. Tuy nhiên, về cơ bản, quan niệm về Doanh nghiệp nhà nước vẫn chủ yếu dựa trên tiêu chí sở hữu vốn Nhà nước và quyền kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín Việt. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của công ty tài chính hiện nay và thực tiễn áp dụng tại Công ty Tài chính cổ phần Tín Việt. Đặc biệt Báo cáo có đi sâu phân tích các quy định mới được ban hành từ năm 2010 tới nay liên quan đến hoạt động tín dụng của công ty tài chính.
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM CHIA SẺ ĐẾN CÁC BẠN SINH VIÊN MỘT BÀI MẪU BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT TÀI CHÍNH HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, cho các bạn có thể tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Ý thức được Luật Doanh nghiệp là một đạo luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Những vấn đề pháp lý về đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện cải cách kinh tế ở nước ta hiện nay, cho các bạn tham khảo
Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về công ty TNHH. Qua quá trình nghiên cứu về cơ cấu tổ chức hoạt động của công ty cùng với tình hình kinh tế bất ổn như hiện nay, lạm phát, thuế cùng với lãi suất ngân hàng luôn biến động không ngừng, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh hiệu quả tổ chức, quản lý cũng như hoạt động kinh doanh của công ty như Nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ tài chính, khuyến khích cho vay với lãi suất thấp; ổn định mức thuế trước bạ, thuế VAT, các khoản lệ phí có liên quan, hoàn thiện khung thuế trong hoạt động kinh doanh lữ hành, các chính sách hỗ trợ giúp doanh nghiệp dễ thích nghi với sự thay đổi của khung thuế cũng như quá trình hội nhập kinh tế giúp doanh nghiệp hoạt động lâu dài, đạt được lợi nhuận cao từ đó đời sống của người lao động cũng được đảm bảo.
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Hoạt Động Của Công Ty Tài Chính Ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận Pháp luật hoạt động của Công ty Tài chính ở Việt Nam, đồng thời xem xét, đánh giá về thực trạng hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của các Công ty Tài chính ở Việt Nam, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và bản chất pháp luật của các Công ty Tài chính, từ đó làm tiền đề cho việc bổ sung, hoàn thiện pháp luật hoạt động của Công ty Tài chính ở Việt Nam.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
Với những lý do trên, nghiên cứu về “Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam” là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng được đòi hỏi đối với Luận văn thạc sĩ khoa học luật.
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Pháp luật về quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp trực thuộc Bộ, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các Doanh nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý, hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu. Tuy nhiên, về cơ bản, quan niệm về Doanh nghiệp nhà nước vẫn chủ yếu dựa trên tiêu chí sở hữu vốn Nhà nước và quyền kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín Việt. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của công ty tài chính hiện nay và thực tiễn áp dụng tại Công ty Tài chính cổ phần Tín Việt. Đặc biệt Báo cáo có đi sâu phân tích các quy định mới được ban hành từ năm 2010 tới nay liên quan đến hoạt động tín dụng của công ty tài chính.
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM CHIA SẺ ĐẾN CÁC BẠN SINH VIÊN MỘT BÀI MẪU BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT TÀI CHÍNH HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, cho các bạn có thể tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Ý thức được Luật Doanh nghiệp là một đạo luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Những vấn đề pháp lý về đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện cải cách kinh tế ở nước ta hiện nay, cho các bạn tham khảo
Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về công ty TNHH. Qua quá trình nghiên cứu về cơ cấu tổ chức hoạt động của công ty cùng với tình hình kinh tế bất ổn như hiện nay, lạm phát, thuế cùng với lãi suất ngân hàng luôn biến động không ngừng, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh hiệu quả tổ chức, quản lý cũng như hoạt động kinh doanh của công ty như Nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ tài chính, khuyến khích cho vay với lãi suất thấp; ổn định mức thuế trước bạ, thuế VAT, các khoản lệ phí có liên quan, hoàn thiện khung thuế trong hoạt động kinh doanh lữ hành, các chính sách hỗ trợ giúp doanh nghiệp dễ thích nghi với sự thay đổi của khung thuế cũng như quá trình hội nhập kinh tế giúp doanh nghiệp hoạt động lâu dài, đạt được lợi nhuận cao từ đó đời sống của người lao động cũng được đảm bảo.
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Hoạt Động Của Công Ty Tài Chính Ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận Pháp luật hoạt động của Công ty Tài chính ở Việt Nam, đồng thời xem xét, đánh giá về thực trạng hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của các Công ty Tài chính ở Việt Nam, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và bản chất pháp luật của các Công ty Tài chính, từ đó làm tiền đề cho việc bổ sung, hoàn thiện pháp luật hoạt động của Công ty Tài chính ở Việt Nam.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Similar to Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam 6833075.pdf (20)
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...NuioKila
Este documento presenta una tesis doctoral que propone un nuevo enfoque de aprendizaje semi-supervisado para la identificación de secuencias de microARN (miARN) en bioinformática. El trabajo realiza contribuciones en las tres etapas clave del proceso de predicción de miARN: 1) el desarrollo de una herramienta para extraer subcadenas del genoma que puedan ser potenciales pre-miARN, 2) una herramienta para calcular características de predicción de miARN, y 3) un algoritmo de aprendizaje semi-super
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...NuioKila
This document provides an overview of inefficiencies in engineering change management at Kimberly Clark Vietnam's production plant. It identifies Production Line BD03 as having the lowest performance from 2017-mid 2018. Interviews revealed several underlying causes, including a high turnover rate, lack of training, and inefficiencies in product flexibility and engineering change management. The main problem defined is inefficiency in engineering change management during new product development projects, which impacts manufacturing performance. Potential solutions discussed include implementing effective document control, designing for reliability to eliminate operational risks, and developing an engineering change process.
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...NuioKila
This document discusses the theoretical background of cultural elements that can be found in English language textbooks. It defines culture and discusses various perspectives on the elements of culture, including norms, values, attitudes, communication styles, beliefs, and products. The document specifically examines the cultures of Britain and America. It explores the interrelationship between language and culture, and how understanding cultural elements is important for English language learning and teaching. The methodology, findings, and conclusions of the research investigating cultural elements in New Headway English textbooks are then outlined.
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfNuioKila
The document appears to be a thesis submitted by Tran Thi Ngan to Vietnam National University evaluating the translation of the film "Rio" into Vietnamese based on Newmark's translation quality assessment model. The thesis examines both the film scripts and audio to analyze how well the utterances in the original and translated versions are synchronized in terms of duration, timing, and lip movements. The study aims to identify the strengths and weaknesses of the Vietnamese translation of the film according to Newmark's framework.
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdfNuioKila
This document appears to be a thesis submitted by Nguyen Bich Hien to the Faculty of Post-Graduate Studies at Vietnam National University, Hanoi. The thesis examines 11th grade students' attitudes towards their teachers' written feedback. It includes sections on the declaration of authorship, acknowledgements, abstract, table of contents, and literature review. The study aims to understand students' perceptions of different types of written corrective feedback provided by their English teachers and determine if attitudes differ between English-specializing and non-specializing students. A questionnaire will be used to collect data on students' preferences and views of the usefulness of direct, indirect, metalinguistic, focused, and unfocused feedback.
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartBiz
Cách Hệ thống MES giúp tối ưu Quản lý Sản xuất trong ngành May mặc như thế nào?
Ngành may mặc, với đặc thù luôn thay đổi theo xu hướng thị trường và đòi hỏi cao về chất lượng, đang ngày càng cần những giải pháp công nghệ tiên tiến để duy trì sự cạnh tranh. Bạn đã bao giờ tự hỏi làm thế nào mà những thương hiệu hàng đầu có thể sản xuất hàng triệu sản phẩm với độ chính xác gần như tuyệt đối và thời gian giao hàng nhanh chóng? Bí mật nằm ở hệ thống Quản lý Sản xuất (MES - Manufacturing Execution System).
Hãy cùng khám phá cách hệ thống MES đang cách mạng hóa ngành may mặc và mang lại những lợi ích vượt trội như thế nào.
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam 6833075.pdf
1. 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 ................................................................................................... 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ............................................................................. 9
ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU.......................... 9
1.1. Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu........................... 9
1.1.1. Khái niệm chung về đơn vị sự nghiệp có thu................................. 9
1.1.2. Lý luận chung về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
có thu.................................................................................................... 17
1.2. Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có
thu ............................................................................................................ 26
1.2.1. Sự cần thiết khách quan của việc điều chỉnh bằng pháp luật vấn đề
tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu ............................... 26
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về tự chủ tài chính trong
các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt nam ................................................ 30
1.2.3. Nội dung pháp luật về quyền tự chủ tài chính áp dụng đối với các
đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam ...................................................... 41
CHƢƠNG 2 ................................................................................................. 50
THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TRONG CÁC ĐƠN VỊ............................................ 50
SỰ NGHIỆP CÓ THU Ở VIỆT NAM.......................................................... 50
2.1. Thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu
ở Việt Nam trong thời gian qua ................................................................ 50
2.2. Những định hƣớng hoàn thiện pháp luật tự chủ tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp có thu ............................................................................ 67
2.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính trong
các đơn vị sự nghiệp có thu ...................................................................... 77
KẾT LUẬN.................................................................................................. 85
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đơn vị sự nghiệp là những tổ chức đƣợc thành lập để thực hiện các hoạt
động sự nghiệp. Những hoạt động này nhằm duy trì và bảo đảm sự hoạt động
bình thƣờng của xã hội, mang tính chất phục vụ là chủ yếu, không vì mục tiêu
2. 2
lợi nhuận. Các tổ chức này đƣợc thành lập nhằm thực hiện các hoạt động sự
nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau nhƣ y tế, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu
khoa học kỹ thuật, văn hoá, thể dục thể thao… Thực tế ở Việt nam cho thấy,
các đơn vị sự nghiệp đƣợc thành lập bởi các chủ thể khác nhau nhƣ Nhà nƣớc,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội…
Ở Việt Nam, đơn vị sự nghiệp có nhiều loại. Đó là, các đơn vị sự nghiệp
tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên, đơn vị sự nghiệp tự bảo
đảm một phần chi phí hoạt động thƣờng xuyên và đơn vị sự nghiệp không có
thu hoặc có số thu không đáng kể.
Những đơn vị sự nghiệp do Nhà nƣớc quyết định thành lập và trong quá
trình hoạt động sự nghiệp đƣợc phép thu phí để bù đắp một phần hay toàn bộ
chi phí hoạt động thƣờng xuyên đƣợc gọi là đơn vị sự nghiệp có thu công lập.
Trong thời gian qua, các đơn vị này đã có nhiều đóng góp cho sự ổn định và
phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Nhà nƣớc đã ban hành nhiều quy định
pháp luật điều chỉnh hoạt động của các đơn vị, từng bƣớc tạo điều kiện thuận
lợi cho các đơn vị nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động. Sự ra đời của
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài
chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ngày 25/4/2006 về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức, bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập là sự
cụ thể hóa nội dung cải cách tài chính công, một trong bốn nội dung của
chƣơng trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nƣớc giai đoạn 2001-2010 (ban
hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTG ngày 17/01/2001 của Thủ
tƣớng Chính phủ).
Các văn bản pháp luật hiện hành đã đáp ứng đƣợc phần nào mục tiêu đổi
mới phƣơng thức quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu, tạo môi
trƣờng pháp lý thuận lợi cho các đơn vị chủ động tổ chức công việc, sắp xếp lại
bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính, hoàn thành nhiệm vụ đƣợc
3. 3
giao, phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lƣợng cao
cho xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng bƣớc nâng cao thu nhập cho ngƣời lao
động; thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội;
huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự
nghiệp, từng bƣớc xóa bỏ bao cấp từ Ngân sách Nhà nƣớc.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, các văn bản quy phạm
pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu đã bộc lộ
những bất cập nhƣ còn tản mạn, không đồng bộ, chắp vá, thiếu tính thống nhất.
Chẳng hạn, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về
chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu công lập và Thông tƣ số
25/2002/TT-BTC ngày 21/02/2002 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn thực hiện
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP chỉ đề cập đến quyền tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Đối
với các đơn vị sự nghiệp có nguồn thu thấp, chƣa có văn bản quy pháp luật
nào điều chỉnh. Ngoài Nghị định số 10/2002/NĐ-CP quy định về chế độ tài
chính của các đơn vị sự nghiệp có thu công lập, còn có các Nghị định khác
quy định chế độ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong
các lĩnh vực khác nhƣ Nghị định số 115/NĐ-CP/2005 ngày 05/09/2005 của
Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa
học và công nghệ công lập, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999
của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động
trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao… Trong đó, các quy định
thiếu sự thống nhất gây khó khăn trong quá trình áp dụng.
Mặt khác, các văn bản quy pháp luật quy định chế độ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp có thu hiện nay có hiệu lực pháp lý thấp, chủ yếu là các
Nghị định do Chính phủ ban hành, Thông tƣ do các Bộ quản lý ngành ban
hành. Cụ thể, văn bản quy pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh
vực này là Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về
4. 4
chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, Nghị định số 115/NĐ-
CP/2005 ngày 05/09/2005 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính trong các đơn vị sự
nghiệp công lập… Ngoài ra, phải kể đến số lƣợng không nhỏ các Thông tƣ do
các Bộ ban hành nhằm hƣớng dẫn thực hiện các Nghị định nói trên nhƣ: Thông
tƣ số 25/2002/TT-BTC ngày 21/02/2002, Thông tƣ số 71/2006/TT-BTC ngày
09/8/2006 của Bộ Tài chính, Thông tƣ liên tịch số 22/2003/TTLT-BTC-
BKHCN-BNV ngày 24/03/2003 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn chế độ quản lý
tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động có thu… Thực
tế cho thấy, các văn bản quy phạm pháp luật trên chƣa thực sự phát huy vai
trò của mình trong việc chuyển đổi phƣơng thức quản lý tài chính của các đơn
vị sự nghiệp có thu.
Bên cạnh đó, một số quy định chƣa phù hợp với sự vận hành của nền kinh
tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhiều quy định về chế độ thu phí
trong lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo… đã trở nên lạc hậu, không tạo điều kiện
cho các đơn vị thực hiện quyền tự chủ tài chính (nội dung này sẽ đƣợc phân
tích trong Luận văn).
Những bất cập của hệ thống pháp luật về quyền và tự chủ tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp có thu ít nhiều đã gây cản trở cho công cuộc cải cách hành
chính Nhà nƣớc nói chung và cải cách tài chính công nói riêng. Xuất phát từ
vai trò của hoạt động sự nghiệp, từ nhu cầu khách quan đổi mới phƣơng thức
quản lý tài chính và thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp có thu, việc bổ sung, sửa đổi và từng bƣớc hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài " Pháp luật
về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam" để làm luận
văn tốt nghiệp của mình, hy vọng đƣợc đóng góp một số ý kiến nhỏ trong quá
5. 5
trình hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
công lập ở nƣớc ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Tự chủ tài chính là một phạm trù khá mới. Việc giao quyền tự chủ tài
chính cho đơn vị sự nghiệp có thu mới đƣợc triển khai áp dụng ở nƣớc ta từ
năm 2002. Các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này còn khá khiêm
tốn, trong đó đáng chú ý là đề tài cấp Bộ năm 2004 "Hoàn thiện cơ chế
quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu trong lĩnh vực giáo dục, y
tế và văn hoá" của tiến sỹ Nguyễn Ngô Thị Hoài Thu. Công trình nghiên
cứu này đã phân tích những thành công của việc giao quyền tự chủ tài chính
đối với một số đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực y tế, giáo
dục đƣợc chọn thí điểm áp dụng. Đồng thời, đánh giá những hạn chế trong
các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định tại Nghị định số
10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng
cho đơn vị sự nghiệp có thu công lập và Thông tƣ số 25/2002/TT-BTC ngày
21/02/2002 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-
CP.
Tiếp đó, PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền đã chủ trì đề tài cấp Bộ năm
2005 "Cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu và giải pháp đổi
mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập". Công
trình nghiên cứu này đã mở rộng phạm vi nghiên cứu, khẳng định việc giao
quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu công lập của Nhà
nƣớc là chủ trƣơng hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay. Đồng thời, đƣa
ra những giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị này.
Ngoài ra, phải nhắc đến đề tài cấp cơ sở năm 2004 "Cơ chế tài chính
đối với các viện nghiên cứu hoạt động theo mô hình sự nghiệp khoa học
có thu" của Th.S Nguyễn Văn Thuyết. Công trình này đi sâu phân tích các
6. 6
quy định của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ
về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu công lập hoạt động
trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật ở Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng
áp dụng các quy định về chế độ tài chính của các Viện nghiên cứu, công trình
đã đƣa ra các đề xuất sửa đổi các quy định hiện hành nhằm tạo điều kiện cho
các đơn vị này có thể thực hiện quyền tự chủ ở mức cao nhất.
Bên cạnh đó, tác giả Hoàng Minh Hảo thực hiện thành công đề tài cấp
cơ sở năm 2004 "Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn tài
chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu". Tác giả đi sâu phân tích thực
trạng sử dụng các nguồn tài chính trong hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
có thu theo quy định của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của
Chính phủ. Đồng thời, có các kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả sử dụng các
nguồn tài chính trong hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung.
Nhìn chung, các công trình khoa học đó chỉ mới phân tích, đánh giá
dƣới góc độ kinh tế - tài chính để rút ra kết luận chủ trƣơng giao quyền tự
chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu là hoàn toàn đúng đắn; nêu
những bất cập trong cơ chế tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có
thu và giải pháp đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập. Các công trình đó chƣa đề cập tới thực trạng pháp luật về tự chủ tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu cũng nhƣ những thuận lợi, khó khăn
trong áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Trong lĩnh vực pháp lý, Tiến sỹ luật học Nguyễn Thị Thƣơng Huyền
đã đề cập tới một số vƣớng mắc trong áp dụng pháp luật về quyền tự chủ tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu và hƣớng nghiên cứu hoàn thiện trong
bài viết đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 12/2004 "Những vấn đề
pháp lý đặt ra khi áp dụng cơ chế tự chủ về tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp có thu và hướng nghiên cứu hoàn thiện". Tuy nhiên, vấn đề chỉ
đƣợc bàn đến một cách khái quát trong khuôn khổ một bài báo.
7. 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nhƣ tên đã trình bày, đơn vị sự nghiệp có thu bao gồm nhiều loại. Song,
đề tài chỉ tập trung nghiên cứu chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp có thu công lập, tức là các đơn vị sự nghiệp đƣợc các cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định thành lập và trong quá trình hoạt động sự
nghiệp đƣợc phép thu phí để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động
thƣờng xuyên. Đề tài không đề cập tới các quy định về quản lý tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp có thu ngoài công lập cũng nhƣ các đơn vị sự nghiệp
công lập nhƣng không có thu.
Trong quản lý tài chính, đơn vị sự nghiệp có thu chịu sự điều chỉnh
của nhiều ngành luật khác nhau, nhiều nhóm chế định pháp luật khác nhau,
đề tài chỉ nghiên cứu chế độ pháp lý có liên quan trực tiếp tới việc thực
hiện cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu nhƣ nội dung chủ
yếu của chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu;
thực trạng chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có
thu; phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý trong lĩnh vực
này.
Đề tài cũng chỉ tập trung nghiên cứu chế độ pháp lý về tự chủ tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu
mô hình tự chủ tài chính của một số nƣớc trên thế giới.
4. Mục đích nghiên cứu
Với những nội dung đƣợc đề cập trong Luận văn, trƣớc hết tập trung làm rõ
những khái niệm: tự chủ tài chính, pháp luật tự chủ tài chính và phân tích thực
tiễn áp dụng pháp luật về tự chủ tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên
cơ sở đó, mong muốn đƣợc đóng góp một phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện
các quy định pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010.
8. 8
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học, đặc biệt là các phƣơng pháp: duy vật lịch sử, phân tích -
tổng hợp, đối chiếu - so sánh, điều tra, thu thập số liệu, mô tả và khái quát
hóa đối tƣợng nghiên cứu.
6. Kết cấu của Luận văn
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ
TÀI CHÍNH ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU
1.1. Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
1.2. Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp có thu
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI
CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu ở
Việt Nam trong thời gian qua
2.2. Những định hƣớng hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính trong các đơn
vị sự nghiệp có thu
2.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính trong các
đơn vị sự nghiệp có thu
KẾT LUẬN
9. 9
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHỦ
TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU
1.1. Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
1.1.1. Khái niệm chung về đơn vị sự nghiệp có thu
1.1.1.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp có thu
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế và thực hiện chƣơng
trình cải cách hành chính, Nhà nƣớc ta đã có nhiều giải pháp nhằm lành mạnh
hoá nền tài chính quốc gia, nâng cao chất lƣợng quản lý, sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả nguồn lực của đất nƣớc, thực thi các biện pháp bảo đảm xã hội.
Trong đó, đã có những quy định khẳng định địa vị pháp lý của các đơn vị sự
nghiệp. Đặc biệt, là các quy định pháp luật về quyền tự chủ áp dụng đối với
các đơn vị sự nghiệp có thu.
Đơn vị sự nghiệp là những tổ chức đƣợc thành lập để thực hiện các hoạt
động sự nghiệp. Những hoạt động này nhằm duy trì và bảo đảm sự hoạt động
bình thƣờng của xã hội, mang tính chất phục vụ là chủ yếu, không vì mục tiêu
lợi nhuận.
Trong quá trình hoạt động, một số đơn vị sự nghiệp đƣợc phép thu phí
để bù đắp một phần hay toàn bộ chi phí hoạt động, đƣợc gọi là đơn vị sự
nghiệp có thu. Đơn vị sự nghiệp có thu có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, đơn vị sự nghiệp có thu là một tổ chức hoạt động theo nguyên
tắc phục vụ xã hội.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự
nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hóa cung ứng cho mọi thành phần trong
10. 10
xã hội. Việc cung ứng các hàng hóa này cho thị trƣờng chủ yếu không vì mục
đích lợi nhuận nhƣ hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà
nƣớc tổ chức, duy trì và tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp các
sản phẩm dịch vụ cho thị trƣờng trƣớc hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nƣớc
trong việc phân phối lại thu nhập. Mặt khác, nhằm thực hiện các chính sách
phúc lợi công cộng của Nhà nƣớc khi can thiệp vào thị trƣờng. Nhờ đó, sẽ hỗ
trợ cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế hoạt động bình thƣờng. Đồng thời, nâng
cao dân trí, bồi dƣỡng nhân tài, bảo đảm nguồn nhân lực, thúc đẩy hoạt động
kinh tế phát triển, bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống, sức khỏe, văn
hóa, tinh thần của nhân dân.
Thứ hai, những sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp có thu là sản
phẩm mang lại lợi ích chung, có tính bền vững và gắn bó hữu cơ với quá
trình tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần.
Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá trị
về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội... Đây là
những sản phẩm vô hình và có thể đƣợc sử dụng cho nhiều đối tƣợng trên phạm
vi rộng. Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm của đơn vị sự nghiệp là sản phẩm
có tính phục vụ, không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định.
Mặt khác, các hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu chủ yếu tạo ra
các hàng hóa công cộng ở dạng vật chất và phi vật chất. Các sản phẩm này
phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình tái sản xuất xã hội. Cũng nhƣ các
hàng hóa khác, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có giá trị và giá trị sử
dụng. Tuy nhiên, các sản phẩm này có điểm khác biệt là nó có giá trị xã hội
cao. Do đó, các sản phẩm, dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc nhiều
ngƣời cùng sử dụng và tái sử dụng đƣợc trên phạm vi rộng.
Hàng hóa công cộng có hai đặc điểm là không loại trừ và không tranh
giành [30. tr 862]. Nói cách khác, đó là những hàng hóa mà không ai có thể
loại trừ những ngƣời tiêu dùng khác ra khỏi việc sử dụng nó. Đồng thời, việc
11. 11
sử dụng hàng hoá của ngƣời này không loại trừ việc sử dụng hàng hoá đó của
ngƣời khác.
Việc sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt động sự nghiệp tạo ra
làm cho quá trình sản xuất của cải vật chất đƣợc thuận lợi và ngày càng đạt
hiệu quả cao. Chẳng hạn, hoạt động sự nghiệp giáo dục, y tế, thể dục thể thao
đem lại tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lƣợng lao động, tạo điều kiện
cho lao động có chất lƣợng ngày càng tốt hơn. Hay, hoạt động sự nghiệp khoa
học, văn học, văn hóa thông tin mang lại hiểu biết cho con ngƣời về tự nhiên,
xã hội tạo ra những công việc mới phục vụ sản xuất và đời sống... Vì vậy,
hoạt động sự nghiệp luôn gắn bó hữu cơ và tác động tích cực đến quá trình tái
sản xuất xã hội.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp có thu luôn gắn
liền với các chƣơng trình phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nƣớc và bị chi
phối đáng kể bởi các chƣơng trình này.
Với thẩm quyền của mình, Chính phủ luôn tổ chức, duy trì và bảo đảm
các hoạt động sự nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội.
Chính phủ đã và đang tổ chức, thực hiện các chƣơng trình mục tiêu quốc gia
nhƣ: Chƣơng trình xóa mù chữ, Chƣơng trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng,
Chƣơng trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, Chƣơng trình phòng chống
AIDS, Chƣơng trình xóa đói giảm nghèo, Chƣơng trình phủ sóng phát thanh
truyền hình... Những chƣơng trình mục tiêu quốc gia này chỉ có Nhà nƣớc
mới có thể thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả. Thực tế hiện nay cho
thấy, nếu để tƣ nhân thực hiện thì mục tiêu lợi nhuận sẽ lấn chiếm mục tiêu xã
hội, dẫn đến hạn chế việc tiêu dùng sản phẩm hoạt động sự nghiệp. Từ đó,
kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Thực tế, hiện nay có nhiều loại đơn vị sự nghiệp hoạt động ở hầu hết các
lĩnh vực và đƣợc thành lập bởi nhiều loại chủ thể khác nhau. Những đơn vị sự
12. 12
nghiệp có thu đƣợc các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định thành
lập đƣợc gọi là đơn vị sự nghiệp có thu công lập.
Đơn vị sự nghiệp có thu công lập đƣợc xác định bởi các dấu hiệu cơ bản
nhƣ sau:
Thứ nhất, đơn vị sự nghiệp có thu do các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền quyết định thành lập. Căn cứ vào vị trí và phạm vi hoạt động, các đơn
vị sự nghiệp có thu có thể do Thủ tƣớng Chính phủ hoặc Bộ trƣởng Bộ quản
lý ngành hoặc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng trực
tiếp ra quyết định thành lập.
Thứ hai, đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc Nhà nƣớc đầu tƣ cơ sở vật chất,
bảo đảm kinh phí hoạt động thƣờng xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị,
chuyên môn đƣợc giao.
Thứ ba, trong quá trình hoạt động, các đơn vị sự nghiệp này có thể đƣợc
Nhà nƣớc cho phép thu một số khoản phí hoặc thu từ hoạt động sản xuất,
cung ứng dịch vụ để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động, tăng
thu nhập cho cán bộ, viên chức và bổ sung, tái tạo chi phí hoạt động thƣờng
xuyên của đơn vị.
Thứ tư, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp này nhằm cung cấp dịch vụ
sự nghiệp công cho xã hội. Nghĩa là các đơn vị này thực hiện hoạt động sự
nghiệp đƣợc Nhà nƣớc ủy quyền, không nhằm mục đích sinh lợi.
Thứ năm, đơn vị sự nghiệp có thu có tƣ cách pháp nhân, có con dấu và
tài khoản riêng.
1.1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu
Các đơn vị sự nghiệp có thu công lập đƣợc thành lập, hoạt động trên
nhiều lĩnh vực. Dựa vào các tiêu thức khác nhau, các đơn vị sự nghiệp
này đƣợc chia thành các loại sau đây:
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, bao gồm:
13. 13
- Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật,
phát thanh, truyền hình.
Các đơn vị này có thể gồm: Trung tâm chiếu phim quốc gia, Nhà văn
hoá, thƣ viện, bảo tồn, bảo tàng, đài phát thanh, đài truyền hình, trung tâm
báo chí xuất bản…
- Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo,
bao gồm các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nhƣ
các trƣờng mầm non, tiểu học, trƣờng phổ thông, cơ sở, phổ thông trung học,
trƣờng trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trƣờng cao đẳng, đại học, học
viện, trung tâm đào tạo…
- Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này gồm các viện nghiên cứu
khoa học, trung tâm ứng dụng, chuyển giao công nghệ…
- Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực thể dục thể thao.
Trong lĩnh vực đặc thù này, các đơn vị sự nghiệp gồm có các trung tâm huấn
luyện thể dục thể thao, liên đoàn, đội , câu lạc bộ thể dục thể thao…
- Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực y tế.
Lĩnh vực y tế là một trong các lĩnh vực hoạt động có liên quan đến mọi
ngƣời dân trong xã hội. Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực này có thể gồm các cơ sở khám, chữa bện nhƣ bệnh viện, phòng khám và
các trung tâm điều dƣỡng, phục hồi chức năng…
- Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế nhƣ các viện
thiết kế, quy hoạch đô thị, nông thôn, trung tâm bảo vệ rừng, cục bảo về thực
vật, trung tâm nƣớc sạch và vệ sinh môi trƣờng, trung tâm dâu, tằm, tơ…
Ngoài các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong các lĩnh vực trên, còn
có các đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc các tổng công ty Nhà nƣớc.
Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, bao gồm:
14. 14
- Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động
thƣờng xuyên. Đây là các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động.
Nhà nƣớc không phải cấp kinh phí bảo đảm hoạt động thƣờng xuyên cho
đơn vị.
- Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động
thƣờng xuyên.
Đây là đơn vị sự nghiệp có nguồn thu sự nghiệp, nhƣng chƣa tự trang trải
toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Các đơn vị này chỉ bảo đảm một phần
chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Phần còn lại đƣợc Nhà nƣớc cấp.
- Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu thấp. Đây là các đơn vị sự nghiệp có số
thu bảo đảm từ 10% trở xuống/ tổng số chi bảo đảm hoạt động thƣờng xuyên
và chi hoạt động dịch vụ. Các đơn vị này và các đơn vị sự nghiệp không có
nguồn thu, theo chức năng, nhiệm vụ đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm toàn bộ chi phí
hoạt động thƣờng xuyên.
Căn cứ vào cấp quản lý, bao gồm:
- Đơn vị sự nghiệp có thu do Trung ƣơng quản lý.
Các đơn vị này đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ở Trung quyết
định thành lập, họat động ở các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, Trung tâm chiếu
phim quốc gia, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam…
- Đơn vị sự nghiệp có thu do địa phƣơng quản lý, ví dụ các nhà văn hoá
quận, thành phố, tỉnh…
1.1.1.3. Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với một số tổ chức khác:
Trƣớc khi có Nghị định 10/CP/2002 của Chính phủ, các đơn vị sự
nghiệp có thu đƣợc quy định về địa vị pháp lý nhƣ các cơ quan quản lý hành
chính Nhà nƣớc. Để có những quy định pháp luật phù hợp, cần thiết phải xác
định rõ sự khác biệt giữa các đơn vị sự nghiệp nói chung và đơn vị sự nghiệp
có thu nói riêng với các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc cũng nhƣ với
một số tổ chức khác.
15. 15
Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với cơ quan hành chính Nhà nước
Cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc là một bộ phận cấu thành của bộ
máy Nhà nƣớc, có chức năng quản lý Nhà nƣớc. Các cơ quan này có chức
năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc về các dịch vụ công, hoặc thực hiện cung
cấp các dịch vụ hành chính công (cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh thƣ nhân dân, giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở, quyền sử dụng đất...). Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc có
nhiệm vụ phục vụ lợi ích công, không đòi hỏi ngƣời đƣợc phục vụ phải trả thù
lao. Do đó, Nhà nƣớc phải cấp toàn bộ kinh phí để duy trì hoạt động của các
cơ quan này.
Hiện nay, trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc, các cơ
quan quản lý hành chính Nhà nƣớc đƣợc phép thu một số loại phí, lệ phí và
đƣợc coi là nguồn bổ sung kinh phí hoạt động. Tuy nhiên, số thu đó còn hết
sức hạn chế.
Kinh phí Nhà nƣớc cấp cho các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc
bao gồm kinh phí hoạt động và các khoản chi đầu tƣ phát triển (chủ yếu là chi
đầu tƣ xây dựng cơ bản). Các khoản kinh phí này thuộc về chi thƣờng xuyên
nên mang tính ổn định cao, thể hiện tính chất tiêu dùng. Do đó, nội dung chi,
cơ cấu chi, mức độ chi … đƣợc thực hiện theo các quy định chặt chẽ của Nhà
nƣớc.
Các đơn vị sự nghiệp có thu công lập là những đơn vị trực thuộc cơ quan
quản lý hành chính Nhà nƣớc, do cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc có
thẩm quyền thành lập. Đơn vị sự nghiệp có thu cung cấp dịch vụ công về y tế,
giáo dục, văn hóa thông tin, khoa học công nghệ, thể dục thể thao... và không
có chức năng quản lý hành chính Nhà nƣớc. Đơn vị sự nghiệp có thu chỉ cung
cấp dịch vụ công, chứ không cung cấp dịch vụ hành chính công.
Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với doanh nghiệp
16. 16
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, đƣợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.[3, Điều 4, khoản 1]
Bên cạnh các doanh nghiệp kinh doanh, Nhà nƣớc thành lập các doanh
nghiệp thực hiện cung ứng các dịch vụ công ích. Mục đích hoạt động của các
doanh nghiệp này không hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận.
Các doanh nghiệp có sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích
ngoài các quyền và nghĩa vụ quy định chung cho các doanh nghiệp, đƣợc
hạch toán và bù đắp chi phí theo giá thực hiện thầu hoặc thu phí sử dụng dịch
vụ theo quy định tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Đƣợc bảo đảm thời
hạn sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thích hợp để thu hồi vốn đầu tƣ và
có lãi hợp lý. Sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ đủ số lƣợng, đúng chất
lƣợng, thời hạn đã cam kết theo giá hoặc phí do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền quy định. Bảo đảm các điều kiện công bằng và thuận lợi nhƣ nhau cho
mọi đối tƣợng khách hàng. Chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật và khách hàng
về số lƣợng, chất lƣợng, điều kiện cung ứng và giá, phí sản phẩm, dịch vụ
cung ứng. [3, Điều 10]
Nhà nƣớc đầu tƣ vào sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
thông qua hình thức giao kế hoạch, đặt hàng hoặc đấu thầu. Tổ chức, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế đƣợc bình đẳng tham gia sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích, trừ trƣờng hợp đặc biệt do Chính phủ quy định.[4,
Điều 69]
Nhƣ vậy, đơn vị sự nghiệp có thu chỉ thực hiện cung ứng dịch vụ công,
chứ không cung cấp dịch vụ công ích, phi lợi nhuận, có tính chất kinh tế nhƣ
cung cấp điện, nƣớc, vệ sinh môi trƣờng, kết cấu hạ tầng... Dịch vụ này do
doanh nghiệp thực hiện theo yêu cầu của Nhà nƣớc để phục vụ nhân dân.
Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với các đơn vị dự toán khác
17. 17
Đảng Cộng sản Việt Nam; các tổ chức chính trị - xã hội nhƣ Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội nông dân Việt Nam... Tuy rằng, quy chế pháp lý về quản lý tài chính
của những đơn vị này đƣợc áp dụng nhƣ các đơn vị sự nghiệp, cơ quan quản lý
hành chính Nhà nƣớc. Nhƣng, đây là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, không phải là các tổ chức đƣợc
Nhà nƣớc quyết định thành lập.
1.1.2. Lý luận chung về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
1.1.2.1. Khái niệm tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
Tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu là một phạm trù khá
mới mẻ cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn.
Tự chủ là tự quản lý, điều hành mọi công việc của mình, không bị ai chi
phối [40, tr 990].
Tự chủ đƣợc đề cập ở nhiều lĩnh vực hoạt động của các chủ thể trong xã
hội. Có thể là tự chủ của các doanh nghiệp về tổ chức, bộ máy, nhân sự, tài
chính… Trong đó, vấn đề tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có
thu công lập ở Việt Nam đƣợc bàn đến trong thời gian gần đây. [30, tr 867]
Tài chính là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở
của nền kinh tế tiền tệ. Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm tài
chính. Nhƣng, nhìn chung đều quan niệm tài chính thể hiện ra là sự vận động
của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các
mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính, thông qua
việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác
nhau của các chủ thể trong xã hội. [36, tr 13].
Quan niệm về tài chính đƣợc xác định trƣớc hết từ những biểu hiện bên
ngoài của nó. Đó là các hiện tƣợng thu, chi bằng tiền; là sự vận động của các
nguồn tài chính thể hiện ở việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ
18. 18
thể trong xã hội. Chính vì vậy, ngƣời dân thƣờng quan niệm tài chính là “tiền
bạc và sự thu chi nói chung”, hay đó là “việc quản lý thu chi tiền bạc trong
một tổ chức xã hội hay một nƣớc” [36, tr 14]
Mọi hiện tƣợng thu chi bằng tiền của các chủ thể trong xã hội dù là Nhà
nƣớc, doanh nghiệp, các tổ chức khác hay dân cƣ đều có đặc điểm chung là sự
vận động của vốn tiền tệ. Trên thực tế, tài chính thể hiện sự vận động tƣơng
đối của tiền tệ với hai chức năng cơ bản là phƣơng tiện thanh toán và phƣơng
tiện cất trữ. Đặc trƣng riêng có của tài chính là luôn gắn với việc tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ nhất định trong quá trình phân phối của cải xã hội. Sự
phân phối của tài chính diễn ra ngay tại điểm tiếp giáp của lĩnh vực phân phối
và trao đổi (hoặc phân phối và tiêu dùng) của quá trình tái sản xuất xã hội. Đó
là khi việc thanh toán tiền mua, bán hàng hoá, dịch vụ đƣợc thực hiện, tạo
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Mặt khác, tài chính còn đƣợc xác định bởi nội dung kinh tế bên trong
của nó. Đằng sau các quá trình thu chi bằng tiền ở các chủ thể, đã phản ánh
các quan hệ kinh tế rất đa dạng trong quá trình phân phối của cải xã hội dƣới
hình thức giá trị. Đó là sự thể hiện bản chất của tài chính.
Nguồn tài chính là khả năng tài chính của các chủ thể có thể khai thác sử
dụng nhằm đạt đƣợc các mục tiêu của mình. Nguồn tài chính của các chủ thể
có thể là nguồn tài chính thực tế, đƣợc tồn tại dƣới dạng tiền tệ vận động
trong quá trình kinh tế, hoặc có thể là nguồn tài chính tiềm năng, tồn tại dƣới
dạng tài nguyên, bất động sản… Ngoài ra, đó có thể là nguồn tài chính vô
hình nhƣ quyền sở hữu trí tuệ.
Có nhiều quan điểm về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu.
Tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu là việc trao cho các đơn
vị sự nghiệp quyền chủ động tổ chức quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả các nguồn tài chính, chủ động tổ chức thực hiện công việc, tuyển
19. 19
dụng lao động, cải thiện thu nhập, bảo đảm quan hệ hợp lý giữa thu nhập và
chất lƣợng, hiệu quả công tác. [26]
Tiến sỹ Vũ Đình Ánh, Viện Khoa học Tài chính cho rằng: Bản chất tự
chủ của đơn vị sự nghiệp là quyền tự quyết định mọi vấn đề bên trong đơn vị,
mọi quan hệ của đơn vị với bên ngoài trong khuôn khổ pháp luật đã quy định,
phù hợp với tiến trình nâng cao dần tính tự chủ mà mức độ cao nhất là tự chủ
hoàn toàn. [27]
Nghĩa là cơ quan quản lý Nhà nƣớc chỉ giữ lại quyền quyết định thành
lập, quyết định giải thể đơn vị sự nghiệp và quyết định bổ nhiệm Thủ trƣởng
đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị này, bảo
đảm số lƣợng và chất lƣợng các dịch vụ mà đơn vị sự nghiệp cung cấp cho xã
hội.
Theo chúng tôi, tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu là việc
Nhà nước trao cho đơn vị sự nghiệp có thu quyền chủ động trong khai thác,
quản lý, sử dụng các nguồn tài chính nhằm nâng cao chất lượng hoạt động sự
nghiệp và tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức và người lao động trong đơn
vị.
Giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu cũng đồng
nghĩa với việc giảm sự quản lý, sự can thiệp mang tính hành chính của các cơ
quan chủ quản và cơ quan tài chính đối với đơn vị, tạo điều kiện cho đơn vị
sự nghiệp có thu đƣợc chủ động trong thực hiện nhiệm vụ; tổ chức bộ máy,
biên chế; tài chính. Nhà nƣớc chỉ quản lý đơn vị sự nghiệp có thu ở tầm vĩ
mô. Các đơn vị tự quyết định và tự chịu trách nhiệm trƣớc Nhà nƣớc, trƣớc
ngƣời sử dụng dịch vụ do đơn vị cung cấp về các hoạt động của mình.
Nhƣ vậy, thực hiện quyền tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có thu
không có nghĩa là các đơn vị này phải hoàn toàn tự thu, tự chi. Đồng thời, tự
chủ tài chính cũng không có nghĩa là tự do về tài chính. Pháp luật cho phép
các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động trong việc huy động, tạo lập
20. 20
nguồn thu và sử dụng có hiệu quả đối với các nguồn thu, từ đó đẩy mạnh sự
phát triển của các hoạt động sự nghiệp, phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
1.1.2.2. Nội dung của quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp có thu
Trên thực tế, quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
gắn liền với quyền tự chủ về nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy và biên chế. So với
quyền tự chủ trong các hoạt động khác, quyền tự chủ tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp có thu bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động khai thác các
nguồn thu và quyết định các khoản thu, mức thu trên cơ sở quy định của pháp
luật.
Nhìn chung, nguồn tài chính cơ bản của đa số các đơn vị sự nghiệp có
thu là nguồn từ Ngân sách Nhà nƣớc. Thí dụ, các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt
động trong các lĩnh vực nhƣ: giáo dục, đào tạo; nghiên cứu khoa học; hoạt
động văn hóa, thông tin; bảo vệ sức khỏe nhân dân; bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên... Ngoài nguồn tài chính do Ngân sách Nhà nƣớc cấp, do sự đặc thù của
hoạt động sự nghiệp trong các lĩnh vực, một bộ phận đơn vị sự nghiệp đƣợc
Nhà nƣớc cho phép khai thác mọi nguồn thu, bảo đảm cho các đơn vị có thể
tự chủ trong hoạt động chi tiêu.
Trong hoạt động thu, đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc quyền chủ động đối
với các khoản thu thuộc nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Cụ thể:
Đối với nguồn thu từ phí, lệ phí, đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc cơ quan Nhà
nƣớc có thẩm quyền giao thu phí, lệ phí phải thực hiện thu đúng, thu đủ theo
mức thu và đối tƣợng thu do Nhà nƣớc quy định. Trƣờng hợp Nhà nƣớc quy
định khung mức thu, các đơn vị căn cứ vào nhu cầu chi phục vụ cho hoạt động,
khả năng đóng góp của xã hội để quyết định mức thu cụ thể cho phù hợp với
từng loại hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị phải bảo đảm thu phí, lệ phí không
21. 21
vƣợt quá khung mức thu do Nhà nƣớc quy định và thực hiện chế độ miễn, giảm
cho các đối tƣợng chính sách - xã hội theo quy định của Nhà nƣớc.
Đối với nguồn thu từ hoạt động dịch vụ đƣợc cơ quan Nhà nƣớc đặt hàng
thì mức thu theo đơn giá do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quy định; trƣờng
hợp sản phẩm chƣa đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quy định giá, thì
mức thu đƣợc xác định trên cơ sở dự toán chi phí đƣợc cơ quan quản lý tài chính
cùng cấp thẩm định chấp thuận.
Đối với nguồn thu từ những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng ký kết với
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nƣớc, các hoạt động liên doanh, liên kết, các
đơn vị đƣợc quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm
đủ bù đắp chi phí và có tích luỹ.
Thứ hai, các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động sử dụng nguồn tài
chính.
Quyền chủ động trong sử dụng nguồn tài chính của đơn vị đƣợc thể hiện ở
các khía cạnh sau đây:
- Các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc quyết định một số mức chi cao hơn
hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quy định, căn cứ
vào nhiệm vụ đƣợc giao và khả năng nguồn tài chính của đơn vị. Mặt khác, căn
cứ vào tính chất công việc, Thủ trƣởng đơn vị quyết định phƣơng thức khoán chi
phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc; quyết định đầu tƣ xây dựng, mua sắm
mới và sửa chữa lớn những tài sản trong đơn vị theo quy định của pháp luật.
Nguồn kinh phí Ngân sách Nhà nƣớc bảo đảm hoạt động thƣờng
xuyên cấp phát theo một mục. Trên cơ sở đó, đơn vị đƣợc chủ động điều
chỉnh nguồn kinh phí giữa các mục chi để hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.
Kinh phí thuộc Ngân sách Nhà nƣớc bảo đảm hoạt động thƣờng xuyên và
các khoản thu sự nghiệp của đơn vị cuối năm chƣa chi hết đơn vị đƣợc
chuyển sang năm sau để tiếp tục hoạt động.
22. 22
- Các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động trong chi trả tiền lƣơng
và thu nhập tăng thêm cho ngƣời lao động.
Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động sử dụng số biên chế đƣợc cấp
có thẩm quyền giao, sắp xếp và quản lý lao động phù hợp với chức năng và
nhiệm vụ của đơn vị và tinh giản biên chế theo chủ trƣơng của Nhà nƣớc;
đƣợc thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật lao
động phù hợp với khối lƣợng công việc và khả năng tài chính của đơn vị.
Đối với những hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ Nhà nƣớc giao,
chi phí tiền lƣơng, tiền công cho cán bộ, viên chức và ngƣời lao động đơn vị
tính theo lƣơng cấp bậc, chức vụ do Nhà nƣớc quy định.
Đối với những hoạt động cung cấp sản phẩm do Nhà nƣớc đặt hàng có
đơn giá tiền lƣơng trong đơn giá sản phẩm đƣợc cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt, đơn vị tính theo đơn giá tiền lƣơng quy định. Trƣờng hợp sản phẩm
chƣa đƣợc cơ quan có thẩm quyền quy định đơn giá tiền lƣơng, đơn vị tính
theo lƣơng cấp bậc, chức vụ do Nhà nƣớc quy định.
Nhà nƣớc khuyến khích đơn vị sự nghiệp tăng thu, tiết kiệm chi, thực
hiện tinh giản biên chế để tăng thêm thu nhập cho ngƣời lao động trên cơ sở
hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Ngân
sách Nhà nƣớc.
Tùy theo kết quả hoạt động tài chính trong năm, đơn vị đƣợc quyết định
tổng mức chi trả thu nhập trong năm cho cán bộ, viên chức và ngƣời lao động
sau khi đã thực hiện trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp theo quy
định của pháp luật.
Việc chi trả thu nhập cho từng cán bộ, viên chức, ngƣời lao động trong
đơn vị đƣợc thực hiện theo nguyên tắc: ngƣời nào có hiệu suất công tác cao,
đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi thì đƣợc trả nhiều hơn. Thủ
trƣởng đơn vị lập phƣơng án chi trả thu nhập tăng thêm theo quy chế chi tiêu
nội bộ của đơn vị.
23. 23
Khi Nhà nƣớc điều chỉnh các quy định về tiền lƣơng, nâng mức lƣơng
tối thiểu, khoản tiền lƣơng cấp bậc, chức vụ tăng thêm theo chế độ Nhà nƣớc
quy định do đơn vị tự bảo đảm từ các khoản thu sự nghiệp, quỹ dự phòng ổn
định thu nhập và các khoản thu khác theo quy định.
Trƣờng hợp sau khi sử dụng các nguồn trên nhƣng vẫn không bảo đảm
đủ thanh toán tiền lƣơng tăng thêm theo chế độ Nhà nƣớc quy định, phần còn
thiếu sẽ đƣợc Ngân sách Nhà nƣớc xem xét cấp bổ sung để bảo đảm mức
lƣơng tối thiểu chung do Nhà nƣớc quy định cho số lao động trong chỉ tiêu
biên chế đƣợc cấp có thẩm quyền quy định.
- Các đơn vị sự nghiệp có thu chủ động sử dụng kết quả hoạt động tài
chính trong năm.
Hàng năm sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp
khác theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi (nếu có) đƣợc đơn vị sử
dụng để trả thu nhập tăng thêm cho ngƣời lao động và trích lập các loại quỹ:
- Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp dùng để đầu tƣ, phát triển nâng cao
hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm
trang, thiết bị, phƣơng tiện làm việc, chi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
công nghệ, trợ giúp thêm đào tạo, huấn luyện nâng cao tay nghề năng lực
công tác cho cán bộ, viên chức đơn vị; đƣợc sử dụng góp vốn liên doanh, liên
kết sản xuất cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho xã hội phù hợp với chức năng
nhiệm vụ đƣợc giao, năng lực của đơn vị và theo quy định của pháp luật. Mức
góp vốn liên doanh, liên kết do thủ trƣởng đơn vị quyết định theo quy chế chi
tiêu nội bộ của đơn vị.
- Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm thu nhập cho ngƣời lao
động trong trƣờng hợp nguồn thu bị giảm sút.
- Quỹ khen thƣởng đƣợc dùng để thƣởng định kỳ, đột xuất cho tập thể,
cá nhân trong và ngoài đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp
24. 24
vào hoạt động của đơn vị. Mức thƣởng do thủ trƣởng đơn vị quyết định theo
quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
- Quỹ phúc lợi dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, chi
cho các hoạt động phúc lợi tập thể của ngƣời lao động trong đơn vị; trợ cấp khó
khăn đột xuất cho ngƣời lao động, kể cả trƣờng hợp nghỉ hƣu, nghỉ mất sức;
chi thêm cho ngƣời lao động trong biên chế thực hiện tinh giản biên chế. Thủ
trƣởng đơn vị quyết định việc sử dụng quỹ theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn
vị.
Mức trả thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ do thủ trƣởng đơn vị sự
nghiệp quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
Tuy nhiên, các đơn vị sự nghiệp không đƣợc chi trả thu nhập tăng thêm
và trích lập quỹ từ các nguồn sau: kinh phí thực hiện chƣơng trình đào tạo,
bồi dƣỡng cán bộ, viên chức theo quy định của Chính phủ; kinh phí thực hiện
tinh giản biên chế do Nhà nƣớc quy định; kinh phí thực hiện chƣơng trình
mục tiêu quốc gia; vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết
bị, sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn đối ứng các dự án; kinh phí thực hiện
nhiệm vụ đột xuất đƣợc cấp có thẩm quyền giao; kinh phí của nhiệm vụ phải
chuyển tiếp sang năm sau thực hiện.
Thứ ba, đơn vị sự nghiệp có thu chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội
bộ.
Quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế độ, tiêu chuẩn,
định mức chi tiêu áp dụng thống nhất trong đơn vị, bảo đảm đơn vị sự nghiệp
có thu hoàn thành nhiệm vụ chính trị đƣợc giao, thực hiện hoạt động thƣờng
xuyên phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị, sử dụng kinh phí có hiệu
quả và tăng cƣờng công tác quản lý.
Những nội dung chi nằm trong phạm vi xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ
đã có chế độ, tiêu chuẩn định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành, Thủ
trƣởng đơn vị đƣợc quy định mức chi cao hoặc thấp hơn mức chi do Nhà
25. 25
nƣớc quy định. Thủ trƣởng đơn vị không đƣợc quy định mức chi đối với một
số tiêu chuẩn định mức và nội dung chi sau đây: Tiêu chuẩn, định mức sử
dụng xe ô tô trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp Nhà
nƣớc; tiêu chuẩn về nhà làm việc; chế độ công tác nƣớc ngoài; chế độ tiếp
khách nƣớc ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam; kinh phí các chƣơng trình
mục tiêu quốc gia; Nhiệm vụ đột xuất đƣợc cấp có thẩm quyền giao; kinh phí
thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ; kinh phí
thực hiện tinh giản biên chế; vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản; vốn đối ứng dự án
và vốn viện trợ; kinh phí mua sắm và sửa chữa lớn tài sản cố định.
Những nội dung chi cần thiết phục vụ cho hoạt động của đơn vị nằm
trong phạm vi xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ nhƣng Nhà nƣớc chƣa ban
hành chế độ thì Thủ trƣởng đơn vị có thể xây dựng mức chi cho từng nhiệm
vụ, nội dung công việc trong phạm vi nguồn tài chính của đơn vị mình.
Đơn vị sự nghiệp có thu không đƣợc dùng kinh phí của đơn vị để mua sắm
thiết bị, đồ dùng, tài sản trang bị tại nhà riêng cho cá nhân hoặc cho cá nhân mƣợn
dƣới bất kỳ hình thức nào (trừ trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng theo quy
định).
Quy chế chi tiêu nội bộ đƣợc thảo luận rộng rãi, dân chủ, công khai trong
đơn vị sự nghiệp có thu, có ý kiến tham gia của tổ chức công đoàn đơn vị. Mặt
khác, Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị sự nghiệp có thu phải đƣợc gửi đến cơ
quan quản lý cấp trên để báo cáo và gửi kho bạc Nhà nƣớc, nơi đơn vị mở tài
khoản giao dịch làm căn cứ kiểm soát chi.
1.1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản bảo đảm thực hiện quyền tự chủ tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
Trong quá trình thực hiện quyền tự chủ tài chính với các nội dung nhƣ
trên, các đơn vị sự nghiệp có thu phải bảo đảm quán triệt các nguyên tắc cơ
bản sau:
26. 26
- Thực hiện quyền tự chủ tài chính phải gắn liền với tự chịu trách nhiệm
trƣớc cơ quan chủ quan cấp trên trực tiếp và trƣớc pháp luật về những quyết định
của mình, đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nƣớc có
thẩm quyền.
- Hoàn thành chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao.
- Hoạt động của đơn vị phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đƣợc
giao, phù hợp với khả năng chuyên môn và tài chính của đơn vị.
- Thực hiện công khai, dân chủ trong việc sắp xếp, tổ chức bộ máy, sử
dụng biên chế, tuyển dụng lao động, sử dụng nguồn tài chính theo quy định
của pháp luật.
1.2. Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
1.2.1. Sự cần thiết khách quan của việc điều chỉnh bằng pháp luật vấn đề tự chủ tài
chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu
Thứ nhất, việc giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp có thu xuất phát
từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
đƣợc xây dựng và phát trển ở Việt Nam.
Kinh tế thị trƣờng là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trƣờng. Trong
nền kinh tế thị trƣờng sản xuất cái gì? Sản xuất nhƣ thế nào? Sản xuất cho ai?
do thị trƣờng quyết định. [43]
Kinh tế thị trƣờng vận động dƣới sự chi phối của các quy luật khách
quan mà trƣớc tiên là quy luật cung cầu. Sự vận động của quan hệ cung cầu
chi phối sự hoạt động của những thành viên tham gia thị trƣờng. Kinh tế thị
trƣờng vận động trong môi trƣờng cạnh tranh.
Cạnh tranh đƣợc hiểu là “cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình
giữa những ngƣời, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích nhƣ nhau”
[41, tr 112].
27. 27
Trong lĩnh vực kinh doanh, cạnh tranh đƣợc hiểu là “hành vi của doanh
nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hoá, dịch vụ
nhằm làm thoả mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện
thông qua việc lôi kéo đƣợc hoặc để mất đi một lƣợng khách hàng thƣờng
xuyên ” [1, tr 11]
Do vậy, một cách khái quát, có thể hiểu cạnh tranh là quá trình mà các
chủ thể tìm mọi cách thức để vƣợt lên các đối thủ trong một lĩnh vực nhất
định.
Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa phải là nền kinh tế có
trình độ phát triển ngày càng cao, quan hệ giữa ngƣời với ngƣời là bình đẳng,
xã hội công bằng, văn minh. Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa phải là nền kinh tế:
- Đƣợc xây dựng trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, đa dạng hóa
thành phần kinh tế, mọi chủ thể sản xuất, cung ứng dịch vụ phải bình đẳng
trƣớc pháp luật;
- Đƣợc xây dựng trên nguyên tắc tự do kinh doanh, có cơ sở vật chất kỹ
thuật ngày càng hiện đại;
- Sự quản lý, điều tiết của Nhà nƣớc phải tuân theo các quy luật của cơ
chế thị trƣờng.
Khi các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc giao quyền tự chủ tài chính thì cơ
chế quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp đƣợc thay đổi phù hợp với cơ chế
thị trƣờng, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động khai thác nguồn thu, tiết
kiệm chi tiêu, đa dạng hóa hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lƣợng dịch vụ
sự nghiệp công, bảo đảm lợi ích cho ngƣời lao động trong đơn vị và ngƣời sử
dụng dịch vụ.
Thứ hai, việc áp dụng quyền tự chủ tài chính cho đơn vị sự nghiệp có
thu phù hợp với xu thế xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, huy động mọi
nguồn lực trong xã hội, san sẻ gánh nặng chi tiêu cho Ngân sách Nhà nƣớc và
28. 28
khắc phục tâm lý ỷ lại vào Ngân sách Nhà nƣớc. Đồng thời, phù hợp với
thông lệ quốc tế về xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp. Nhất là khi Việt Nam
tham gia hội nhập quốc tế trên hầu hết các lĩnh vực.
Sau khi bƣớc vào thời kỳ đổi mới kinh tế, nhu cầu xã hội về các dịch vụ
sự nghiệp, giáo dục, y tế, khoa học, văn hóa tăng lên rất nhiều, đồng thời đòi
hỏi về chất lƣợng sự nghiệp cũng đặt ra ngày càng cao. Trong khi đó, khả
năng tài chính của Nhà nƣớc tuy đƣợc mở rộng, nhƣng chƣa thể đáp ứng đƣợc
yêu cầu của xã hội. Sự hạn chế này chắc chắn còn kéo dài. Vì vậy, việc thu
hút các nguồn lực xã hội vào việc phát triển lĩnh vực sự nghiệp là hết sức cần
thiết. Mặt khác, khi có nhiều nguồn đóng góp, tham gia ngay tại cơ sở thì khả
năng tiếp cận và đáp ứng sát với nhu cầu tại chỗ song song với điều kiện giám
sát trực tiếp chắc chắn sẽ đảm bảo nâng cao hiệu quả và chất lƣợng hoạt động
sự nghiệp hơn là chỉ dựa vào một nguồn Nhà nƣớc. Đó chính là công tác xã
hội hoá các hoạt động sự nghiệp.
Xã hội hóa với cách hiểu là chuyển từ cơ chế một nguồn là Nhà nƣớc đảm
trách sang cơ chế toàn xã hội cùng lo bảo đảm. Hoạt động này có thể thực hiện
dƣới hai hình thức. Một là, hoạt động sự nghiệp vẫn do các tổ chức Nhà nƣớc chịu
trách nhiệm nhƣ trƣờng công, bệnh viện công... Nhƣng, ngƣời dân đƣợc hƣởng lợi
trực tiếp từ các dịch vụ sự nghiệp đó (ngƣời đi học, khám chữa bệnh...) phải đóng
góp lệ phí theo quy định (học phí, viện phí...). Hai là, Nhà nƣớc tạo điều kiện
thành lập những tổ chức sự nghiệp ngoài công lập dƣới hình thức bán công, dân
lập, tƣ nhân.
Tác dụng của xã hội hóa không đơn giản chỉ là chia sẻ một phần nguồn
chi thay cho phần hạn hẹp của Ngân sách Nhà nƣớc. Mặc dù tác dụng chia sẻ
nguồn lực là rất quan trọng, nhƣng quan trọng cũng không kém là khi cả xã
hội tham gia vào việc cung cấp nguồn lực cho hoạt động sự nghiệp thì cả xã
hội cũng đƣơng nhiên có trách nhiệm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và cách
tham gia quản lý, sử dụng các nguồn lực đó sao cho có hiệu quả nhất cho sự
29. 29
phát triển. Đồng thời, xã hội hóa cũng làm giảm thói quen ỷ lại vào Ngân sách
Nhà nƣớc và làm tăng tính chủ động, năng động cơ sở.
Để bảo đảm quyền tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu, Nhà
nƣớc sử dụng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau để tác động đến các quan
hệ tài chính nhƣ biện pháp giáo dục, chính trị, tƣ tƣởng, kinh tế, pháp luật...
Trong đó, quản lý bằng pháp luật là biện pháp quan trọng và chủ yếu. Ƣu thế
của pháp luật so với các công cụ quản lý khác xuất phát từ các thuộc tính của
pháp luật.
Thuộc tính của pháp luật là những tính chất, dấu hiệu riêng biệt, đặc
trƣng của pháp luật. Thuộc tính của pháp luật những dấu hiệu để phân biệt
pháp luật với các hiện tƣợng xã hội khác. Các thuộc tính đó là: tính quy phạm
phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính đƣợc bảo đảm bằng
Nhà nƣớc.
Điều chỉnh pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
là tất yếu khách quan trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng. Do vậy, cần thiết
phải làm rõ khái niệm điều chỉnh pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp có thu.
Thế nào là điều chỉnh pháp luật, vấn đề này về mặt lý luận đến nay còn
có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng điều chỉnh pháp luật chính là việc ban hành pháp
luật. Những hoạt động nào của Nhà nƣớc mà không liên quan đến việc nhận
thức nhu cầu điều chỉnh pháp luật và định ra pháp luật để đáp ứng nhu cầu
điều chỉnh này thì không phải là hoạt động điều chỉnh pháp luật. Theo quan
điểm này, thì việc điều chỉnh pháp luật chỉ dừng lại ở sự mô hình hóa, trật tự
hóa. [34, tr 214-216]
Cũng có quan điểm cho rằng điều chỉnh pháp luật là việc Nhà nƣớc sử
dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động theo những hƣớng
nhất định vào các quan hệ xã hội. Theo quan điểm này thì điều chỉnh pháp
30. 30
luật không chỉ dừng lại ở việc trật tự hóa mà còn bao gồm cả việc tác động
đến tổ chức hoạt động của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. [34, tr 214-
216]
Lại có quan điểm về điều chỉnh pháp luật theo nghĩa rộng, đó là việc
dùng toàn bộ thƣợng tầng pháp lý để tác động vào các quan hệ xã hội và thực
hiện các quy phạm pháp luật, chấp hành pháp luật và làm theo pháp luật. Nếu
theo quan điểm này thì rất khó phân biệt đâu là chủ thể quan hệ pháp luật, đâu
là chủ thể điều chỉnh pháp luật. [34, tr 214-216]
Trên cơ sở các quan điểm về điều chỉnh pháp luật nói chung, chúng tôi
cho rằng, điều chỉnh pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có
thu là việc Nhà nước dùng pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp có thu và dựa vào pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp có thu để điều chỉnh các quan hệ tài chính mà đơn vị sự nghiệp có thu
tham gia trong quá trình thực hiện quyền tự chủ tài chính của đơn vị mình,
tác động theo những hướng nhất định vào các quan hệ tài chính đó nhằm
thiết lập, duy trì một trật tự xã hội trong quá trình thực hiện quyền tự chủ tài
chính của đơn vị sự nghiệp có thu.
Điều chỉnh pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
không chỉ dừng lại ở sự mô hình hóa mà còn là việc Nhà nƣớc sử dụng pháp luật
về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu để điều chỉnh các quan hệ tài
chính mà các đơn vị sự nghiệp có thu tham gia khi thực hiện quyền tự chủ tài
chính của đơn vị mình, tác động theo những hƣớng nhất định vào các quan hệ
đó, tức bao gồm cả việc tác động đến tổ chức hoạt động của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu.
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về tự chủ tài chính trong các đơn vị
sự nghiệp có thu ở Việt nam
Trƣớc năm 1986, trong suốt một thời gian dài, việc quản lý đối với các
đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam đƣợc quy định và áp dụng nhƣ đối với
31. 31
các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc. Các cơ quan, đơn vị này đƣợc gọi
chung là các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động giống nhƣ một cơ quan quản lý
hành chính. Kế hoạch và chƣơng trình hoạt động thƣờng đƣợc cấp trên giao.
Để thực hiện các kế hoạch đó, Nhà nƣớc cấp kinh phí cho các đơn vị. Các
hoạt động của đơn vị nằm ngoài danh mục Nhà nƣớc quyết định đều không có
kinh phí.
Mặt khác, về tổ chức cán bộ, cấp trên quyết định chỉ tiêu biên chế không
chỉ cho toàn đơn vị mà cả đến cấp dƣới. Việc lựa chọn cán bộ, sắp xếp lƣơng, cử
cán bộ đi học nƣớc ngoài, chuyển cơ quan, thành lập đơn vị trực thuộc mới…
đều phải đƣợc cấp trên duyệt, quyết định.
Với quy định cứng nhắc nhƣ trên, các đơn vị sự nghiệp có thu có rất ít
quyền tự chủ trong hoạt động của mình trong khi hoạt động sự nghiệp thƣờng
có tính chuyên môn đặc thù. Do vậy, không phải khi nào cán bộ quản lý cấp
trên cũng hiểu rõ đƣợc chuyên môn của đơn vị cấp dƣới để ra các quyết định
đúng đắn và kịp thời.
Mặt khác, cũng nhƣ các cơ quan quản lý hành chính khác, các đơn vị sự
nghiệp cũng tồn tại một thực trạng là “tập trung, quan liêu, bao cấp”. Tuy
nhiên, trong lĩnh vực sự nghiệp, những tồn tại này khó nhận rõ vì rất khó phân
biệt giữa bao cấp và Nhà nƣớc cung cấp. Chính vì vậy, trong khoảng thời gian
dài, hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp có thu không đáp ứng đƣợc
những yêu cầu của xã hội.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Nhà nƣớc đã ban hành một số
văn bản pháp luật nhằm cải cách phƣơng thức quản lý đối với các cơ quan hành
chính Nhà nƣớc và các đơn vị sự nghiệp. Trong đó, phƣơng thức quản lý tài
chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc thực hiện theo Thông tƣ số
01TC/HCVX ngày 04/01/1994 quy định tạm thời chế độ quản lý tài chính đối
với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, các Đoàn thể, hội quần chúng tổ chức
32. 32
hoạt động có thu. Tiếp đó là Thông tƣ số 25TC/TCT ngày 28/03/1994 hƣớng
dẫn, sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tƣ số 01TC/HCVX. Tuy nhiên,
theo các quy định ở hai văn bản này, việc quản lý tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp có thu đƣợc quy định gần nhƣ quy chế quản lý tài chính đối với cơ quan
hành chính Nhà nƣớc. Cụ thể, quản lý tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có
thu đƣợc thực hiện theo đúng chu trình quản lý Ngân sách Nhà nƣớc, tức là bao
gồm ba khâu: lập, chấp hành và quyết toán ngân sách.
Trong chu trình quản lý Ngân sách Nhà nƣớc, lập dự toán ngân sách là
khâu rất quan trọng. Đối với công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự
nghiệp có thu, lập dự toán ngân sách là hoạt động đầu tiên mà các đơn vị phải
thực hiện. Các đơn vị lập dự toán ngân sách hàng năm dựa trên cơ sở số liệu
ƣớc thực hiện dự toán của năm trƣớc năm kế hoạch; các chỉ tiêu năm kế
hoạch đƣợc cấp có thẩm quyền giao cho đơn vị; nhiệm vụ công tác, đề án
nghiên cứu khoa học đƣợc duyệt, các lớp tập huấn, các chƣơng trình mục tiêu
phải thực hiện; số dự kiến về kinh phí đƣợc cơ quan tài chính bố trí và các chế
độ, tiêu chuẩn, định mức do Nhà nƣớc quy định. Dự toán ngân sách năm của
đơn vị đƣợc gửi cho cơ quan tài chính cấp trên.
Các đơn vị sự nghiệp có thu cũng thực hiện các quy định về chấp hành
Ngân sách Nhà nƣớc. Về nguyên tắc, những dự toán về thu, chi Ngân sách
Nhà nƣớc có thể trở thành hiện thực hay không là tùy thuộc vào việc điều
hành hoạt động Ngân sách Nhà nƣớc.
Chấp hành dự toán trong các đơn vị sự nghiệp đƣợc thực hiện theo quy
định sau: các khoản chi khi chuẩn bị thực hiện, cán bộ tài chính của đơn vị
phải dựa vào chế độ, tiêu chuẩn, định mức đƣợc Nhà nƣớc ban hành; các
khoản lƣơng, phụ cấp, học bổng học sinh, sinh viên, trợ cấp xã hội phải căn
cứ vào danh sách mức lƣơng, mức trợ cấp xã hội theo chế độ hiện hành đã
đƣợc duyệt để lập danh sách chi trả; các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, kinh phí công đoàn phải dựa theo chế độ trích lập cụ thể. Các khoản chi
33. 33
cho tổ chức hội nghị, công tác phí, chi phí điện thoại, mua sắm tài sản,
phƣơng tiện, trang thiết bị đã đƣợc quản lý chặt chẽ hơn, đã cắt giảm một số
khoản chi không cần thiết.
Quyết toán Ngân sách Nhà nƣớc là khâu cuối cùng của một chu trình
ngân sách. Quyết toán ngân sách đƣợc thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc nhìn nhận lại quá trình chấp hành Ngân sách Nhà nƣớc qua
một năm.
Quyết toán ngân sách trong các đơn vị sự nghiệp đƣợc thực hiện theo
quy định rất chặt chẽ. Đến 31/12, các khoản chi cấp phát từ Ngân sách Nhà
nƣớc còn tồn lại thì về nguyên tắc sẽ bị thu hồi về Ngân sách Nhà nƣớc.
Trong các trƣờng hợp đặc biệt, khoản kinh phí này sẽ đƣợc chuyển sang năm
sau để sử dụng tiếp nhƣng phải đƣợc sự phê duyệt của cơ quan quản lý tài
chính có thẩm quyền (Bộ Tài chính phê duyệt đối với các đơn vị sự nghiệp
thuộc trung ƣơng quản lý, Sở Tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc địa
phƣơng quản lý).
Phƣơng thức quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu theo Thông tƣ số
01TC/HCVX đã phần nào đáp ứng đƣợc nhu cầu của nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc, theo định hƣớng
XHCN. Tuy nhiên, phƣơng thức quản lý này vẫn phản ánh dấu ấn của sự quản lý tập
trung, quan liêu, bao cấp, thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Việc phân bổ Ngân sách Nhà nƣớc còn quá dàn trải. Cụ thể là cùng
một thời gian đã đƣa ra nhiều chƣơng trình, mục tiêu hoạt động mà không bảo
đảm đủ kinh phí để thực hiện dứt điểm từng mục tiêu.
- Tƣơng quan giữa các khoản chi cho con ngƣời (lƣơng và các khoản chi
có tính chất lƣơng) và các khoản chi sự nghiệp khác chƣa hợp lý. Các khoản
chi lƣơng, có tính chất lƣơng không tƣơng xứng với đóng góp của ngƣời lao
động. Mặc dù chế độ lƣơng đã qua nhiều lần cải cách, mức lƣơng tối thiểu đã
đƣợc nâng cao hơn nhƣng do đội ngũ cán bộ công chức khá lớn nên thu nhập
34. 34
bình quân nói chung và lƣơng bình quân nói riêng còn ở mức thấp, không phản
ánh đúng ý nghĩa của tiền lƣơng. Tiền lƣơng còn mang nặng tính hình thức,
danh nghĩa và chƣa thực sự là động lực để phát huy, kích thích tính tích cực,
sáng tạo của cán bộ, công chức trong việc nâng cao chất lƣợng hoạt động sự
nghiệp.
- Nhiều tiêu chuẩn, định mức chi tiêu đã quá lạc hậu và không còn phù
hợp với thực tế. Nhiều hoạt động chuyên ngành chƣa có định mức chi tiêu
nên thiếu căn cứ pháp lý cho công tác lập dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm
soát chi tiêu. Một số định mức chi tiêu đƣợc ban hành nhƣng không căn cứ
vào khả năng thu của ngân sách nên thiếu tính hiện thực. Dự toán nhiều khoản
chi đƣợc tính theo đầu ngƣời, quỹ lƣơng. Chính vì vậy, không khuyến khích
các đơn vị sử dụng tiết kiệm lao động mà còn có tác dụng ngƣợc lại, ngầm
khuyến khích các đơn vị tăng biên chế để đƣợc kinh phí nhiều hơn. Một số
Bộ, địa phƣơng đã ban hành các văn bản quy định về chế độ chi tiêu nội bộ
mà không có ý kiến tham gia của cơ quan tài chính. Thực trạng đó đã phá vỡ
tính thống nhất trong quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp.
- Các quy định tại các văn bản trên chƣa xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ giữa các cơ quan quản lý hành chính và đơn vị sự nghiệp. Hậu quả là dẫn
đến tình trạng hành chính hoá các hoạt động sự nghiệp. Sự can thiệp quá sâu
của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc vào hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
dẫn tới sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ cũng nhƣ về cách thức quản lý
tài chính của các chủ thể này.
- Công tác lập, chấp hành, quyết toán ngân sách bộc lộ nhiều bất cập.
Trong khâu lập dự toán ngân sách, do chƣa làm tốt công tác hƣớng dẫn
lập dự toán cho các đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách, cho nên, chất lƣợng
xây dựng dự toán không cao, ảnh hƣởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của
các đơn vị. Việc cấp phát đƣợc thực hiện theo hạn mức kinh phí cho từng mục
chi, do đó, hết năm ngân sách, nếu đơn vị không chi hết thì phần hạn mức
35. 35
thừa sẽ bị hủy bỏ. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng sử dụng các
khoản chi không đúng mục đích và tình trạng tồn kinh phí ngân sách tại các
đơn vị. Thế nhƣng, do chất lƣợng công tác lập dự toán còn hạn chế nên dẫn
đến tình trạng nhiều đơn vị thừa hạn mức kinh phí ở mục này nhƣng lại thiếu
kinh phí hoạt động ở mục khác. Điều này đã dẫn đến một thực tế là nhiều đơn
vị phải tìm cách sử dụng hết kinh phí đƣợc cấp trong năm làm cho Ngân sách
Nhà nƣớc bị sử dụng lãng phí.
Trong khâu chấp hành dự toán Ngân sách Nhà nƣớc, công tác kiểm tra,
giám sát việc sử dụng kinh phí còn buông lỏng, làm cho việc sử dụng kinh phí
kém hiệu quả. Mặt khác, trình độ quản lý của một bộ phận thủ trƣởng đơn vị còn
thấp, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý tài chính của đơn vị. Cho nên, khi phát
sinh nhu cầu chi đột xuất hoặc nguồn thu không đạt dự toán dẫn đến tình trạng
mất cân đối thu, chi thì thủ trƣởng đơn vị còn lúng túng không linh hoạt tìm
kiếm các biện pháp cần thiết để giải quyết kịp thời.
Trong khâu quyết toán, tài liệu quyết toán chƣa đƣợc xây dựng chi tiết,
đầy đủ do việc phân cấp về hạch toán kế toán Ngân sách Nhà nƣớc không rõ
ràng giữa các cơ quan chức năng về quản lý tài chính. Nhiều thủ trƣởng đơn
vị chƣa nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc duyệt quyết toán. Mặt
khác, có quá nhiều cơ quan tham gia duyệt quyết toán dẫn đến sự chồng chéo,
lãng phí, gây thất thoát cho Ngân sách Nhà nƣớc.
- Công tác quản lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp còn nhiều bất cập.
Việc kiểm kê, đánh giá tài sản chƣa đƣợc thực hiện thƣờng xuyên; tiêu chuẩn
trang thiết bị, phƣơng tiện làm việc chƣa đƣợc ban hành nên việc mua sắm tài
sản của các đơn vị còn có sự chênh lệch. Cơ sở vật chất của nhiều đơn vị còn
chắp vá, chƣa có quy hoạch tổng thể. Việc sử dụng tài sản còn chƣa đúng mục
đích và công dụng. Có đơn vị sử dụng trụ sở để cho thuê kinh doanh hoặc
phân phối cho cán bộ công chức làm nhà ở.
36. 36
Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, Nhà nƣớc ta
đã quyết tâm đổi mới cách thức quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp mà bắt
đầu từ các đơn vị sự nghiệp có nguồn thu. Trong đó, các đơn vị sự nghiệp có
thu hoạt động trong lĩnh vực sự nghiệp giáo dục, y tế và văn hóa là các lĩnh vực
tiên phong và có nhiều khả năng mở rộng quy mô, nâng cao chất lƣợng hoạt
động, phát triển nguồn thu. Nhà nƣớc chủ trƣơng thực hiện xã hội hóa phần
lớn các lĩnh vực sự nghiệp này. Đồng thời, Nhà nƣớc giữ lại một bộ phận hoạt
động sự nghiệp không thể tạo nguồn thu hoặc không đƣợc phép thu. Đó là lĩnh
vực giáo dục tiểu học; dịch vụ y tế cho trẻ em, ngƣời nghèo, đối tƣợng chính
sách; văn hóa dân gian; dịch vụ ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có thu nhập
thấp…
Để triển khai thực hiện đổi mới phƣơng thức quản lý đối với đơn vị sự
nghiệp có thu, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21/08/1997
về phƣơng hƣớng và chủ trƣơng xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hóa. Tuy nhiên, sau hai năm ban hành Nghị quyết này thì công tác xã hội hóa
các đơn vị sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa vẫn chƣa trở thành hiện thực.
Trƣớc tình hình đó, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 73/1999/NĐ-
CP ngày 19/08/1999 về khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Nghị định này đƣợc đánh giá là cơ
sở pháp lý quan trọng trong việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập
có thu mà Nhà nƣớc không cần nắm giữ sang hình thức bán công, dân lập và
tƣ thục. Theo đó, các cơ sở ngoài công lập khi thành lập, hoạt động đƣợc
hƣởng nhiều ƣu đãi về cơ sở vật chất, hỗ trợ trả lƣơng đối với biên chế khung,
miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp... Tuy vậy, công tác xã hội hóa mới
chỉ đƣợc thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực giáo dục. Đối với các lĩnh vực còn
lại, chỉ dừng lại ở việc xây dựng phƣơng hƣớng, kế hoạch thực hiện. Thực tế
cho thấy, tâm lý ngại thay đổi, trông chờ sự giúp đỡ, bao bọc từ phía Nhà
37. 37
nƣớc vẫn là cản trở lớn trong việc đổi mới phƣơng thức quản lý đối với đơn vị
sự nghiệp có thu nói chung.
Tiếp đó, Quyết định số 230/1999/QĐ - TTG (tháng 12/1999) đƣợc ban
hành về việc giao nhiệm vụ cho Thành phố Hồ Chí Minh thí điểm áp dụng
khoán chi ngân sách hay còn gọi là phân bổ ngân sách trọn gói. Văn bản này có
quy định linh hoạt hơn về nhân sự đã đƣợc áp dụng thí điểm ở 10 quận, huyện
và sở của thành phố. Các đơn vị đƣợc lựa chọn áp dụng thí điểm thuộc 4 quận
(quận 1, 3,5 và 11), 3 huyện (Củ Chi, Bình Chánh và Nhà Bè) và 3 sở (Sở Giao
thông công chính, Sở Lao động thƣơng binh xã hội và Sở Tƣ pháp).
Theo chƣơng trình thí điểm, việc cấp ngân sách cho các cơ quan hành
chính này đƣợc chuyển sang hình thức khoán chi với mức khoán chi đƣợc ổn
định trong 3 năm. Trong phạm vi Ngân sách đƣợc giao ổn định, các cơ quan
có thể bố trí lại chi tiêu giữa các khoản mục mà không cần có sự cho phép đặc
biệt trƣớc khi thực hiện. Các cơ quan hành chính đƣợc chủ động tinh giản
biên chế và sắp xếp lại thứ tự ƣu tiên cho các khoản chi hành chính (ngoại trừ
trƣờng hợp ngoại lệ). Mọi khoản kinh phí tiết kiệm đƣợc đều có thể đƣợc giữ
lại và sử dụng để tăng thu nhập cho cán bộ, nhân viên thông qua tăng lƣơng
hoặc thƣởng. Vì vậy, các cơ quan hành chính phải chọn cách làm thế nào để
vừa giảm đƣợc các khoản chi tiêu lại vừa tinh giản đƣợc số biên chế không có
năng lực và mối liên hệ trực tiếp giữa giảm kinh phí với tăng thu nhập chính
là động lực mạnh mẽ để thực hiện đồng thời hai mục tiêu này.
Trong năm đầu thực hiện Quyết định số 230/1999/QĐ - TTG, tất cả các cơ
quan hành chính thực hiện khoán chi báo cáo đã giảm đƣợc đáng kể kinh phí
hành chính với số kinh phí tiết kiệm đƣợc dao động từ 13% - 29%. Phần lớn các
khoản kinh phí tiết kiệm đƣợc là từ chi phí điện thoại, điện, nƣớc, nhiên liệu, sửa
chữa và bảo dƣỡng định kỳ, mua hàng hóa và dịch vụ, in ấn và đóng tài liệu.
Phần lớn các đơn vị đã tinh giản đƣợc khoảng 15% số biên chế so với mức biên
chế cho phép, một số đơn vị còn giảm biên chế ở tỷ lệ lớn hơn. Hầu nhƣ không
38. 38
có yếu tố nào cho thấy sự suy giảm chất lƣợng dịch vụ ở các đơn vị đƣợc thí
điểm.
Trên cơ sở áp dụng thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ đã
quyết định mở rộng thí điểm khoán chi ngân sách cho các cơ quan quản lý
hành chính ở các địa phƣơng khác. Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 192/2001/QĐ-TTG ngày 17/01/2001 về mở rộng thí điểm khoán biên
chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính Nhà nƣớc.
Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày
16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu (gọi tắt là
Nghị định 10). Văn bản này quy định việc áp dụng dự toán ngân sách theo
hình thức khoán chi đối với các đơn vị sự nghiệp có thu.
Trong thời gian này, Luật Ngân sách Nhà nƣớc năm 2002 đƣợc Quốc
hội thông qua vào tháng 12/2002 và có hiệu lực thi hành vào tháng 01/2004
thay thế Luật Ngân sách Nhà nƣớc năm 1996. Trong chừng mực nhất định,
Luật Ngân sách Nhà nƣớc 2002 mở rộng nguyên tắc chủ động chi ngân sách
thƣờng xuyên ra đối với tất cả các đơn vị thụ hƣởng ngân sách. Nghĩa là, Luật
đã quy định thêm quyền chủ động ngân sách cho các đơn vị thụ hƣởng trên
phạm vi rộng hơn. Tuy nhiên, quyền tự chủ chi ngân sách ở Luật này hẹp hơn
so với Quyết định số 192/2001/QĐ-TTG và Nghị định số 10/2002/NĐ-CP.
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP và Thông tƣ số 25/2002/TT-BTC của Bộ
tài chính ngày 31/03/2002 hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 10 (gọi tắt là
Thông tƣ 25) đã tạo cơ sở pháp lý cho các đơn vị sự nghiệp tăng thu, bảo đảm
trang trải kinh phí hoạt động, quản lý thống nhất nguồn thu, đẩy mạnh thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc quản lý, sử dụng kinh phí Ngân sách
Nhà nƣớc. Nói cách khác, các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc tự chủ về tài
chính. Đây là một nội dung rất mới, thể hiện sự thay đổi lớn về chất trong
nhận thức về vấn đề quản lý và sử dụng tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu.
39. 39
Sau một thời gian thực hiện, các quy định trong Nghị định số
10/2002/NĐ-CP và Thông tƣ số 25/2002/TT-BTC đã bộc lộ những bất cập
cần khắc phục. Trên cơ sở đánh giá các thành công và những hạn chế trong
các văn bản này, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh công tác xã hội
hoá các hoạt động sự nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25/4/2006 về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức, bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp
đó, Bộ Tài chính ban hành Thông tƣ số 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006
hƣớng dẫn một số điều của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ về
thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập. Theo các văn bản này, quyền tự chủ về tài chính của đơn vị
sự nghiệp có thu bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động bố trí kinh phí để thực hiện
các hoạt động sự nghiệp, kinh phí hoạt động thƣờng xuyên do Ngân sách Nhà
nƣớc cấp đƣợc ổn định trong ba năm và hàng năm đƣợc tăng thêm theo tỷ lệ
do Thủ tƣớng Chính phủ quyết định.
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội
bộ phù hợp với yêu cầu thực tế và khả năng tài chính của đơn vị.
Cùng với việc xác lập và bảo đảm quyền tự chủ tài chính của đơn vị sự
nghiệp có thu, pháp luật cũng đồng thời mở rộng quyền hạn và nâng cao trách
nhiệm của thủ trƣởng đơn vị sự nghiệp. Cụ thể, trên cơ sở định mức kinh tế
kỹ thuật và chế độ chi tiêu hiện hành của Nhà nƣớc, thủ trƣởng đơn vị đƣợc
quyết định mức chi quản lý hành chính (công tác phí, hội nghị phí, công vụ
phí, điện thoại...), chi nghiệp vụ thƣờng xuyên cao hơn hoặc thấp hơn mức chi
do Nhà nƣớc quy định; đƣợc quyết định hệ số điều chỉnh tăng lƣơng...
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc vay tín dụng ngân hàng hoặc Quỹ hỗ trợ
phát triển để mở rộng và nâng cao chất lƣợng hoạt động sự nghiệp, tổ chức sản
40. 40
xuất, cung ứng dịch vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ tiền vay theo quy định của
pháp luật.
- Đối với tài sản cố định sử dụng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ, đơn vị
thực hiện trích khấu hao thu hồi vốn theo quy định áp dụng cho các doanh
nghiệp Nhà nƣớc. Số tiền trích khấu hao tài sản cố định và tiền thu do thanh
lý tài sản thuộc Ngân sách Nhà nƣớc đƣợc để lại đầu tƣ tăng cƣờng cơ sở vật
chất, đổi mới trang thiết bị của đơn vị.
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng hoặc
Kho bạc Nhà nƣớc để phản ánh các khoản thu, chi của hoạt động sản xuất, cung
ứng dịch vụ; mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nƣớc để phản ánh các khoản kinh
phí thuộc Ngân sách Nhà nƣớc.
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động sử dụng số biên chế đƣợc cấp
có thẩm quyền giao, sắp xếp và quản lý lao động phù hợp với chức năng và
nhiệm vụ của đơn vị và tinh giản biên chế theo chủ trƣơng của Nhà nƣớc;
đƣợc thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật lao động
phù hợp với khối lƣợng công việc và khả năng tài chính của đơn vị.
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc tổ chức hoạt động sản xuất, cung ứng
dịch vụ có thu, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nƣớc và đƣợc miễn
giảm thuế theo quy định của pháp luật.
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc khuyến khích tăng thu, tiết kiệm chi,
tăng thu nhập cho ngƣời lao động.
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động điều chỉnh nguồn kinh phí giữa
các mục chi để hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao. Kinh phí Ngân sách Nhà
nƣớc bảo đảm hoạt động thƣờng xuyên và các khoản thu sự nghiệp của đơn vị
cuối năm chƣa chi hết, đơn vị đƣợc chuyển sang năm sau để tiếp tục sử dụng.
- Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc trích lập và sử dụng các loại quỹ nhƣ
Quỹ dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ khen thƣởng, Quỹ phúc lợi và Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp.