SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ QUYÊN
CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUẤN
HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH
NGHIỆP............................................................................................................6
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp.....................................................................................6
1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh nghiệp.............8
1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp.................. 8
1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp..............................................14
1.3. Quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyện chấm dứt doanh
nghiệp............................................................................................................................17
1.3.1. Quyền tự do kinh doanh .................................................................17
1.3.2. Chấm dứt doanh nghiệp trong phạm vi quyền tự do kinh doanh...20
1.4. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp....................................................................20
1.4.1. Khái quát chung về phân loại chấm dứt doanh nghiệp .................20
1.4.2. Nội dung tổng quát các trường hợp chấm dứt doanh nghiệp........21
1.4.3. Chấm dứt doanh nghiệp bởi giải thể...............................................22
1.4.4. Chấm dứt doanh nghiệp bởi phá sản.............................................25
1.5. Bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của việc chấm dứt doanh nghiệp.......29
Kết luận Chương 1.........................................................................................31
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẤM DỨT
DOANH NGHIỆP ..........................................................................................32
2.1. Các quy định hiện hành về giải thể doanh nghiệp.........................................32
2.1.1. Quy định về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp..32
2.1.2. Quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp.................................39
2.1.3. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp ....................................40
2.2. Các quy định về phá sản doanh nghiệp...........................................................43
2.2.1. Quy định về xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ..43
2.2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ yêu cầu mở thủ tục phá sản.........44
2.2.3. Quy định về căn cứ quyết định mở thủ tục phá sản .......................45
2.2.4. Quy định về tuyên bố doanh nghiệp phá sản .................................46
2.3. Các quy định về bảo vệ người thứ ba khi giải thể, phá sản doanh nghiệp 47
2.3.1. Đối với trường hợp giải thể............................................................47
2.3.2. Đối với trường hợp phá sản...........................................................48
2.4. Nguyên nhân khiếm khuyết của pháp luật và áp dụng pháp luật về chấm
dứt doanh nghiệp........................................................................................................50
Kết luận Chương 2.........................................................................................52
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP................................................53
3.1. Các định hướng ...................................................................................................53
3.2. Các giải pháp hoàn thiện....................................................................................56
3.2.1. Giải pháp lập pháp.........................................................................56
3.2.2. Giải pháp thi hành..........................................................................62
3.2.3. Giải pháp tư pháp ..........................................................................63
KẾT LUẬN.....................................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................67
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Quyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT
1. BLDS 2005 : Bộ luật Dân sự năm 2005
2. LDN 2005 : Luật Doanh nghiệp năm 2005
3. Công ty TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn
4. DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng, pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã liên tục được cải cách, theo đó
nhiều loại hình Doanh nghiệp được pháp luật ghi nhận, và ngày càng khẳng
định vai trò to lớn của mình trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Sự phát triển
các loại hình Doanh nghiệp cho thấy nhà làm luật Việt Nam đã chú ý tương
đối thích đáng tới quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, và cũng cho thấy
sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Doanh nghiệp.
Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước hoàn thành sứ mệnh
của mình là tạo lập ra hình thức Doanh nghiệp đa dạng và phong phú cho các
nhà đầu tư lựa chọn. Cụ thể, sau khi thống nhất đất nước, với chính sách mở
cửa, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã cho phép tạo lập công
ty trách nhiệm hữu hạn để thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Kế tiếp đó là
Luật Công ty năm 1990 đã mở ra hai hình thức công ty mà các nhà đầu tư
Việt Nam có thể lựa chọn đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn. Đến năm 1999, tức là sau chín năm thực hiện, Luật Công ty năm 1990 đã
được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp năm 1999, theo đó, đã mở rộng sự lựa
chọn của các nhà đầu tư Việt Nam trong năm hình thức doanh nghiệp - đó là
công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên,
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (mà chủ sở hữu là tổ chức), công
ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã đạt
được những thành thành tựu đáng kể trong việc cải thiện môi trường kinh
doanh, nhưng cũng có nhiều hạn chế. Để khắc phục những hạn chế đó và mở
rộng quyền tự do kinh doanh, tăng cường khả năng gia nhập thị trường, Luật
Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999 và
2
khẳng định quyền của cá nhân được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên. Tuy nhiên, Pháp luật Doanh nghiệp không thể đảm bảo quyền
tự do kinh doanh chỉ bằng việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư tạo lập Doanh
nghiệp, mà còn phải quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư chấm
dứt Doanh nghiệp khi nhà đầu tư mong muốn hoặc khi có sự kiện pháp lý
phát sinh là điều kiện chấm dứt theo luật định.
Có thể nói rằng, chấm dứt Doanh nghiệp không phải là vấn đề mới,
nhưng ở Việt Nam hiện nay vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một
cách đầy đủ về mặt lý luận và thực tiễn. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành quy định về chấm dứt Doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa phản ánh được
bản chất kinh tế và vai trò của chấm dứt Doanh nghiệp. Nhận định này được
minh chứng rõ ràng rằng các quy định về chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp năm 2005 gần như không có sự thay đổi so với các quy định về
chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Các quy định về
điều kiện chấm dứt, các chế tài về vi phạm thủ tục, điều kiện chấm dứt còn bị
bỏ ngỏ. Các quy định về thủ tục chấm dứt tạo ra rào cản lớn cho các nhà đầu
tư muốn thực hiện việc chấm dứt Doanh nghiệp. Những bất cập của pháp luật
về chấm dứt Doanh nghiệp có thể gây khó khăn cho việc bảo đảm quyền tự
do kinh doanh và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư.
Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về chấm dứt Doanh nghiệp có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng thực tiễn để từng bước
mở rộng và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, đặc biệt là trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Do vậy, để tiếp thu có sàng lọc những
thành tựu hiện có, để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về chấm dứt Doanh
nghiệp và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề
này, học viên lựa chọn đề tài “Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt
Nam hiện nay” làm luận văn cao học luật của mình.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân của chúng trong các quy định BLDS 2005, Luật Doanh nghiệp
2005 để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn đã có những đóng góp về mặt lý luận và những phân tích về
mặt thực tiễn.
Luận văn đã đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp.
Trên cơ sở những kiến nghị và giải pháp luận văn đã trở thành một tài
liệu hữu ích cho các học viên nghiên cứu và tham khảo.
4. Tình hình nghiên cứu
Chấm dứt doanh nghiệp không thể xem là một vấn đề mới, bởi lẽ đơn
giản là pháp luật về doanh nghiệp đã ra đời khá sớm trong lịch sử loài người.
Hơn nữa, nó là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động mưu sinh của con
người. Các thương nhân luôn luôn tìm kiếm việc sử dụng công cụ pháp lý để
chấm dứt doanh nghiệp một cách linh hoạt và hữu hiệu. Điều này dẫn đến
việc làm phát sinh nhu cầu nghiên cứu về chấm dứt doanh nghiệp. Thực tế,
pháp luật hiện hành đã đặt ra vấn đề chấm dứt doanh nghiệp. Tuy nhiên việc
nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp hiện nay ở
Việt Nam vẫn được coi là một đề tài có giá trị quan trọng.
Nhận thức rằng nghiên cứu chấm dứt doanh nghiệp không thể không
dựa trên một nền tảng kiến thức pháp lý chung về doanh nghiệp, và từ đó đi
4
sâu phân tích pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp từ lý luận cho tới thực tiễn
và đưa ra kiến nghị cho việc hoàn thiện. Do vậy, cần giới thiệu tình hình
nghiên cứu các vấn đề chung có liên quan và tình hình nghiên cứu trực tiếp về
chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể, có thể thấy một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu như sau:
- Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với pháp luật về phá sản (Vũ
Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 5 năm 2012);
- Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt
Nam (Vũ Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 9 năm
2012);
- Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, thực trạng pháp luật và một số kiến
nghị (Vũ Ngọc Dũng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 3 năm
2013);
- Địa vị pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật phá
sản (Đặng Văn Huy – Tạp chí Dân chủ và pháp luật);
- Thực trạng pháp luật về giải thể doanh nghiệp, một số đánh giá và
kiến nghị hoàn thiện (Đặng Văn Huy – Tạp chí Luật học số 10 năm 2012);
- Hoàng Anh Tuấn, Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt
Nam, Luật án tiến sĩ luật học, 2012.
Tuy nhiên, các công trình nói trên chưa nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện và đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp. Kế
thừa những công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của giới khoa
học pháp lý trong nước, Tác giả quyết tâm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp,
hành pháp về vấn đề này cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.
5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành đang tồn tại một số khái
niệm chưa được làm rõ hoàn toàn như: khái niệm Doanh nghiệp, khái niệm
Công ty. Do vậy, để có thể nghiên cứu một cách chuyên sâu, tác giả xác định
đối tượng nghiên cứu là những Doanh nghiệp có tư cách chủ thể độc lập, có
tư cách pháp nhân. Với đề tài nghiên cứu đã chọn, tác giả chỉ tập trung giải
quyết vấn đề pháp lý của việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005.
6. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân
tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thống kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình
hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định
của pháp luật hiện hành về chấm dứt doanh nghiệp, qua đó chỉ ra các khiếm
khuyết, bất cập.
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn
áp dụng pháp luật.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng
6
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước
ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu hoặc so sánh giữa pháp
luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực
hay tụt hậu.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận văn được bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chấm dứt doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp
Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chấm dứt
doanh nghiệp
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp
Từ góc nhìn ngôn ngữ, từ “enterprise” của tiếng Anh thường được dịch
sang tiếng Việt hiện nay là “Doanh nghiệp”, nhưng những năm đầu của thời
kỳ đổi mới theo Nghị quyết Trung ương VI, người ta đã từng dịch là “xí
nghiệp”). Ở Liên hiệp Vương quốc Anh có đạo luật được gọi là “Enterprise
Act 2002”. Trong Đạo luật này, tại Điều 129 quy định nguyên văn tiếng Anh:
“Enterprise” “means the activities, or part of the activities, of a business” [54,
tr 46] tức là nó được xem là các hoạt động, hoặc một phần của các hoạt động
của một việc kinh doanh.
7
Theo Deluxe Black’s Law Dictionary, “enterprise” trong pháp luật Hoa
Kỳ được hiểu theo hai nghĩa với các hoàn cảnh khác nhau. Nghĩa chung nhất
xem “enterprise là công cuộc, dự án hay cam kết kinh doanh” [58, tr 531].
Như vậy có thể hiểu “enterprise” là một hành vi thương mại.
Tuy nhiên, người ta thường hiểu doanh nghiệp là thực thể kinh doanh:
Doanh nghiệp là khái niệm chung nhất để chỉ các loại hình doanh
nghiệp, trong đó công ty là một loại hình doanh nghiệp”, và “công ty là một
loại hình doanh nghiệp với năm đặc điểm cơ bản i) là pháp nhân; ii) tách biệt
và là chủ thể pháp lý độc lập với chủ sở hữu” [50, tr 6].
Pháp luật Doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay cũng xác định Doanh
nghiệp là chủ thể kinh doanh, cụ thể Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005
định nghĩa:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Như vậy, khái niệm doanh nghiệp theo quan niệm của pháp luật Việt
Nam thường dùng để chỉ những chủ thể kinh doanh có đăng ký kinh doanh,
bao gồm cả Doanh nghiệp tư nhân mà bản chất của Doanh nghiệp này chỉ là
cá nhân kinh doanh.
Thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam cho thấy, việc xem xét tư cách
pháp lý của doanh nghiệp tư nhân có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan
điểm thậm chí không chấp nhận doanh nghiệp tư nhân là một chủ thể của quan
hệ pháp luật. Quan điểm này đang hiện hữu tại các Phòng Đăng ký kinh doanh,
biểu hiện cụ thể là họ không chấp nhận Doanh nghiệp tư nhân là một cổ đông
hay thành viên Công ty TNHH. Có lẽ quan điểm này xuất phát từ việc quy định
thiếu thống nhất về tư cách chủ thể của Doanh nghiệp tư nhân trong Pháp luật
8
Doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể:
Với quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp thì DNTN đương
nhiên được hiểu là một chủ thể kinh doanh:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, với quy định tại Khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005
thì DNTN không được coi là một chủ thể của quan hệ pháp luật:
Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên
quan đến doanh nghiệp.
Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm về bản chất Doanh nghiệp và để
thống nhất trong nghiên cứu, Luận văn đã giới hạn phạm vi nghiên cứu và chỉ
tập trung nghiên cứu việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005.
1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh
nghiệp
1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp 2005 không có khái niệm cụ thể về chấm dứt doanh
nghiệp, tuy nhiên có quy định một số trường hợp cụ thể về chấm dứt doanh
nghiệp. Cụ thể: Khoản 3 Điều 150 quy định: Công ty bị chia chấm dứt tồn tại
sau khi các công ty mới được đăng ký kinh doanh; Khoản 4 Điều 152 quy
định: Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại;
điểm c Khoản 2 Điều 153 quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị
sáp nhập chấm dứt tồn tại; Khoản 3 Điều 154 quy định: Sau khi đăng ký kinh
9
doanh, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại; Đối với trường hợp giải thể
thì Luật quy định: cơ quan đăng ký kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ
đăng ký kinh doanh.
Điều 99 BLDS 2005 quy định về chấm dứt pháp nhân, theo đó pháp
nhân chấm dứt trong các trường hợp: hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp
nhân; chia pháp nhân; giải thể pháp nhân; Bị tuyên bố phá sản theo quy định
của pháp luật về phá sản. Pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm xoá tên trong
sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp thì Bộ luật Dân sự không quy định
trường hợp châm dứt do chuyển đổi hình thức pháp nhân. Chỉ với việc quy
định các trường hợp chấm dứt pháp nhân, pháp luật Việt Nam hiện hành đã
bộc lộ nhiều mâu thuẫn và đặc biệt là nhận thức về chấm dứt pháp nhân còn
quá mơ hồ, việc dùng thuật ngữ quá tuỳ tiện, cụ thể:
Bộ luật Dân sự 2005 sử dụng thuật ngữ “chấm dứt pháp nhân”. Tác giả
cho rằng việc dùng thuật ngữ này đảm bảo tính chính xác và đầy đủ về mặt
pháp lý. Tuy nhiên, Bộ luật này quy định các trường hợp chấm dứt pháp nhân
là chưa phù hợp. Bởi lẽ pháp nhân chưa thể chấm dứt trong các trường hợp:
hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp nhân; chia pháp nhân. Vấn đề này có thể
luận giải như sau:
Đối với trường hợp hợp nhất pháp nhân: Bản chất pháp lý của vấn đề
này là hai hoặc nhiều pháp nhân được hợp nhất lại thành pháp nhân mới bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang pháp
nhân mới. Sự kiện pháp lý này có thể dùng cách ví von như “con dã tràng
sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh
trưởng của mình” [19, tr 181]. Trường hợp này, các quyền yêu cầu và nghĩa
10
vụ của doanh nghiệp vẫn tồn tại. Do vậy, không thể coi là chấm dứt doanh
nghiệp.
Tương tự, việc sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân thì trách nhiệm
liên đới vẫn hiện hữu và quyền yêu cầu của người thứ ba cũng vẫn được đảm
bảo. Do vậy, không thể coi đó là chấm dứt doanh nghiệp.
Như vậy, việc chấm dứt có thể được chấp nhận đối với trường hợp:
giải thể pháp nhân và pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp
luật về phá sản.
Thời điểm chấm dứt được xác định kể từ thời điểm xóa tên trong sổ
đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định này không đảm bảo tính chặt chẽ,
bởi lẽ việc xóa tên thường không đi liền với việc xóa bỏ mọi trách nhiệm, hay
việc xóa tên không đương nhiên là căn cứ chấm dứt quyền yêu cầu của người
thứ ba đối với pháp nhân, bởi một trong những quyền hiến định của các chủ
thể là được bảo hộ về quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp.
Luật Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành, nhưng không
những không đủ “dũng cảm” để sử dụng quyền năng pháp lý của mình, mà
còn “rón rén” và thiếu tri kiến pháp lý cơ bản khi quy định về chấm dứt doanh
nghiệp. Cụ thể, Luật này sử dụng thuật ngữ “chấm dứt tồn tại” đối với các
trường hợp công ty bị chia; công ty bị hợp nhất; công ty bị sáp nhập; công ty
được chuyển đổi. Về mặt pháp lý, chấm dứt tồn tại theo quy định của Luật
doanh nghiệp được hiểu như thế nào:
+ Đối với công ty bị chia, Luật Doanh nghiệp quy định “Các công ty
mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán,
hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia hoặc thỏa
thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong số các công ty
11
đó thực hiện các nghĩa vụ này”. Như vậy, nghĩa vụ của công ty bị chia chưa
chấm dứt, quyền yêu cầu của người thứ ba vẫn hiện hữu. Chỉ có tên gọi của
Công ty bị chia là không còn tồn tại.
+ Đối với công ty bị hợp nhất, Luật Doanh nghiệp quy định: Sau khi
đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; công ty hợp
nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các
khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác
của các công ty bị hợp nhất.
+ Tương tự, đối với công ty bị tách Luật Doanh nghiệp quy định: công
ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách, công ty mới thành lập, chủ nợ,
khách hàng và người lao động của công ty bị tách có thoả thuận khác.
Từ các luận giải nêu trên cho thấy, chấm dứt tồn tại của Doanh nghiệp,
theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là chấm dứt sự tồn tại
của tên gọi Doanh nghiệp đó mà thôi. Và về thời điểm chấm dứt, Luật xác
định là sau khi đăng ký kinh doanh. Đối với trường hợp giải thể thì xác định
từ thời điểm bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh.
Với đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
theo Luật Doanh nghiệp 2005, tác giả cho rằng chấm dứt doanh nghiệp là
chấm dứt tư cách pháp nhân của Doanh nghiệp. Sự kiện pháp lý này phát sinh
làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh nghiệp đối với người thứ ba, chấm dứt
nghĩa vụ trả nợ của Doanh nghiệp – người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối
với Doanh nghiệp. Khác với chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, chỉ là
chuyển đổi hình thức kết cấu của doanh nghiệp, không làm chấm dứt hay thay
đổi nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đó. Giống như câu ví von của Maurice
12
Cozian và Alain Viandier rằng “chuyển đổi hình thức công ty như hình ảnh dã
tràng sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh
trưởng của mình” [19, tr 181]; Khác với chia doanh nghiệp, hợp nhất, sáp
nhập doanh nghiệp, quyền yêu cầu của người thứ ba trong trường hợp này
không bị chấm dứt.
Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp 2005
được xác định là Công ty Cổ phần, Công ty TNHH và Công ty Hợp danh. Về
mặt pháp lý, các doanh nghiệp này được tạo lập nên bởi ý chí của các thành
viên. Vấn đề này, có quốc gia quy định cụ thể trong luật thực định, có quốc
gia không quy định. Ví dụ: Ở Pháp, trừ công ty do một người thành lập, các
công ty khác đều được thành lập trên cơ sở hợp đồng, “công ty do hai hay
nhiều người thành lập trên cơ sở thoả thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp,
sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm
chia lãi hoặc thu lợi” [7, Điều 1832]; ở Ý, trong Bộ luật dân sự, tại điều 2247
quy định “Thông qua hợp đồng công ty, hai hay nhiều người góp tài sản hay
dịch vụ nhằm thực hiện chung một hoạt động kinh tế với mục đích chia sẻ lợi
nhuận kiếm được từ hoạt động đó”.
Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp không đề cập đến vấn đề hợp đồng
thành lập công ty. Tuy nhiên, thực tế các Nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến
vấn đề này. Có lẽ, các thành viên công ty nhận thức được rủi ro pháp lý trong
quan hệ giữa họ hoặc do nhận thức được ưu điểm của các quy định về thành
lập công ty liên doanh của Luật Đầu tư - một trong những công cụ hạn chế rủi
ro, giữa một hoặc nhiều bên nước ngoài với một hoặc nhiều bên Việt Nam để
thành lập công ty liên doanh. Mặc dù có tên gọi là hợp đồng liên doanh,
nhưng bản chất nó chính là hợp đồng thành lập công ty – là cơ sở kiến tạo nên
công ty liên doanh. Ngoại trừ, công ty TNHH một thành viên được hình thành
trên cơ sở hành vi pháp lý đơn phương. Các nhà đầu tư khi thành lập các loại
13
hình công ty có hai thành viên trở lên, họ thường giao kết các thoả thuận. Có
trường hợp các thành viên sáng lập giao kết hợp đồng thành lập công ty,
trường hợp khác họ họp, thảo luận và lập biên bản về việc thành lập công ty
trong đó quy định rõ các vấn đề cần thiết như: tên công ty, góp vốn, trụ sở, bộ
máy quản trị, phạm vi kinh doanh… xét về bản chất thì biên bản này là một
hợp đồng thành lập công ty.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý ở Việt Nam, khi nghiên cứu để chứng
minh công ty có bản chất hợp đồng, TS. Ngô Huy Cương đã dẫn chiếu từ các
học thuyết “i) học thuyết hư cấu hay thực thể nhân tạo (fictyon or artyficial
entyty theory) xem công ty là một pháp nhân hay một thực thể nhân tạo được
thiết lập bởi nhà chức trách. Học thuyết này bắt nguồn từ Luật La Mã và luật
giáo hội với quan niệm về persona ficta” [59, tr 145]; ii) học thuyết thừa nhận
(fiat theory) hay học thuyết nhượng quyền (concession theory) xem sự tồn tại
của công ty bởi sự nhượng bộ của nhà nước. Các đặc quyền từ sự nhượng bộ
này cho phép các chủ sở hữu và các nhà đầu tư kinh doanh như một công ty.
“Học thuyết này còn có các tên gọi khác như học thuyết nguồn gốc chính phủ
(government paternity theory) hoặc học thuyết quyền công dân (franchise
theory)” [60, tr 4]; iii) học thuyết hiện thực (realistyc theory) hay học thuyết
về tính vốn có (inherence theory) xem nhân tính của công ty là sự thừa nhận
các lợi ích nhóm như một hiện tượng thực tế đã tồn tại; iv) học thuyết doanh
nghiệp (enterprise theory) nhấn mạnh tới doanh nghiệp thương mại cơ bản,
không nhấn mạnh tới thực thể-sự liên kết của những thực thể cấu thành; v)
học thuyết biểu tượng (symbol theory) xem công ty là một biểu tượng cho sự
liên kết của những cá nhân tạo thành công ty có nhân tính nhóm; vi) học
thuyết mối liên hệ hợp đồng (nexus of contracts) do các nhà kinh tế học phát
triển để tạo dựng các mô hình kinh tế [12].
Với bản chất pháp lý của mình, Công ty phải được chấm dứt bởi ý chí
14
của thành viên hoặc các thành viên. Tuy nhiên, tự do ý chí trong xã hội được
quản lý bằng pháp luật thì phải trong khuôn khổ những chuẩn tắc đã được
thừa nhận và áp dụng trên thực tế, bởi giao dịch hoặc hành vi của chủ thể có
thể được tạo lập trái pháp luật hoặc với tư cách là một thực thể kinh doanh,
một chủ thể của pháp luật, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp luôn tiềm
ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng tới cộng đồng hay người thứ ba. Hơn nữa, những
người tạo lập doanh nghiệp cũng có nhu cầu bảo hộ bởi pháp luật, nên việc
pháp luật can thiệp để buộc doanh nghiệp phải chấm dứt là một tất yếu khách
quan. Bởi lẽ đó, chấm dứt doanh nghiệp có thể chia thành nhiều trường hợp
như:
Chấm dứt doanh nghiệp bởi sự tự nguyện của thành viên;
Chấm dứt doanh nghiệp bắt buộc theo luật định;
Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục hành chính;
Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục tố tụng Toà án.
Tóm lại, chấm dứt doanh nghiệp theo LDN 2005 là chấm dứt tư cách
pháp nhân của doanh nghiệp trên cơ sở lựa chọn của thành viên hoặc theo quy
định của pháp luật; chấm dứt theo thủ tục hành chính; chấm dứt theo thủ tục
tố tụng Toà án. Chấm dứt doanh nghiệp làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh
nghiệp đối với người thứ ba và người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với
Doanh nghiệp.
1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp
Thực tế cho thấy, khi gia nhập thương trường, các chủ thể luôn mong
muốn tối đa hoá một cách hợp lý những lợi ích, họ cố gắng tìm ra chiếc chìa
khoá, có thể giúp họ đạt được mục đích.
15
Xét về lợi ích, thành lập Doanh nghiệp là tạo ra một phương tiện để đáp
ứng nhu cầu sống nào đó của thành viên. Với bản chất là một hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương, Doanh nghiệp không thể không có trong kinh tế
thị trường, cho dù là kinh tế thị trường định hướng XHCN hay kinh tế thị
trường thực sự “Hợp đồng dân luật đóng vai trò quan trọng trong vận hành
của nền kinh tế tư bản. Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất
và giá trị xã hội của nó trong điều kiện xã hội của các nước phương Tây” [60,
tr 5]. Đối với một quốc gia đang đẩy mạnh phát triển kinh tế, thì không thể
thiếu một cơ sở hạ tầng pháp luật tập trung bảo vệ quan hệ hợp đồng. Do vậy,
việc chấm dứt Doanh nghiệp theo quyết định của thành viên cần được đảm
bảo. Như chúng ta đã biết, việc nhà lập pháp đặt ra các điều kiện, thủ tục, giấy
phép... là để bảo vệ, bảo đảm những giá trị, lợi ích công cộng nhất định hoặc
quyền và lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch... Theo đó, pháp luật chỉ
ngăn cấm những hành vi của nhà đầu tư nếu có lý do chính đáng vì lợi ích
cộng đồng hoặc lợi ích người thứ ba. Vấn đề này đã được quy định tại Điều
14 Hiến pháp Việt Nam “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng”. TS. Ngô Huy Cương cho rằng “Luật tư không thể buộc bất kì ai hành
động trái với ý muốn của họ, nếu không có lý do chính đáng từ phía cộng
đồng” [11, tr 23-26].
Hơn nữa, lý do chấm dứt doanh nghiệp cũng gắn với tư duy lợi ích của
nhà đầu tư. PGS,TS. Phạm Duy Nghĩa đã nói đến một trong những chủ đích
lớn của Luật Doanh nghiệp là “giảm chi phí gia nhập thị trường”. Vấn đề đặt
ra là, người dân có quyền hành động theo ý muốn với chi phí thấp và không
xâm phạm đến lợi ích công, lợi ích của người thứ ba hay Nhà nước có quyền
ngăn cản mọi hành động của người dân một cách phi lý. Tuy nhiên, đôi khi
16
Nhà nước vẫn ngăn cản hành động của người dân một cách phi lý và theo đó,
người dân phải lựa chọn hành động với chi phí cao. Trường hợp dưới đây là
một minh chứng:
Công ty hợp danh A là chủ sở hữu một thương hiệu nổi tiếng thế giới
trị giá hàng tỷ USD. Với quy mô, lĩnh vực hoạt động hiện tại và khả năng tài
chính họ muốn chuyển đổi thành công ty cổ phần để thực hiện các dự án đầu
tư trong các lĩnh vực khác mà vẫn giữ được thương hiệu, hệ thống khách
hàng, nhân sự... Họ phải làm thế nào, phải tốn kém tiền bạc và thời gian như
thế nào để đạt được mục đích khi quốc gia mà công ty mang quốc tịch không
cho phép chuyển đổi từ công ty trách nhiệm vô hạn thành công ty cổ phần?
Để đạt được mục đích, các thành viên cùng nhau thành lập một công ty cổ
phần; thanh toán tất cả các khoản nợ (nếu có); công ty hợp danh, bằng hợp
đồng chuyển nhượng thương hiệu, hệ thống khách hàng, các tài sản khác...
của mình cho công ty cổ phần; giải quyết vấn đề về nhân sự; chuyển giao các
quyền yêu cầu phát sinh từ các giao dịch đã giao kết...và sau cùng giải thể
công ty hợp danh. Quá trình thực hiện các thủ tục này tốn rất nhiều thời gian,
công sức và chi phí như các khoản thuế phát sinh từ việc chuyển nhượng tài
sản, đăng ký lại tài sản, chi phí tư vấn đặc biệt là các khoản thuế... Trong khi
đó, nếu cho phép chuyển đổi thì chi phí rất thấp, không mất nhiều thời gian...
Như vậy, việc cản trở các nhà đầu tư hành động mà không vì lý do chính đáng
từ phía cộng đồng hoặc từ phía tha nhân sẽ làm cho Nhà nước kém hiệu quả -
với chi phí lớn phát sinh từ việc áp dụng các quy phạm pháp luật thì hiệu quả
cao sẽ không thể đạt được.
Như vậy, trong mọi trường hợp, Nhà nước nên tạo điều kiện cho các
chủ thể kinh doanh hành động theo ý muốn của họ, nếu hành động đó không
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cộng đồng hoặc của tha nhân.
17
1.3. Quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyện chấm dứt
doanh nghiệp
1.3.1. Quyền tự do kinh doanh
Trong văn hóa châu Âu, khái niệm về tự do là một trong các tư tưởng
cơ bản, phản ánh thái độ của chủ thể đối với khả năng hành động của mình.
Về khởi thủy của tự do, có quan điểm cho rằng, con người, theo tự nhiên, tất
cả đều tự do, bình đẳng và độc lập, không một ai có thể bị đưa ra khỏi tình
trạng này. Như vậy, theo quan niệm này, tự do là sự vắng mặt những hạn chế
và cưỡng chế, là khả năng hành động theo chủ ý của con người. Tuy nhiên,
con người đã sống với nhau trong trạng thái tự nhiên như thế nào thì lịch sử
chưa lý giải cụ thể. Montesquieu khi viết về luật tự nhiên cũng chỉ gợi ý rằng
“Để hiểu được luật tự nhiên thì cần phải xem xét một con người trước khi
hình thành xã hội” [32, tr 42] mà không đưa ra dẫn chứng gì về con người
trước khi hình thành xã hội đã thực hiện quyền tự do như thế nào và quyền tự
do được đảm bảo bằng cách nào. John Locke mặc dù đã đưa ra khái niệm “Tự
do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà
không gặp bất kỳ cản trở nào”. Tuy nhiên khi viết về trạng thái tự nhiên trong
tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền, ông lại nói: “Trạng thái tự nhiên
có luật tự nhiên để cai quản... Không ai được phép làm hại đến sinh mạng,
sức khỏe, tạ do, hay tài sản của người khác, vì tất cả đều là tuyệt tác của một
đấng sáng tạo toàn năng và thông thái vô hạn” [25, tr 35-36]. Sự thật, các học
giả, triết gia…những người nghiên cứu về tự do, về trạng thái tự nhiên...mà
chúng ta biết đến đều được sinh ra trong một nhà nước nhất định. Do vậy,
chúng ta cần xem xét khởi thủy về tự do của con người xã hội trong mối liên
hệ với luật pháp và tương ứng là với trách nhiệm về việc tuân thủ nó và chế
tài khi vi phạm nó. Như vậy, quyền tự do ở đây cần được hiểu là tự do trong
xã hội có pháp luật, ở đó, việc xác định phạm vi hành xử của một người mang
18
ý nghĩa là bảo vệ quyền tự do của họ, nếu không có ranh giới đó thì quyền tự
do của họ luôn bị đe dọa xâm phạm và có thể dẫn đến không có tự do, vì bản
tính tập thể của con người, “tính bắt buộc” phải sống trong xã hội của nó.
Về hình thức, tự do của con người thể hiện ở hành vi lựa chọn, do vậy,
sự lựa chọn chỉ có thể là hiện thực khi các phương án lựa chọn hiện diện được
nhận thức. Tuy nhiên, tự do tự thân nó không dừng lại ở việc lựa chọn giữa
những khả năng hiện có mà còn thể hiện lối thoát ra khỏi những thực tại hiện
có bằng việc sáng tạo ra cái mới trên tính thần tôn trọng trật tự tự do. Nói theo
ngôn ngữ pháp lý hiện đại và trong khuôn khổ pháp lý là làm những điều mà
pháp luật không cấm. Sự tự do sáng tạo này, luôn đảm bảo sự liên hệ mật
thiết với trách nhiệm, thái độ tôn trọng pháp luật và quyền của những người
khác.
Tự do chỉ có thể trong điều kiện có trật tự, còn trật tự trong xã hội hiện
đại lại do chính quyền đảm bảo. “Tự do tuyệt đối là sự chế nhạo đối với công
bằng. Công bằng tuyệt đối là sự phủ định tự do. Sức sống của cả hai khái
niệm này phụ thuộc vào sự tự hạn chế lẫn nhau của chúng. Không ai tự coi
mình là người tự do, nếu người đó đồng thời là người bất công và là người
công bằng, nếu đồng thời lại là người không tự do” [17, tr 345]. Một nhà
nước hiệu quả và công bằng không thể thiếu những quy định hạn chế hành vi
của công dân chống lại các chuẩn tắc pháp lý bằng cách áp dụng hay cảnh báo
sử dụng bạo lực, nói các khác là các quy định hạn chế tự do một cách thích
hợp. Vấn đề này ở Việt Nam đã được hiến định, cụ thể tại Khoản 2 Điều 14
Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng”.
19
Đề cập đến quyền tự do kinh doanh, có lẽ không thể nói đến quyền tự
do của chính quyền (cơ quan Nhà nước) mà phải nói đến quyền tự do kinh
doanh của cá nhân, tổ chức. Ngày nay, nguyên tắc “công dân được làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm” được phổ biến rộng rãi, pháp luật các
nước đều thừa nhận nguyên tắc này. Có lẽ, một quy định thể hiện nét nhất
nguyên tắc này được quy thể hiện trong Hiến pháp Mỹ, tại điều bổ sung thứ 9
ghi “Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận
hay hạ thấp những quyền khác của người dân” [26, Điều 9]. Việt Nam, Điều
33 Hiến pháp quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Qua các điều luật, chúng ta thấy, nhà
làm luật đã thể hiện trách nhiệm nhận thức và luật hóa quyền tự nhiên – tự do
kinh doanh để quyền này được đảm bảo thực thi trong cuộc sống.
Hiện tại, Nhà nước đang quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó trật tự
pháp luật được thiết lập để đảm bảo các quyền của con người, quyền công dân
“Konad Zweigert cho rằng ở một cách nhìn nhất định, nhiệm vụ trước tiên
của hệ thống pháp luật là bảo vệ tự do cá nhân và đảm bảo quyền tự định đoạt
của cá nhân” [61, tr 325]; Như vậy, có thể nhận thức rằng: Quyền tự do kinh
doanh là khả năng của chủ thể tự nguyện lựa chọn hợp lý một hoặc nhiều hoạt
động làm phát sinh quyền và nghĩa vụ, nhằm mục đích sinh lời, mà các hoạt
động này được pháp luật cho phép hoặc pháp luật không cấm nhưng không
ảnh hưởng đến tha nhân.
Tự do kinh doanh có vai trò và ý nghĩa quan trọng, trong Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chủ Tịch dẫn
chiếu đến bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 “Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Có lẽ, xuất phát từ quyền tối cao nhất của con
20
người – khi sinh ra có quyền được sống được bảo toàn về bản thân mình, mà
các quyền về kinh tế, trong đó có quyền tự do kinh doanh được bảo đảm. Để
bảo toàn và phát triển cuộc sống, con người cần phải có tài sản. Nỗ lực tạo lập
tài sản là nỗ lực hoàn toàn tự nhiên để con người tồn tại – lợi ích cá nhân là
động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Do vậy, quyền tự do kinh doanh có ý
nghĩa rất quan trọng, gắn liền với mỗi người trong xã hội. Nghiên cứu về nội
dung quyền tự do kinh doanh cho thấy, việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh
chủ yếu và căn bản là đảm bảo cho các chủ thể thực hiện các quyền tài sản;
tôn trọng tự do ý chí trong việc xác lập giao dịch pháp lý. TS. Phạm Duy
Nghĩa cho rằng “Mọi chính sách phải giúp người dân giành lấy tự do sở hữu,
tự do định đoạt...Nhà nước, nếu là của dân phải hết lòng bảo vệ những quyền
tự do gốc rễ ấy” [33, tr 11].
1.3.2. Chấm dứt doanh nghiệp trong phạm vi quyền tự do kinh doanh
Theo cách đặt vấn đề của kinh tế học tân cổ điển, mọi hiện tượng xã
hội bắt nguồn từ phép ứng xử hợp lý của cá nhân, tức là từ chọn lựa của mỗi
cá nhân tiến hành tối đa hoá một mục tiêu nhất định với những phương tiện
nhất định. Sự chọn lựa hợp lý của các tác nhân kinh tế đưa nền kinh tế đến
cân bằng, là tình trạng trong đó từng tác nhân đạt mức thoả mãn tối đa, cho
nên không có gì có thể khiến nó phải thay đổi quyết định. Chấm dứt doanh
nghiệp cũng không nằm ngoài sự lựa chọn của chủ thể kinh doanh nhằm tối
ưu hóa những lợi ích. Với nội dung quyền tự do kinh doanh, chấm dứt doanh
nghiệp mang lại cho chủ thể được “lột xác” để tự do về nghĩa vụ, hoặc tạo lập
một doanh nghiệp mới phù hợp với quy mô, khả năng tài chính, mục tiêu ...
1.4. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp
1.4.1. Khái quát chung về phân loại chấm dứt doanh nghiệp
Khi khởi nghiệp nhà đầu tư thông thường lựa chọn một hình thức
21
doanh nghiệp nhất định phù hợp với các mục tiêu và yêu cầu của mình để tổ
chức kinh doanh. Thế nhưng trong quá trình kinh doanh, nhiều thay đổi phát
sinh, với nhiều lý do khác nhau, nên quyết định chấm dứt doanh nghiệp được
đặt ra.
Việc phân loại nói chung và phân loại chấm dứt doanh nghiệp nói
riêng luôn cần đặt ra vấn đề phải căn cứ theo một tiêu chí hoặc một hệ thống
tiêu chí nào đó. Để phân loại chấm dứt doanh nghiệp, trong phạm vi nghiên
cứu đề tài này tác giả căn cứ theo: i) tiêu chí mang tính tự nguyện; và tiêu chí
mang tính thủ tục pháp lý.
Theo tiêu chí mang tính tự nguyện hay không tự nguyện, chấm dứt
doanh nghiệp có thể được phân chia thành hai loại: (1) Chấm dứt bởi tự
nguyện; và (2) chấm dứt bởi pháp luật. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp theo
tiêu chí này có ý nghĩa rất lớn trong việc thiết lập các quy chế pháp lý bao
quát cho toàn bộ hoạt động chấm dứt doanh nghiệp.
Theo tiêu chí mang tính thủ tục pháp lý, chấm dứt doanh nghiệp được
chia thành hai loại là: (1) Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục hành chính; (2)
chấm dứt theo thủ tục tố tụng Toà án. Cách phân loại này có ý nghĩa trong
việc xác định cụ thể hiệu lực của từng loại chấm dứt.
1.4.2. Nội dung tổng quát các trường hợp chấm dứt doanh nghiệp
Tự do kinh doanh là một quyền kinh tế được pháp luật bảo hộ, mà
quyền chấm dứt doanh nghiệp là một thành tố của quyền tự do kinh doanh, do
vậy, Nhà nước có trách nhiệm bảo hộ quyền chấm dứt doanh nghiệp. Tuy
nhiên, chấm dứt doanh nghiệp luôn có thể ảnh hưởng đến hai vấn đề lớn, đó
là: Quyền lợi hợp pháp của các thành viên; và Quyền lợi hợp pháp của người
thứ ba (trật tự công, người lao động, chủ nợ...). Đây là những vấn đề mà pháp
luật buộc phải bảo vệ và quyền được bảo vệ của các chủ thể trong trường hợp
22
này cũng là quyền hiến định. Để đảm bảo mục đích quản lý Nhà nước, mục
đích điều chỉnh của pháp luật, thực tế hơn là để bảo vệ được các đối tượng
nêu trên, pháp luật phải đặt ra các điều kiện và thủ tục chấm dứt doanh
nghiệp.
1.4.3. Chấm dứt doanh nghiệp bởi giải thể
Một doanh nghiệp, từ khi ra đời cho đến khi chấm dứt hoạt động, luôn
có mối quan hệ với Nhà nước. Quan hệ mang tính tất yếu này thuộc phạm vi
quản lý Nhà nước về Doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích chung cộng đồng,
quyền và lợi ích hợp pháp của chính công ty và người thứ ba. Để đảm bảo
mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, mục đích quản lý
Nhà nước, mục đích điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước quy định thủ tục,
điều kiện ...chấm dứt doanh nghiệp.
Giải thể doanh nghiệp là sự kiện pháp lý làm chấm dứt tư cách pháp
nhân của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ; người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với doanh nghiệp. Xuất phát từ
quyền được bảo hộ của người thứ ba về tài sản. Pháp luật các nước thường
quy định điều kiện về thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ. Có thể nói
đây là điều kiện tiên quyết để cho phép hoặc bắt buộc một doanh nghiệp giải
thể. Bởi lẽ, nếu không giải quyết được vấn đề này thì quyền lợi của người thứ
ba bị xâm phạm. Vậy, cần quy định cụ thể điều kiện này như thế nào? Ở Việt
Nam, LDN 2005 quy định tại Khoản 2 Điều 157. “Doanh nghiệp chỉ được
giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác”.
Tác giả cho rằng, quy định này chưa chặt chẽ và dễ bị lợi dụng để trục lợi.
Nhận định này được luận giải rằng sự sai biệt rất lớn giữa cụm từ “bảo đảm
thanh toán hết các khoản nợ” và “thanh toán hết các khoản nợ”. Thực tế cho
thấy, nhiều Doanh nghiệp mà tài sản có và thực tế hiện hữu có giá trị sổ sách
23
lớn gấp nhiều lần nợ phải trả. Nếu chiểu theo điều kiện luật định thì điều kiện
giải thể là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, Doanh nghiệp này không thể thanh
toán hết được các khoản nợ. Và, nếu cho phép giải thể trong trường hợp này
thì rủi ro đối với người thứ ba là rất cao. Xét về góc độ hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật thì đương nhiên là không thể chấp nhận. Hơn nữa, điều này còn
có thể tạo điều kiện cho việc trục lợi và làm ảnh hưởng xấu đến môi trường
kinh doanh.
Cho đến nay, pháp luật các nước thường tôn trọng quyền tự do ý chí
của doanh nghiệp trong việc quyết định giải thể. Mặc khác, pháp luật cũng
quy định bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể khi xảy ra các sự kiện pháp lý
nhất định. Tuy nhiên, với điều kiện tiên quyết về nghĩa vụ thanh toán các
khoản nợ, nên khó có chế tài buộc doanh nghiệp phải giải thể. Vấn đề này có
thể luận giải trên cơ sở luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành như sau:
Tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định bốn trường hợp giải
thể doanh nghiệp. Trong đó, có hai trường hợp quy định mang tính bắt buộc
rõ ràng, nhưng thực tế việc áp dụng là không khả thi. Cụ thể:
Đối với trường hợp không đủ thành viên tối thiểu: Thực tiễn áp dụng
chưa thấy có trường hợp nào bị bắt buộc giải thể. Nếu bị bắt buộc thì việc vô
hiệu hoá cũng khá đơn giản bằng cách không ban hành quyết định giải thể
hoặc tạo ra trường hợp không thanh toán được các khoản nợ.
Trường hợp bị thu hồi đăng ký kinh doanh: Trường hợp này Luật quy
định khá cứng rắn về thủ tục tại Khoản 6 Điều 158 LDN 2005:
Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu
hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trình tự và thủ tục giải thể được
thực hiện theo quy định tại Điều này.
24
Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng ký
kinh doanh không nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó
coi như đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp
trong sổ đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp
luật, các thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên Hội đồng
quản trị đối với công ty cổ phần, các thành viên hợp danh đối với công ty hợp
danh liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
chưa thanh toán.
Mặc dù vậy, việc bắt buộc giải thể là quá khó khăn nếu doanh nghiệp
không thể thanh toán được các khoản nợ. Hơn nữa, Đối với Công ty TNHH,
Công ty Cổ phần, trách nhiệm của thành viên và cổ đông chỉ trong phạm vi số
vốn góp. Khi họ đã góp đủ vốn thì họ không còn phải chịu trách nhiệm về tài
sản. Do vậy, không thể buộc họ phải chịu trách nhiệm liên đới trong trường
hợp này.
Về thủ tục: Pháp luật các nước cũng như Việt Nam đều quy định thủ
tục giải thể bắt buộc phải có quyết định của chủ sở hữu doanh nghiệp. Như
vậy, trong mọi trường hợp, việc giải thể phải do doanh nghiệp chủ động quyết
định. Nếu có trường hợp quy định giải thể bị động thì vẫn phải đảm bảo điều
kiện thanh toán, mà điều kiện này có thể nói là hoàn toàn phụ thuộc vào quyết
định của doanh nghiệp.
Hậu quả pháp lý của việc giải thể là chấm dứt tư cách pháp nhân và sự
tồn tại của doanh nghiệp trên thực tế. Theo đó, các quyền yêu cầu và nghĩa vụ
của doanh nghiệp đối với người thứ ba được chấm dứt.
25
1.4.4. Chấm dứt doanh nghiệp bởi phá sản
Phá sản doanh nghiệp là việc Toà án có thẩm quyền quyết định tuyên
bố một doanh nghiệp bị phá sản theo điều kiện và thủ tục luật định. Doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản chấm dứt tư cách pháp nhân và sự tồn tại của
doanh nghiệp trên thực tế; Các quyền yêu cầu và nghĩa vụ của doanh nghiệp
đối với người thứ ba được chấm dứt và ngược lại.
Để yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, trước hết phải có căn cứ
xác định doanh nghiệp đó lâm vào tình trạng phá sản. Luật Phá sản hiện hành
xác định “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá
sản”. Quy định này được hướng dẫn bởi Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2005
hướng dẫn thi hành một số quy định của luật phá sản, nội dung hướng dẫn thể
hiện như sau:
Doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi có
đầy đủ các điều kiện sau đây:
Có các khoản nợ đến hạn;
Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm
hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ
ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu để chứng
minh và không có tranh chấp;
Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán, nhưng doanh nghiệp, hợp tác
xã không có khả năng thanh toán;
Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn
cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh
26
nghiệp, hợp tác xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản
khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã...).
Khi xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các chủ thể có
quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá
sản. Sau khi nhận đơn yêu cầu, Tòa án xem xét thụ lý và giải quyết. Trong
thời hạn nhất định Tòa án phải ra Quyết định mở thủ tục hoặc không mở thủ
tục phá sản.
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể
của Luật Phá sản, Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục quy
định tại điểm b và điểm c Khoản 1 Điều 5 Luật phá sản 2004 hoặc quyết định
chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ
tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản.
Theo Điều 15 Luật Phá sản năm 2004 quy định: Nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản:
1. Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác
xã đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã;
c) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
27
3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho Toà án có thẩm
quyền quy định tại Điều 7 của Luật này.
4. Phải nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản các giấy tờ, tài
liệu sau đây:
a) Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất
khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu
cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán
độc lập xác nhận;
b) Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện,
nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn;
c) Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi
có tài sản nhìn thấy được;
d) Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ
tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ
đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo
đảm và không có bảo đảm;
đ) Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong
đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến
hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo
đảm và không có bảo đảm;
e) Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp
mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những
khoản nợ của doanh nghiệp;
28
g) Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã
phải cung cấp theo quy định của pháp luật.
5. Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì
phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Điều 31, Luật Phá sản năm 2004 quy định các hoạt động của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị cấm hoặc bị hạn chế:
1. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm
doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Cất giấu, tẩu tán tài sản;
b) Thanh toán nợ không có bảo đảm;
c) Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;
d) Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng
tài sản của doanh nghiệp.
2. Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau
đây của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của
Thẩm phán trước khi thực hiện:
a) Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản;
b) Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;
c) Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;
d) Vay tiền;
đ) Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
29
e) Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh
nghiệp, hợp tác xã.
1.5. Bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của việc chấm dứt doanh
nghiệp
Bản chất pháp lý của việc chấm dứt doanh nghiệp đã được làm rõ là
việc chấm dứt tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Sự kiện pháp lý này làm
chấm dứt quyền và nghĩa vụ mà nó đã tạo lập ra trong quá trình hoạt động.
Tuy nhiên, việc chấm dứt doanh nghiệp có thể có tác động đến các chủ thể mà
pháp luật cần bảo vệ. Việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và các
chủ thể pháp luật khác là nhiệm vụ của Nhà nước. “Tất cả các quyền dân sự
của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo
vệ” [38, Điều 9]. Hơn nữa, Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, một đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được tôn trọng và bảo vệ.
Mục đích chính của việc quy định các điều kiện, thủ tục chấm dứt như
đã nêu là để bảo vệ các đối tượng, các giá trị nhất định. Khi đặt ra các điều
kiện, thủ tục, thì nhà làm luật phải tính đến việc kiểm tra, kiểm soát. Tuy
nhiên, về thủ tục pháp lý, thì theo suy luận thông thường thì người thực hiện
có thể nói dối. Do vậy, bên cạnh những giải pháp nhằm bảo vệ cộng đồng và
các chủ nợ, cũng như người lao động bằng cách đưa ra các điều kiện chấm
dứt doanh nghiệp và áp đặt thủ tục bắt buộc phải tuân thủ, pháp luật còn đưa
ra các chế tài và cơ chế áp dụng chế tài với tính cách là các biện pháp bảo vệ
người thứ ba khi doanh nghiệp chấm dứt.
Chế tài quan trọng nhất có lẽ cần phải nhắc đến ở đây chính là chế tài
có tính cách đặc trưng của luật thương mại là vô hiệu hóa các công ty không
30
đủ điều kiện chấm dứt bởi nó có thể gây ảnh hưởng xấu tới trật tự công cộng,
đạo đức xã hội và các chủ nợ, cũng như người lao động. Tuy nhiên có thể
thấy pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay chưa quan tâm tới chế
tài này. Vì vậy trên thực tế rất ít khi chế tài này được sử dụng để bảo vệ người
thứ ba. Việc chấm dứt có thể bị vô hiệu. Và hậu quả pháp lý trực tiếp của nó
là phải tiếp tục tồn tại và chịu các nghĩa vụ đối với người thứ ba.
Chế tài tiếp theo có thể nhắc đến là xác định các giao dịch vô hiệu mà
doanh nghiệp đã xác lập trong khoảng thời gian nhất định. Các giao dịch này
có dấu hiệu tẩu tán tài sản hoặc giao dịch xâm phạm đến quyền lợi của chủ
nợ....
Đối với trường hợp chấm dứt bởi phá sản, chế tài huỷ quyết định tuyên
bố doanh nghiệp bị phá sản được thực hiện khi khiếu nại hoặc kháng nghị có
căn cứ pháp lý.
31
Kết luận Chương 1
Như vậy, những vấn đề lý luận về chấm dứt Doanh nghiệp đã được
trình bày khá chi tiết và rõ ràng trong chương 1 của luận văn, bao gồm: việc
làm rõ các khái niệm Doanh nghiệp, bản chất và đặc điểm của chấm dứt
Doanh nghiệp, ý nghĩa của chấm dứt Doanh nghiệp, bảo vệ người thứ ba từ
chấm dứt Doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyê ̣n
chấm dứ t Doanh nghiê ̣p, phân loa ̣i chấm dứ t Doanh nghiê ̣p.
Với tư cách và sứ mệnh của mình, thông thường các nhà lập pháp suy
nghĩ và hành động với định hướng xây dựng một hệ thống pháp luật đảm bảo
tính thống nhất, logic, không quá trừu tượng và phù hợp với nhu cầu, tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân...Tuy nhiên, chỉ khi áp dụng vào thực tế người ta
mới có thể nhìn thấy các khiếm khuyết xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau mà trước đó nhà làm luật chưa hoặc không lường trước được, mặc dù
quy trình thực hiện phải tuân theo bao điều kiện, thủ tục chặt chẽ. Vậy, các
quy định hiện hành trong pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp có
khiếm khuyết gì? Viê ̣c áp dụng các quy đi ̣nh pháp luâ ̣t hiê ̣n hành còn có
những điểm bất câ ̣p gì ? Thực trạng này sẽ được tác giả làm rõ và nghiên cứu
sâu hơn trong Chương 2 của luận văn thông qua viê ̣c phân tích các quy pha ̣m
pháp luật hiện hành và các vụ việc thực tế.
32
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẤM DỨT
DOANH NGHIỆP
2.1. Các quy định hiện hành về giải thể doanh nghiệp
2.1.1. Quy định về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp
Tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định điều kiện và các
trường hợp giải thể doanh nghiệp, cụ thể:
Về điều kiện giải thể: Luật quy định tại Khoản 2 Điều 157 “Doanh
nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác”. Có thể nói, đây là quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này cũng không hề
đơn giản. Bởi lẽ, sự sai biệt rất lớn giữa cái gọi là “bảo đảm thanh toán hết
các khoản nợ” và “thanh toán hết các khoản nợ”. Thực tế cho thấy, nhiều
Doanh nghiệp mà tài sản có và thực tế hiện hữu có giá trị sổ sách lớn gấp
nhiều lần nợ phải trả. Nếu chiểu theo điều kiện luật định thì điều kiện giải thể
là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, Doanh nghiệp này không thể thanh toán hết
được các khoản nợ. Và, nếu cho phép giải thể trong trường hợp này thì rủi ro
đối với người thứ ba là rất cao. Xét về góc độ hiệu quả điều chỉnh của pháp
luật thì đương nhiên là không thể chấp nhận. Hơn nữa, điều này còn có thể tạo
điều kiện cho việc trục lợi và làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh.
Về các trường hợp giải thể: Luật quy định bốn trường hợp.
Trường hợp thứ nhất, “Doanh nghiệp bị giải thể khi kết thúc thời hạn
hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn”. Xét
từ góc nhìn chính trị thì quy định này hoàn toàn tôn trọng quyền tự do định
đoạt của các chủ thể. Tuy nhiên, từ góc nhìn kỹ thuật lập pháp, tác giả nhận
33
thấy quy định này là không cần thiết. Bởi lẽ, qua khảo sát rất nhiều Bản điều
lệ của các công ty đại chúng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử các sở
giao dịch chứng khoán thì chưa thấy có Bản điều lệ nào quy định về thời hạn
hoạt động. Do vậy, đối với công ty mà Điều lệ không quy định về thời hạn
hoạt động thì quy định về việc giải thể trong trường hợp này là không thực tế.
Và nếu có, thì việc giải thể cũng không phải là bắt buộc, mà việc giải thể vẫn
phụ thuộc vào quyết định của chủ sở hữu.
Về thời hạn hoạt động của doanh nghiệp có lẽ thường được biết đến với
các Công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng có thể nói rằng, việc quy định
thời hạn hoạt động cũng không phát sinh nghĩa vụ bắt buộc giải thể đối với họ
và nếu cố ý đặt ra các quy định để bắt buộc trong trường hợp này thì việc xử
lý về mặt thủ tục cũng không có gì khó khăn, nếu họ không muốn giải thể. Do
vậy, có thể nói rằng việc quy định giải thể trong trường hợp này chỉ mang tính
hình thức.
Trường hợp thứ hai, Doanh nghiệp bị giải thể theo quyết định của tất
cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành viên,
chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ
đông đối với công ty cổ phần. Tác giả cho rằng đây là quy định luật hoá
quyền tự do kinh doanh, cụ thể là quyền tự định đoạt chấm dứt doanh nghiệp
khi đủ điều kiện theo luật định. Bởi lẽ, Doanh nghiệp được tạo lập bởi ý chí
của thành viên hoặc các thành viên, do vậy ý chí của họ cũng có thể làm chấm
dứt Doanh nghiệp của họ.
Tuy nhiên, trường hợp này không thể không đề cập đến vấn đề thông
qua quyết định giải thể. Đối với Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì không có
gì bàn luận về tỷ lệ thông qua quyết định. Bởi lẽ, một mặt do quy định pháp
luật mang tính riêng biệt hơn, mặt khác vì mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước
34
ngoài (FDI), nên các cơ quan công quyền, người có thẩm quyền thường thông
thoáng hơn trong việc cấp phép đầu tư cho các dự án có vốn đầu tư nước
ngoài. Đối với Doanh nghiệp trong nước, thì thực tiễn áp dụng pháp luật, có
những quan điểm nhận thức nhiều sai biệt. Cụ thể:
Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành
lập WTO đề cập đến vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp
hiện hành như sau:
Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ bảo đảm rằng, trong Điều lệ
doanh nghiệp, tất cả những loại quyết định cần phải đệ trình xin phê duyệt
của hội đồng thành viên hay đa ̣i hô ̣i đồng cổ đông; các quy định về số đại
biểu cần thiết, nếu có, trong quy trình bỏ phiếu; và tỷ lệ đa số phiếu chính xác
cần có để đưa ra tất cả các quyết định, bao gồm cả tỷ lệ đa số đơn giản là
51%, ...
Các doanh nghiệp được các nhà đầu tư Việt Nam cùng với nhà đầu tư
của một thành viên WTO thành lập trước ngày Luật Doanh nghiệp năm 2005
có hiệu lực, ... có để đưa ra tất cả các quyết định, bao gồm cả tỷ lệ đa số đơn
giản là 51%...[8, tr 19]
Cam kết này đã được xác nhận bởi Nghị định thư gia nhập Hiệp định
thành lập WTO, được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết
71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 (Nghị quyết 71). Tại phụ lục nội dung áp dụng
trực tiếp các cam kết của Việt Nam xác định: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần được quyền quy định trong điều lệ công ty các nội dung sau:
1. Số đại diện cần thiết để tổ chức cuộc họp và hình thức
thông qua quyết định của hội đồng thành viên, đại hội đồng cổ
đông; 2. Các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của hội đồng
thành viên, đại hội đồng cổ đông; 3. Tỷ lệ đa số phiếu cần thiết (kể
35
cả tỷ lệ đa số 51%) để thông qua các quyết định của hội đồng thành
viên, đại hội đồng cổ đông.
Sau khi Nghị quyết 71 có hiệu lực, có nhiều quan điểm cho rằng không
được áp dụng quy định này cho doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam; Vụ Pháp
chế của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT) và tổ công tác thi hành Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, bên bảo được, người bảo không.
Về mặt pháp lý, có thể đánh giá khách quan rằng, khi ban hành Nghị
quyết 71, các nhà làm luật đã thể hiện tư tưởng hiện đại và có khả năng dự
liệu tốt. i) Tư tưởng hiện đại thể hiện ở chỗ gián tiếp ghi nhận “lẽ công bằng”
là nguồn của pháp luật. Vấn đề này chúng ta có thể đặt câu hỏi để làm rõ như
sau: Nếu cho rằng tỷ lệ tối thiểu 51% để thông qua các quyết định của hội
đồng thành viên, đại hội đồng cổ đông là một lợi thế, là một nhượng bộ của
chúng ta cho các nhà đầu tư thuộc WTO, vậy tại sao chúng ta không giành lợi
thế này cho các doanh nghiệp của riêng những người Việt tại đất Việt?.
Trường hợp thứ ba, bị giải thể khi “Công ty không còn đủ số lượng
thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên
tục”.
Cho đến ngày nay, các luật gia vẫn mặc định chấp nhận quy định về số
lượng thành viên tối thiểu của công ty mà không mấy người đặt câu hỏi tại
sao công ty phải có số lượng thành viên tối thiểu. Và thực sự, chưa có một sự
giải thích chính thức về học thuyết nào và triết lý nào ẩn sâu trong các quy
định này. Nhận định này được minh chứng bằng việc chỉ rõ luật thực định của
một số quốc gia như sau:
Điều 30 Luật Công ty năm 1990 của Việt Nam quy định công ty cổ
phần có số lượng thành viên tối thiểu là bảy. Dần dà theo năm tháng số lượng
cổ đông tối thiểu đã được qui định rút xuống còn ba theo LDN 2005. Sự rút
36
xuống này không mang đến một nhận định nào về một tình trạng xấu đi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở Anh, tuy mô hình công ty cổ phần xuất hiện từ thế kỷ thứ 17, nhưng
mãi đến năm 1844, Nghị viện mới cho ra đời Đạo luật điều chỉnh và đăng ký
công ty cổ phần. Năm 1856 Nghị viện nước này ban hành đạo luật mới về
công ty, theo đó số lượng cổ đông tối thiểu của một công ty cổ phần là bảy cổ
đông. Hiện nay pháp luật về công ty của Anh quan niệm, công ty (không phân
biệt loại hình) có thể do một hoặc nhiều thành viên thành lập. Cụ thể tại Mục
7 và Mục 8, Phần 2 của Đạo luật 2006 quy định: “Cách thức thành lập công
ty: Theo luật này một công ty được thành lập bởi một hoặc nhiều người; tên
của những người góp vốn được ghi trong hợp đồng thành lập công ty và phải
tuân thủ các quy định của Đạo luật này khi đăng ký thành lập”. Định nghĩa về
công ty cổ phần tai Đạo luật này được quy định tại Mục 1041 mà ở đó người
ta không tìm thấy đặc điểm nhận dạng công ty cổ phần liên quan tới số lượng
cổ đông, mà chỉ tìm thấy đặc điểm nhận dạng liên quan tới việc chia vốn
thành cổ phần, và chuyển nhượng cổ phần…
Ở Hoa Kỳ, trong thời kỳ thuộc địa, pháp luật Anh bị áp dụng, nên đòi
hỏi một công ty cổ phần phải có tối thiểu bảy cổ đông. Hiện nay, theo Đạo
luật mẫu về công ty ở Hoa Kỳ, việc có hay không quy định số lượng thành
viên công ty là một vấn đề để phân biệt giữa các công ty đại chúng và các
công ty khác, cụ thể: Mục 2.01 của quy định “Một hoặc nhiều người có thể
hành động với tư cách là thành viên công ty bằng việc gửi hồ sơ thành lập đến
cơ quan đăng ký kinh doanh để thành lập công ty”; và Mục 1.40.18A quy
định “Công ty đại chúng là công ty mà cổ phần được niêm yết trên thị trường
chứng khoán quốc gia hoặc có hoạt động thương mại thường xuyên trên thị
trường được sự bảo trợ của một hoặc nhiều thành viên hiệp hội chứng khoán
quốc gia”.
37
Như vậy, từ biểu hiện bên ngoài, có thể nhận xét: các quy định về số
lượng thành viên tối thiểu có gì đó hạn chế quyền tự do kinh doanh hiến định
bởi đưa ra các hạn chế thiếu lý do chính đáng. Ở góc nhìn lập pháp thì như
vậy, thế nhưng thực thế chưa có đủ căn cứ pháp lý và công cụ pháp lý để buộc
một doanh nghiệp giải thể vì điều kiện không đủ số lượng thành viên tối thiểu
trong thời hạn sáu tháng liên tục. Ví dụ, một công ty cổ phần mà một cổ đông
đã mua lại toàn bộ cổ phần của các cổ đông khác nhưng chưa thực hiện hoặc
không thực hiện thủ tục chuyển đổi hình thức công ty thì cũng không có chế
tài nào buộc họ phải giải thể. Và nếu cố ý đặt ra quy định để buộc bị giải thể
thì quy định này lại phản tác dụng, bởi lẽ người ta sẽ lợi dụng để giải thể
nhằm thoái thác nghĩa vụ đối với người thứ ba. Hoặc ở góc nhìn tích cực thì
nó có thể xâm phạm đến lợi ích của người đầu tư, và là rào cản cho việc phát
triển kinh tế, xã hội… Điều này được minh chứng bằng minh chứng bằng tình
huống giả định sau: Công ty cổ phần MK được thành lập từ năm 2000. Từ khi
thành lập đến nay, công ty hoạt động rất hiệu quả, sử dụng hàng chục nghìn
lao động ở địa phương và đóng góp rất nhiều cho xã hội, đóng thuế nhiều tỷ
đồng một năm. Năm 2008 do việc chuyển nhượng cổ phần, Công ty chỉ còn
hai cổ đông; Do mâu thuẫn, nên một cổ đông gửi văn bản đến cơ quan đăng
ký kinh doanh đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh vì lý do
công ty không có đủ số lượng thành viên tối thiểu theo luật định. Trường hợp
này, nếu buộc phải giải thể thì hàng loạt hậu quả xấu xảy ra: 6000 lao động
mất việc làm; vấn đề an sinh xã hội tại địa phương bị ảnh hưởng nghiêm
trọng; nguồn thu ngân sách bị cắt đứt. Từ phân tích trên cho thấy, quy định về
trường hợp giải thể do không đủ số lượng thành viên tối thiểu là thiếu cơ sở
và không thể áp dụng trên thực tế.
Trường hợp thứ tư, Doanh nghiệp bị giải thể khi bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Căn cứ để thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
38
kinh doanh được quy định tại Điều 165 LDN 2005 là khá rõ ràng. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, việc cơ quan đăng ký kinh doanh thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh là hãn hữu. Để minh chứng cho nhận định này, tác giả và
giáo viên hướng dẫn đã làm một thử nghiệm. Cụ thể: Sử dụng một công ty
được thành lập từ năm 2010 có thực tế là: Các cổ đông không thực hiện việc
góp vốn cổ phần; Công ty không thực hiện việc mua hoá đơn giá trị gia tăng
và cũng không tự đặt in hoá đơn giá trị gia tăng; Từ khi thành lập không thể
và không thực hiện được bất kỳ hoạt động kinh doanh nào.... Không giao kết
bất kỳ giao dịch kinh tế và hoặc quan hệ lao động nào; Do không có vốn, nên
từ tháng 5 năm 2010 đến nay Công ty cũng không thể hoạt động tại trụ sở.
Thực tế này đã được cơ quan thuế xác định là đơn vị không kinh doanh tại trụ
sở đăng ký. Trên cơ sở các sự kiện pháp lý thực tế phát sinh Công ty gửi văn
bản, căn cứ Khoản 2 Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2005: “Doanh nghiệp bị
thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bị xoá tên trong sổ đăng ký
kinh doanh trong các trường hợp sau đây: d) Không hoạt động tại trụ sở đăng
ký trong thời hạn sáu tháng liên tục, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính; e) Ngừng hoạt
động kinh doanh một năm liên tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký
kinh doanh...”. Theo đó, đề nghị Phòng Đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch
và Đầu tư thành phố Hà Nội thu hồi Giấy chứng nhận Đăng ký doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Cơ quan đăng ký kinh doanh đã thoái thác với lý do là thông tin
các cổ đông chưa góp vốn là không trung thực.
Mặc dù vậy, nhưng nếu cơ quan đăng ký kinh doanh quyết định thu hồi
thì với điều kiện giải thể như đã phân tích trên thì việc thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh cũng khó có thể dẫn đến giải thể doanh nghiệp mà
nếu thu hồi đăng ký kinh doanh còn có thể dẫn đến hậu quả xấu nghiêm trọng.
39
Ngoài ra, Chính phủ còn tự đặt ra hai trường hợp giải thể mà xét về
trình độ lập pháp thì hết sức tuỳ tiện. Cụ thể, Nghị định 102/2010/NĐ-CP,
ngày 1/10/2010 của Chính Phủ hướng dẫn một số điều của Luật Doanh
nghiệp, tại Điều 40 quy định trường hợp giải thể khi bị thu hồi Giấy chứng
nhận đầu tư quy định tại Điều 68 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22
tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Đầu tư hoặc bị Tòa án tuyên bố giải thể. Tính tuỳ tiện của
quy định này được luận giải như sau: Điều 68 Nghị định 108 quy định về
chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư. Một doanh nghiệp có thể có nhiều dự
án, việc chấm dứt đầu tư một hoặc toàn bộ các dự án khác hoàn toàn về bản
chất đối với việc chấm dứt doanh nghiệp; Luật Doanh nghiệp chỉ quy định 4
trường hợp giải thể, trong đó không có trường hợp quy định bị Tòa án tuyên
bố giải thể. Hơn nữa, không có quy định nào cho phép Tòa án thực hiện
quyền tuyên bố một doanh nghiệp giải thể. Như vậy, quy định này không phải
là hướng dẫn Luật Doanh nghiệp, mà là quy định lạm quyền.
2.1.2. Quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp
Xuất phát từ quyền được bảo hộ của người thứ ba về tài sản. Pháp luật
các nước thường quy định điều kiện thanh toán các khoản nợ. Ở Việt Nam,
điều kiện này được quy định như sau: “Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi
bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác”. Có thể nói
đây là điều kiện duy nhất về giải thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, điều kiện này chưa thể coi là công cụ bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba. Bởi lẽ, chỉ quy định “đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ” là chưa
đầy đủ. Sự đảm bảo này có được hiện thực hoá hay không thì các nhà làm luật
chưa đặt ra – đây là khiếm khuyết lớn về lập pháp. Nếu hiểu rằng, số liệu
trong báo cáo tài chính phản ánh tài sản có lớn hơn tài sản nợ là đảm bảo
thanh toán hết thì quá rủi ro, khi mà tính minh bạch trong doanh nghiệp Việt
40
Nam không đáng tin cậy. Các doanh nghiệp có thể điều chỉnh báo cáo tài
chính để đạt được điều kiện này không mấy khó khăn.
Mặc dù vậy, khiếm khuyết này cũng được khắc phục bởi Điều 40 Nghị
định 102/2010/NĐ-CP. Một cách khắc phục, nếu xét về khía cạnh khoa học
pháp lý thì chưa được đảm bảo, bởi Chính phủ có thẩm quyền hướng dẫn luật.
Tuy nhiên, trường hợp này Chính Phủ lại thực hiện việc giải thích luật, mà
thẩm quyền này thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Nội dung quy định
khắc phục thể hiện như sau: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày kết
thúc việc giải thể doanh nghiệp và thanh toán hết các khoản nợ của doanh
nghiệp...”. Thanh toán hết khác với đảm bảo thanh toán hết. Và, chỉ khi doanh
nghiệp thanh toán hết các khoản nợ thì mới có thể loại trừ được việc gây thiệt
hại đến người thứ ba.
2.1.3. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp
Mặc dù Luật Doanh nghiệp quy định bốn trường hợp giải thể, trong đó
về mặt hình thức có ba trường hợp giải thể mang tính bị động và một trường
hợp giải thể mang tính chủ động thể hiện quyền định đoạt của doanh nghiệp.
Thế nhưng thủ tục giải thể lại được quy định chung cho các trường hợp. Cụ
thể, Điều 158 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định giải thể doanh nghiệp như
sau:
1. Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp. Quyết định giải thể
doanh nghiệp phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
b) Lý do giải thể;
41
c) Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của
doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được
vượt quá sáu tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể;
d) Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động;
e) Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
2. Chủ doanh nghiệp tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu
công ty, Hội đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh
nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức
thanh lý riêng.
3. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định
giải thể phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ
nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao động trong
doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi
nhánh của doanh nghiệp.
Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định
giải thể doanh nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc
báo điện tử trong ba số liên tiếp.
Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo
về phương án giải quyết nợ. Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ;
số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó; cách
thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ.
4. Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự sau đây:
a) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy
định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả
ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
42
b) Nợ thuế và các khoản nợ khác.
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh
nghiệp, phần còn lại thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành
viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty.
5. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các
khoản nợ của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh
doanh. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp
lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký
kinh doanh.
6. Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày
bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trình tự và thủ tục
giải thể được thực hiện theo quy định tại Điều này.
Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng ký
kinh doanh không nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh
nghiệp đó coi như đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh doanh xoá
tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh.
Như vậy, Luật không đả động đến thủ tục giải thể đối với trường hợp
hết thời hạn hoạt động và trường hợp không đủ số lượng thành viên tối thiểu.
Hơn nữa, việc quy định về trường hợp giải thể do bị thu hồi đăng ký kinh
doanh là tuỳ tiện, mâu thuẫn với các quy định mang tính tiên quyết về điều
kiện giải thể. Quy định này có thể xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của các
chủ nợ và có thể bị lợi dụng nhằm trốn tránh trách nhiệm.
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY

More Related Content

What's hot

Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sảnHợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Khóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Khóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệpKhóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Khóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Báo cáo thực tập tại công ty luật VA
Báo cáo thực tập tại công ty luật VABáo cáo thực tập tại công ty luật VA
Báo cáo thực tập tại công ty luật VA
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sảnLuận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Báo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docx
Báo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docxBáo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docx
Báo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docx
Viết Thuê Đề Tài Trọn Gói Zalo: 0973287149
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAYLuận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt NamLuận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Dịch Vụ Viết Thuê Báo Cáo Khóa luận ZALO 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản lý chung cư ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
 
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sảnHợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Khóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệpKhóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Khóa luận tốt nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
 
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
 
Báo cáo thực tập tại công ty luật VA
Báo cáo thực tập tại công ty luật VABáo cáo thực tập tại công ty luật VA
Báo cáo thực tập tại công ty luật VA
 
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sảnLuận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
 
Báo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docx
Báo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docxBáo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docx
Báo cáo thực tập chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật VN.docx
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAYLuận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt NamLuận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
 

Similar to Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY

Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
hieu anh
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
hieu anh
 
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAYThủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư ...
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư  ...Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư  ...
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt NamLuận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đ
Luận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đLuận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đ
Luận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
KhoTi1
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà NộiLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh Nghiệp
Luận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh NghiệpLuận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh Nghiệp
Luận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh Nghiệp
Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOTChế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAY
Luận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAYLuận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAY
Luận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAYĐăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệpLuận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luậtLuận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAYĐề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệpLuận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY (20)

Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
 
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAYThủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
 
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư ...
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư  ...Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư  ...
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư ...
 
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt NamLuận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
 
Luận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đ
Luận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đLuận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đ
Luận văn: Trình tự thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo luật, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà NộiLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
 
Luận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh Nghiệp
Luận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh NghiệpLuận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh Nghiệp
Luận Văn Thạc Sĩ Trình Tự, Thủ Tục Thành Lập Doanh Nghiệp
 
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOTChế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
 
Luận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAY
Luận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAYLuận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAY
Luận án: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, HAY
 
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAYĐăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
Đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật tại Đăk Lăk, HAY
 
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
 
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệpLuận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luậtLuận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
Luận văn: Giá trị pháp lý con dấu của doanh nghiệp theo pháp luật
 
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAYĐề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
 
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệpLuận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Thành lập doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
nhanviet247
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
giangnguyen312210254
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
nvlinhchi1612
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 

Recently uploaded (12)

Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 

Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ QUYÊN CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUẤN HÀ NỘI - 2014
  • 2. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP............................................................................................................6 1.1. Khái niệm Doanh nghiệp.....................................................................................6 1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh nghiệp.............8 1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp.................. 8 1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp..............................................14 1.3. Quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyện chấm dứt doanh nghiệp............................................................................................................................17 1.3.1. Quyền tự do kinh doanh .................................................................17 1.3.2. Chấm dứt doanh nghiệp trong phạm vi quyền tự do kinh doanh...20 1.4. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp....................................................................20 1.4.1. Khái quát chung về phân loại chấm dứt doanh nghiệp .................20 1.4.2. Nội dung tổng quát các trường hợp chấm dứt doanh nghiệp........21 1.4.3. Chấm dứt doanh nghiệp bởi giải thể...............................................22 1.4.4. Chấm dứt doanh nghiệp bởi phá sản.............................................25 1.5. Bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của việc chấm dứt doanh nghiệp.......29 Kết luận Chương 1.........................................................................................31
  • 3. Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP ..........................................................................................32 2.1. Các quy định hiện hành về giải thể doanh nghiệp.........................................32 2.1.1. Quy định về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp..32 2.1.2. Quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp.................................39 2.1.3. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp ....................................40 2.2. Các quy định về phá sản doanh nghiệp...........................................................43 2.2.1. Quy định về xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ..43 2.2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ yêu cầu mở thủ tục phá sản.........44 2.2.3. Quy định về căn cứ quyết định mở thủ tục phá sản .......................45 2.2.4. Quy định về tuyên bố doanh nghiệp phá sản .................................46 2.3. Các quy định về bảo vệ người thứ ba khi giải thể, phá sản doanh nghiệp 47 2.3.1. Đối với trường hợp giải thể............................................................47 2.3.2. Đối với trường hợp phá sản...........................................................48 2.4. Nguyên nhân khiếm khuyết của pháp luật và áp dụng pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp........................................................................................................50 Kết luận Chương 2.........................................................................................52 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP................................................53 3.1. Các định hướng ...................................................................................................53 3.2. Các giải pháp hoàn thiện....................................................................................56 3.2.1. Giải pháp lập pháp.........................................................................56
  • 4. 3.2.2. Giải pháp thi hành..........................................................................62 3.2.3. Giải pháp tư pháp ..........................................................................63 KẾT LUẬN.....................................................................................................66 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................67
  • 5. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Quyên
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT KÝ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT 1. BLDS 2005 : Bộ luật Dân sự năm 2005 2. LDN 2005 : Luật Doanh nghiệp năm 2005 3. Công ty TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn 4. DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã liên tục được cải cách, theo đó nhiều loại hình Doanh nghiệp được pháp luật ghi nhận, và ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Sự phát triển các loại hình Doanh nghiệp cho thấy nhà làm luật Việt Nam đã chú ý tương đối thích đáng tới quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, và cũng cho thấy sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Doanh nghiệp. Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước hoàn thành sứ mệnh của mình là tạo lập ra hình thức Doanh nghiệp đa dạng và phong phú cho các nhà đầu tư lựa chọn. Cụ thể, sau khi thống nhất đất nước, với chính sách mở cửa, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã cho phép tạo lập công ty trách nhiệm hữu hạn để thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Kế tiếp đó là Luật Công ty năm 1990 đã mở ra hai hình thức công ty mà các nhà đầu tư Việt Nam có thể lựa chọn đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Đến năm 1999, tức là sau chín năm thực hiện, Luật Công ty năm 1990 đã được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp năm 1999, theo đó, đã mở rộng sự lựa chọn của các nhà đầu tư Việt Nam trong năm hình thức doanh nghiệp - đó là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (mà chủ sở hữu là tổ chức), công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã đạt được những thành thành tựu đáng kể trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng cũng có nhiều hạn chế. Để khắc phục những hạn chế đó và mở rộng quyền tự do kinh doanh, tăng cường khả năng gia nhập thị trường, Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999 và
  • 8. 2 khẳng định quyền của cá nhân được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy nhiên, Pháp luật Doanh nghiệp không thể đảm bảo quyền tự do kinh doanh chỉ bằng việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư tạo lập Doanh nghiệp, mà còn phải quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư chấm dứt Doanh nghiệp khi nhà đầu tư mong muốn hoặc khi có sự kiện pháp lý phát sinh là điều kiện chấm dứt theo luật định. Có thể nói rằng, chấm dứt Doanh nghiệp không phải là vấn đề mới, nhưng ở Việt Nam hiện nay vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ về mặt lý luận và thực tiễn. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về chấm dứt Doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa phản ánh được bản chất kinh tế và vai trò của chấm dứt Doanh nghiệp. Nhận định này được minh chứng rõ ràng rằng các quy định về chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 gần như không có sự thay đổi so với các quy định về chấm dứt Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Các quy định về điều kiện chấm dứt, các chế tài về vi phạm thủ tục, điều kiện chấm dứt còn bị bỏ ngỏ. Các quy định về thủ tục chấm dứt tạo ra rào cản lớn cho các nhà đầu tư muốn thực hiện việc chấm dứt Doanh nghiệp. Những bất cập của pháp luật về chấm dứt Doanh nghiệp có thể gây khó khăn cho việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Nhận thức rằng, việc nghiên cứu về chấm dứt Doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng thực tiễn để từng bước mở rộng và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Do vậy, để tiếp thu có sàng lọc những thành tựu hiện có, để góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn về chấm dứt Doanh nghiệp và để khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, học viên lựa chọn đề tài “Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn cao học luật của mình.
  • 9. 3 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt Doanh nghiệp; Làm rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng trong các quy định BLDS 2005, Luật Doanh nghiệp 2005 để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn đã có những đóng góp về mặt lý luận và những phân tích về mặt thực tiễn. Luận văn đã đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp. Trên cơ sở những kiến nghị và giải pháp luận văn đã trở thành một tài liệu hữu ích cho các học viên nghiên cứu và tham khảo. 4. Tình hình nghiên cứu Chấm dứt doanh nghiệp không thể xem là một vấn đề mới, bởi lẽ đơn giản là pháp luật về doanh nghiệp đã ra đời khá sớm trong lịch sử loài người. Hơn nữa, nó là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động mưu sinh của con người. Các thương nhân luôn luôn tìm kiếm việc sử dụng công cụ pháp lý để chấm dứt doanh nghiệp một cách linh hoạt và hữu hiệu. Điều này dẫn đến việc làm phát sinh nhu cầu nghiên cứu về chấm dứt doanh nghiệp. Thực tế, pháp luật hiện hành đã đặt ra vấn đề chấm dứt doanh nghiệp. Tuy nhiên việc nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam vẫn được coi là một đề tài có giá trị quan trọng. Nhận thức rằng nghiên cứu chấm dứt doanh nghiệp không thể không dựa trên một nền tảng kiến thức pháp lý chung về doanh nghiệp, và từ đó đi
  • 10. 4 sâu phân tích pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp từ lý luận cho tới thực tiễn và đưa ra kiến nghị cho việc hoàn thiện. Do vậy, cần giới thiệu tình hình nghiên cứu các vấn đề chung có liên quan và tình hình nghiên cứu trực tiếp về chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể, có thể thấy một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: - Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với pháp luật về phá sản (Vũ Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 5 năm 2012); - Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam (Vũ Thị Hồng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 9 năm 2012); - Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, thực trạng pháp luật và một số kiến nghị (Vũ Ngọc Dũng – Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số định kỳ tháng 3 năm 2013); - Địa vị pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản (Đặng Văn Huy – Tạp chí Dân chủ và pháp luật); - Thực trạng pháp luật về giải thể doanh nghiệp, một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện (Đặng Văn Huy – Tạp chí Luật học số 10 năm 2012); - Hoàng Anh Tuấn, Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam, Luật án tiến sĩ luật học, 2012. Tuy nhiên, các công trình nói trên chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về chấm dứt doanh nghiệp. Kế thừa những công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của giới khoa học pháp lý trong nước, Tác giả quyết tâm nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp, hành pháp về vấn đề này cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.
  • 11. 5 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành đang tồn tại một số khái niệm chưa được làm rõ hoàn toàn như: khái niệm Doanh nghiệp, khái niệm Công ty. Do vậy, để có thể nghiên cứu một cách chuyên sâu, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu là những Doanh nghiệp có tư cách chủ thể độc lập, có tư cách pháp nhân. Với đề tài nghiên cứu đã chọn, tác giả chỉ tập trung giải quyết vấn đề pháp lý của việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005. 6. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thống kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về chấm dứt doanh nghiệp, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập. Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng
  • 12. 6 phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, nội dung của Luận văn được bố cục như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chấm dứt doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chấm dứt doanh nghiệp Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm Doanh nghiệp Từ góc nhìn ngôn ngữ, từ “enterprise” của tiếng Anh thường được dịch sang tiếng Việt hiện nay là “Doanh nghiệp”, nhưng những năm đầu của thời kỳ đổi mới theo Nghị quyết Trung ương VI, người ta đã từng dịch là “xí nghiệp”). Ở Liên hiệp Vương quốc Anh có đạo luật được gọi là “Enterprise Act 2002”. Trong Đạo luật này, tại Điều 129 quy định nguyên văn tiếng Anh: “Enterprise” “means the activities, or part of the activities, of a business” [54, tr 46] tức là nó được xem là các hoạt động, hoặc một phần của các hoạt động của một việc kinh doanh.
  • 13. 7 Theo Deluxe Black’s Law Dictionary, “enterprise” trong pháp luật Hoa Kỳ được hiểu theo hai nghĩa với các hoàn cảnh khác nhau. Nghĩa chung nhất xem “enterprise là công cuộc, dự án hay cam kết kinh doanh” [58, tr 531]. Như vậy có thể hiểu “enterprise” là một hành vi thương mại. Tuy nhiên, người ta thường hiểu doanh nghiệp là thực thể kinh doanh: Doanh nghiệp là khái niệm chung nhất để chỉ các loại hình doanh nghiệp, trong đó công ty là một loại hình doanh nghiệp”, và “công ty là một loại hình doanh nghiệp với năm đặc điểm cơ bản i) là pháp nhân; ii) tách biệt và là chủ thể pháp lý độc lập với chủ sở hữu” [50, tr 6]. Pháp luật Doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay cũng xác định Doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh, cụ thể Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 định nghĩa: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như vậy, khái niệm doanh nghiệp theo quan niệm của pháp luật Việt Nam thường dùng để chỉ những chủ thể kinh doanh có đăng ký kinh doanh, bao gồm cả Doanh nghiệp tư nhân mà bản chất của Doanh nghiệp này chỉ là cá nhân kinh doanh. Thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam cho thấy, việc xem xét tư cách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm thậm chí không chấp nhận doanh nghiệp tư nhân là một chủ thể của quan hệ pháp luật. Quan điểm này đang hiện hữu tại các Phòng Đăng ký kinh doanh, biểu hiện cụ thể là họ không chấp nhận Doanh nghiệp tư nhân là một cổ đông hay thành viên Công ty TNHH. Có lẽ quan điểm này xuất phát từ việc quy định thiếu thống nhất về tư cách chủ thể của Doanh nghiệp tư nhân trong Pháp luật
  • 14. 8 Doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể: Với quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp thì DNTN đương nhiên được hiểu là một chủ thể kinh doanh: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, với quy định tại Khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005 thì DNTN không được coi là một chủ thể của quan hệ pháp luật: Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm về bản chất Doanh nghiệp và để thống nhất trong nghiên cứu, Luận văn đã giới hạn phạm vi nghiên cứu và chỉ tập trung nghiên cứu việc chấm dứt Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005. 1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý chấm dứt doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý chấm dứt doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp 2005 không có khái niệm cụ thể về chấm dứt doanh nghiệp, tuy nhiên có quy định một số trường hợp cụ thể về chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể: Khoản 3 Điều 150 quy định: Công ty bị chia chấm dứt tồn tại sau khi các công ty mới được đăng ký kinh doanh; Khoản 4 Điều 152 quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; điểm c Khoản 2 Điều 153 quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; Khoản 3 Điều 154 quy định: Sau khi đăng ký kinh
  • 15. 9 doanh, công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại; Đối với trường hợp giải thể thì Luật quy định: cơ quan đăng ký kinh doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Điều 99 BLDS 2005 quy định về chấm dứt pháp nhân, theo đó pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp: hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp nhân; chia pháp nhân; giải thể pháp nhân; Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm xoá tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp thì Bộ luật Dân sự không quy định trường hợp châm dứt do chuyển đổi hình thức pháp nhân. Chỉ với việc quy định các trường hợp chấm dứt pháp nhân, pháp luật Việt Nam hiện hành đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn và đặc biệt là nhận thức về chấm dứt pháp nhân còn quá mơ hồ, việc dùng thuật ngữ quá tuỳ tiện, cụ thể: Bộ luật Dân sự 2005 sử dụng thuật ngữ “chấm dứt pháp nhân”. Tác giả cho rằng việc dùng thuật ngữ này đảm bảo tính chính xác và đầy đủ về mặt pháp lý. Tuy nhiên, Bộ luật này quy định các trường hợp chấm dứt pháp nhân là chưa phù hợp. Bởi lẽ pháp nhân chưa thể chấm dứt trong các trường hợp: hợp nhất pháp nhân; sáp nhập pháp nhân; chia pháp nhân. Vấn đề này có thể luận giải như sau: Đối với trường hợp hợp nhất pháp nhân: Bản chất pháp lý của vấn đề này là hai hoặc nhiều pháp nhân được hợp nhất lại thành pháp nhân mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang pháp nhân mới. Sự kiện pháp lý này có thể dùng cách ví von như “con dã tràng sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh trưởng của mình” [19, tr 181]. Trường hợp này, các quyền yêu cầu và nghĩa
  • 16. 10 vụ của doanh nghiệp vẫn tồn tại. Do vậy, không thể coi là chấm dứt doanh nghiệp. Tương tự, việc sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân thì trách nhiệm liên đới vẫn hiện hữu và quyền yêu cầu của người thứ ba cũng vẫn được đảm bảo. Do vậy, không thể coi đó là chấm dứt doanh nghiệp. Như vậy, việc chấm dứt có thể được chấp nhận đối với trường hợp: giải thể pháp nhân và pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Thời điểm chấm dứt được xác định kể từ thời điểm xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định này không đảm bảo tính chặt chẽ, bởi lẽ việc xóa tên thường không đi liền với việc xóa bỏ mọi trách nhiệm, hay việc xóa tên không đương nhiên là căn cứ chấm dứt quyền yêu cầu của người thứ ba đối với pháp nhân, bởi một trong những quyền hiến định của các chủ thể là được bảo hộ về quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp. Luật Doanh nghiệp, với tư cách là luật chuyên ngành, nhưng không những không đủ “dũng cảm” để sử dụng quyền năng pháp lý của mình, mà còn “rón rén” và thiếu tri kiến pháp lý cơ bản khi quy định về chấm dứt doanh nghiệp. Cụ thể, Luật này sử dụng thuật ngữ “chấm dứt tồn tại” đối với các trường hợp công ty bị chia; công ty bị hợp nhất; công ty bị sáp nhập; công ty được chuyển đổi. Về mặt pháp lý, chấm dứt tồn tại theo quy định của Luật doanh nghiệp được hiểu như thế nào: + Đối với công ty bị chia, Luật Doanh nghiệp quy định “Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia hoặc thỏa thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong số các công ty
  • 17. 11 đó thực hiện các nghĩa vụ này”. Như vậy, nghĩa vụ của công ty bị chia chưa chấm dứt, quyền yêu cầu của người thứ ba vẫn hiện hữu. Chỉ có tên gọi của Công ty bị chia là không còn tồn tại. + Đối với công ty bị hợp nhất, Luật Doanh nghiệp quy định: Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại; công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất. + Tương tự, đối với công ty bị tách Luật Doanh nghiệp quy định: công ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị tách, trừ trường hợp công ty bị tách, công ty mới thành lập, chủ nợ, khách hàng và người lao động của công ty bị tách có thoả thuận khác. Từ các luận giải nêu trên cho thấy, chấm dứt tồn tại của Doanh nghiệp, theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là chấm dứt sự tồn tại của tên gọi Doanh nghiệp đó mà thôi. Và về thời điểm chấm dứt, Luật xác định là sau khi đăng ký kinh doanh. Đối với trường hợp giải thể thì xác định từ thời điểm bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. Với đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp 2005, tác giả cho rằng chấm dứt doanh nghiệp là chấm dứt tư cách pháp nhân của Doanh nghiệp. Sự kiện pháp lý này phát sinh làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh nghiệp đối với người thứ ba, chấm dứt nghĩa vụ trả nợ của Doanh nghiệp – người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với Doanh nghiệp. Khác với chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, chỉ là chuyển đổi hình thức kết cấu của doanh nghiệp, không làm chấm dứt hay thay đổi nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đó. Giống như câu ví von của Maurice
  • 18. 12 Cozian và Alain Viandier rằng “chuyển đổi hình thức công ty như hình ảnh dã tràng sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh trưởng của mình” [19, tr 181]; Khác với chia doanh nghiệp, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, quyền yêu cầu của người thứ ba trong trường hợp này không bị chấm dứt. Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp 2005 được xác định là Công ty Cổ phần, Công ty TNHH và Công ty Hợp danh. Về mặt pháp lý, các doanh nghiệp này được tạo lập nên bởi ý chí của các thành viên. Vấn đề này, có quốc gia quy định cụ thể trong luật thực định, có quốc gia không quy định. Ví dụ: Ở Pháp, trừ công ty do một người thành lập, các công ty khác đều được thành lập trên cơ sở hợp đồng, “công ty do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thoả thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp, sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi” [7, Điều 1832]; ở Ý, trong Bộ luật dân sự, tại điều 2247 quy định “Thông qua hợp đồng công ty, hai hay nhiều người góp tài sản hay dịch vụ nhằm thực hiện chung một hoạt động kinh tế với mục đích chia sẻ lợi nhuận kiếm được từ hoạt động đó”. Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp không đề cập đến vấn đề hợp đồng thành lập công ty. Tuy nhiên, thực tế các Nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến vấn đề này. Có lẽ, các thành viên công ty nhận thức được rủi ro pháp lý trong quan hệ giữa họ hoặc do nhận thức được ưu điểm của các quy định về thành lập công ty liên doanh của Luật Đầu tư - một trong những công cụ hạn chế rủi ro, giữa một hoặc nhiều bên nước ngoài với một hoặc nhiều bên Việt Nam để thành lập công ty liên doanh. Mặc dù có tên gọi là hợp đồng liên doanh, nhưng bản chất nó chính là hợp đồng thành lập công ty – là cơ sở kiến tạo nên công ty liên doanh. Ngoại trừ, công ty TNHH một thành viên được hình thành trên cơ sở hành vi pháp lý đơn phương. Các nhà đầu tư khi thành lập các loại
  • 19. 13 hình công ty có hai thành viên trở lên, họ thường giao kết các thoả thuận. Có trường hợp các thành viên sáng lập giao kết hợp đồng thành lập công ty, trường hợp khác họ họp, thảo luận và lập biên bản về việc thành lập công ty trong đó quy định rõ các vấn đề cần thiết như: tên công ty, góp vốn, trụ sở, bộ máy quản trị, phạm vi kinh doanh… xét về bản chất thì biên bản này là một hợp đồng thành lập công ty. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý ở Việt Nam, khi nghiên cứu để chứng minh công ty có bản chất hợp đồng, TS. Ngô Huy Cương đã dẫn chiếu từ các học thuyết “i) học thuyết hư cấu hay thực thể nhân tạo (fictyon or artyficial entyty theory) xem công ty là một pháp nhân hay một thực thể nhân tạo được thiết lập bởi nhà chức trách. Học thuyết này bắt nguồn từ Luật La Mã và luật giáo hội với quan niệm về persona ficta” [59, tr 145]; ii) học thuyết thừa nhận (fiat theory) hay học thuyết nhượng quyền (concession theory) xem sự tồn tại của công ty bởi sự nhượng bộ của nhà nước. Các đặc quyền từ sự nhượng bộ này cho phép các chủ sở hữu và các nhà đầu tư kinh doanh như một công ty. “Học thuyết này còn có các tên gọi khác như học thuyết nguồn gốc chính phủ (government paternity theory) hoặc học thuyết quyền công dân (franchise theory)” [60, tr 4]; iii) học thuyết hiện thực (realistyc theory) hay học thuyết về tính vốn có (inherence theory) xem nhân tính của công ty là sự thừa nhận các lợi ích nhóm như một hiện tượng thực tế đã tồn tại; iv) học thuyết doanh nghiệp (enterprise theory) nhấn mạnh tới doanh nghiệp thương mại cơ bản, không nhấn mạnh tới thực thể-sự liên kết của những thực thể cấu thành; v) học thuyết biểu tượng (symbol theory) xem công ty là một biểu tượng cho sự liên kết của những cá nhân tạo thành công ty có nhân tính nhóm; vi) học thuyết mối liên hệ hợp đồng (nexus of contracts) do các nhà kinh tế học phát triển để tạo dựng các mô hình kinh tế [12]. Với bản chất pháp lý của mình, Công ty phải được chấm dứt bởi ý chí
  • 20. 14 của thành viên hoặc các thành viên. Tuy nhiên, tự do ý chí trong xã hội được quản lý bằng pháp luật thì phải trong khuôn khổ những chuẩn tắc đã được thừa nhận và áp dụng trên thực tế, bởi giao dịch hoặc hành vi của chủ thể có thể được tạo lập trái pháp luật hoặc với tư cách là một thực thể kinh doanh, một chủ thể của pháp luật, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng tới cộng đồng hay người thứ ba. Hơn nữa, những người tạo lập doanh nghiệp cũng có nhu cầu bảo hộ bởi pháp luật, nên việc pháp luật can thiệp để buộc doanh nghiệp phải chấm dứt là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ đó, chấm dứt doanh nghiệp có thể chia thành nhiều trường hợp như: Chấm dứt doanh nghiệp bởi sự tự nguyện của thành viên; Chấm dứt doanh nghiệp bắt buộc theo luật định; Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục hành chính; Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục tố tụng Toà án. Tóm lại, chấm dứt doanh nghiệp theo LDN 2005 là chấm dứt tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trên cơ sở lựa chọn của thành viên hoặc theo quy định của pháp luật; chấm dứt theo thủ tục hành chính; chấm dứt theo thủ tục tố tụng Toà án. Chấm dứt doanh nghiệp làm chấm dứt nghĩa vụ của Doanh nghiệp đối với người thứ ba và người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với Doanh nghiệp. 1.2.2. Ý nghĩa của chấm dứt doanh nghiệp Thực tế cho thấy, khi gia nhập thương trường, các chủ thể luôn mong muốn tối đa hoá một cách hợp lý những lợi ích, họ cố gắng tìm ra chiếc chìa khoá, có thể giúp họ đạt được mục đích.
  • 21. 15 Xét về lợi ích, thành lập Doanh nghiệp là tạo ra một phương tiện để đáp ứng nhu cầu sống nào đó của thành viên. Với bản chất là một hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, Doanh nghiệp không thể không có trong kinh tế thị trường, cho dù là kinh tế thị trường định hướng XHCN hay kinh tế thị trường thực sự “Hợp đồng dân luật đóng vai trò quan trọng trong vận hành của nền kinh tế tư bản. Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất và giá trị xã hội của nó trong điều kiện xã hội của các nước phương Tây” [60, tr 5]. Đối với một quốc gia đang đẩy mạnh phát triển kinh tế, thì không thể thiếu một cơ sở hạ tầng pháp luật tập trung bảo vệ quan hệ hợp đồng. Do vậy, việc chấm dứt Doanh nghiệp theo quyết định của thành viên cần được đảm bảo. Như chúng ta đã biết, việc nhà lập pháp đặt ra các điều kiện, thủ tục, giấy phép... là để bảo vệ, bảo đảm những giá trị, lợi ích công cộng nhất định hoặc quyền và lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch... Theo đó, pháp luật chỉ ngăn cấm những hành vi của nhà đầu tư nếu có lý do chính đáng vì lợi ích cộng đồng hoặc lợi ích người thứ ba. Vấn đề này đã được quy định tại Điều 14 Hiến pháp Việt Nam “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. TS. Ngô Huy Cương cho rằng “Luật tư không thể buộc bất kì ai hành động trái với ý muốn của họ, nếu không có lý do chính đáng từ phía cộng đồng” [11, tr 23-26]. Hơn nữa, lý do chấm dứt doanh nghiệp cũng gắn với tư duy lợi ích của nhà đầu tư. PGS,TS. Phạm Duy Nghĩa đã nói đến một trong những chủ đích lớn của Luật Doanh nghiệp là “giảm chi phí gia nhập thị trường”. Vấn đề đặt ra là, người dân có quyền hành động theo ý muốn với chi phí thấp và không xâm phạm đến lợi ích công, lợi ích của người thứ ba hay Nhà nước có quyền ngăn cản mọi hành động của người dân một cách phi lý. Tuy nhiên, đôi khi
  • 22. 16 Nhà nước vẫn ngăn cản hành động của người dân một cách phi lý và theo đó, người dân phải lựa chọn hành động với chi phí cao. Trường hợp dưới đây là một minh chứng: Công ty hợp danh A là chủ sở hữu một thương hiệu nổi tiếng thế giới trị giá hàng tỷ USD. Với quy mô, lĩnh vực hoạt động hiện tại và khả năng tài chính họ muốn chuyển đổi thành công ty cổ phần để thực hiện các dự án đầu tư trong các lĩnh vực khác mà vẫn giữ được thương hiệu, hệ thống khách hàng, nhân sự... Họ phải làm thế nào, phải tốn kém tiền bạc và thời gian như thế nào để đạt được mục đích khi quốc gia mà công ty mang quốc tịch không cho phép chuyển đổi từ công ty trách nhiệm vô hạn thành công ty cổ phần? Để đạt được mục đích, các thành viên cùng nhau thành lập một công ty cổ phần; thanh toán tất cả các khoản nợ (nếu có); công ty hợp danh, bằng hợp đồng chuyển nhượng thương hiệu, hệ thống khách hàng, các tài sản khác... của mình cho công ty cổ phần; giải quyết vấn đề về nhân sự; chuyển giao các quyền yêu cầu phát sinh từ các giao dịch đã giao kết...và sau cùng giải thể công ty hợp danh. Quá trình thực hiện các thủ tục này tốn rất nhiều thời gian, công sức và chi phí như các khoản thuế phát sinh từ việc chuyển nhượng tài sản, đăng ký lại tài sản, chi phí tư vấn đặc biệt là các khoản thuế... Trong khi đó, nếu cho phép chuyển đổi thì chi phí rất thấp, không mất nhiều thời gian... Như vậy, việc cản trở các nhà đầu tư hành động mà không vì lý do chính đáng từ phía cộng đồng hoặc từ phía tha nhân sẽ làm cho Nhà nước kém hiệu quả - với chi phí lớn phát sinh từ việc áp dụng các quy phạm pháp luật thì hiệu quả cao sẽ không thể đạt được. Như vậy, trong mọi trường hợp, Nhà nước nên tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh hành động theo ý muốn của họ, nếu hành động đó không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cộng đồng hoặc của tha nhân.
  • 23. 17 1.3. Quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyện chấm dứt doanh nghiệp 1.3.1. Quyền tự do kinh doanh Trong văn hóa châu Âu, khái niệm về tự do là một trong các tư tưởng cơ bản, phản ánh thái độ của chủ thể đối với khả năng hành động của mình. Về khởi thủy của tự do, có quan điểm cho rằng, con người, theo tự nhiên, tất cả đều tự do, bình đẳng và độc lập, không một ai có thể bị đưa ra khỏi tình trạng này. Như vậy, theo quan niệm này, tự do là sự vắng mặt những hạn chế và cưỡng chế, là khả năng hành động theo chủ ý của con người. Tuy nhiên, con người đã sống với nhau trong trạng thái tự nhiên như thế nào thì lịch sử chưa lý giải cụ thể. Montesquieu khi viết về luật tự nhiên cũng chỉ gợi ý rằng “Để hiểu được luật tự nhiên thì cần phải xem xét một con người trước khi hình thành xã hội” [32, tr 42] mà không đưa ra dẫn chứng gì về con người trước khi hình thành xã hội đã thực hiện quyền tự do như thế nào và quyền tự do được đảm bảo bằng cách nào. John Locke mặc dù đã đưa ra khái niệm “Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào”. Tuy nhiên khi viết về trạng thái tự nhiên trong tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền, ông lại nói: “Trạng thái tự nhiên có luật tự nhiên để cai quản... Không ai được phép làm hại đến sinh mạng, sức khỏe, tạ do, hay tài sản của người khác, vì tất cả đều là tuyệt tác của một đấng sáng tạo toàn năng và thông thái vô hạn” [25, tr 35-36]. Sự thật, các học giả, triết gia…những người nghiên cứu về tự do, về trạng thái tự nhiên...mà chúng ta biết đến đều được sinh ra trong một nhà nước nhất định. Do vậy, chúng ta cần xem xét khởi thủy về tự do của con người xã hội trong mối liên hệ với luật pháp và tương ứng là với trách nhiệm về việc tuân thủ nó và chế tài khi vi phạm nó. Như vậy, quyền tự do ở đây cần được hiểu là tự do trong xã hội có pháp luật, ở đó, việc xác định phạm vi hành xử của một người mang
  • 24. 18 ý nghĩa là bảo vệ quyền tự do của họ, nếu không có ranh giới đó thì quyền tự do của họ luôn bị đe dọa xâm phạm và có thể dẫn đến không có tự do, vì bản tính tập thể của con người, “tính bắt buộc” phải sống trong xã hội của nó. Về hình thức, tự do của con người thể hiện ở hành vi lựa chọn, do vậy, sự lựa chọn chỉ có thể là hiện thực khi các phương án lựa chọn hiện diện được nhận thức. Tuy nhiên, tự do tự thân nó không dừng lại ở việc lựa chọn giữa những khả năng hiện có mà còn thể hiện lối thoát ra khỏi những thực tại hiện có bằng việc sáng tạo ra cái mới trên tính thần tôn trọng trật tự tự do. Nói theo ngôn ngữ pháp lý hiện đại và trong khuôn khổ pháp lý là làm những điều mà pháp luật không cấm. Sự tự do sáng tạo này, luôn đảm bảo sự liên hệ mật thiết với trách nhiệm, thái độ tôn trọng pháp luật và quyền của những người khác. Tự do chỉ có thể trong điều kiện có trật tự, còn trật tự trong xã hội hiện đại lại do chính quyền đảm bảo. “Tự do tuyệt đối là sự chế nhạo đối với công bằng. Công bằng tuyệt đối là sự phủ định tự do. Sức sống của cả hai khái niệm này phụ thuộc vào sự tự hạn chế lẫn nhau của chúng. Không ai tự coi mình là người tự do, nếu người đó đồng thời là người bất công và là người công bằng, nếu đồng thời lại là người không tự do” [17, tr 345]. Một nhà nước hiệu quả và công bằng không thể thiếu những quy định hạn chế hành vi của công dân chống lại các chuẩn tắc pháp lý bằng cách áp dụng hay cảnh báo sử dụng bạo lực, nói các khác là các quy định hạn chế tự do một cách thích hợp. Vấn đề này ở Việt Nam đã được hiến định, cụ thể tại Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
  • 25. 19 Đề cập đến quyền tự do kinh doanh, có lẽ không thể nói đến quyền tự do của chính quyền (cơ quan Nhà nước) mà phải nói đến quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tổ chức. Ngày nay, nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm” được phổ biến rộng rãi, pháp luật các nước đều thừa nhận nguyên tắc này. Có lẽ, một quy định thể hiện nét nhất nguyên tắc này được quy thể hiện trong Hiến pháp Mỹ, tại điều bổ sung thứ 9 ghi “Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân” [26, Điều 9]. Việt Nam, Điều 33 Hiến pháp quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Qua các điều luật, chúng ta thấy, nhà làm luật đã thể hiện trách nhiệm nhận thức và luật hóa quyền tự nhiên – tự do kinh doanh để quyền này được đảm bảo thực thi trong cuộc sống. Hiện tại, Nhà nước đang quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó trật tự pháp luật được thiết lập để đảm bảo các quyền của con người, quyền công dân “Konad Zweigert cho rằng ở một cách nhìn nhất định, nhiệm vụ trước tiên của hệ thống pháp luật là bảo vệ tự do cá nhân và đảm bảo quyền tự định đoạt của cá nhân” [61, tr 325]; Như vậy, có thể nhận thức rằng: Quyền tự do kinh doanh là khả năng của chủ thể tự nguyện lựa chọn hợp lý một hoặc nhiều hoạt động làm phát sinh quyền và nghĩa vụ, nhằm mục đích sinh lời, mà các hoạt động này được pháp luật cho phép hoặc pháp luật không cấm nhưng không ảnh hưởng đến tha nhân. Tự do kinh doanh có vai trò và ý nghĩa quan trọng, trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chủ Tịch dẫn chiếu đến bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Có lẽ, xuất phát từ quyền tối cao nhất của con
  • 26. 20 người – khi sinh ra có quyền được sống được bảo toàn về bản thân mình, mà các quyền về kinh tế, trong đó có quyền tự do kinh doanh được bảo đảm. Để bảo toàn và phát triển cuộc sống, con người cần phải có tài sản. Nỗ lực tạo lập tài sản là nỗ lực hoàn toàn tự nhiên để con người tồn tại – lợi ích cá nhân là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Do vậy, quyền tự do kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng, gắn liền với mỗi người trong xã hội. Nghiên cứu về nội dung quyền tự do kinh doanh cho thấy, việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh chủ yếu và căn bản là đảm bảo cho các chủ thể thực hiện các quyền tài sản; tôn trọng tự do ý chí trong việc xác lập giao dịch pháp lý. TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng “Mọi chính sách phải giúp người dân giành lấy tự do sở hữu, tự do định đoạt...Nhà nước, nếu là của dân phải hết lòng bảo vệ những quyền tự do gốc rễ ấy” [33, tr 11]. 1.3.2. Chấm dứt doanh nghiệp trong phạm vi quyền tự do kinh doanh Theo cách đặt vấn đề của kinh tế học tân cổ điển, mọi hiện tượng xã hội bắt nguồn từ phép ứng xử hợp lý của cá nhân, tức là từ chọn lựa của mỗi cá nhân tiến hành tối đa hoá một mục tiêu nhất định với những phương tiện nhất định. Sự chọn lựa hợp lý của các tác nhân kinh tế đưa nền kinh tế đến cân bằng, là tình trạng trong đó từng tác nhân đạt mức thoả mãn tối đa, cho nên không có gì có thể khiến nó phải thay đổi quyết định. Chấm dứt doanh nghiệp cũng không nằm ngoài sự lựa chọn của chủ thể kinh doanh nhằm tối ưu hóa những lợi ích. Với nội dung quyền tự do kinh doanh, chấm dứt doanh nghiệp mang lại cho chủ thể được “lột xác” để tự do về nghĩa vụ, hoặc tạo lập một doanh nghiệp mới phù hợp với quy mô, khả năng tài chính, mục tiêu ... 1.4. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp 1.4.1. Khái quát chung về phân loại chấm dứt doanh nghiệp Khi khởi nghiệp nhà đầu tư thông thường lựa chọn một hình thức
  • 27. 21 doanh nghiệp nhất định phù hợp với các mục tiêu và yêu cầu của mình để tổ chức kinh doanh. Thế nhưng trong quá trình kinh doanh, nhiều thay đổi phát sinh, với nhiều lý do khác nhau, nên quyết định chấm dứt doanh nghiệp được đặt ra. Việc phân loại nói chung và phân loại chấm dứt doanh nghiệp nói riêng luôn cần đặt ra vấn đề phải căn cứ theo một tiêu chí hoặc một hệ thống tiêu chí nào đó. Để phân loại chấm dứt doanh nghiệp, trong phạm vi nghiên cứu đề tài này tác giả căn cứ theo: i) tiêu chí mang tính tự nguyện; và tiêu chí mang tính thủ tục pháp lý. Theo tiêu chí mang tính tự nguyện hay không tự nguyện, chấm dứt doanh nghiệp có thể được phân chia thành hai loại: (1) Chấm dứt bởi tự nguyện; và (2) chấm dứt bởi pháp luật. Phân loại chấm dứt doanh nghiệp theo tiêu chí này có ý nghĩa rất lớn trong việc thiết lập các quy chế pháp lý bao quát cho toàn bộ hoạt động chấm dứt doanh nghiệp. Theo tiêu chí mang tính thủ tục pháp lý, chấm dứt doanh nghiệp được chia thành hai loại là: (1) Chấm dứt doanh nghiệp theo thủ tục hành chính; (2) chấm dứt theo thủ tục tố tụng Toà án. Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cụ thể hiệu lực của từng loại chấm dứt. 1.4.2. Nội dung tổng quát các trường hợp chấm dứt doanh nghiệp Tự do kinh doanh là một quyền kinh tế được pháp luật bảo hộ, mà quyền chấm dứt doanh nghiệp là một thành tố của quyền tự do kinh doanh, do vậy, Nhà nước có trách nhiệm bảo hộ quyền chấm dứt doanh nghiệp. Tuy nhiên, chấm dứt doanh nghiệp luôn có thể ảnh hưởng đến hai vấn đề lớn, đó là: Quyền lợi hợp pháp của các thành viên; và Quyền lợi hợp pháp của người thứ ba (trật tự công, người lao động, chủ nợ...). Đây là những vấn đề mà pháp luật buộc phải bảo vệ và quyền được bảo vệ của các chủ thể trong trường hợp
  • 28. 22 này cũng là quyền hiến định. Để đảm bảo mục đích quản lý Nhà nước, mục đích điều chỉnh của pháp luật, thực tế hơn là để bảo vệ được các đối tượng nêu trên, pháp luật phải đặt ra các điều kiện và thủ tục chấm dứt doanh nghiệp. 1.4.3. Chấm dứt doanh nghiệp bởi giải thể Một doanh nghiệp, từ khi ra đời cho đến khi chấm dứt hoạt động, luôn có mối quan hệ với Nhà nước. Quan hệ mang tính tất yếu này thuộc phạm vi quản lý Nhà nước về Doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích chung cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của chính công ty và người thứ ba. Để đảm bảo mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, mục đích quản lý Nhà nước, mục đích điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước quy định thủ tục, điều kiện ...chấm dứt doanh nghiệp. Giải thể doanh nghiệp là sự kiện pháp lý làm chấm dứt tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp chấm dứt các quyền và nghĩa vụ; người thứ ba chấm dứt quyền yêu cầu đối với doanh nghiệp. Xuất phát từ quyền được bảo hộ của người thứ ba về tài sản. Pháp luật các nước thường quy định điều kiện về thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để cho phép hoặc bắt buộc một doanh nghiệp giải thể. Bởi lẽ, nếu không giải quyết được vấn đề này thì quyền lợi của người thứ ba bị xâm phạm. Vậy, cần quy định cụ thể điều kiện này như thế nào? Ở Việt Nam, LDN 2005 quy định tại Khoản 2 Điều 157. “Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác”. Tác giả cho rằng, quy định này chưa chặt chẽ và dễ bị lợi dụng để trục lợi. Nhận định này được luận giải rằng sự sai biệt rất lớn giữa cụm từ “bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ” và “thanh toán hết các khoản nợ”. Thực tế cho thấy, nhiều Doanh nghiệp mà tài sản có và thực tế hiện hữu có giá trị sổ sách
  • 29. 23 lớn gấp nhiều lần nợ phải trả. Nếu chiểu theo điều kiện luật định thì điều kiện giải thể là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, Doanh nghiệp này không thể thanh toán hết được các khoản nợ. Và, nếu cho phép giải thể trong trường hợp này thì rủi ro đối với người thứ ba là rất cao. Xét về góc độ hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thì đương nhiên là không thể chấp nhận. Hơn nữa, điều này còn có thể tạo điều kiện cho việc trục lợi và làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh. Cho đến nay, pháp luật các nước thường tôn trọng quyền tự do ý chí của doanh nghiệp trong việc quyết định giải thể. Mặc khác, pháp luật cũng quy định bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể khi xảy ra các sự kiện pháp lý nhất định. Tuy nhiên, với điều kiện tiên quyết về nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ, nên khó có chế tài buộc doanh nghiệp phải giải thể. Vấn đề này có thể luận giải trên cơ sở luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành như sau: Tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định bốn trường hợp giải thể doanh nghiệp. Trong đó, có hai trường hợp quy định mang tính bắt buộc rõ ràng, nhưng thực tế việc áp dụng là không khả thi. Cụ thể: Đối với trường hợp không đủ thành viên tối thiểu: Thực tiễn áp dụng chưa thấy có trường hợp nào bị bắt buộc giải thể. Nếu bị bắt buộc thì việc vô hiệu hoá cũng khá đơn giản bằng cách không ban hành quyết định giải thể hoặc tạo ra trường hợp không thanh toán được các khoản nợ. Trường hợp bị thu hồi đăng ký kinh doanh: Trường hợp này Luật quy định khá cứng rắn về thủ tục tại Khoản 6 Điều 158 LDN 2005: Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trình tự và thủ tục giải thể được thực hiện theo quy định tại Điều này.
  • 30. 24 Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng ký kinh doanh không nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi như đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật, các thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần, các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán. Mặc dù vậy, việc bắt buộc giải thể là quá khó khăn nếu doanh nghiệp không thể thanh toán được các khoản nợ. Hơn nữa, Đối với Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, trách nhiệm của thành viên và cổ đông chỉ trong phạm vi số vốn góp. Khi họ đã góp đủ vốn thì họ không còn phải chịu trách nhiệm về tài sản. Do vậy, không thể buộc họ phải chịu trách nhiệm liên đới trong trường hợp này. Về thủ tục: Pháp luật các nước cũng như Việt Nam đều quy định thủ tục giải thể bắt buộc phải có quyết định của chủ sở hữu doanh nghiệp. Như vậy, trong mọi trường hợp, việc giải thể phải do doanh nghiệp chủ động quyết định. Nếu có trường hợp quy định giải thể bị động thì vẫn phải đảm bảo điều kiện thanh toán, mà điều kiện này có thể nói là hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của doanh nghiệp. Hậu quả pháp lý của việc giải thể là chấm dứt tư cách pháp nhân và sự tồn tại của doanh nghiệp trên thực tế. Theo đó, các quyền yêu cầu và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với người thứ ba được chấm dứt.
  • 31. 25 1.4.4. Chấm dứt doanh nghiệp bởi phá sản Phá sản doanh nghiệp là việc Toà án có thẩm quyền quyết định tuyên bố một doanh nghiệp bị phá sản theo điều kiện và thủ tục luật định. Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản chấm dứt tư cách pháp nhân và sự tồn tại của doanh nghiệp trên thực tế; Các quyền yêu cầu và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với người thứ ba được chấm dứt và ngược lại. Để yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, trước hết phải có căn cứ xác định doanh nghiệp đó lâm vào tình trạng phá sản. Luật Phá sản hiện hành xác định “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Quy định này được hướng dẫn bởi Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của luật phá sản, nội dung hướng dẫn thể hiện như sau: Doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: Có các khoản nợ đến hạn; Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp; Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán, nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán; Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh
  • 32. 26 nghiệp, hợp tác xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã...). Khi xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các chủ thể có quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản. Sau khi nhận đơn yêu cầu, Tòa án xem xét thụ lý và giải quyết. Trong thời hạn nhất định Tòa án phải ra Quyết định mở thủ tục hoặc không mở thủ tục phá sản. Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của Luật Phá sản, Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục quy định tại điểm b và điểm c Khoản 1 Điều 5 Luật phá sản 2004 hoặc quyết định chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Theo Điều 15 Luật Phá sản năm 2004 quy định: Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: 1. Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn; b) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã; c) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
  • 33. 27 3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho Toà án có thẩm quyền quy định tại Điều 7 của Luật này. 4. Phải nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản các giấy tờ, tài liệu sau đây: a) Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận; b) Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; c) Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được; d) Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; đ) Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; e) Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp;
  • 34. 28 g) Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải cung cấp theo quy định của pháp luật. 5. Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Điều 31, Luật Phá sản năm 2004 quy định các hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm hoặc bị hạn chế: 1. Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau đây: a) Cất giấu, tẩu tán tài sản; b) Thanh toán nợ không có bảo đảm; c) Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; d) Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. 2. Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện: a) Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; b) Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; c) Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; d) Vay tiền; đ) Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;
  • 35. 29 e) Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã. 1.5. Bảo vệ người thứ ba từ sự tác động của việc chấm dứt doanh nghiệp Bản chất pháp lý của việc chấm dứt doanh nghiệp đã được làm rõ là việc chấm dứt tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Sự kiện pháp lý này làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ mà nó đã tạo lập ra trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, việc chấm dứt doanh nghiệp có thể có tác động đến các chủ thể mà pháp luật cần bảo vệ. Việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và các chủ thể pháp luật khác là nhiệm vụ của Nhà nước. “Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” [38, Điều 9]. Hơn nữa, Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được tôn trọng và bảo vệ. Mục đích chính của việc quy định các điều kiện, thủ tục chấm dứt như đã nêu là để bảo vệ các đối tượng, các giá trị nhất định. Khi đặt ra các điều kiện, thủ tục, thì nhà làm luật phải tính đến việc kiểm tra, kiểm soát. Tuy nhiên, về thủ tục pháp lý, thì theo suy luận thông thường thì người thực hiện có thể nói dối. Do vậy, bên cạnh những giải pháp nhằm bảo vệ cộng đồng và các chủ nợ, cũng như người lao động bằng cách đưa ra các điều kiện chấm dứt doanh nghiệp và áp đặt thủ tục bắt buộc phải tuân thủ, pháp luật còn đưa ra các chế tài và cơ chế áp dụng chế tài với tính cách là các biện pháp bảo vệ người thứ ba khi doanh nghiệp chấm dứt. Chế tài quan trọng nhất có lẽ cần phải nhắc đến ở đây chính là chế tài có tính cách đặc trưng của luật thương mại là vô hiệu hóa các công ty không
  • 36. 30 đủ điều kiện chấm dứt bởi nó có thể gây ảnh hưởng xấu tới trật tự công cộng, đạo đức xã hội và các chủ nợ, cũng như người lao động. Tuy nhiên có thể thấy pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay chưa quan tâm tới chế tài này. Vì vậy trên thực tế rất ít khi chế tài này được sử dụng để bảo vệ người thứ ba. Việc chấm dứt có thể bị vô hiệu. Và hậu quả pháp lý trực tiếp của nó là phải tiếp tục tồn tại và chịu các nghĩa vụ đối với người thứ ba. Chế tài tiếp theo có thể nhắc đến là xác định các giao dịch vô hiệu mà doanh nghiệp đã xác lập trong khoảng thời gian nhất định. Các giao dịch này có dấu hiệu tẩu tán tài sản hoặc giao dịch xâm phạm đến quyền lợi của chủ nợ.... Đối với trường hợp chấm dứt bởi phá sản, chế tài huỷ quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản được thực hiện khi khiếu nại hoặc kháng nghị có căn cứ pháp lý.
  • 37. 31 Kết luận Chương 1 Như vậy, những vấn đề lý luận về chấm dứt Doanh nghiệp đã được trình bày khá chi tiết và rõ ràng trong chương 1 của luận văn, bao gồm: việc làm rõ các khái niệm Doanh nghiệp, bản chất và đặc điểm của chấm dứt Doanh nghiệp, ý nghĩa của chấm dứt Doanh nghiệp, bảo vệ người thứ ba từ chấm dứt Doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh – nền tảng của tự nguyê ̣n chấm dứ t Doanh nghiê ̣p, phân loa ̣i chấm dứ t Doanh nghiê ̣p. Với tư cách và sứ mệnh của mình, thông thường các nhà lập pháp suy nghĩ và hành động với định hướng xây dựng một hệ thống pháp luật đảm bảo tính thống nhất, logic, không quá trừu tượng và phù hợp với nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân...Tuy nhiên, chỉ khi áp dụng vào thực tế người ta mới có thể nhìn thấy các khiếm khuyết xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà trước đó nhà làm luật chưa hoặc không lường trước được, mặc dù quy trình thực hiện phải tuân theo bao điều kiện, thủ tục chặt chẽ. Vậy, các quy định hiện hành trong pháp luật Việt Nam về chấm dứt doanh nghiệp có khiếm khuyết gì? Viê ̣c áp dụng các quy đi ̣nh pháp luâ ̣t hiê ̣n hành còn có những điểm bất câ ̣p gì ? Thực trạng này sẽ được tác giả làm rõ và nghiên cứu sâu hơn trong Chương 2 của luận văn thông qua viê ̣c phân tích các quy pha ̣m pháp luật hiện hành và các vụ việc thực tế.
  • 38. 32 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẤM DỨT DOANH NGHIỆP 2.1. Các quy định hiện hành về giải thể doanh nghiệp 2.1.1. Quy định về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp Tại Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định điều kiện và các trường hợp giải thể doanh nghiệp, cụ thể: Về điều kiện giải thể: Luật quy định tại Khoản 2 Điều 157 “Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác”. Có thể nói, đây là quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này cũng không hề đơn giản. Bởi lẽ, sự sai biệt rất lớn giữa cái gọi là “bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ” và “thanh toán hết các khoản nợ”. Thực tế cho thấy, nhiều Doanh nghiệp mà tài sản có và thực tế hiện hữu có giá trị sổ sách lớn gấp nhiều lần nợ phải trả. Nếu chiểu theo điều kiện luật định thì điều kiện giải thể là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, Doanh nghiệp này không thể thanh toán hết được các khoản nợ. Và, nếu cho phép giải thể trong trường hợp này thì rủi ro đối với người thứ ba là rất cao. Xét về góc độ hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thì đương nhiên là không thể chấp nhận. Hơn nữa, điều này còn có thể tạo điều kiện cho việc trục lợi và làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh. Về các trường hợp giải thể: Luật quy định bốn trường hợp. Trường hợp thứ nhất, “Doanh nghiệp bị giải thể khi kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn”. Xét từ góc nhìn chính trị thì quy định này hoàn toàn tôn trọng quyền tự do định đoạt của các chủ thể. Tuy nhiên, từ góc nhìn kỹ thuật lập pháp, tác giả nhận
  • 39. 33 thấy quy định này là không cần thiết. Bởi lẽ, qua khảo sát rất nhiều Bản điều lệ của các công ty đại chúng được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử các sở giao dịch chứng khoán thì chưa thấy có Bản điều lệ nào quy định về thời hạn hoạt động. Do vậy, đối với công ty mà Điều lệ không quy định về thời hạn hoạt động thì quy định về việc giải thể trong trường hợp này là không thực tế. Và nếu có, thì việc giải thể cũng không phải là bắt buộc, mà việc giải thể vẫn phụ thuộc vào quyết định của chủ sở hữu. Về thời hạn hoạt động của doanh nghiệp có lẽ thường được biết đến với các Công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng có thể nói rằng, việc quy định thời hạn hoạt động cũng không phát sinh nghĩa vụ bắt buộc giải thể đối với họ và nếu cố ý đặt ra các quy định để bắt buộc trong trường hợp này thì việc xử lý về mặt thủ tục cũng không có gì khó khăn, nếu họ không muốn giải thể. Do vậy, có thể nói rằng việc quy định giải thể trong trường hợp này chỉ mang tính hình thức. Trường hợp thứ hai, Doanh nghiệp bị giải thể theo quyết định của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần. Tác giả cho rằng đây là quy định luật hoá quyền tự do kinh doanh, cụ thể là quyền tự định đoạt chấm dứt doanh nghiệp khi đủ điều kiện theo luật định. Bởi lẽ, Doanh nghiệp được tạo lập bởi ý chí của thành viên hoặc các thành viên, do vậy ý chí của họ cũng có thể làm chấm dứt Doanh nghiệp của họ. Tuy nhiên, trường hợp này không thể không đề cập đến vấn đề thông qua quyết định giải thể. Đối với Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì không có gì bàn luận về tỷ lệ thông qua quyết định. Bởi lẽ, một mặt do quy định pháp luật mang tính riêng biệt hơn, mặt khác vì mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước
  • 40. 34 ngoài (FDI), nên các cơ quan công quyền, người có thẩm quyền thường thông thoáng hơn trong việc cấp phép đầu tư cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với Doanh nghiệp trong nước, thì thực tiễn áp dụng pháp luật, có những quan điểm nhận thức nhiều sai biệt. Cụ thể: Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập WTO đề cập đến vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp hiện hành như sau: Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ bảo đảm rằng, trong Điều lệ doanh nghiệp, tất cả những loại quyết định cần phải đệ trình xin phê duyệt của hội đồng thành viên hay đa ̣i hô ̣i đồng cổ đông; các quy định về số đại biểu cần thiết, nếu có, trong quy trình bỏ phiếu; và tỷ lệ đa số phiếu chính xác cần có để đưa ra tất cả các quyết định, bao gồm cả tỷ lệ đa số đơn giản là 51%, ... Các doanh nghiệp được các nhà đầu tư Việt Nam cùng với nhà đầu tư của một thành viên WTO thành lập trước ngày Luật Doanh nghiệp năm 2005 có hiệu lực, ... có để đưa ra tất cả các quyết định, bao gồm cả tỷ lệ đa số đơn giản là 51%...[8, tr 19] Cam kết này đã được xác nhận bởi Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO, được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 (Nghị quyết 71). Tại phụ lục nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam xác định: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được quyền quy định trong điều lệ công ty các nội dung sau: 1. Số đại diện cần thiết để tổ chức cuộc họp và hình thức thông qua quyết định của hội đồng thành viên, đại hội đồng cổ đông; 2. Các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của hội đồng thành viên, đại hội đồng cổ đông; 3. Tỷ lệ đa số phiếu cần thiết (kể
  • 41. 35 cả tỷ lệ đa số 51%) để thông qua các quyết định của hội đồng thành viên, đại hội đồng cổ đông. Sau khi Nghị quyết 71 có hiệu lực, có nhiều quan điểm cho rằng không được áp dụng quy định này cho doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam; Vụ Pháp chế của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT) và tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, bên bảo được, người bảo không. Về mặt pháp lý, có thể đánh giá khách quan rằng, khi ban hành Nghị quyết 71, các nhà làm luật đã thể hiện tư tưởng hiện đại và có khả năng dự liệu tốt. i) Tư tưởng hiện đại thể hiện ở chỗ gián tiếp ghi nhận “lẽ công bằng” là nguồn của pháp luật. Vấn đề này chúng ta có thể đặt câu hỏi để làm rõ như sau: Nếu cho rằng tỷ lệ tối thiểu 51% để thông qua các quyết định của hội đồng thành viên, đại hội đồng cổ đông là một lợi thế, là một nhượng bộ của chúng ta cho các nhà đầu tư thuộc WTO, vậy tại sao chúng ta không giành lợi thế này cho các doanh nghiệp của riêng những người Việt tại đất Việt?. Trường hợp thứ ba, bị giải thể khi “Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn sáu tháng liên tục”. Cho đến ngày nay, các luật gia vẫn mặc định chấp nhận quy định về số lượng thành viên tối thiểu của công ty mà không mấy người đặt câu hỏi tại sao công ty phải có số lượng thành viên tối thiểu. Và thực sự, chưa có một sự giải thích chính thức về học thuyết nào và triết lý nào ẩn sâu trong các quy định này. Nhận định này được minh chứng bằng việc chỉ rõ luật thực định của một số quốc gia như sau: Điều 30 Luật Công ty năm 1990 của Việt Nam quy định công ty cổ phần có số lượng thành viên tối thiểu là bảy. Dần dà theo năm tháng số lượng cổ đông tối thiểu đã được qui định rút xuống còn ba theo LDN 2005. Sự rút
  • 42. 36 xuống này không mang đến một nhận định nào về một tình trạng xấu đi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở Anh, tuy mô hình công ty cổ phần xuất hiện từ thế kỷ thứ 17, nhưng mãi đến năm 1844, Nghị viện mới cho ra đời Đạo luật điều chỉnh và đăng ký công ty cổ phần. Năm 1856 Nghị viện nước này ban hành đạo luật mới về công ty, theo đó số lượng cổ đông tối thiểu của một công ty cổ phần là bảy cổ đông. Hiện nay pháp luật về công ty của Anh quan niệm, công ty (không phân biệt loại hình) có thể do một hoặc nhiều thành viên thành lập. Cụ thể tại Mục 7 và Mục 8, Phần 2 của Đạo luật 2006 quy định: “Cách thức thành lập công ty: Theo luật này một công ty được thành lập bởi một hoặc nhiều người; tên của những người góp vốn được ghi trong hợp đồng thành lập công ty và phải tuân thủ các quy định của Đạo luật này khi đăng ký thành lập”. Định nghĩa về công ty cổ phần tai Đạo luật này được quy định tại Mục 1041 mà ở đó người ta không tìm thấy đặc điểm nhận dạng công ty cổ phần liên quan tới số lượng cổ đông, mà chỉ tìm thấy đặc điểm nhận dạng liên quan tới việc chia vốn thành cổ phần, và chuyển nhượng cổ phần… Ở Hoa Kỳ, trong thời kỳ thuộc địa, pháp luật Anh bị áp dụng, nên đòi hỏi một công ty cổ phần phải có tối thiểu bảy cổ đông. Hiện nay, theo Đạo luật mẫu về công ty ở Hoa Kỳ, việc có hay không quy định số lượng thành viên công ty là một vấn đề để phân biệt giữa các công ty đại chúng và các công ty khác, cụ thể: Mục 2.01 của quy định “Một hoặc nhiều người có thể hành động với tư cách là thành viên công ty bằng việc gửi hồ sơ thành lập đến cơ quan đăng ký kinh doanh để thành lập công ty”; và Mục 1.40.18A quy định “Công ty đại chúng là công ty mà cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc gia hoặc có hoạt động thương mại thường xuyên trên thị trường được sự bảo trợ của một hoặc nhiều thành viên hiệp hội chứng khoán quốc gia”.
  • 43. 37 Như vậy, từ biểu hiện bên ngoài, có thể nhận xét: các quy định về số lượng thành viên tối thiểu có gì đó hạn chế quyền tự do kinh doanh hiến định bởi đưa ra các hạn chế thiếu lý do chính đáng. Ở góc nhìn lập pháp thì như vậy, thế nhưng thực thế chưa có đủ căn cứ pháp lý và công cụ pháp lý để buộc một doanh nghiệp giải thể vì điều kiện không đủ số lượng thành viên tối thiểu trong thời hạn sáu tháng liên tục. Ví dụ, một công ty cổ phần mà một cổ đông đã mua lại toàn bộ cổ phần của các cổ đông khác nhưng chưa thực hiện hoặc không thực hiện thủ tục chuyển đổi hình thức công ty thì cũng không có chế tài nào buộc họ phải giải thể. Và nếu cố ý đặt ra quy định để buộc bị giải thể thì quy định này lại phản tác dụng, bởi lẽ người ta sẽ lợi dụng để giải thể nhằm thoái thác nghĩa vụ đối với người thứ ba. Hoặc ở góc nhìn tích cực thì nó có thể xâm phạm đến lợi ích của người đầu tư, và là rào cản cho việc phát triển kinh tế, xã hội… Điều này được minh chứng bằng minh chứng bằng tình huống giả định sau: Công ty cổ phần MK được thành lập từ năm 2000. Từ khi thành lập đến nay, công ty hoạt động rất hiệu quả, sử dụng hàng chục nghìn lao động ở địa phương và đóng góp rất nhiều cho xã hội, đóng thuế nhiều tỷ đồng một năm. Năm 2008 do việc chuyển nhượng cổ phần, Công ty chỉ còn hai cổ đông; Do mâu thuẫn, nên một cổ đông gửi văn bản đến cơ quan đăng ký kinh doanh đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh vì lý do công ty không có đủ số lượng thành viên tối thiểu theo luật định. Trường hợp này, nếu buộc phải giải thể thì hàng loạt hậu quả xấu xảy ra: 6000 lao động mất việc làm; vấn đề an sinh xã hội tại địa phương bị ảnh hưởng nghiêm trọng; nguồn thu ngân sách bị cắt đứt. Từ phân tích trên cho thấy, quy định về trường hợp giải thể do không đủ số lượng thành viên tối thiểu là thiếu cơ sở và không thể áp dụng trên thực tế. Trường hợp thứ tư, Doanh nghiệp bị giải thể khi bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Căn cứ để thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
  • 44. 38 kinh doanh được quy định tại Điều 165 LDN 2005 là khá rõ ràng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc cơ quan đăng ký kinh doanh thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là hãn hữu. Để minh chứng cho nhận định này, tác giả và giáo viên hướng dẫn đã làm một thử nghiệm. Cụ thể: Sử dụng một công ty được thành lập từ năm 2010 có thực tế là: Các cổ đông không thực hiện việc góp vốn cổ phần; Công ty không thực hiện việc mua hoá đơn giá trị gia tăng và cũng không tự đặt in hoá đơn giá trị gia tăng; Từ khi thành lập không thể và không thực hiện được bất kỳ hoạt động kinh doanh nào.... Không giao kết bất kỳ giao dịch kinh tế và hoặc quan hệ lao động nào; Do không có vốn, nên từ tháng 5 năm 2010 đến nay Công ty cũng không thể hoạt động tại trụ sở. Thực tế này đã được cơ quan thuế xác định là đơn vị không kinh doanh tại trụ sở đăng ký. Trên cơ sở các sự kiện pháp lý thực tế phát sinh Công ty gửi văn bản, căn cứ Khoản 2 Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2005: “Doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bị xoá tên trong sổ đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sau đây: d) Không hoạt động tại trụ sở đăng ký trong thời hạn sáu tháng liên tục, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính; e) Ngừng hoạt động kinh doanh một năm liên tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh...”. Theo đó, đề nghị Phòng Đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội thu hồi Giấy chứng nhận Đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên, Cơ quan đăng ký kinh doanh đã thoái thác với lý do là thông tin các cổ đông chưa góp vốn là không trung thực. Mặc dù vậy, nhưng nếu cơ quan đăng ký kinh doanh quyết định thu hồi thì với điều kiện giải thể như đã phân tích trên thì việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng khó có thể dẫn đến giải thể doanh nghiệp mà nếu thu hồi đăng ký kinh doanh còn có thể dẫn đến hậu quả xấu nghiêm trọng.
  • 45. 39 Ngoài ra, Chính phủ còn tự đặt ra hai trường hợp giải thể mà xét về trình độ lập pháp thì hết sức tuỳ tiện. Cụ thể, Nghị định 102/2010/NĐ-CP, ngày 1/10/2010 của Chính Phủ hướng dẫn một số điều của Luật Doanh nghiệp, tại Điều 40 quy định trường hợp giải thể khi bị thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư quy định tại Điều 68 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư hoặc bị Tòa án tuyên bố giải thể. Tính tuỳ tiện của quy định này được luận giải như sau: Điều 68 Nghị định 108 quy định về chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư. Một doanh nghiệp có thể có nhiều dự án, việc chấm dứt đầu tư một hoặc toàn bộ các dự án khác hoàn toàn về bản chất đối với việc chấm dứt doanh nghiệp; Luật Doanh nghiệp chỉ quy định 4 trường hợp giải thể, trong đó không có trường hợp quy định bị Tòa án tuyên bố giải thể. Hơn nữa, không có quy định nào cho phép Tòa án thực hiện quyền tuyên bố một doanh nghiệp giải thể. Như vậy, quy định này không phải là hướng dẫn Luật Doanh nghiệp, mà là quy định lạm quyền. 2.1.2. Quy định về điều kiện giải thể doanh nghiệp Xuất phát từ quyền được bảo hộ của người thứ ba về tài sản. Pháp luật các nước thường quy định điều kiện thanh toán các khoản nợ. Ở Việt Nam, điều kiện này được quy định như sau: “Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác”. Có thể nói đây là điều kiện duy nhất về giải thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện này chưa thể coi là công cụ bảo vệ quyền lợi của người thứ ba. Bởi lẽ, chỉ quy định “đảm bảo thanh toán hết các khoản nợ” là chưa đầy đủ. Sự đảm bảo này có được hiện thực hoá hay không thì các nhà làm luật chưa đặt ra – đây là khiếm khuyết lớn về lập pháp. Nếu hiểu rằng, số liệu trong báo cáo tài chính phản ánh tài sản có lớn hơn tài sản nợ là đảm bảo thanh toán hết thì quá rủi ro, khi mà tính minh bạch trong doanh nghiệp Việt
  • 46. 40 Nam không đáng tin cậy. Các doanh nghiệp có thể điều chỉnh báo cáo tài chính để đạt được điều kiện này không mấy khó khăn. Mặc dù vậy, khiếm khuyết này cũng được khắc phục bởi Điều 40 Nghị định 102/2010/NĐ-CP. Một cách khắc phục, nếu xét về khía cạnh khoa học pháp lý thì chưa được đảm bảo, bởi Chính phủ có thẩm quyền hướng dẫn luật. Tuy nhiên, trường hợp này Chính Phủ lại thực hiện việc giải thích luật, mà thẩm quyền này thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Nội dung quy định khắc phục thể hiện như sau: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc việc giải thể doanh nghiệp và thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp...”. Thanh toán hết khác với đảm bảo thanh toán hết. Và, chỉ khi doanh nghiệp thanh toán hết các khoản nợ thì mới có thể loại trừ được việc gây thiệt hại đến người thứ ba. 2.1.3. Quy định về thủ tục giải thể doanh nghiệp Mặc dù Luật Doanh nghiệp quy định bốn trường hợp giải thể, trong đó về mặt hình thức có ba trường hợp giải thể mang tính bị động và một trường hợp giải thể mang tính chủ động thể hiện quyền định đoạt của doanh nghiệp. Thế nhưng thủ tục giải thể lại được quy định chung cho các trường hợp. Cụ thể, Điều 158 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định giải thể doanh nghiệp như sau: 1. Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp. Quyết định giải thể doanh nghiệp phải có các nội dung chủ yếu sau đây: a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; b) Lý do giải thể;
  • 47. 41 c) Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp; thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được vượt quá sáu tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể; d) Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động; e) Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 2. Chủ doanh nghiệp tư nhân, Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty, Hội đồng quản trị trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh lý riêng. 3. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp. Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể doanh nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp. Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo về phương án giải quyết nợ. Thông báo phải có tên, địa chỉ của chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ. 4. Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự sau đây: a) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
  • 48. 42 b) Nợ thuế và các khoản nợ khác. Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp, phần còn lại thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty. 5. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. 6. Trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trình tự và thủ tục giải thể được thực hiện theo quy định tại Điều này. Sau thời hạn sáu tháng quy định tại khoản này mà cơ quan đăng ký kinh doanh không nhận được hồ sơ giải thể doanh nghiệp thì doanh nghiệp đó coi như đã được giải thể và cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Như vậy, Luật không đả động đến thủ tục giải thể đối với trường hợp hết thời hạn hoạt động và trường hợp không đủ số lượng thành viên tối thiểu. Hơn nữa, việc quy định về trường hợp giải thể do bị thu hồi đăng ký kinh doanh là tuỳ tiện, mâu thuẫn với các quy định mang tính tiên quyết về điều kiện giải thể. Quy định này có thể xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của các chủ nợ và có thể bị lợi dụng nhằm trốn tránh trách nhiệm.