SlideShare a Scribd company logo
1 of 13
tiểu luận về chính sách tiền tệ

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vi mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ,
tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản chất là một
nền kinh tế tiền tệ. Do đó việc ổn định đồng tiền nền Tài Chính Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu
tiền cho việc kiềm chế lạm phát, và ổn định nền kinh tế.




Phần 1: Tổng quan về chính sách tiền tệ của NHTW
1. Khái niệm :
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung
ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá
hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ
bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các
nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại
hối.
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ :
2.1 Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các
Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo
bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
2.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên
tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân
hàng thương mại.
2.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ
có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng
đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng
tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
2.4 Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách
tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền
trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại.
Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ
thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong
từng thời kỳ nhất định.
2.5 Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của
Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín
dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân
hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
2.6 Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại
tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối.
Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất
nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một
cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ,
cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá
không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong
lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi
tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.




Phần 2: Chính sách tiền tệ của NHTW ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM
Giai đoạn từ 1998 đến 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng – mục tiêu được xếp hàng đầu
trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn
định (từ 01/12/2005 – 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng
ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Trong thời gian 10 năm, từ năm 1998 đến hết năm
2007, bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2007, con số
này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động tín dụng, tiền còn
được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ… Vì vậy, đã đẩy
tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn ¼ số tiền của năm trước (từ 1996 đến
hết năm 2007 tổng phương tiện thanh toán tăng thêm bình quân năm là 26,2%, riêng năm
2007 con số này là 37%) trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ tăng lên khoảng 7,2% (GDP
từ 1997 đến hết năm 2007 tăng bình quân năm là: 7,2%). Suốt khoảng thời gian dài, khoảng
cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới
20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với
GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu
thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản,
thị trường chứng khoán trong những năm qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì
thế, cho đến khi hai thị trường này bị thắt lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng –
nếu không lạm phát mới là hiện tượng lạ (thị trường bất động sản bắt đầu phát triển từ những
năm 1997, 1998 và mạnh mẽ nhất vào năm 2007. Còn thị trường chứng khoán mới có sức
hút tiền trong khoảng 3 năm gần đây). (Xem biểu đồ)
Biều đồ: Tốc độ tăng cung tiền và GDP của 3 nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%, cung
tiền đo bằng M2

Nguồn: Website của NHNN
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi (tính từ đầu năm 2005 cho đến hết tháng 6/2007), GDP
của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền lên đến 110%. Trong cùng một khoảng thời
gian, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch này ở
Thái Lan hầu như không đáng kể.
Năm 2008 kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp và biến động nhanh chóng. Trong
những tháng đầu năm, hầu hết các nền kinh tế thế giới phải tập trung đưa ra các giải pháp
mạnh mẽ để chống lạm phát do “cơn bão giá “ lan rộng trên toàn cầu. Giá dầu thô liên tục
tăng cao, đến trung tuần tháng 7-2008 lên tới đỉnh điểm là 147 USD/thùng; giá gạo có thời
điểm lên tới 1.200 USD/tấn; giá vàng lên tới trên 950 USD/ounce. Các mức giá đó cao nhất
trong hàng chục năm qua trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, USD mất giá mạnh so với
các loại ngoại tệ chủ chốt khác, có thời điểm 1 EURO đổi được hơn 1,62 USD. Trước bối
cảnh đó NHTW hàng loạt nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ, tăng cao lãi suất chỉ đạo,
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tuy nhiên kinh tế thế giới đã và đang biến đổi hết sức nhanh chóng vượt ra ngoài dự báo của
NHTW, các định chế tài chính, các nhà khoa học kinh tế nổi tiếng, cũng như cả giới đầu cơ.
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ khủng tín dụng thứ cấp nhà ở tại Mỹ đã nhanh
chóng lan ra toàn cầu. Tính đến nay có gần 20 Ngân hàng và định chế tài chính Mỹ bị đổ vỡ,
nhiều ngân hàng khác tại châu Âu cũng bị quốc hữu hoá, sáp nhập, bị thôn tính, bị thua lõ
nặng. Giá dầu mỏ sụt giảm với tốc độ “ khủng khiếp, đến đầu tháng 12-2008 cuống chỉ còn
40 USD/thùng, giá vàng cũng giảm nhanh, đồng USD mạnh lên so với các loại ngoại tệ
mạnh khác trên thị trường quốc tế. Giá gạo và một số mặt hàng lương thực khác giảm hơn
2/3. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ và nhiều quốc gia khác gia tăng, sức mua giảm. Thương mại
thế giới giảm tới 10%, mức giảm thấp nhất trong gần 20 năm qua. Thị trường chứng khoán
sụt giảm thê thảm, hàng nghìn tỷ USD bị bốc hơi.
Trước sự đột ngột “ quay đầu “ nhanh chóng như vậy của kinh tế thế giới, NHTW các nước
cũng đã phản ứng hết sức linh hoạt, ngay lập tức chuyển sang thực hiện chính sách tiền tệ
nới lỏng, thực hiện cắt giảm mạnh mạnh lãi suất cơ bản, cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đưa
về mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Bộ tài chính và NHTW các nước bơm hàng chục tỷ
USD, thậm chí hàng trăm tỷ USD và các nước châu Âu giành tới gần 3.000 tỷ USD để bơm
vào hệ thống ngân hàng thương mại, bơm vào nền kinh tế, cứu một loạt định chế tài chính,
đảm bảo thanh khoản cho các NHTM. Đồng thời tăng mức bảo hiểm tiền gửi, hoặc cam kết
bảo hiểm không có giới hạn tiền gửi cho người dân. Tuy nhiên cho đến nay cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới chưa có dấu hiệu được ngăn chặn hoàn toàn và không biết còn diễn
ra tới đâu và tác động đến mức nào. Chỉ số chứng khoán trên các thị trường chứng khoán
chủ chốt khác vẫn liên tục mất điểm.
Đồng thời Chính phủ một loạt nước trên thế giới công bố các kế hoạch kích thích kinh tế
khổng lồ để ngăn chặn đà uy giảm, thúc đẩy tăng trưởng. Riêng Chính phủ Trung Quốc đưa
ra kế hoặch tài chính trị giá tới 586 tỷ USD cho chương trình kích cầu nền kinh tế theo
hướng nói trên.
Nền kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động ở mức độ khác nhau của kinh tế thế giới, cộng với
những nguyên nhân nội tại của nền kinh tế đất nước, của thiên tai, dịch bệnh, nên trong
những tháng đầu năm 2008 lạm phát cũng tăng rất cao. Chỉ số CPI tăng cao nhất trong
khoảng 16 năm qua. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ngày từ đầu năm 2008, NHNN đã
thực hiện đồng bộ các giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, tăng các loại lãi suất chủ đạo, phát hành 20.300 tỷ đông tín phiếu bắt buộc đối với các
NHTM, kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản; tăng
cường quản lý các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ.
Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình
hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng với sự dồn
tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có hiện tượng “bốc
hoả” về giá.. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với
nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực
phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát
bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có
tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%).
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở
được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Và phản ứng của thị trường cũng
thật mạnh mẽ: các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở
lên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở lên lạnh giá,
thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt… Chính sách tiền tệ
bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó.
Những dấu mốc đáng ghi nhớ trong việc sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ
vào những tháng đầu năm 2008:
- Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. (Quyết định 187/QĐ-NHNN).
- Ngày 30/01/2008, điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái cấp vốn
tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN).
- Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3,
với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là
7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN).
Cả ba giải pháp trên đều hướng tới mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về. Các giải pháp
sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008,
lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang
mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm
và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định 1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng
thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm…(Xem bảng 1)
Bảng 1: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 12/2005 – đến tháng 6/2008



Lãi suất
Quyết định
Ngày thực hiện
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008
11/06/2008
12%/năm
1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008
19/05/2008
8.75%/năm
305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008
01/02/2008
8,25%/năm
1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005
01/12/2005

Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính sách tiền
tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp
quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết
tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, phải thừa nhận
rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng
3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi
suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này
người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng
có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất
cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi
từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở
hầu hết các ngân hàng. Cũng giai đoạn này, đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc tìm cách giữ
chân người gửi tiền và qua đó mới thấy khách hàng gửi tiền quan trọng cỡ nào. Lãi suất
không chỉ là vấn đề trên thị trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) mà nó còn
diễn ra không kém phần quyết liệt chính giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II).
Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế
trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì
diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi phí nguyên liệu
cũng cao… Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% – mức thấp nhất
so với các tháng trước – đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng về sự sáng sủa của bức
tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8
là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm
0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008
– tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm… Cuộc chạy đua lãi suất cũng
bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ.
- Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm. (Xem bảng 2).
Bảng 2:
Lãi suất CB
Quyết định
Ngày thực hiện
8,5%
3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
22/12/2008
10%
2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
05/12/2008
11%/năm
2808/QĐ–NHNN ngày 20/11/2008
21/11/2008
12%/năm
2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008
05/11/2008
13.0%/năm
2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
21/10/2008
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008
11/06/2008

- Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm; 5%/năm; 10%/năm, sau đó
giảm nhưng với tốc độ giảm chậm. (Xem bảng 3).
Bảng 3:
Lãi suất DTBB
Quyết định
Ngày thực hiện
8,5%/năm
3162/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
22/12/2008
9%/năm
2950/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008
5/12/2008
10%/năm
2321/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
21/10/2008
5,0%/năm
2133/QĐ-NHNN ngày 25/9/2008
01/10/2008
3,5%/năm
1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008
01/9/2008

- Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày 20/10/2008); biên độ
tỷ giá được nới lỏng từ +/- 1% lên +/-2% (Quyết định 1436 ngày 26/6/2008), từ +/- 2% lên
+/- 3% (Quyết định 2635 ngày 6/11/2008); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống
còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày
03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158) và các loại lãi suất chiết khấu, lãi
suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống… Bên cạnh đó, tín hiệu cho vay kinh doanh chứng
khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra…
Sau đó, việc thắt chặt tiền tệ kiềm chế lạm phát đã có những tác động góp phần thực hiện
hiệu quả mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững, từ đầu tháng 9-2008, cũng theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã chuyển
dần sang linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tiền tệ, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt
buộc, tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc của NHNN. Tiếp theo đó từ đầu tháng 10 đến đầu
tháng 12-2008, NHNN thực hiện nhiều đợt giảm dần lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác
do NHNN điều hành, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho phép các TCTD được thanh toán trước
hạn tín phiếu bắt buộc, nới rộng biên độ giao dịch ngoại tệ của NHTM với khách hàng. Đặc
biệt là thời điểm đầu tháng 12-2008, góp phần thực hiện các giải pháp cấp bách ngăn chặn
suy giảm kinh tế, khắc phục đình trệ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo
chỉ đạo của Chính phủ, NHNN có các quyết định mang tính đồng bộ và mạnh mẽ hơn theo
hướng linh hoạt hơn nữa trong điều hành chính sách tiền tệ. Những quyết định đó đã đưa lãi
suất trên thị trường dần trở về tương ứng với mức trước khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
của các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên những diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, sự tác động của khủng hoảng
tài chính toàn cầu, cũng như điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ của NHNN đã tác
động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, như thiếu thanh khoản, lãi suất
thị trường liên ngân hàng tăng cao, lãi suất huy động vốn tăng cao nhưng lãi suất cho vay
nằm trong giới hạn của lãi suất cơ bản và luật dân sự. Đến thời điểm hiện nay, mặc dù lãi
suất cho vay đã giảm rất lớn nhưng vốn cho vay ra của các NHTM vẫn rất khó khăn. Nhìn
chung nguồn thu của các NHTM bị giảm và quản trị điều hành của các NHTM cũng bị động,
luôn phải xử lý với các tình huống xẩy ra.
Cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động ngân
hàng đang khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với nhịp độ bình
thường, lãi suất không còn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng dẫn khách hàng
có nguồn tiền gửi… Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong tình trạng chưa có
dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có hiện tượng chậm lại,
tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía các doanh
nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải. Hoạt động tín dụng vẫn
còn ở trạng thái cầm chừng, trong 10 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt
19,6%, nếu so với 30% – giới hạn tăng trưởng tín dụng NHNN đặt ra cho năm 2008 thì hoạt
động tín dụng mới chỉ “đi được” 2/3 “quãng đường”. Phải chăng ngân hàng không đủ vốn để
cho vay? Hay do nhu cầu xã hội như vậy là đã đủ? Hoàn toàn không phải vậy, theo thông tin
từ NHNN thì vốn khả dụng của các NHTM hiện rất dồi dào; còn nếu nói đến nhu cầu xã hội
thì con số 19,6% lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, tỷ lệ 19,6% tăng lên của hoạt
động tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2008 là một con số chưa được thỏa mãn. Rõ ràng là
dư âm và hậu quả của cuộc chạy đua lãi suất trong những tháng đầu năm 2008 vẫn còn đó
mà khởi động cho nó chính là tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng.
Hãy điểm qua những hệ lụy mang lại cho các NHTM để thấy được mặt trái của việc vận
hành các công cụ chính sách tiền tệ.
Điều chỉnh giảm lãi suất cho vay – một khó khăn của các NHTM. Mặc dù hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh và thu lãi từ hoạt động tín dụng hiện vẫn là nguồn thu chủ yếu
của các NHTM Việt Nam, song hoàn toàn không phải vì thế mà các ngân hàng muốn nâng
lãi suất cho vay. Bởi lẽ, ngay cả trong điều kiện mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn ra bình
thường thì việc nâng lãi suất cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, khách
hàng tốt sẽ bỏ đi – vì cách xử sự của ngân hàng không tốt, khách hàng xấu thì ở lại – vì đã
xấu thì đến vay ở ngân hàng nào cũng thế thôi. Còn trong điều kiện lạm phát cao, việc tăng
lãi suất cho vay cũng là điều dễ hiểu – vốn dĩ lãi suất cũng là một loại giá, mặt bằng giá cả
tăng, thì lãi suất huy động vốn tăng, và vì thế, lãi suất cho vay cũng không thể không tăng
được.
Tuy nhiên, lãi suất cho vay không phải chỉ bị ảnh hưởng bởi mặt bằng giá cả mà nguyên
nhân chính là nó phải chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu tín dụng trong nền kinh tế, mà
trong đó NHTW có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình thông qua các công chính sách
tiền tệ để trực tiếp điều chỉnh lãi suất hoặc gián tiếp điều chỉnh quan hệ cung cầu tín dụng.
Phân tích các yếu tố tác động lên mặt bằng lãi suất của các ngân hàng sẽ cho ta lời giải khá
cụ thể về việc nâng lãi suất và khả năng điều chỉnh giảm lãi suất của các ngân hàng trong
thời gian này. Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở nguồn vốn phải trả lãi huy động được từ
nền kinh tế, nhưng đồng thời đó cũng là nguồn để dự trữ bắt buộc, để mua tín phiếu bắt
buộc… trên cơ sở đó, ngân hàng phải tự cân đối nguồn vốn khả dụng, cân đối lãi suất để nếu
không có lời thì cũng phải duy trì hoạt động của ngân hàng. Vì thế, toàn bộ các tín hiệu được
phát ra từ NHNN như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, mua tín phiếu bắt buộc
trong những tháng đầu năm 2008 đã buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất, phải thắt chặt tín
dụng. Hiện thời, lãi suất huy động và cho vay đều giảm xuống nhưng nguồn huy động lãi
suất cao còn đó, không dễ gì ngay lập tức có thể giảm thật nhiều. Vấn đề này đối với các
NHTM cổ phần lại càng khó khăn hơn vì nguồn vốn huy động lãi suất thấp từ tiền gửi thanh
toán của các doanh nghiệp của họ thật vô cùng khan hiếm.
Tăng cường cho vay – điều không đơn giản. Trong kinh doanh ngân hàng, ai cũng có thể
hiểu rằng việc cho vay của các NHTM luôn phụ thuộc vào cả hai phía: cả ngân hàng – người
cho vay và cả người đi vay mà đại diện là các doanh nghiệp. Dù hiện nay nhiều ngân hàng
đã rất có thành ý và đặt ra mục tiêu tăng dư nợ trong những tháng cuối năm 2008 nhưng việc
cho vay cũng chưa hẳn đã dễ dàng. Cho đến cuối tháng 10/2008, kế hoạch mở rộng quy mô
cho vay của một số ngân hàng chỉ thực hiện được khoảng 10% – 20%. Có nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó dĩ nhiên nguyên nhân từ phía doanh nghiệp cũng không kém phần
quan trọng, song nếu xét ở góc độ do chịu hệ lụy của chính sách tiền tệ thì lãi suất chính là
một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm hẳn khả năng vay vốn của các doanh nghiệp.
Theo thống kê gần đây của Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì có tới 60% doanh
nghiệp khó khăn do lãi suất tăng. Và kể cả trong thời gian này, khi ngân hàng giảm lãi suất
cho vay thì doanh nghiệp vẫn thật khó có thể vay vốn bởi lãi suất vẫn cao hơn so với tỷ suất
lợi nhuận mà nó có thể đạt được.
Mặt khác, nền kinh tế khó khăn, thì doanh nghiệp không chỉ khó khăn về vốn, về lãi suất mà
giá cả đầu vào cao- chi phí sản xuất kinh doanh tăng vọt cũng góp phần làm suy yếu sự tồn
tại của nhiều doanh nghiệp và do vậy việc tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cũng
không phải dễ dàng. Bên cạnh đó thì sự suy yếu về tài chính, những khó khăn về đầu ra –
sức cầu giảm – cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng có nhiều doanh nghiệp muốn vay
vốn ngân hàng nhưng không vay được. Do không hiểu nhiều về ngân hàng nên có người cho
rằng ngân hàng gây khó cho doanh nghiệp, tuy nhiên, với những người trong nghề thì điều
này lại quá rõ ràng – hoạt động chủ yếu của ngân hàng là huy động vốn để cho vay, không
có một lý do gì có thể khiến các ngân hàng huy động được nguồn rồi mà lại không muốn cho
vay ra cả, chẳng qua do kinh doanh khó khăn, do chưa chứng minh được hiệu quả của việc
sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ thấp nên họ đã không được ngân hàng chấp nhận cho
vay. Vốn dĩ việc kinh doanh của ngân hàng là dựa trên những đồng vốn được huy động từ
nền kinh tế, cho dù ngân hàng có khó khăn như thế nào thì việc hoàn trả tiền gửi khi đến kỳ
hạn cũng không bao giờ được chậm trễ. Điều đó đã buộc ngân hàng phải từ chối với những
dự án vay không đủ chuẩn và do vậy đã làm hạn chế khả năng cho vay của các ngân hàng.
Sự tương tác giữa các ngân hàng có phần suy giảm – cũng là một hệ lụy do việc vận dụng
chính sách tiền tệ thời gian qua mang lại. Nếu như quá trình tạo tiền của các ngân hàng được
thực hiện trong khi các ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh thì chính quá trình đó
lại là bằng chứng về mối liên hệ gắn bó, không thể tách rời giữa các ngân hàng trong quá
trình hoạt động. Mỗi ngân hàng có thể có mục tiêu riêng, có chiến lược hoạt động riêng, có
thương hiệu riêng… cùng với nhiều điểm khác biệt. Song, trong quá trình tạo tiền thì tất cả
đều giống như đang cùng di chuyển trên một con thuyền. Ngay cả khi sóng yên, biển lặng thì
tất cả những người chèo thuyền đã phải chung một hướng chứ đừng nói đến khi sóng to, gió
lớn. Chính vì vậy, trong hoạt động ngân hàng, đòi hỏi giữa các thành viên phải có sự tương
tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển, nhất là trong những hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, nếu không tương tác hỗ trợ mà còn xô đẩy nhau thì chắc chắn bão táp sẽ ập xuống –
khủng hoảng toàn hệ thống, lúc đó thật khó có thể tồn tại. Thực ra các ngân hàng đều thấu
hiểu sự ràng buộc đó, song có những khoảnh khắc rất ngắn trong những tháng đầu năm
2008, nhiều ngân hàng phải đối diện với vấn đề thanh khoản, những yêu cầu gấp gáp, khẩn
trương cả về thời gian và số lượng đã buộc các ngân hàng phải đưa ra những phương án xử lí
vấn đề thanh khoản một cách quyết liệt. Tiền huy động về đã cho vay rồi – cho vay thì luôn
luôn có thời hạn, kể cả đến hạn trả nợ thì việc đòi nợ còn khó khăn, chứ đừng nói đến việc
chưa đến hạn trả nợ; dự trữ cũng chỉ có mức độ vừa phải, lấy gì để tăng dự trữ bắt buộc,
đồng thời mua tín phiếu có thời hạn bắt buộc…? Các ngân hàng phải lên kế hoạch, vạch
chiến lược thanh khoản cho từng giờ – làm sao tránh khỏi việc chiêu dụ khách hàng của
nhau; sử dụng công cụ lãi suất ép nhau… Thật lo lắng khi ngay trên thị trường liên ngân
hàng, các ngân hàng cũng đã có lúc đối xử với nhau như không phải họ đang trong cùng một
trận tuyến chống lạm phát – lãi suất cho vay giữa các ngân hàng có lúc lên đến 43%/năm –
một con số không thể ngờ tới.
Nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Lãi suất cao, thắt chặt tín dụng, giá cả nguyên vật liệu
tăng vọt… là những gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, rõ ràng các
dự án đang hoạt động không thể tiến hành bình thường, các dự án mới không thể bắt đầu
được, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không thể có cơ hội để duy trì ổn định và doanh
nghiệp đã gặp không ít khó khăn khi phải đương đầu với những thay đổi thất thường của nền
kinh tế: lúc giá cả lên cao – chi phí nguyên vật liệu tăng vọt, khi giá cả giảm xuống – sản
phẩm làm ra không thể bán giá cao… Nợ mới đã không vay được thì nợ cũ cũng không dễ gì
trả được – nợ chồng nợ, nợ đọng, nợ khó thu hồi, đảo nợ… có nhiều cơ hội phát sinh, rủi ro
tiềm ẩn tăng lên. Không thể khác được, sự khó khăn của doanh nghiệp lại gây hậu quả
ngược lại cho ngân hàng.
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó
lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế
Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều
của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác
động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó
lường đến tỷ giá
Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản
xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng
khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND.
Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một
cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp
cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu
của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả,
NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11%
xuống 5%.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại
hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.


Top of Form

Bottom of Form

Phần 3: Một số điểm cần lưu ý khi điều hành chính sách tiền tệ
Mặc dù cho đến nay, tình hình kinh tế khá ổn định, hoạt động của các ngân hàng có nhiều
chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục, song trên
thực tế, những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động của các ngân hàng và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế… Vấn đề này cần
được thảo luận một cách nghiêm túc, bởi lẽ ngân hàng là nơi cung cấp vốn – điều kiện đầu
vào cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nếu khả năng tiếp cận
nguồn vốn ngân hàng gặp khó khăn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiến
hành bình thường được và như vậy, kinh tế khó có thể tăng trưởng. Nhất là trong điều kiện
mà lạm phát đang được kiểm soát, nhưng giảm phát và suy thoái kinh tế – nỗi lo chung của
xã hội, lại đang có dấu hiệu xuất hiện: thị trường bất động sản tuy có dấu hiệu rục rịch
nhưng vẫn trong tình trạng đóng băng, thị trường chứng khoán đang trong giai đọan cố gắng
nhưng vẫn “trồi” “sụt” bất thường, thị trường hàng hóa cũng trong tình trạng suy giảm (cung
cầu đều khó khăn, giá cả thì đảo chiều)… Để giảm bớt những tác động trái chiều của chính
sách tiền tệ cần lưu ý một số vấn đề sau:
Thận trọng khi đồng thời sử dụng nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Việc sử dụng
đồng thời nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ là việc làm bình thường, trên lý thuyết
và cả thực tiễn, cũng không có nguyên tắc nào quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, thị trường
là nơi rất nhạy cảm và nó chính là nơi phản ánh sức sống của nền kinh tế. Diễn biến cùng
với những phản ứng mãnh liệt của thị trường vào những tháng đầu năm 2008 và những dư
âm của nó cho đến hôm nay- những ngày cuối cùng của năm 2008 đã cho ta một bài học sâu
sắc về vấn đề này. Vì thế, cần phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định liên quan đến
sự vận động của tiền tệ, trước khi vận hành phải quan sát kỹ diễn biến, dự kiến được những
phản ứng có thể của thị trường để cân nhắc về loại công cụ sử dụng, về mức độ cần thiết, về
liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ và luôn tránh những giải pháp sốc –
giải pháp có thể dồn các ngân hàng vào những tình huống nguy hiểm.
Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất. Mặc dù mỗi công cụ có
những đặc tính, khả năng tác động đến thị trường theo những cách khác nhau, với mức độ
cũng không giống nhau, song cho dù công cụ nào thì tín hiệu cuối cùng của nó sau khi phát
ra cũng dẫn đến sự thay đổi về giá – lãi suất, dù đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay mua tín
phiếu bắt buộc… Vì vậy, hãy sử dụng hữu hiệu công cụ lãi suất để điều tiết. Có thể nói,
trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín hiệu phù hợp nhất,
lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh hưởng, tác động
của lãi suất chỉ đạo phát ra từ NHNN: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Lãi suất thị
trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn về thanh khoản
của các NHTM.
Thay đổi quan điểm về chi phí phải trả cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Để đạt được
mục tiêu đặt ra kể cả mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ đều có những cái giá
phải trả – đó là những chi phí, những tốn kém cần thiết. Không thể đơn giản cho rằng dự trữ
bắt buộc thì không phải trả lãi suất hay mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nhất
thiết phải có chênh lệch (lợi nhuận)… Việc điều chỉnh tăng lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc
thời gian gần đây cũng là sự thay đổi đáng kể về quan điểm. Còn đối với công cụ thị trường
mở, khi thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường này cũng chính là lúc NHNN
thực hiện việc sử dụng công cụ thị trường mở để đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ chứ
không phải để kinh doanh, vì thế, trong nhiều tình thế bắt buộc, NHNN phải sử dụng cơ chế
giá để điều tiết bằng cách đặt giá cao lên để mua cho được – nếu muốn phát hành tiền vào
lưu thông và ngược lại, định giá thấp xuống để bán cho được – nếu muốn hút tiền từ lưu
thông về. Như vậy, mặc dù là người định giá nhưng có lúc NHNN cũng vẫn phải mua giá
cao và bán giá thấp – đó là một loại chi phí buộc phải trả.
Ngoại tệ mua vào cần phải được sử dụng có hiệu quả. (Hiện nay, ta đã thực hiện đúng cam
kết với Quỹ tiền tệ quốc tế, tháng 4/2003, tỷ lệ kết hối được đưa về 0% để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp chủ động sử dụng nguồn ngoại tệ thu được.). Đầu năm 2008, NHNN mua
vào một lượng ngoại tệ khá lớn và vì thế, một số lượng VND rất lớn đã được đẩy vào lưu
thông, góp phần không nhỏ trong việc đội giá cả hàng hóa, nhiều ý kiến không đồng tình với
cách làm này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Nếu không chuyển qua VND, thì bằng cách nào
các doanh nghiệp, các cá nhân có thể sử dụng nguồn ngoại tệ này? Đâu có phải lúc nào các
doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được chủ động sử dụng nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu
hàng hóa? Hơn nữa, một thực tế không thể phủ nhận là ở nước ta, người ta vẫn dùng USD để
mua bán, trao đổi khá tự do (mặc dù không được phép) mà việc dùng USD thay thế cho
VND trong các giao dịch trên đất Việt Nam còn nguy hiểm hơn nhiều. Vì vậy, ngoại tệ cần
phải được tập trung vào tay Nhà nước để sử dụng hiệu quả cho những nhu cầu chính đáng
của quốc gia và hạn chế tình trạng đôla hoá nền kinh tế, cho nên dù không hành chính hoá
vấn đề này, song, nếu doanh nghiệp, cá nhân nào có nhu cầu bán ngoại tệ là ngân hàng
không được từ chối. Tất nhiên, NHTM thì mua của doanh nghiệp, của dân; NHNN thì mua
lại của các NHTM. Việc làm đó đồng nghĩa với phát hành tiền vào lưu thông, vấn đề sẽ trở
nên bình thường nếu như nguồn ngoại tệ được sử dụng một cách có hiệu quả, tạo ra nguồn
hàng đảm bảo sự cân đối với số lượng VND đã phát ra. Vì thế, một mặt, khi phát hành tiền
đồng mua ngoại tệ phải luôn đi kèm với giải pháp hút tiền đồng về – sử dụng công cụ thị
trường mở, công cụ lãi suất… Ngoài ra, vấn đề quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước
cũng phải được quan tâm, phải tập trung về một mối đó là NHNN – đại diện cho Nhà nước
trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoại tệ là của quốc gia, không vì lợi ích riêng mà
để phân tán rải rác gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và cũng cản trở việc
quản lý và sử dụng chúng một cách hiệu quả.
Nhận định đúng vai trò của thị trường tiền tệ để có hướng tác động thích hợp đến hoạt động
của các thị trường. Mỗi thị trường đều có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và có
những đặc điểm riêng có của nó, tuy nhiên, thị trường nào có tỷ suất sinh lời cao hơn thì nó
hút tiền mạnh hơn và do vậy, giá cả hàng hoá trên thị trường này sẽ tăng lên và ngược lại.
Nguyên tắc “bình thông nhau” giữa các thị trường thể hiện khá rõ ở nước ta trong những
tháng qua. Vào những tháng đầu năm 2007, khi giá chứng khoán có xu hướng giảm xuống
thì giá bất động sản đột ngột nóng sốt và vào những tháng cuối năm 2007, đầu năm 2008, rõ
ràng giá cả hàng hoá trên thị trường hàng hoá và thị trường vàng tăng cao là có vai trò của
lượng tiền được dồn về từ thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, khi hai thị
trường này tắc nghẽn. Nền kinh tế muốn phát triển thì các thị trường phải được vận hành
một cách đồng bộ, song đứng trên hết và có thể tạo sự gắn kết, liên thông giữa các thị trường
chính là thị trường tiền tệ bởi vì tiền chính là dòng chảy lưu thông giữa các thị trường, khi
dòng chảy này bị chặn lại thì lập tức các thị trường trở nên đông cứng, không thể vận hành
được. Nói như vậy không có nghĩa là sự trì trệ của nền kinh tế là lỗi tại ngân hàng, bởi ngân
hàng cũng chỉ là một hiện thân về nhu cầu của xã hội, nó cũng chịu sự chi phối của các yếu
tố kinh tế vốn đang tồn tại – tiền chỉ vận động khi có sự vận động của hàng hóa. Khi các thị
trường khác suy sụp cũng sẽ là hiểm họa, là nguy cơ cho thị trường tiền tệ, cho hệ thống
ngân hàng – hệ thống huyết mạch của nền kinh tế. Vì vậy, các giải pháp đưa ra phải đúng
lúc, đúng thời điểm, phải tạo sự liên kết tốt hơn, hiệu quả hơn giữa thị trường tiền tệ với các
loại thị trường. Mọi sự can thiệp không kịp thời hay vội vàng đều có thể làm ngưng trệ các
hoạt động trên các thị trường và khi muốn nó hồi phục trở lại thực sự không phải việc dễ
dàng.




KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia, chúng ta thấy rõ đc vai trò và ý nghĩa
của nó trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà
nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ hết sức quan trọng.
Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt và sự thống nhất
trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay.
Bằng sự nổ lực hiện tại và trong tương lai, sự kế thừa và phát huy những thành tựu của chính
sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ Việt Nam sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong việc
xây dựng một đất nước giầu mạnh, ổn định và phát triển sánh vai với các bạn bè quốc tế.
MỤC LỤC
Lời mở đầu............................................ ................................................. 1
Nội dung
Phần 1: Tổng quan về chính sách tiền tệ của NHTW............................ 2
1. Khái niệm............................................ ........................................ 2
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ.............................................. . 2
Phần 2: Chính sách tiền tệ của NHTW ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM 4
Phần 3: Một số điểm cần lưu ý khi điều hành chính sách tiền tệ........... 18
Kết luận............................................ .................................................. .. 23

More Related Content

What's hot

Chính sách can thiệp của Chính phủ
Chính sách can thiệp của Chính phủChính sách can thiệp của Chính phủ
Chính sách can thiệp của Chính phủLinh Lư
 
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010Minh Hiếu Lê
 
Chế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giáChế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giáPureLe Gooner
 
tiền tệ và chính sách tiền tệ
tiền tệ và chính sách tiền tệtiền tệ và chính sách tiền tệ
tiền tệ và chính sách tiền tệLyLy Tran
 
huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1
huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1
huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1Mon Le
 
lạm phát và tăng trưởng kinh tế
lạm phát và tăng trưởng kinh tếlạm phát và tăng trưởng kinh tế
lạm phát và tăng trưởng kinh tếguest3c41775
 
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)Tạ Đình Chương
 
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nướcNhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nướcHương Nguyễn
 
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015Minh Hiếu Lê
 
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)Thanh Hoa
 
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tếTăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tếLyLy Tran
 
On tap kinh te luong co ban
On tap kinh te luong co banOn tap kinh te luong co ban
On tap kinh te luong co banCam Lan Nguyen
 
Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063
Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063
Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063Thanh Huyền
 
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.Linh Khánh
 
163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệ
163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệ163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệ
163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệlehaiau
 
TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019
TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019
TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019phamhieu56
 
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchTỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchPhanQuocTri
 

What's hot (20)

Chính sách can thiệp của Chính phủ
Chính sách can thiệp của Chính phủChính sách can thiệp của Chính phủ
Chính sách can thiệp của Chính phủ
 
Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam
Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam
Đề tài: Nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam
 
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010
 
Chế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giáChế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giá
 
tiền tệ và chính sách tiền tệ
tiền tệ và chính sách tiền tệtiền tệ và chính sách tiền tệ
tiền tệ và chính sách tiền tệ
 
huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1
huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1
huong dan giai bai tap kinh te vĩ mô phan 1
 
lạm phát và tăng trưởng kinh tế
lạm phát và tăng trưởng kinh tếlạm phát và tăng trưởng kinh tế
lạm phát và tăng trưởng kinh tế
 
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính   tiền tệ (vb2)
Câu hỏi ôn thi phần tự luận lý thuyết tài chính tiền tệ (vb2)
 
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nướcNhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
Nhóm 7(chính), chủ đề thâm hụt ngân sách nhà nước
 
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
Vấn đề lạm phát ở Việt Nam từ 2004 - 2015
 
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
Bài tập hoạch định dòng tiền ( các dạng bài tập + lời giải và phân tích)
 
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tếTăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
 
On tap kinh te luong co ban
On tap kinh te luong co banOn tap kinh te luong co ban
On tap kinh te luong co ban
 
Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063
Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063
Mo hinh ngan_hang_trung_uong_063
 
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
Phân tích tình hình làm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây.
 
163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệ
163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệ163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệ
163 câu trắc nghiệm tài chính tiền tệ
 
TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019
TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019
TIỂU LUẬN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP_10302212052019
 
Ngân hàng trung gian
Ngân hàng trung gianNgân hàng trung gian
Ngân hàng trung gian
 
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchTỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
 
Bài tập tài chính quốc tế
Bài tập tài chính quốc tếBài tập tài chính quốc tế
Bài tập tài chính quốc tế
 

Similar to Tiểu luận về chính sách tiền tệ

26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_6567126552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671Trung Nam Hoàng
 
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...phamquyenbt9191
 
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV .pdf
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV         .pdfBÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV         .pdf
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV .pdfngnquyet
 
Hệ thống ngân hàng việt nam
Hệ thống ngân hàng việt namHệ thống ngân hàng việt nam
Hệ thống ngân hàng việt namQuỳnh Trọng
 
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giáLãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giáhaiduabatluc
 
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giáMô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giálekieuvan94
 
Đề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docx
Đề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docxĐề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docx
Đề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docxAnhThNguyn984756
 
Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...
Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...
Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...Nguyễn Thị Thanh Tươi
 
đề Cương tc tt
đề Cương tc ttđề Cương tc tt
đề Cương tc ttMơ Vũ
 
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...OnTimeVitThu
 
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦTỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦcobala1012
 
Tieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thiTieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thingapham96
 
Kinh nghiem chinh sach cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach  cac nuocKinh nghiem chinh sach  cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach cac nuocMrCây Xanh
 
TIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAMTIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAMOnTimeVitThu
 
Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1nhomhivong
 

Similar to Tiểu luận về chính sách tiền tệ (20)

26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_6567126552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
 
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
Tim hieu ve_lam_phat_o_viet_nam_trong_nhun_nam_gan_day_va_lien_he_tac_dong_cu...
 
Bài tập cstt
Bài tập csttBài tập cstt
Bài tập cstt
 
Cstg
CstgCstg
Cstg
 
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV .pdf
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV         .pdfBÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV         .pdf
BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2022_SBV .pdf
 
Hệ thống ngân hàng việt nam
Hệ thống ngân hàng việt namHệ thống ngân hàng việt nam
Hệ thống ngân hàng việt nam
 
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giáLãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
 
Thuyết trình
Thuyết trìnhThuyết trình
Thuyết trình
 
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giáMô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
 
Vietnamese Inflation
Vietnamese InflationVietnamese Inflation
Vietnamese Inflation
 
Đề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docx
Đề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docxĐề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docx
Đề án TCTT - Anh Thư 60B TCNH.docx
 
Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...
Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...
Lạm phát và những biện pháp ngăn ngừa lạm phát trong điều hành nền kinh tế qu...
 
đề Cương tc tt
đề Cương tc ttđề Cương tc tt
đề Cương tc tt
 
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
LUẬN VĂN: KIỂM SOÁT CHI TIÊU CÔNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: T...
 
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦTỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
 
Tieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thiTieu luan bo ba bat kha thi
Tieu luan bo ba bat kha thi
 
Bt cuoi ky phan chung
Bt cuoi ky   phan chungBt cuoi ky   phan chung
Bt cuoi ky phan chung
 
Kinh nghiem chinh sach cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach  cac nuocKinh nghiem chinh sach  cac nuoc
Kinh nghiem chinh sach cac nuoc
 
TIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAMTIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
 
Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1
 

Tiểu luận về chính sách tiền tệ

  • 1. tiểu luận về chính sách tiền tệ LỜI MỞ ĐẦU Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vi mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản chất là một nền kinh tế tiền tệ. Do đó việc ổn định đồng tiền nền Tài Chính Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu tiền cho việc kiềm chế lạm phát, và ổn định nền kinh tế. Phần 1: Tổng quan về chính sách tiền tệ của NHTW 1. Khái niệm : Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. 2. Các công cụ của chính sách tiền tệ : 2.1 Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. 2.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại. 2.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
  • 2. 2.4 Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. 2.5 Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. 2.6 Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Phần 2: Chính sách tiền tệ của NHTW ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM Giai đoạn từ 1998 đến 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng – mục tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 – 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Trong thời gian 10 năm, từ năm 1998 đến hết năm 2007, bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2007, con số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động tín dụng, tiền còn được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ… Vì vậy, đã đẩy tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn ¼ số tiền của năm trước (từ 1996 đến hết năm 2007 tổng phương tiện thanh toán tăng thêm bình quân năm là 26,2%, riêng năm 2007 con số này là 37%) trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ tăng lên khoảng 7,2% (GDP từ 1997 đến hết năm 2007 tăng bình quân năm là: 7,2%). Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì thế, cho đến khi hai thị trường này bị thắt lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng – nếu không lạm phát mới là hiện tượng lạ (thị trường bất động sản bắt đầu phát triển từ những năm 1997, 1998 và mạnh mẽ nhất vào năm 2007. Còn thị trường chứng khoán mới có sức
  • 3. hút tiền trong khoảng 3 năm gần đây). (Xem biểu đồ) Biều đồ: Tốc độ tăng cung tiền và GDP của 3 nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%, cung tiền đo bằng M2 Nguồn: Website của NHNN Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi (tính từ đầu năm 2005 cho đến hết tháng 6/2007), GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền lên đến 110%. Trong cùng một khoảng thời gian, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch này ở Thái Lan hầu như không đáng kể. Năm 2008 kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp và biến động nhanh chóng. Trong những tháng đầu năm, hầu hết các nền kinh tế thế giới phải tập trung đưa ra các giải pháp mạnh mẽ để chống lạm phát do “cơn bão giá “ lan rộng trên toàn cầu. Giá dầu thô liên tục tăng cao, đến trung tuần tháng 7-2008 lên tới đỉnh điểm là 147 USD/thùng; giá gạo có thời điểm lên tới 1.200 USD/tấn; giá vàng lên tới trên 950 USD/ounce. Các mức giá đó cao nhất trong hàng chục năm qua trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, USD mất giá mạnh so với các loại ngoại tệ chủ chốt khác, có thời điểm 1 EURO đổi được hơn 1,62 USD. Trước bối cảnh đó NHTW hàng loạt nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ, tăng cao lãi suất chỉ đạo, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên kinh tế thế giới đã và đang biến đổi hết sức nhanh chóng vượt ra ngoài dự báo của NHTW, các định chế tài chính, các nhà khoa học kinh tế nổi tiếng, cũng như cả giới đầu cơ. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ khủng tín dụng thứ cấp nhà ở tại Mỹ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu. Tính đến nay có gần 20 Ngân hàng và định chế tài chính Mỹ bị đổ vỡ, nhiều ngân hàng khác tại châu Âu cũng bị quốc hữu hoá, sáp nhập, bị thôn tính, bị thua lõ nặng. Giá dầu mỏ sụt giảm với tốc độ “ khủng khiếp, đến đầu tháng 12-2008 cuống chỉ còn 40 USD/thùng, giá vàng cũng giảm nhanh, đồng USD mạnh lên so với các loại ngoại tệ mạnh khác trên thị trường quốc tế. Giá gạo và một số mặt hàng lương thực khác giảm hơn 2/3. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ và nhiều quốc gia khác gia tăng, sức mua giảm. Thương mại thế giới giảm tới 10%, mức giảm thấp nhất trong gần 20 năm qua. Thị trường chứng khoán sụt giảm thê thảm, hàng nghìn tỷ USD bị bốc hơi. Trước sự đột ngột “ quay đầu “ nhanh chóng như vậy của kinh tế thế giới, NHTW các nước cũng đã phản ứng hết sức linh hoạt, ngay lập tức chuyển sang thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, thực hiện cắt giảm mạnh mạnh lãi suất cơ bản, cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đưa về mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Bộ tài chính và NHTW các nước bơm hàng chục tỷ USD, thậm chí hàng trăm tỷ USD và các nước châu Âu giành tới gần 3.000 tỷ USD để bơm vào hệ thống ngân hàng thương mại, bơm vào nền kinh tế, cứu một loạt định chế tài chính, đảm bảo thanh khoản cho các NHTM. Đồng thời tăng mức bảo hiểm tiền gửi, hoặc cam kết bảo hiểm không có giới hạn tiền gửi cho người dân. Tuy nhiên cho đến nay cuộc khủng hoảng tài chính thế giới chưa có dấu hiệu được ngăn chặn hoàn toàn và không biết còn diễn ra tới đâu và tác động đến mức nào. Chỉ số chứng khoán trên các thị trường chứng khoán chủ chốt khác vẫn liên tục mất điểm. Đồng thời Chính phủ một loạt nước trên thế giới công bố các kế hoạch kích thích kinh tế khổng lồ để ngăn chặn đà uy giảm, thúc đẩy tăng trưởng. Riêng Chính phủ Trung Quốc đưa ra kế hoặch tài chính trị giá tới 586 tỷ USD cho chương trình kích cầu nền kinh tế theo hướng nói trên. Nền kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động ở mức độ khác nhau của kinh tế thế giới, cộng với những nguyên nhân nội tại của nền kinh tế đất nước, của thiên tai, dịch bệnh, nên trong
  • 4. những tháng đầu năm 2008 lạm phát cũng tăng rất cao. Chỉ số CPI tăng cao nhất trong khoảng 16 năm qua. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ngày từ đầu năm 2008, NHNN đã thực hiện đồng bộ các giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng các loại lãi suất chủ đạo, phát hành 20.300 tỷ đông tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM, kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản; tăng cường quản lý các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ. Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có hiện tượng “bốc hoả” về giá.. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%). Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Và phản ứng của thị trường cũng thật mạnh mẽ: các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở lên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở lên lạnh giá, thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt… Chính sách tiền tệ bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó. Những dấu mốc đáng ghi nhớ trong việc sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ vào những tháng đầu năm 2008: - Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. (Quyết định 187/QĐ-NHNN). - Ngày 30/01/2008, điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN). - Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3, với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN). Cả ba giải pháp trên đều hướng tới mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về. Các giải pháp sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định 1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm…(Xem bảng 1) Bảng 1: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 12/2005 – đến tháng 6/2008 Lãi suất Quyết định Ngày thực hiện 14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008 12%/năm
  • 5. 1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 19/05/2008 8.75%/năm 305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008 01/02/2008 8,25%/năm 1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005 01/12/2005 Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Cũng giai đoạn này, đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc tìm cách giữ chân người gửi tiền và qua đó mới thấy khách hàng gửi tiền quan trọng cỡ nào. Lãi suất không chỉ là vấn đề trên thị trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) mà nó còn diễn ra không kém phần quyết liệt chính giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II). Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi phí nguyên liệu cũng cao… Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% – mức thấp nhất so với các tháng trước – đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng về sự sáng sủa của bức tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 – tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm… Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. - Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm. (Xem bảng 2). Bảng 2: Lãi suất CB Quyết định Ngày thực hiện 8,5% 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008 10% 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
  • 6. 05/12/2008 11%/năm 2808/QĐ–NHNN ngày 20/11/2008 21/11/2008 12%/năm 2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 05/11/2008 13.0%/năm 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008 14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008 - Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm; 5%/năm; 10%/năm, sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm. (Xem bảng 3). Bảng 3: Lãi suất DTBB Quyết định Ngày thực hiện 8,5%/năm 3162/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008 9%/năm 2950/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008 5/12/2008 10%/năm 2321/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008 5,0%/năm 2133/QĐ-NHNN ngày 25/9/2008 01/10/2008 3,5%/năm 1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008 01/9/2008 - Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày 20/10/2008); biên độ tỷ giá được nới lỏng từ +/- 1% lên +/-2% (Quyết định 1436 ngày 26/6/2008), từ +/- 2% lên +/- 3% (Quyết định 2635 ngày 6/11/2008); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158) và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống… Bên cạnh đó, tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra… Sau đó, việc thắt chặt tiền tệ kiềm chế lạm phát đã có những tác động góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, từ đầu tháng 9-2008, cũng theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã chuyển
  • 7. dần sang linh hoạt hơn trong điều hành chính sách tiền tệ, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc của NHNN. Tiếp theo đó từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 12-2008, NHNN thực hiện nhiều đợt giảm dần lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác do NHNN điều hành, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho phép các TCTD được thanh toán trước hạn tín phiếu bắt buộc, nới rộng biên độ giao dịch ngoại tệ của NHTM với khách hàng. Đặc biệt là thời điểm đầu tháng 12-2008, góp phần thực hiện các giải pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, khắc phục đình trệ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN có các quyết định mang tính đồng bộ và mạnh mẽ hơn theo hướng linh hoạt hơn nữa trong điều hành chính sách tiền tệ. Những quyết định đó đã đưa lãi suất trên thị trường dần trở về tương ứng với mức trước khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên những diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, sự tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, cũng như điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ của NHNN đã tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, như thiếu thanh khoản, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng cao, lãi suất huy động vốn tăng cao nhưng lãi suất cho vay nằm trong giới hạn của lãi suất cơ bản và luật dân sự. Đến thời điểm hiện nay, mặc dù lãi suất cho vay đã giảm rất lớn nhưng vốn cho vay ra của các NHTM vẫn rất khó khăn. Nhìn chung nguồn thu của các NHTM bị giảm và quản trị điều hành của các NHTM cũng bị động, luôn phải xử lý với các tình huống xẩy ra. Cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động ngân hàng đang khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với nhịp độ bình thường, lãi suất không còn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng dẫn khách hàng có nguồn tiền gửi… Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong tình trạng chưa có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có hiện tượng chậm lại, tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía các doanh nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải. Hoạt động tín dụng vẫn còn ở trạng thái cầm chừng, trong 10 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 19,6%, nếu so với 30% – giới hạn tăng trưởng tín dụng NHNN đặt ra cho năm 2008 thì hoạt động tín dụng mới chỉ “đi được” 2/3 “quãng đường”. Phải chăng ngân hàng không đủ vốn để cho vay? Hay do nhu cầu xã hội như vậy là đã đủ? Hoàn toàn không phải vậy, theo thông tin từ NHNN thì vốn khả dụng của các NHTM hiện rất dồi dào; còn nếu nói đến nhu cầu xã hội thì con số 19,6% lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, tỷ lệ 19,6% tăng lên của hoạt động tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2008 là một con số chưa được thỏa mãn. Rõ ràng là dư âm và hậu quả của cuộc chạy đua lãi suất trong những tháng đầu năm 2008 vẫn còn đó mà khởi động cho nó chính là tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng. Hãy điểm qua những hệ lụy mang lại cho các NHTM để thấy được mặt trái của việc vận hành các công cụ chính sách tiền tệ. Điều chỉnh giảm lãi suất cho vay – một khó khăn của các NHTM. Mặc dù hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh và thu lãi từ hoạt động tín dụng hiện vẫn là nguồn thu chủ yếu của các NHTM Việt Nam, song hoàn toàn không phải vì thế mà các ngân hàng muốn nâng lãi suất cho vay. Bởi lẽ, ngay cả trong điều kiện mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn ra bình thường thì việc nâng lãi suất cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, khách hàng tốt sẽ bỏ đi – vì cách xử sự của ngân hàng không tốt, khách hàng xấu thì ở lại – vì đã xấu thì đến vay ở ngân hàng nào cũng thế thôi. Còn trong điều kiện lạm phát cao, việc tăng lãi suất cho vay cũng là điều dễ hiểu – vốn dĩ lãi suất cũng là một loại giá, mặt bằng giá cả tăng, thì lãi suất huy động vốn tăng, và vì thế, lãi suất cho vay cũng không thể không tăng
  • 8. được. Tuy nhiên, lãi suất cho vay không phải chỉ bị ảnh hưởng bởi mặt bằng giá cả mà nguyên nhân chính là nó phải chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu tín dụng trong nền kinh tế, mà trong đó NHTW có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình thông qua các công chính sách tiền tệ để trực tiếp điều chỉnh lãi suất hoặc gián tiếp điều chỉnh quan hệ cung cầu tín dụng. Phân tích các yếu tố tác động lên mặt bằng lãi suất của các ngân hàng sẽ cho ta lời giải khá cụ thể về việc nâng lãi suất và khả năng điều chỉnh giảm lãi suất của các ngân hàng trong thời gian này. Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở nguồn vốn phải trả lãi huy động được từ nền kinh tế, nhưng đồng thời đó cũng là nguồn để dự trữ bắt buộc, để mua tín phiếu bắt buộc… trên cơ sở đó, ngân hàng phải tự cân đối nguồn vốn khả dụng, cân đối lãi suất để nếu không có lời thì cũng phải duy trì hoạt động của ngân hàng. Vì thế, toàn bộ các tín hiệu được phát ra từ NHNN như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, mua tín phiếu bắt buộc trong những tháng đầu năm 2008 đã buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất, phải thắt chặt tín dụng. Hiện thời, lãi suất huy động và cho vay đều giảm xuống nhưng nguồn huy động lãi suất cao còn đó, không dễ gì ngay lập tức có thể giảm thật nhiều. Vấn đề này đối với các NHTM cổ phần lại càng khó khăn hơn vì nguồn vốn huy động lãi suất thấp từ tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp của họ thật vô cùng khan hiếm. Tăng cường cho vay – điều không đơn giản. Trong kinh doanh ngân hàng, ai cũng có thể hiểu rằng việc cho vay của các NHTM luôn phụ thuộc vào cả hai phía: cả ngân hàng – người cho vay và cả người đi vay mà đại diện là các doanh nghiệp. Dù hiện nay nhiều ngân hàng đã rất có thành ý và đặt ra mục tiêu tăng dư nợ trong những tháng cuối năm 2008 nhưng việc cho vay cũng chưa hẳn đã dễ dàng. Cho đến cuối tháng 10/2008, kế hoạch mở rộng quy mô cho vay của một số ngân hàng chỉ thực hiện được khoảng 10% – 20%. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó dĩ nhiên nguyên nhân từ phía doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng, song nếu xét ở góc độ do chịu hệ lụy của chính sách tiền tệ thì lãi suất chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm hẳn khả năng vay vốn của các doanh nghiệp. Theo thống kê gần đây của Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì có tới 60% doanh nghiệp khó khăn do lãi suất tăng. Và kể cả trong thời gian này, khi ngân hàng giảm lãi suất cho vay thì doanh nghiệp vẫn thật khó có thể vay vốn bởi lãi suất vẫn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận mà nó có thể đạt được. Mặt khác, nền kinh tế khó khăn, thì doanh nghiệp không chỉ khó khăn về vốn, về lãi suất mà giá cả đầu vào cao- chi phí sản xuất kinh doanh tăng vọt cũng góp phần làm suy yếu sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp và do vậy việc tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cũng không phải dễ dàng. Bên cạnh đó thì sự suy yếu về tài chính, những khó khăn về đầu ra – sức cầu giảm – cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng có nhiều doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng nhưng không vay được. Do không hiểu nhiều về ngân hàng nên có người cho rằng ngân hàng gây khó cho doanh nghiệp, tuy nhiên, với những người trong nghề thì điều này lại quá rõ ràng – hoạt động chủ yếu của ngân hàng là huy động vốn để cho vay, không có một lý do gì có thể khiến các ngân hàng huy động được nguồn rồi mà lại không muốn cho vay ra cả, chẳng qua do kinh doanh khó khăn, do chưa chứng minh được hiệu quả của việc sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ thấp nên họ đã không được ngân hàng chấp nhận cho vay. Vốn dĩ việc kinh doanh của ngân hàng là dựa trên những đồng vốn được huy động từ nền kinh tế, cho dù ngân hàng có khó khăn như thế nào thì việc hoàn trả tiền gửi khi đến kỳ hạn cũng không bao giờ được chậm trễ. Điều đó đã buộc ngân hàng phải từ chối với những dự án vay không đủ chuẩn và do vậy đã làm hạn chế khả năng cho vay của các ngân hàng. Sự tương tác giữa các ngân hàng có phần suy giảm – cũng là một hệ lụy do việc vận dụng chính sách tiền tệ thời gian qua mang lại. Nếu như quá trình tạo tiền của các ngân hàng được
  • 9. thực hiện trong khi các ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh thì chính quá trình đó lại là bằng chứng về mối liên hệ gắn bó, không thể tách rời giữa các ngân hàng trong quá trình hoạt động. Mỗi ngân hàng có thể có mục tiêu riêng, có chiến lược hoạt động riêng, có thương hiệu riêng… cùng với nhiều điểm khác biệt. Song, trong quá trình tạo tiền thì tất cả đều giống như đang cùng di chuyển trên một con thuyền. Ngay cả khi sóng yên, biển lặng thì tất cả những người chèo thuyền đã phải chung một hướng chứ đừng nói đến khi sóng to, gió lớn. Chính vì vậy, trong hoạt động ngân hàng, đòi hỏi giữa các thành viên phải có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển, nhất là trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nếu không tương tác hỗ trợ mà còn xô đẩy nhau thì chắc chắn bão táp sẽ ập xuống – khủng hoảng toàn hệ thống, lúc đó thật khó có thể tồn tại. Thực ra các ngân hàng đều thấu hiểu sự ràng buộc đó, song có những khoảnh khắc rất ngắn trong những tháng đầu năm 2008, nhiều ngân hàng phải đối diện với vấn đề thanh khoản, những yêu cầu gấp gáp, khẩn trương cả về thời gian và số lượng đã buộc các ngân hàng phải đưa ra những phương án xử lí vấn đề thanh khoản một cách quyết liệt. Tiền huy động về đã cho vay rồi – cho vay thì luôn luôn có thời hạn, kể cả đến hạn trả nợ thì việc đòi nợ còn khó khăn, chứ đừng nói đến việc chưa đến hạn trả nợ; dự trữ cũng chỉ có mức độ vừa phải, lấy gì để tăng dự trữ bắt buộc, đồng thời mua tín phiếu có thời hạn bắt buộc…? Các ngân hàng phải lên kế hoạch, vạch chiến lược thanh khoản cho từng giờ – làm sao tránh khỏi việc chiêu dụ khách hàng của nhau; sử dụng công cụ lãi suất ép nhau… Thật lo lắng khi ngay trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cũng đã có lúc đối xử với nhau như không phải họ đang trong cùng một trận tuyến chống lạm phát – lãi suất cho vay giữa các ngân hàng có lúc lên đến 43%/năm – một con số không thể ngờ tới. Nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Lãi suất cao, thắt chặt tín dụng, giá cả nguyên vật liệu tăng vọt… là những gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, rõ ràng các dự án đang hoạt động không thể tiến hành bình thường, các dự án mới không thể bắt đầu được, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không thể có cơ hội để duy trì ổn định và doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn khi phải đương đầu với những thay đổi thất thường của nền kinh tế: lúc giá cả lên cao – chi phí nguyên vật liệu tăng vọt, khi giá cả giảm xuống – sản phẩm làm ra không thể bán giá cao… Nợ mới đã không vay được thì nợ cũ cũng không dễ gì trả được – nợ chồng nợ, nợ đọng, nợ khó thu hồi, đảo nợ… có nhiều cơ hội phát sinh, rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Không thể khác được, sự khó khăn của doanh nghiệp lại gây hậu quả ngược lại cho ngân hàng. Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND. Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả,
  • 10. NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Top of Form Bottom of Form Phần 3: Một số điểm cần lưu ý khi điều hành chính sách tiền tệ Mặc dù cho đến nay, tình hình kinh tế khá ổn định, hoạt động của các ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục, song trên thực tế, những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế… Vấn đề này cần được thảo luận một cách nghiêm túc, bởi lẽ ngân hàng là nơi cung cấp vốn – điều kiện đầu vào cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nếu khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng gặp khó khăn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiến hành bình thường được và như vậy, kinh tế khó có thể tăng trưởng. Nhất là trong điều kiện mà lạm phát đang được kiểm soát, nhưng giảm phát và suy thoái kinh tế – nỗi lo chung của xã hội, lại đang có dấu hiệu xuất hiện: thị trường bất động sản tuy có dấu hiệu rục rịch nhưng vẫn trong tình trạng đóng băng, thị trường chứng khoán đang trong giai đọan cố gắng nhưng vẫn “trồi” “sụt” bất thường, thị trường hàng hóa cũng trong tình trạng suy giảm (cung cầu đều khó khăn, giá cả thì đảo chiều)… Để giảm bớt những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ cần lưu ý một số vấn đề sau: Thận trọng khi đồng thời sử dụng nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Việc sử dụng đồng thời nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ là việc làm bình thường, trên lý thuyết và cả thực tiễn, cũng không có nguyên tắc nào quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, thị trường là nơi rất nhạy cảm và nó chính là nơi phản ánh sức sống của nền kinh tế. Diễn biến cùng với những phản ứng mãnh liệt của thị trường vào những tháng đầu năm 2008 và những dư âm của nó cho đến hôm nay- những ngày cuối cùng của năm 2008 đã cho ta một bài học sâu sắc về vấn đề này. Vì thế, cần phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định liên quan đến sự vận động của tiền tệ, trước khi vận hành phải quan sát kỹ diễn biến, dự kiến được những phản ứng có thể của thị trường để cân nhắc về loại công cụ sử dụng, về mức độ cần thiết, về liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ và luôn tránh những giải pháp sốc – giải pháp có thể dồn các ngân hàng vào những tình huống nguy hiểm. Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất. Mặc dù mỗi công cụ có những đặc tính, khả năng tác động đến thị trường theo những cách khác nhau, với mức độ cũng không giống nhau, song cho dù công cụ nào thì tín hiệu cuối cùng của nó sau khi phát ra cũng dẫn đến sự thay đổi về giá – lãi suất, dù đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay mua tín phiếu bắt buộc… Vì vậy, hãy sử dụng hữu hiệu công cụ lãi suất để điều tiết. Có thể nói, trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín hiệu phù hợp nhất, lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh hưởng, tác động của lãi suất chỉ đạo phát ra từ NHNN: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Lãi suất thị trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn về thanh khoản
  • 11. của các NHTM. Thay đổi quan điểm về chi phí phải trả cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu đặt ra kể cả mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ đều có những cái giá phải trả – đó là những chi phí, những tốn kém cần thiết. Không thể đơn giản cho rằng dự trữ bắt buộc thì không phải trả lãi suất hay mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nhất thiết phải có chênh lệch (lợi nhuận)… Việc điều chỉnh tăng lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thời gian gần đây cũng là sự thay đổi đáng kể về quan điểm. Còn đối với công cụ thị trường mở, khi thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường này cũng chính là lúc NHNN thực hiện việc sử dụng công cụ thị trường mở để đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ chứ không phải để kinh doanh, vì thế, trong nhiều tình thế bắt buộc, NHNN phải sử dụng cơ chế giá để điều tiết bằng cách đặt giá cao lên để mua cho được – nếu muốn phát hành tiền vào lưu thông và ngược lại, định giá thấp xuống để bán cho được – nếu muốn hút tiền từ lưu thông về. Như vậy, mặc dù là người định giá nhưng có lúc NHNN cũng vẫn phải mua giá cao và bán giá thấp – đó là một loại chi phí buộc phải trả. Ngoại tệ mua vào cần phải được sử dụng có hiệu quả. (Hiện nay, ta đã thực hiện đúng cam kết với Quỹ tiền tệ quốc tế, tháng 4/2003, tỷ lệ kết hối được đưa về 0% để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động sử dụng nguồn ngoại tệ thu được.). Đầu năm 2008, NHNN mua vào một lượng ngoại tệ khá lớn và vì thế, một số lượng VND rất lớn đã được đẩy vào lưu thông, góp phần không nhỏ trong việc đội giá cả hàng hóa, nhiều ý kiến không đồng tình với cách làm này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Nếu không chuyển qua VND, thì bằng cách nào các doanh nghiệp, các cá nhân có thể sử dụng nguồn ngoại tệ này? Đâu có phải lúc nào các doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được chủ động sử dụng nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa? Hơn nữa, một thực tế không thể phủ nhận là ở nước ta, người ta vẫn dùng USD để mua bán, trao đổi khá tự do (mặc dù không được phép) mà việc dùng USD thay thế cho VND trong các giao dịch trên đất Việt Nam còn nguy hiểm hơn nhiều. Vì vậy, ngoại tệ cần phải được tập trung vào tay Nhà nước để sử dụng hiệu quả cho những nhu cầu chính đáng của quốc gia và hạn chế tình trạng đôla hoá nền kinh tế, cho nên dù không hành chính hoá vấn đề này, song, nếu doanh nghiệp, cá nhân nào có nhu cầu bán ngoại tệ là ngân hàng không được từ chối. Tất nhiên, NHTM thì mua của doanh nghiệp, của dân; NHNN thì mua lại của các NHTM. Việc làm đó đồng nghĩa với phát hành tiền vào lưu thông, vấn đề sẽ trở nên bình thường nếu như nguồn ngoại tệ được sử dụng một cách có hiệu quả, tạo ra nguồn hàng đảm bảo sự cân đối với số lượng VND đã phát ra. Vì thế, một mặt, khi phát hành tiền đồng mua ngoại tệ phải luôn đi kèm với giải pháp hút tiền đồng về – sử dụng công cụ thị trường mở, công cụ lãi suất… Ngoài ra, vấn đề quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước cũng phải được quan tâm, phải tập trung về một mối đó là NHNN – đại diện cho Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoại tệ là của quốc gia, không vì lợi ích riêng mà để phân tán rải rác gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và cũng cản trở việc quản lý và sử dụng chúng một cách hiệu quả. Nhận định đúng vai trò của thị trường tiền tệ để có hướng tác động thích hợp đến hoạt động của các thị trường. Mỗi thị trường đều có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và có những đặc điểm riêng có của nó, tuy nhiên, thị trường nào có tỷ suất sinh lời cao hơn thì nó hút tiền mạnh hơn và do vậy, giá cả hàng hoá trên thị trường này sẽ tăng lên và ngược lại. Nguyên tắc “bình thông nhau” giữa các thị trường thể hiện khá rõ ở nước ta trong những tháng qua. Vào những tháng đầu năm 2007, khi giá chứng khoán có xu hướng giảm xuống thì giá bất động sản đột ngột nóng sốt và vào những tháng cuối năm 2007, đầu năm 2008, rõ ràng giá cả hàng hoá trên thị trường hàng hoá và thị trường vàng tăng cao là có vai trò của lượng tiền được dồn về từ thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, khi hai thị
  • 12. trường này tắc nghẽn. Nền kinh tế muốn phát triển thì các thị trường phải được vận hành một cách đồng bộ, song đứng trên hết và có thể tạo sự gắn kết, liên thông giữa các thị trường chính là thị trường tiền tệ bởi vì tiền chính là dòng chảy lưu thông giữa các thị trường, khi dòng chảy này bị chặn lại thì lập tức các thị trường trở nên đông cứng, không thể vận hành được. Nói như vậy không có nghĩa là sự trì trệ của nền kinh tế là lỗi tại ngân hàng, bởi ngân hàng cũng chỉ là một hiện thân về nhu cầu của xã hội, nó cũng chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế vốn đang tồn tại – tiền chỉ vận động khi có sự vận động của hàng hóa. Khi các thị trường khác suy sụp cũng sẽ là hiểm họa, là nguy cơ cho thị trường tiền tệ, cho hệ thống ngân hàng – hệ thống huyết mạch của nền kinh tế. Vì vậy, các giải pháp đưa ra phải đúng lúc, đúng thời điểm, phải tạo sự liên kết tốt hơn, hiệu quả hơn giữa thị trường tiền tệ với các loại thị trường. Mọi sự can thiệp không kịp thời hay vội vàng đều có thể làm ngưng trệ các hoạt động trên các thị trường và khi muốn nó hồi phục trở lại thực sự không phải việc dễ dàng. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu chính sách tiền tệ quốc gia, chúng ta thấy rõ đc vai trò và ý nghĩa của nó trong nền kinh tế bởi chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nên vị trí của chính sách tiền tệ hết sức quan trọng. Hoạch định một chính sách tiền tệ đòi hỏi cả một quá trình, sự linh hoạt và sự thống nhất trong sự áp dụng trên thực tiễn trước bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay. Bằng sự nổ lực hiện tại và trong tương lai, sự kế thừa và phát huy những thành tựu của chính sách tiền tệ, chắc chắn chính sách tiền tệ Việt Nam sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng một đất nước giầu mạnh, ổn định và phát triển sánh vai với các bạn bè quốc tế. MỤC LỤC Lời mở đầu............................................ ................................................. 1 Nội dung Phần 1: Tổng quan về chính sách tiền tệ của NHTW............................ 2 1. Khái niệm............................................ ........................................ 2 2. Các công cụ của chính sách tiền tệ.............................................. . 2
  • 13. Phần 2: Chính sách tiền tệ của NHTW ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM 4 Phần 3: Một số điểm cần lưu ý khi điều hành chính sách tiền tệ........... 18 Kết luận............................................ .................................................. .. 23