3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
Nghiên cứu hứng thú học tập môn Hóa ở trường THPT
1. ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC:
HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN HÓA HỌC CỦA
HỌC SINH TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI – HỘI AN
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Vai trò to lớn của môn Hóa học:
Trước tiên, ta cần tìm hiểu sơ lược về Hóa học. Hóa học là khoa học nghiên cứu
về chất, phương pháp biến đổi chất và ứng dụng của chất đó trong cuộc sống.
Hóa học là một môn khoa học tưởng chừng xa lạ nhưng trên thực tế, hóa học rất
gần gũi trong đời sống của chúng ta. Những phản ứng hóa học xảy ra thường xuyên
trong cuộc sống hằng ngày. Thí dụ như trong lúc nấu ăn, làm bánh hay rán mà trong
đó các biến đổi chất xảy ra một cách rất phức tạp đã góp phần tạo nên hương vị đặc
trưng cho món ăn. Thêm vào đó thức ăn được phân tách ra thành các thành phần riêng
biệt và cũng được biến đổi thành năng lượng trong các quá trình phân hủy trong cơ thể
(hóa sinh). Sự đốt cháy cũng là một phản ứng hóa học có thể được quan sát dễ dàng
trong cuộc sống. Nhuộm tóc, động cơ đốt trong, màn hình của điện thoại di động, bột
giặt, phân bón, dược phẩm,... là các thí dụ khác cho ứng dụng của hóa học trong cuộc
sống hằng ngày. Hóa học nghiên cứu về tính chất của các nguyên tố và hợp chất, về
các biến đổi có thể có từ một chất này sang một chất khác, tiên đoán trước tính chất
của những hợp chất chưa biết đến cho tới nay, cung cấp các phương pháp để tổng hợp
những hợp chất mới và các phương pháp đo lường hay phân tích để tìm các thành phần
hóa học trong những mẫu thử nghiệm. Tiến bộ trong các chuyên ngành khác nhau của
hóa học thường là các điều kiện tiên quyết không thể thiếu cho những nhận thức mới
trong các bộ môn khoa học khác, đặc biệt là trong các lãnh vực của sinh học và y học,
cũng như trong lãnh vực của vật lý (thí dụ như việc chế tạo các chất siêu dẫn mới).
Hóa sinh, một chuyên ngành rộng lớn, đã được thành lập tại nơi giao tiếp giữa hóa học
và sinh vật học và là một chuyên ngành không thể thiếu được khi muốn hiểu về các
quá trình trong sự sống, các quá trình mà có liên hệ trực tiếp và không thể tách rời
được với sự biến đổi chất. Đối với y học thì hóa học không thể thiếu được trong cuộc
tìm kiếm những thuốc trị bệnh mới và trong việc sản xuất các dược phẩm. Bộ môn
khoa học vật liệu đã phát triển như là nơi giao tiếp giữa hóa học và kỹ thuật. Như vậy
ta thấy được Hóa học có vai trò quan trọng như thế nào cho cuộc sống!
Chính vì vậy, hóa học được đưa vào là một trong những môn khoa học tự nhiên
chính trong trường phổ thông. Môn hóa học trong trường trung học phổ thông giữ vai
trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích
của môn học này là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học
sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, các bài
thực hành… của hóa học. Học hóa học không những để làm các bài tập tính toán, nhận
biết, viết phương trình hóa học của các phản ứng… mà học Hóa còn để biết được
những ứng dụng phong phú và thiết thực của Hóa học trong cuộc sống, giải thích được
nguyên nhân của những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống hằng ngày; đồng thời việc
học hóa còn có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện cho học sinh nhiều kĩ năng và
đức tính quý báu như kĩ năng quan sát – nhận xét, đức tính kiên trì, cẩn thận, sự tập
trung, sự tỉ mỉ, chính xác, …
1
2. Như vậy không khó để lí giải vì sao môn Hóa học được xem là một môn học
quan trọng, thường được đưa vào các kì thi tốt nghiệp, là một môn thi quan trọng trong
các kì thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng… hằng năm.
Thái độ của học sinh đối với bộ môn này như thế nào?
Đây là câu hỏi mà rất nhiều giáo viên – giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn
và cả phụ huynh học sinh quan tâm.
Đối với bộ môn Hóa, điều gì gây hứng thú học tập cho các em? Các biện pháp
nhằm tăng thêm tính tích cực của học sinh với bộ môn Hóa học? Các kinh nghiệm dạy
và học, việc nắm bắt tâm lý, cần hợp tác việc dạy và học giữa cô và trò như thế nào
nhằm nâng cao chất lượng dạy học… Để trả lời những câu hỏi trên, chúng tôi chọn đề
tài: “Hứng thú học tập môn Hóa học của học sinh trường THPT Nguyễn Trãi” để biết
được trọn vẹn cũng như chính xác các em học sinh có suy nghĩ như thế nào.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ những thái độ, suy nghĩ, ý kiến nêu ra của các em học sinh, chúng ta phần
nào hiểu được thái độ học tập bộ môn Hóa học ở trường trung học phổ thông Nguyễn
Trãi – Tp Hội An như thế nào, biết được nguyên nhân tạo nên thái độ đó của học sinh;
biết được những thế mạnh cũng như những điểm cần khắc phục của của giáo viên bộ
môn và cả bộ môn Hóa học. Từ đó đúc kết, chắt lọc những phát kiến hay để góp phần
làm tăng hứng thú học tập môn Hóa cho các em. Từ đó tăng chất lượng dạy học môn
Hóa ở trường THPT Nguyễn Trãi – Tp Hội An nói riêng cũng như các trường trung
học phổ thông nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh trường THPT Nguyễn Trãi – Tp Hội An – Tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi: khối 10, 11 và 12; mỗi khối nghiên cứu 2 lớp, trong đó có 3 lớp chọn
và 3 lớp thường.
- Số lượng học sinh: 247 học sinh, trong đó có 163 học sinh nữ và 84 học sinh
nam.
- Cụ thể là các lớp: 10C1, 10C2, 11C2, 11C3, 12C6, 12C12.
4. Các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Thu thập các ý kiến (phương pháp điều tra bằng trò chuyện)
+ Phương pháp quan sát (thái độ học sinh với môn học)
+ Phương pháp điều tra qua mẫu hỏi thông tin (trả lời dưới dạng trắc nghiệm)
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: thu thập tài liệu, phân tích , tổng hợp…
- Phương pháp thống kê: tính %, điểm trung bình từng mục.
5. Lập phiếu điều tra:
Việc lập phiếu điều tra dựa trên những thắc mắc cần làm rõ như: học sinh có
thích học hóa không? Vì sao học sinh thích hoặc ghét môn Hóa? Đối với học sinh thì
môn Hóa dễ hay khó? Phương pháp học tập của các em như thế nào? (vì phương pháp
học tập ảnh hưởng đến chất lượng học bộ môn và từ đó ảnh hưởng ngược lại đến thái
độ của của học sinh với môn Hóa) Các em có đề xuất gì để nâng cao chất lượng dạy
học môn Hóa?...
Mẫu phiếu điều tra: đính kèm ở cuối bài
2
3. II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
1. Những vấn đề lí luận về việc gây hứng thú cho học sinh khi học tập môn
Hóa học:
- Môn Hóa học là gì? Nó có những điểm gì khác so với các môn học bình thường
trên lớp?
- Cốt lõi của việc gây hứng thú học tập ở các em khi học là như thế nào?
- Các biện pháp nhằm mục đích gây hứng thú cho học sinh khi học môn Hóa học
(Thống kê )
- Thực trạng về thái độ học môn Hóa học sinh trường Nguyễn Trãi . Từ đó đưa ra
các phương pháp khắc phục.
2. Khái quát về quá trình khảo sát:
Kết quả khảo sát:
Cảm nhận chung về môn hóa
Câu 1:
Sự hứng thú học môn Hóa ở các em thuộc mức nào dưới đây?
Rất thích 21
Thích 56
Bình thường 137
Ghét 20
Rất ghét 12
Câu 2:
Em thích học môn Hóa vì
Môn hoá là một trong những môn thi
113
vào các trường ĐH, CĐ
Bài học sinh động, thầy cô dạy vui vẻ,
43
dễ hiểu
Kiến thức dễ nắm bắt 20
Liên hệ thực tế nhiều 55
Ý kiến khác(nêu ra) 20
Câu 3:
Em không thích học môn Hóa vì
Môn hoá rất khó hiểu, rắc rối, khó
79
nhớ.
Thầy cô dạy khó hiểu, giờ học nhàm
18
chán
Môn hoá không giúp ích gì cho cuộc
11
sống.
Bị mất căn bản môn Hóa 66
Ý kiến khác(nêu ra) 21
3
4. Câu 4:
Theo em môn hoá dễ hay khó?
Rất khó 30
Khó 114
Vừa 94
Dễ 4
Việc học tập môn Hóa:
Câu 5:
Trong giờ học môn hoá em thường
Tập trung nghe giảng, phát biểu ý kiến 99
Nghe giảng một cách thụ động 120
Không tập trung 17
Ý kiến khác 14
Câu 6:
Em thường học môn hoá khi nào
Thường xuyên 39
Khi nào có giờ hoá 145
Khi sắp thi 34
Khi có hứng thú 45
Ý kiến khác 6
Câu 7:
Phương pháp học môn hoá
Học lý thuyết trước làm bài tập sau 142
Vừa làm bài vừa coi lý thuyết 60
Bắt tay vào làm đến khi không làm được
33
nữa thì thôi.
Khi có hứng thú 28
Những bài nào giáo viên làm rồi thì làm
41
lại được không thì thôi.
Ý kiến khác 1
Đánh giá kết quả khảo sát
- Thực trạng thái độ các học sinh trong trường THPT Nguyễn Trãi – Hội An về
việc học môn Hóa
Sự hứng thú học môn Hóa ở các em thuộc mức nào dưới đây?
Nữ Nam Tổng cộng
Rất thích 10 (6 %) 11 (13,6 %) 21 (8,5 %)
Thích 34 (20,6 %) 22 (27,2 %) 56 (22,8 %)
Bình thường 102 (61,8 %) 35 (43,2 %) 137 (55,7 %)
Ghét 11 (6,7 %) 9 (11,1 %) 20 (8,1 %)
Rất ghét 8 (4,9 %) 4 (4,9 %) 12 (4,9 %)
4
5. Qua những số liệu trên, ta thấy môn Hóa học là một môn học bình thường đối
với học sinh, kể cả học sinh nam lẫn nữ. Nhìn chung, tỉ lệ học sinh thích và rất thích
môn Hóa hơn gấp đôi tỉ lệ học sinh ghét và rất ghét môn Hóa. Đây là một con số đáng
mừng đối với bộ môn Hóa học.
- Yếu tố gây hứng thú khi học môn Hóa ở các em là gì?
Em thích học môn Hóa vì
Nữ Nam Tổng cộng
Môn hoá là một trong những
67 46 113 (45,0 %)
môn thi vào các trường ĐH, CĐ
Bài học sinh động, thầy cô dạy vui
25 18 43 (17,1 %)
vẻ, dễ hiểu
Kiến thức dễ nắm bắt 12 8 20 (8,0 %)
Liên hệ thực tế nhiều 40 15 55 (21,9 %)
Ý kiến khác(nêu ra) 20 (8,0 %)
Như vậy ta thấy học sinh học môn Hóa đa phần chỉ vì môn hoá là một trong
những môn thi vào các trường Đại học, Cao đẳng (không phải xuất phát từ ý nghĩa và
sự hấp dẫn từ môn Hóa). Nguyên nhân tiếp theo làm học sinh thích học hóa là do môn
hóa liên hệ thực tế nhiều. Ngoài ra, bài học sinh động, thầy cô dạy vui vẻ, dễ hiểu cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến hứng thú học hóa của học sinh.
Ý kiến khác của học sinh về lí do thích học môn hóa là: vì học sinh đó học tốt
môn hóa nên thích; vì muốn học để biết thêm; vì môn hóa có nhiều điều lí thú, thích
học những phản ứng hóa học…
- Yếu tố gây chán ghét khi học môn Hóa ở các em là gì?
Em không thích học môn Hóa vì
Nữ Nam Tổng cộng
Môn hoá rất khó hiểu, rắc rối,
60 19 79 (45,5 %)
khó nhớ.
Thầy cô dạy khó hiểu, giờ học
15 3 18 (9,2 %)
nhàm chán
Môn hoá không giúp ích gì cho
8 3 11 (5,6 %)
cuộc sống.
Bị mất căn bản môn Hóa 40 26 66 (33,9 %)
Ý kiến khác(nêu ra) 21 (10,8 %)
Như vậy ta thấy học sinh không thích học môn Hóa đa phần là vì môn Hoá rất
khó hiểu, rắc rối và khó nhớ; ngoài ra bị mất căn bản cũng là nguyên nhân quan trọng
làm cho học sinh không thích học môn Hóa nữa, đặc biệt là đối với các học sinh nam
thì nguyên nhân này chiêm tỉ lệ khá cao.
Ý kiến khác của học sinh về lí do không thích học môn Hóa là: nguyên nhân
nổi bật là vì môn Hóa có quá nhiều kiến thức phải học; nguyên nhân tiếp theo là do
môn hóa ít được vận dụng và ít được thực hành; ngoài ra do môn Hóa không có trong
các môn thi đại học cao đẳng vào ngành mà học sinh đó muốn thi nên không quan tâm
tới…
5
6. - Nhận xét về mức độ khó/dễ đối với môn Hóa
Theo em môn hoá dễ hay khó?
Nữ Nam Tổng cộng
Rất khó 20 (12,8 %) 10 (11,6 %) 30 (12,4 %)
Khó 70 (44,9 %) 44 (51,2 %) 114 (47,1 %)
Vừa 64 (41,0 %) 30 (34,9 %) 94 (38,8 %)
Dễ 2 (1,3% ) 2 (2,3 % ) 4 (1,7 % )
Như vậy ta thấy đa phần học sinh – cả nam lẫn nữ – đều nhận xét rằng môn Hóa
học là một môn học khó, nhưng cũng không ít học sinh cho rằng môn Hóa chỉ ở mức
độ vừa.
- Phương pháp học môn Hóa của học sinh:
Trong giờ học môn hoá em thường
Nữ Nam Tổng cộng
Tập trung nghe giảng,
64 (38,6 %) 35 (41,7 %) 99 (39,6 %)
phát biểu ý kiến
Nghe giảng một cách
80 (48,2 %) 40 (47,6 %) 120 (48,0 %)
thụ động
Không tập trung 12 (7,2 % ) 5 (5,9 % ) 17 (6,8 % )
Ý kiến khác 10 (6,0 % ) 4 (4,8 % ) 14 (5,6 % )
Như vậy ta thấy phần lớn học sinh học hóa một cách thụ động, kể cả nam lẫn
nữ, tuy nhiên, vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ học sinh biết chủ động trong giờ học, tập
trung nghe giảng và phát biểu ý kiến.
Ý kiến khác của học sinh về phương pháp học hóa trên lớp là: các em đã rất
muốn nhưng không tập trung được; cố gắng tập trung nhưng không học được môn
Hóa; hoặc bài nào dạy hay thì tập trung và ngược lại, bài không hay thì không tập
trung học được…
- Thái độ học tập môn hóa ngoài giờ học
Em thường học môn hoá khi nào
Nữ Nam Tổng cộng
Thường xuyên 22 (12,3 %) 17 (18,9 %) 39 (14,5 %)
Khi nào có giờ hoá 110 (61,5 %) 35 (38,9 %) 145 (53,9 %)
Khi sắp thi 18 (10,0 %) 16 (17,8 %) 34 (12,7 %)
Khi có hứng thú 25 (14,0 %) 20 (22,2 %) 45 (16,7 %)
Ý kiến khác 4 (2,2 % ) 2 (2,2 % ) 6 (2,2 % )
Như vậy ta thấy thái độ học tập môn Hóa của phần lớn học sinh là tương đối ổn,
tuy các em không thường xuyên học Hóa nhưng các em vẫn biết học bài khi có giờ
học, tuy nhiên, việc học bài vẫn còn phụ thuộc nhiều vào hứng thú, đặc biệt là đối với
các em học sinh nam. Tỉ lệ học sinh thường xuyên học hóa cũng khá nhiều. Một điều
đáng lo ngại là vẫn còn nhiều học sinh chưa ý thức được việc học bộ môn này, tỉ lệ
học sinh để đến khi sắp thi mới học cũng không phải nhỏ.
6
7. - Phương pháp học bài:
Phương pháp học môn hoá
Nữ Nam Tổng cộng
Học lý thuyết trước làm bài
79 (43,4 %) 63 (51,2 %) 142 (46,6 %)
tập sau
Vừa làm bài vừa coi lý thuyết 42 (23,1 %) 18 (14,65 %) 60 (19,7 %)
Bắt tay vào làm đến khi không
22 (12,1 %) 11 (8,9 %) 33 (10,8 %)
làm được nữa thì thôi
Khi có hứng thú 15 (8,2 %) 13 (10,6 %) 28 (9,2 %)
Những bài nào giáo viên làm rồi
23 (12,6 %) 18 (14,65 %) 41 (13,4 %)
thì làm lại được không thì thôi
Ý kiến khác 1 (0,6 % ) 0 (0 % ) 1 (0,3 %)
Như vậy ta thấy phần lớn học sinh biết học lí thuyết trước và làm bài tập củng
cố lại lí thuyết; nhiều học sinh nam còn thụ động trong việc làm bài tập, chỉ những
bài nào giáo viên làm rồi thì làm lại, không thì thôi.
Ý kiến khác về phương pháp học bài của học sinh là: đi học thêm làm nhiều bài
tập, nếu có gì không hiểu là hỏi ngay.
- Đề xuất các giải pháp của các em nhằm tăng sự hứng thú học môn Hóa?
+ Về kiến thức:
Kiến thức môn hóa còn khá nặng, nên giảm tải bớt.
Tăng tiết luyện tập và thực hành.
Kiến thức môn hóa khá rộng và khó nhớ nên cần được tổng kết sao cho đơn
giản và dễ nhớ nhất.
+ Về phương pháp dạy học và thái độ của giáo viên:
Giáo viên cần giảng kĩ hơn và chậm hơn, đây là ý kiến được rất nhiều học
sinh đề xuất.
Giáo viên nên vui vẻ, thân thiện với học sinh hơn, sẵn sàng giải đáp những
thắc mắc của học sinh; quan tâm tới học sinh nhiều hơn, đặc biệt là những
học sinh còn yếu kém.
Bài giảng cần sinh động hơn; giáo viên nên giảng bài sôi nổi hơn, liên hệ
thực thế nhiều hơn, đặc biệt là những ứng dụng, không nên chỉ cho học sinh
đọc sách giáo khoa, gây nhàm chán…; trong bài giảng, giáo viên cũng nên
cho học sinh quan sát thí nghiệm (tự làm thí nghiệm hoặc chiếu video) để
tiết học thêm sinh động và giúp các em dễ hình dung và hiểu bài.
Bài tập nên phân dạng cụ thể, mỗi dạng cho nhiều bài tập để học sinh quen
dạng; đi từ căn bản, đơn giản nhất rồi mới từng bước nâng cao tùy trình độ
học sinh mỗi lớp.
3. Kết luận:
- Qua điều tra, ta thấy được thái độ của học sinh ở trường THPT Nguyễn Trãi –
Hội An đối với bộ môn Hóa học là ở mức bình thường; nhìn chung, nhiều học
sinh yêu thích bộ môn Hóa hơn là ghét.
- Tổng hợp các đề xuất, nguyện vọng của một số học sinh về việc hứng thú học
môn Hóa:
7
8. + Về kiến thức:
Kiến thức môn hóa còn khá nặng, nên giảm tải bớt.
Tăng tiết luyện tập và thực hành.
Kiến thức môn hóa khá rộng và khó nhớ nên cần được tổng kết sao cho đơn
giản và dễ nhớ nhất.
+ Về phương pháp dạy học và thái độ của giáo viên:
Giáo viên cần giảng kĩ hơn và chậm hơn, đây là ý kiến được rất nhiều học
sinh đề xuất.
Thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở học sinh.
Giáo viên nên vui vẻ, thân thiện với học sinh hơn, sẵn sàng giải đáp những
thắc mắc của học sinh; cần quan tâm tới học sinh nhiều hơn, đặc biệt là
những học sinh còn yếu kém.
Bài giảng cần sáng tạo sinh động hơn; giáo viên nên giảng bài sôi nổi hơn,
liên hệ với thực thế nhiều hơn, đặc biệt là những ứng dụng, không nên chỉ
cho học sinh đọc sách giáo khoa, gây nhàm chán…; trong bài giảng, giáo
viên cũng nên cho học sinh quan sát thí nghiệm (giáo viên tự làm thí nghiệm
hoặc chiếu video) để tiết học thêm sinh động và giúp các em dễ hình dung
và hiểu bài.
Bài tập nên phân dạng cụ thể, mỗi dạng cho nhiều bài tập để học sinh quen
dạng; đi từ căn bản, đơn giản nhất rồi mới từng bước nâng cao tùy trình độ
học sinh mỗi lớp.
- Đúc kết các kinh nghiệm giảng dạy: quan tâm, nhiệt tình trong công tác giảng
dạy; phải nắm bắt được tâm lí học sinh; đổi mới các phương pháp dạy học của
giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy học, gây hứng thú cho học sinh.
4. Kiến nghị:
- Luôn thay đổi phương pháp dạy và học, phù hợp với sự phát triển của bộ môn
cũng như độ tuổi học sinh khi học môn Hóa, phù hợp với từng lớp học sinh.
- Thường xuyên học hỏi các thành tựu, các ứng dụng mới để ứng dụng vào bài
học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tăng phần sinh động, tránh
những giờ học khô khan, nhàm chán.
- Quan tâm chú ý đến các em học sinh, thường xuyên hỏi thăm, nắm bắt tâm lý
học sinh về môn học, như: “em thấy môn học như thế nào? Điều gì ở môn học
em còn chưa thỏa mãn…” Từ đó có thêm được nhiều kinh nghiệm bản thân để
nâng cao chất lượng dạy và học ở trường hơn.
- Ngoài ra, thái độ của người giáo viên ảnh hưởng không nhỏ đến thái độ học tập
của các em học sinh. Do đó, trong giờ học, giáo viên cần tránh gây áp lực, căng
thẳng cho học sinh. Sự vui vẻ, thân thiện, sự nhiệt tình của người giáo viên sẽ
đem lại hiệu quả rất lớn trong công tác giảng dạy, không chỉ riêng bộ môn Hóa
mà còn các môn học khác nữa!
8