3. Ts. Đặng văn phú
Sắc xuân
Thơ Lục bát hai chiều
Thuận nghịch độc
nhà xuất bản văn học
Hà Nội - 2012
4.
5. Lời thưa
Hai chiều thuận nghịch dám làm
Lục bát tách bốn thích ham diệu huyền
Đam mê xúc cảm tạo nên
Lưu thêm kỳ tích đẹp nền văn chương.
Một mình gắng sức thân thương
Tâm hồn lắng đọng vấn vương lâu dài
Tạo nên nền tảng tương lai
Mọi người thưởng thức miệt mài đêm thâu
Cảm ơn nhận xét sắc sâu
Động viên tác giả đi đầu thành công.
Để bạn đọc dễ hiểu, Tác giả tách một bài thơ lục
bát hai chiều thuận nghịch độc thành 4 bài lục bát:
Bài 1: Đọc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
Bài 2: Đọc từ phải sang trái, từ dưới lên trên.
Bài 3: Đọc từ phải sang trái, từ trên xuống dưới.
Bài 4: Đọc từ trái sang phải, từ dưới lên trên.
Toàn tập thơ gồm 53 bài, Tác giả tách thành 212 bài.
Thể thơ khó và nhiều mới mẻ nên không tránh khỏi
thiếu sót, mong nhận được sự ưu ái và cảm thông
của bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
ts. đặng văn phú 5
6. Sắc xuân
Đào mai lẫn quyện chim đàn
Cao bay vào chốn sắc xuân xoay vần
Trao đưa báu vật nước dân.
Dân nước vật báu đưa trao
Vần xoay xuân sắc chốn vào bay cao
Đàn chim quyện lẫn mai đào.
6 Sắc xuân
7. Đàn chim quyện lẫn mai đào
Vần xoay xuân sắc chốn vào bay cao
Dân nước vật báu đưa trao.
Trao đưa báu vật nước dân
Cao bay vào chốn sắc xuân xoay vần
Đào mai lẫn quyện chim đàn.
ts. đặng văn phú 7
8. Nhân nghĩa
Nhân nghĩa thắm đượm người đời
Phần thêm an ổn đẹp lời vui tươi
Phân tâm ẩn hiện hợt hời.
Hời hợt hiện ẩn tâm phân
Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần
Đời người đượm lắm nghĩa nhân.
8 Sắc xuân
9. Đời người đượm thắm nghĩa nhân
Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần
Hời hợt hiện ẩn tâm phân.
Phân tâm ẩn hiện hợt hời
Phần thêm an ổn đẹp lời vui tươi
Nhân nghĩa thắm đượm người đời.
ts. đặng văn phú 9
10. Trời mây
Trời mây quyện lẫn nước trong
Ơi ai thời nhớ thắm nồng ước mong
Vơi đầy tốt lúa vàng ong.
Ong vàng lúa tốt đầy vơi
Mong ước nồng thắm nhớ thời ai ơi
Trong nước lẫn quyện mây trời.
10 Sắc xuân
11. Trong nước lẫn quyện mây trời
Mong ước nồng thắm nhớ thời ai ơi
Ong vàng lúa tốt đầy vơi.
Vơi đầy tốt lúa vàng ong
Ơi ai thời nhớ thắm nồng ước mong
Trời mây quyện lẫn nước trong.
ts. đặng văn phú 11
12. Hoa mai
Bông tuyết trắng muốt hoa mai
Trông ngắm đồng điệu sánh vai sắc tài
Ông bà mãi thú hoa khai.
Khai hoa thú mãi bà ông
Tài sắc vai sánh điệu đồng ngắm trông
Mai hoa muốt trắng tuyết bông.
12 Sắc xuân
13. Mai hoa muốt trắng tuyết bông
Tài sắc vai sánh điệu đồng ngắm trông
Khai hoa thú mãi bà ông.
Ông bà mãi thú hoa khai
Trông ngắm đồng điệu sánh vai sắc tài
Bông tuyết trắng muốt hoa mai.
ts. đặng văn phú 13
14. Làng xóm
Đông vui bản xóm tràn lan
Đồng tâm mong đợi vẹn toàn dân an
Phong sương cố gắng vượt tràn.
Tràn vượt gắng cố sương phong
An dân toàn vẹn đợi mong tâm đồng
Lan tràn xóm bản vui đông.
14 Sắc xuân
15. Lan tràn xóm bản vui đông
An dân toàn vẹn đợi mong tâm đồng
Tràn vượt gắng cố sương phong.
Phong sương cố gắng vượt tràn
Đồng tâm mong đợt vẹn toàn dân an
Đông vui bản xóm tràn lan.
ts. đặng văn phú 15
16. Bến đò
Xưa xa nhớ mãi đầy đò
Mùa qua đưa đón sóng to thăm dò
Mưa rơi gánh nặng âu lo.
Lo âu nặng gánh rơi mưa
Dò thăm to sóng đón đưa qua mùa
Đò đầy mãi nhớ xa xưa.
16 Sắc xuân
17. Đò đầy mãi nhớ xa xưa
Dò thăm to sóng đón đưa qua mùa
Lo âu nặng gánh rơi mưa.
Mưa rơi gánh nặng âu lo
Mùa qua đưa đón sóng to thăm dò
Xưa xa nhớ mãi đầy đò.
ts. đặng văn phú 17
18. Cô gái Việt Nam
Xinh tươi đẹp gái Việt Nam
Minh thông tình thắm việc làm mê đam
Mình trong đức sáng xanh lam.
Lam xanh sáng đức trong mình
Đam mê làm việc thắm tình thông minh
Nam Việt gái đẹp tươi xinh.
18 Sắc xuân
19. Nam Việt gái đẹp tươi xinh
Đam mê làm việc thắm tình thông minh
Lam xanh sáng đức trong mình.
Mình trong đức sáng xanh lam
Minh thông tình thắm việc làm mê đam
Xinh tươi đẹp gái Việt Nam.
ts. đặng văn phú 19
20. Duyên tơ
Duyên tơ bám sát lạ thường
Yên bình miền đất thịnh cường ngát hương
Hiền hòa đất biển yêu thương.
Thương yêu biển đất hòa hiền
Hương ngát cường thịnh đất miền bình yên
Thường lạ sát bám tơ duyên.
20 Sắc xuân
21. Thường lạ sát bám tơ duyên
Hương ngát cường thịnh đất miền bình yên
Thương yêu biển đất hòa hiền.
Hiền hòa đất biển yêu thương
Yên bình miền đất thịnh cường ngát hương
Duyên tơ bám sát lạ thường.
ts. đặng văn phú 21
22. Thanh niên
Hanh thông tiến bước vượt đầu
Tranh đấu thành quả đức giàu trí sâu
Lành an đất nước thỉnh cầu.
Cầu thỉnh nước đất an lành
Sâu trí giàu đức quả thành đấu tranh
Đầu vượt bước tiến thông hanh.
22 Sắc xuân
23. Đầu vượt bước tiến thông hanh
Sâu trí giàu đức quả thành đấu tranh
Cầu thỉnh nước đất an lành.
Lành an đất nước thỉnh cầu
Tranh đấu thành quả đức giàu trí sâu
Hanh thông tiến bước vượt đầu.
ts. đặng văn phú 23
24. Hoa sen
Hồng sen mát dịu hồ trên
Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền
Sông nước sóng lướt êm êm.
Êm êm lướt sóng nước sông
Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
Trên hồ dịu mát sen hồng.
24 Sắc xuân
25. Trên hồ dịu mát sen hồng
Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
Êm êm lướt sóng nước sông.
Sông nước sóng lướt êm êm
Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền
Hồng sen mát dịu hồ trên.
ts. đặng văn phú 25
26. Hoa hồng
Hồng hoa sắc đẹp mượt mà
Bông đơm lồng cánh đậm đà thơm xa
Trồng vun đắp xới sương pha.
Pha sương xới đắp vun trồng
Xa thơm đà đậm cánh lồng đơm bông
Mà mượt đẹp sắc hoa hồng.
26 Sắc xuân
27. Mà mượt đẹp sắc hoa hồng
Xa thơm đà đậm cánh lồng đơm bông
Pha sương xới đắp vun trồng.
Trồng vun đắp xới sương pha
Bông đơm lồng cánh đậm đà thơm xa
Hồng hoa sắc đẹp mượt mà.
ts. đặng văn phú 27
28. Tam Đảo
Mây sương quyện lẫn núi ngàn
Đầy vơi may rủi vẹn an dây đàn
Say mê tiết khí lan tràn.
Tràn lan khí tiết mê say
Đàn dây an vẹn rủi may vơi đầy
Ngàn núi lẫn quyện sương mây.
28 Sắc xuân
29. Ngàn núi lẫn quyện sương mây
Đàn dây an vẹn rủi may vơi đầy
Tràn lan khí tiết mê say.
Say mê tiết khí lan tràn
Đầy vơi may rủi vẹn an dây đàn
Mây sương quyện lẫn núi ngàn.
ts. đặng văn phú 29
32. Cà Mau
Trời mây lướt sóng phương nam
Vơi đầy thời nhớ sắc chàm màu lam
Cười tươi dịu nhẹ thì thầm.
thầm thì nhẹ dịu tươi cười
Lam màu chàm sắc nhớ thời đầy vơi
Nam phương sóng lướt mây trời.
32 Sắc xuân
33. Nam phương sóng lướt mây trời
Lam màu chàm sắc nhớ thời đầy vơi
Thầm thì nhẹ dịu tươi cười.
Cười tươi dịu nhẹ thì thầm
Vơi đầy thời nhớ sắc chàm màu lam
Trời mây lướt sóng phương nam.
ts. đặng văn phú 33
34. Nâng đỡ
Nâng đỡ bé nhỏ tươi xinh
Vàng quí mang đến sáng tinh đẹp hình
Sang cao giữ được yên bình.
Bình yên được giữ cao sang
Hình đẹp tinh sáng đến mang quí vàng
Xinh tươi nhỏ bé đỡ nâng.
34 Sắc xuân
35. Xinh tươi nhỏ bé đỡ nâng
Hình đẹp tinh sáng đến mang quí vàng
Bình yên được giữ cao sang.
Sang cao giữ được yên bình
Vàng quí mang đến sáng tinh đẹp hình
Nâng đỡ bé nhỏ tươi xinh.
ts. đặng văn phú 35
36. Mầm non
Mầm tươi trí não trước sau
Tâm trong đầm ấm sắc sâu tuyến đầu
Làm nên sáng đẹp bền lâu.
Lâu bền đẹp sáng nên làm
Đầu tuyến sâu sắc ấm đầm trong tâm
Sau trước não trí tươi mầm.
36 Sắc xuân
37. Sau trước não trí tươi mầm
Đầu tuyến sâu sắc ấm đầm trong tâm
Lâu bền đẹp sáng nên làm.
Làm nên sáng đẹp bền lâu
Tâm trong đầm ấm sắc sâu tuyến đầu
Mầm tươi trí não trước sau.
ts. đặng văn phú 37
38. Trẻ khuyết tật
Đùa chơi múa nhảy vui cười
Dua thêu mùa được đẹp đời xanh tươi
Xua tan vợi bớt buồn vơi.
Vơi buồn bớt vợi tan xua
Tươi xanh đời đẹp được mùa thêu dua
Cười vui nhảy múa chơi đùa.
38 Sắc xuân
39. Cười vui nhảy múa chơi đùa
Tươi xanh đời đẹp được mùa thêu dua
Vơi buồn bớt vợi tan xua.
Xua tan vợi bớt buồn vơi
Dua thêu mùa được đẹp đời xanh tươi
Đùa chơi múa nhảy vui cười.
ts. đặng văn phú 39
40. Chợ canh
Xanh vàng đủ loại nhiều màu
Nhanh mua thành giá ước cầu bán mau
Sành sỏi lựa chọn hàng đầu.
Đầu hàng chọn lựa sỏi sành
Mau bán cầu ước giá thành mua nhanh
Màu nhiều loại đủ vàng xanh.
40 Sắc xuân
41. Màu nhiều loại đủ vàng xanh
Mau bán cầu ước giá thành mua nhanh
Đầu hàng chọn lựa sỏi sành.
Sành sỏi lựa chọn hàng đầu
Nhanh mua thành giá ước cầu bán mau
Xanh vàng đủ loại nhiều màu.
ts. đặng văn phú 41
42. Yêu thương
Yêu thương hiện rõ dỗi hờn
Thêu dệt điều nhớ thả hồn nước non
Khêu gợi cảm xúc vẹn tròn.
Tròn vẹn xúc cảm gợi khêu
Non nước hồn thả nhớ điều dệt thêu
Hờn dỗi rõ hiện thương yêu.
42 Sắc xuân
43. Hờn dỗi rõ hiện thương yêu
Non nước hồn thả nhớ điều dệt thêu
Tròn vẹn xúc cảm gợi khêu.
Khêu gợi cảm xúc vẹn tròn
Thêu dệt điều nhớ thả hồn nước non
Yêu thương hiện rõ dỗi hờn.
ts. đặng văn phú 43
44. Xuân sang
Xuân sang đón nhận trăm hoa
Tràn sương vân trắng thuận hòa nắng pha
An lành mải miết ngâm nga.
Nga ngâm miết mải lành an
Pha nắng hòa thuận trắng vân sương tràn
Hoa trăm nhận đón sang xuân.
44 Sắc xuân
45. Hoa trăm nhận đón sang xuân
Pha nắng hòa thuận trắng vân sương tràn
Nga ngâm miết mải lành an.
An lành mải miết ngâm nga
Tràn sương vân trắng thuận hòa nắng pha
Xuân sang đón nhận trăm hoa.
ts. đặng văn phú 45
46. Thọ cao
Già rồi thọ tuổi gần trăm
Xa thăm bà cháu tháng năm nhiều lần
Xa gần nghĩa nặng lặng thầm.
Thầm lặng nặng nghĩa gần xa
Lần nhiều năm tháng cháu bà thăm xa
Trăm gần tuổi thọ rồi già.
46 Sắc xuân
47. Trăm gần tuổi thọ rồi già
Lần nhiều năm tháng cháu bà thăm xa
Thầm lặng nặng nghĩa gần xa.
Xa gần nghĩa nặng lặng thầm
Xa thăm bà cháu tháng năm nhiều lần
Già rồi thọ tuổi gần trăm.
ts. đặng văn phú 47
48. Chơi vui
Chơi vui múa nhảy đô sòn
Tươi cười ngời sáng đắp dồn cháu con
Đời đời tiếp bước vàng son.
Son vàng bước tiếp đời đời
Con cháu dồn đắp sáng ngời cười tươi
Sòn đô nhảy múa vui chơi.
48 Sắc xuân
49. Sòn đô nhảy múa vui chơi
Con cháu dồn đắp sáng ngời cười tươi
Son vàng bước tiếp đời đời.
Đời đời tiếp bước vàng son
Tươi cười ngời sáng đắp dồn cháu con
Chơi vui múa nhảy đô sòn.
ts. đặng văn phú 49
50. Giao lưu
Đêm thâu đón nhận em anh
Thêm vui mềm dẻo đọc nhanh thơ sành
Xem ra thắm đượm tươi xanh.
Xanh tươi đượm thắm ra xem
Sành thơ nhanh đọc dẻo mềm vui thêm
Anh em nhận đón thâu đêm.
50 Sắc xuân
51. Anh em nhận đón thâu đêm
Sành thơ nhanh đọc dẻo mềm vui thêm
Xanh tươi đượm thắm ra xem.
Xem ra thắm đượm tươi xanh
Thêm vui mềm dẻo đọc nhanh thơ sành
Đêm thâu đón nhận em anh.
ts. đặng văn phú 51
52. Thi đàn
người cao tuổi Việt Nam
Thi đàn nét đẹp Việt Nam
Thì thầm suy ngẫm việc làm sâu thâm
Vi vu lắng đọng trong tâm.
Tâm trong đọng lắng vu vi
Thâm sâu làm việc ngẫm suy thầm thì
Nam Việt đẹp nét đàn thi.
52 Sắc xuân
53. Nam Việt đẹp nét đàn thi
Thâm sâu làm việc ngẫm suy thầm thì
Tâm trong đọng lắng vu vi.
Vi vu lắng đọng trong tâm
Thì thầm suy ngẫm việc làm sâu thâm
Thi đàn nét đẹp Việt Nam.
ts. đặng văn phú 53
54. Thu sang
Hoa cúc đón nhận thu sang
Hòa giao xoa dịu nắng vàng chuyển mang
Đa tình đứng ngắm sao trăng.
Trăng sao ngắm đứng tình đa
Mang chuyển vàng nắng dịu xoa giao hòa
Sang thu nhận đón cúc hoa.
54 Sắc xuân
55. Sang thu nhận đón cúc hoa
Mang chuyển vàng nắng dịu xoa giao hòa
Trăng sao ngắm đứng tình đa.
Đa tình đứng ngắm sao trăng
Hòa giao xoa dịu nắng vàng chuyển mang
Hoa cúc đón nhận thu sang.
ts. đặng văn phú 55
59. Trào tuôn ủ ấp rượu thơ
Chao nghiêng dào dạt đợi chờ trong mơ
Cao dâng đọng lắng duyên tơ.
Tơ duyên lắng đọng dâng cao
Mơ trong chờ đợi dạt dào nghiêng chao
Thơ rượu ấp ủ tuôn trào.
ts. đặng văn phú 59
60. Kéo co
Co kéo tục lệ dân làng
Lo chăm hò hát được nàng kia sang
Tô thêm nét đẹp danh vang.
Vang danh đẹp nét thêm tô
Sang kia nàng được hát hò chăm lo
Làng dân lệ tục kéo co.
60 Sắc xuân
61. Làng dân lệ tục kéo co
Sang kia nàng được hát hò chăm lo
Vang danh đẹp nét thêm tô.
Tô thêm nét đẹp danh vang
Lo chăm hò hát được nàng kia sang
Co kéo tục lệ dân làng.
ts. đặng văn phú 61
62. Mở hội
Làng dân mở hội vui xuân
Tăng cao sàng lọc đẹp dần thơ văn
Nàng ta góp sức chuyên cần.
Cần chuyên sức góp ta nàng
Văn thơ dần đẹp lọc sàng cao tăng
Xuân vui hội mở dân làng.
62 Sắc xuân
63. Xuân vui hội mở dân làng
Văn thơ dần đẹp lọc sàng cao tăng
Cần chuyên sức góp ta nàng.
Nàng ta góp sức chuyên cần
Tăng cao sàng lọc đẹp dần thơ văn
Làng dân mở hội vui xuân.
ts. đặng văn phú 63
64. Câu cá
Câu thả đứng cạnh bên ao
Đâu đây rầu rĩ lướt lao rào rào
Cầu trên tĩnh lặng ra vào.
Vào ra lặng tĩnh trên cầu
Rào rào lao lướt rĩ rầu đây đâu
Ao bên cạnh đứng thả câu.
64 Sắc xuân
65. Ao bên cạnh đứng thả câu
Rào rào lao lướt rĩ rầu đây đâu
Vào ra lặng tĩnh trên cầu.
Cầu trên tĩnh lặng ra vào
Đâu đây rầu rĩ lướt lao rào rào
Câu thả đứng cạnh bên ao.
ts. đặng văn phú 65
66. Hè sang
Hè sang gọi tiếng ve ve
Tre lũy lề chỉnh cản che vó bè
Mê say mát mặt ngồi kề.
Kề ngồi mặt mát say mê
Bè vó che cản chỉnh tề lũy tre
Ve ve tiếng gọi sang hè.
66 Sắc xuân
67. Ve ve tiếng gọi sang hè
Bè vó che cản chỉnh tề lũy tre
Kề ngồi mặt mát say mê.
Mê say mát mặt ngồi kề
Tre lũy tề chỉnh cản che vó bè
Hè sang gọi tiếng ve ve.
ts. đặng văn phú 67
68. Đông sang
Đông sang giá lạnh thân hình
Trông xem đồng lúa nhuộm mình vàng tinh
Sông bên gái đẹp tươi xinh.
Xinh tươi đẹp gái bên sông
Tinh vàng mình nhuộm lúa đồng xem trông
Hình thân lạnh giá sang đông.
68 Sắc xuân
69. Hình thân lạnh giá sang đông
Tinh vàng mình nhuộm lúa đồng xem trông
Xinh tươi đẹp gái bên sông.
Sông bên gái đẹp tươi xinh
Trông xem đồng lúa nhuộm mình vàng tinh
Đông sang giá lạnh thân hình.
ts. đặng văn phú 69
70. Hoàng hôn
Vàng nhạt chiếu khoảng miền Tây
Vang xa làng xóm đó đây trâu bầy
Loang chiều tỏa đám khói mây.
Mây khói đám tỏa chiều loang
Bầy trâu đây đó xóm lành xa vang
Tây miền khoảng chiếu nhạt vàng.
70 Sắc xuân
71. Tây miền khoảng chiếu nhạt vàng
Bầy trâu đây đó xóm làng xa vang
Mây khói đám tỏa chiều loang.
Loang chiều tỏa đám khói mây
Vang xa làng xóm đó đây trâu bầy
Vàng nhạt chiếu khoảng miền Tây.
ts. đặng văn phú 71
72. Trên ngàn
Xanh xanh lá biếc cây ngàn
Anh chị dành góp nghĩa nhân lưu phần
Thanh cao tiếp nhận an nhàn.
Nhàn an nhận tiếp cao thanh
Phần lưu nhân nghĩa góp dành chị anh
Ngàn cây biếc lá xanh xanh.
72 Sắc xuân
73. Ngàn cây biếc lá xanh xanh
Phần lưu nhân nghĩa góp dành chị anh
Nhàn an nhận tiếp cao thanh.
Thanh cao tiếp nhận an nhàn
Anh chị dành góp nghĩa nhân lưu phần
Xanh xanh lá biếc cây ngàn.
ts. đặng văn phú 73
74. Ngồi thiền
Ngồi thiền tĩnh lặng sắc không
Tôi anh bồi đắp nhủ lòng hanh thông
Đồi bên ẩn hiện tâm đồng.
Đồng tâm hiện ẩn bên đồi
Thông hanh lòng nhủ đắp bồi anh tôi
Không sắc lặng tĩnh thiền ngồi.
74 Sắc xuân
75. Không sắc lặng tĩnh thiền ngồi
Thông hanh lòng nhủ đắp bồi anh tôi
Đồng tâm hiện ẩn bên đồi.
Đồi bên ẩn hiện tâm đồng
Tôi anh bồi đắp nhủ lòng hanh thông
Ngồi thiền tĩnh lặng sắc không.
ts. đặng văn phú 75
76. Sông bên
Sông bên sóng nước hiền hòa
Đồng tâm mong ước sắc hoa chói lòa
Đông vui sớm tối lại qua.
Qua lại tối sớm vui đông
Lòa chói hoa sắc ước mong tâm đồng
Hòa hiền nước sóng bên sông.
76 Sắc xuân
77. Hòa hiền nước sóng bên sông
Lòa chói hoa sắc ước mong tâm đồng
Qua lại tối sớm vui đông.
Đông vui sớm tối lại qua
Đồng tâm mong ước sắc hoa chói lòa
Sông bên sóng nước hiền hòa.
ts. đặng văn phú 77
78. Đồng ruộng
Đồng ruộng sớm tối chuyên cần
Thông hanh dòng nước bón phân an nhàn
Bông đơm trĩu nặng nhiều cân.
Cân nhiều nặng trĩu đơm bông
Nhàn an phân bón nước dòng hanh thông
Cần chuyên tối sớm ruộng đồng.
78 Sắc xuân
79. Cần chuyên tối sớm ruộng đồng
Nhàn an phân bón nước dòng hanh thông
Cân nhiều nặng trĩu đơm bông.
Bông đơm trĩu nặng nhiều cân
Thông hanh dòng nước bón phân an nhàn
Đồng ruộng sớm tối chuyên cần.
ts. đặng văn phú 79
80. Yêu mến
Yêu em sớm tối lo chăm
Nhiều mong thêu dệt tháng năm nuôi tằm
Chiều chiều tĩnh lặng thanh âm.
Âm thanh lặng tĩnh chiều chiều
Tằm nuôi năm tháng dệt thêu mong nhiều
Chăm lo tối sớm em yêu.
80 Sắc xuân
81. Chăm lo tối sớm em yêu
Tằm nuôi năm tháng dệt thêu mong nhiều
Âm thanh lặng tĩnh chiều chiều.
Chiều chiều tĩnh lặng thanh âm
Nhiều mong thêu dệt tháng năm nuôi tằm
Yêu em sớm tối lo chăm.
ts. đặng văn phú 81
82. Chăm ngoan
Chăm ngoan thấu suốt tháng ngày
Thăm nom đằm thắm đắm say tỏ bày
Thầm lặng giúp đỡ vơi đầy.
Đầy vơi đỡ giúp lặng thầm
Bày tỏ say đắm thắm đằm non thăm
Ngày tháng suốt thấu ngoan chăm.
82 Sắc xuân
83. Ngày tháng suốt thấu ngoan chăm
Bày tỏ say đắm thắm đằm nom thăm
Đầy vơi đỡ giúp lặng thầm.
Thầm lặng giúp đỡ vơi đầy
Thăm nom đằm thắm đắm say tỏ bày
Chăm ngoan thấu suốt tháng ngày.
ts. đặng văn phú 83
84. Giảm nghèo
Trao đưa giúp tiếp lui nghèo
Nao lòng chào đón đến theo giữa đèo
Cao thanh sáng đẹp trong veo.
Veo trong đẹp sáng thanh cao
Đèo giữa theo đến đón chào lòng nao
Nghèo lui tiếp giúp đưa trao.
84 Sắc xuân
85. Nghèo lui tiếp giúp đưa trao
Đèo giữa theo đến đón chào lòng nao
Veo trong đẹp sáng thanh cao.
Cao thanh sáng đẹp trong veo
Nao lòng chào đón đến theo giữa đèo
Trao đưa giúp tiếp lui nghèo.
ts. đặng văn phú 85
86. Trù phú
Mênh mông tốt lúa đồng xa
Kênh con dềnh nước mượt mà quê ta
Thênh thênh hát tiếp câu ca.
Ca câu tiếp hát thênh thênh
Ta quê mà mượt nước dềnh con kênh
Xa đồng lúa tốt mông mênh.
86 Sắc xuân
87. Xa đồng lúa tốt mông mênh
Ta quê mà mượt nước dềnh con kênh
Ca câu tiếp hát thênh thênh.
Thênh thênh hát tiếp câu ca
Kênh con dềnh nước mượt mà quê ta
Mênh mông tốt lúa đồng xa.
ts. đặng văn phú 87
88. Tâm hồn
Êm ru mát dịu tâm hồn
Đêm thâu thềm dưới sức dồn chăm con
Em yêu nốt nhạc đô sòn.
Sòn đô nhạc nốt yêu em
Con chăm dồn sức dưới thềm thâu đêm
Hồn tâm dịu mát ru êm.
88 Sắc xuân
89. Hồn tâm dịu mát ru êm
Con chăm dồn sức dưới thềm thâu đêm
Sòn đô nhạc nốt yêu em.
Em yêu nốt nhạc đô sòn
Đêm thâu thềm dưới sức dồn chăm con
Êm ru mát dịu tâm hồn.
ts. đặng văn phú 89
90. Nông sâu
Nông sâu khó hiểu đo lòng
Hồng tươi bông đẹp uốn cong trên đồng
Sông bên ngã bóng nhiều thông.
Thông nhiều bóng ngã bên sông
Đồng trên cong uốn đẹp bông tươi hồng
Lòng đo hiểu khó sâu nông.
90 Sắc xuân
91. Lòng đo hiểu khó sâu nông
Đồng trên cong uốn đẹp bông tươi hồng
Thông nhiều bóng ngã bên sông.
Sông bên ngã bóng nhiều thông
Hồng tươi bông đẹp uốn cong trên đồng
Nông sâu khó hiểu đo lòng.
ts. đặng văn phú 91
92. Măng rừng
Măng mầm mọc mới trên rừng
Làng dân mang đổi lạc vừng ăn chung
Màng mơ lúa gạo tỉnh bừng.
Bừng tỉnh gạo lúa mơ màng
Chung ăn vừng lạc đổi mang dân làng
Rừng trên mới mọc mầm măng.
92 Sắc xuân
93. Rừng trên mới mọc mầm măng
Chung ăn vừng lạc đổi mang dân làng
Bừng tỉnh gạo lúa mơ màng.
Màng mơ lúa gạo tỉnh bừng
Làng dân mang đổi lạc vừng ăn chung
Măng mầm mọc mới trên rừng.
ts. đặng văn phú 93
94. Hoa loa kèn đỏ
Loa kèn đỏ sẫm màu tươi
Hoa đẹp xòa cánh thích người ngắm chơi
Lòa chói tỏa ánh nơi nơi.
Nơi nơi ánh tỏa chói lòa
Chơi ngắm người thích cánh xòa đẹp hoa
Tươi màu sẫm đỏ kèn loa.
94 Sắc xuân
95. Tươi màu sẫm đỏ kèn loa
Chơi ngắm người thích cánh xòa đẹp hoa
Nơi nơi ánh tỏa chói lòa.
Lòa chói tỏa ánh nơi nơi
Hoa đẹp xòa cánh thích người ngắm chơi
Loa kèn đỏ sẫm màu tươi.
ts. đặng văn phú 95
96. Tiên tổ
Tiên tổ hiển thánh thiêng linh
Thiên địa truyền phát đức sinh ân tình
Liên hồi sáng dạ anh minh.
Minh anh dạ sáng hồi liên
Tình ân sinh đức phát truyền địa thiên
Linh thiêng thánh hiển tổ tiên.
96 Sắc xuân
97. Linh thiêng thánh hiển tổ tiên
Tình ân sinh đức phát truyền địa thiên
Minh anh dạ sáng hồi liên.
Liên hồi sáng dạ anh minh
Thiên địa truyền phát đức sinh ân tình
Tiên tổ hiển trách thiêng linh.
ts. đặng văn phú 97
98. Hoa súng
Màu tím rộng trải trên hồ
Đâu đây cầu ước bản đồ vẽ thô
Giàu sang thích thú điểm tô.
Tô điểm thú thích sang giàu
Thô vẽ đồ bản ước cầu đây đâu
Hồ trên trải rộng tím màu.
98 Sắc xuân
99. Hồ trên trải rộng tím màu
Thô vẽ đồ bản ước cầu đây đâu
Tô điểm thú thích sang giàu.
Giàu sang thích thú điểm tô
Đâu đây cầu ước bản đồ vẽ thô
Màu tím rộng trải bên hồ.
ts. đặng văn phú 99
100. Hoa quỳnh
Màu trắng hiện rõ đơm bông
Sâu sắc đầu cuối suốt thông được lòng
Thâu đêm ước nguyện ngóng trông.
Trông ngóng nguyện ước đêm thâu
Lòng được thông suốt cuối đầu sắc sâu
Bông đơm rõ hiện trắng màu.
100 Sắc xuân
101. Bông đơm rõ hiện trắng màu
Lòng được thông suốt cuối đầu sắc sâu
Trông ngóng nguyện ước đêm thâu.
Thâu đêm ước nguyện ngóng trông
Sâu sắc đầu cuối suốt thông được lòng
Màu trắng hiện rõ đơm bông.
ts. đặng văn phú 101
102. Chông gai
Chông gai cắm được dưới hầm
Đồng dân mong ước giặc tầm vướng đâm
Vòng quanh trốn chạy xuyên tâm.
Tâm xuyên chạy trốn quanh vòng
Đâm vướng tầm giặc ước mong dân đồng
Hầm dưới được cắm gai chông.
102 Sắc xuân
103. Hầm dưới được cắm gai chông
Đâm vướng tầm giặc ước mong dân đồng
Tâm xuyên chạy trốn quanh vòng.
Vòng quanh trốn chạy xuyên tâm
Đồng dân mong ước giặc tầm vướng đâm
Chông gai cắm được dưới hầm.
ts. đặng văn phú 103
104. Vũ trường
Ca múa lắc nhảy đêm thâu
Khà cười ta tự buốt đầu trước sau
Va chạm bệnh tật gây sầu.
Sầu gây tật bệnh chạm va
Sau trước đầu buốt tự ta cười khà
Thâu đêm nhảy lắc múa ca.
104 Sắc xuân
105. Thâu đêm nhảy lắc múa ca
Sau trước đầu buốt tự ta cười khà
Sầu gây tật bệnh chạm va.
Va chạm bệnh tật gây sầu
Khà cười ta tự buốt đầu trước sau
Ca múa lắc nhảy đêm thâu.
ts. đặng văn phú 105
106. Vay mượn
Vay mượn tốt đẹp đầy vơi
Say mê ngày tháng gượng cười vui chơi
Bay xa cánh mượn người đời.
Đời người mượn cánh xa bay
Chơi vui cười gượng tháng ngày mê say
Vơi đầy đẹp tốt mượn vay.
106 Sắc xuân
107. Vơi đầy đẹp tốt mượn vay
Chơi vui cười gượng tháng ngày mê say
Đời người mượn cánh xa bay.
Bay xa cánh mượn người đời
Say mê ngày tháng gượng cười vui chơi
Vay mượn tốt đẹp đầy vơi.
ts. đặng văn phú 107
108. Quen thân
Quen thân kết bạn xa gần
Trên nền bền vững biết cần người thân
Nên xây tốt đẹp nghĩa nhân.
Nhân nghĩa đẹp tốt xây nên
Thân người cần biết vững bền nền trên
Gần xa bạn kết thân quen.
108 Sắc xuân
109. Gần xa bạn kết thân quen
Thân người cần biết vững bền nền trên
Nhân nghĩa đẹp tốt xây nên.
Nên xây tốt đẹp nghĩa nhân
Trên nền bền vững biết cần người thân
Quen thân kết bạn xa gần.
ts. đặng văn phú 109
110. Tràng An
Tiên ông khéo tạc nhiều hang
Thuyền bơi chuyên trở xếp hàng dọc ngang
Duyên nên lướt sóng đẹp sang.
Sang đẹp sóng lướt nên duyên
Ngang dọc hàng xếp chở duyên bơi thuyền
Hang nhiều tạc khéo ông Tiên.
110 Sắc xuân
111. Hang nhiều tạc khéo ông Tiên
Ngang dọc hàng xếp chở chuyên bơi thuyền
Sang đẹp sóng lướt nên duyên.
Duyên nên lướt sóng đẹp sang
Thuyền bơi chuyên chở xếp hàng dọc ngang
Tiên ông khéo tạc nhiều hang.
ts. đặng văn phú 111
112. Cảm nhận bài thơ “Lệ Chi Viên”
của Tiến sĩ Đặng Văn Phú
Đ ọc tập thơ Bình minh mới đây của nhà thơ -
tiến sĩ Đặng Văn Phú với những sáng tạo tâm
huyết và mẫu mực, tôi rất chú ý đến bài thơ Lệ Chi
Viên. Bởi bài thơ chữ trắng được khắc trang trọng
trên bia đá, với những nét chạm trổ rồng phượng và lư
hương mà con cháu hậu sinh kính cẩn nhớ đến người
xưa.
Mới đọc vào nhan đề bài thơ, chúng ta đã cảm thấy
một cái gì rất đẹp, diễm lệ và trong suốt, như một kỷ
niệm, như dòng nước mắt kéo qua. Ba chữ Lệ - Chi -
Viên đều gợi lên những nét thanh sạch, thoáng đãng
và nhiều xúc cảm như tâm hồn con người. Lệ là nước
mắt, chi là xương thịt thân thể, và viên là một khu
vườn với cây cối thanh thoát. Tưởng như nhà thơ đang
tả cảnh một công viên nào đấy. Một khu vườn đầy
nước mắt! Thì đó, đây đúng là một bài thơ nhắc đến
một vết thương không bao giờ lành trong lịch sử dân
tộc. Đó là cái án oan của vị anh hùng dân tộc Nguyễn
Trãi, với rất nhiều máu và nước mắt. Đó là lý do vì sao
bài thơ mở đầu bằng chữ “Lệ”. Tất nhiên, khi đặt bút
viết, nhà thơ không nên gò ép, nhưng rõ ràng từ “Lệ”
rất đắc địa, đã được nhà thơ cảm và đặt làm dấu báo
112 Sắc xuân
113. hiệu cho một cuộc đời đau thương, oan khuất, mà cả
dân tộc đã phải soi vào.
Bài thơ không hề nhắc đến tên Nguyễn Trãi, nhưng
đã viết rất đầy đủ về cuộc đời oanh liệt của ông. Chỉ
bằng bốn câu ngắn gọn súc tích của thể tứ tuyệt, tác
giả đã thể hiện được tầm vóc, chiều rộng của một cuộc
đời, chiều dài của một nỗi đau, dòng nước mắt, tái
hiện được không khí hãi hùng đầy máu chảy, thể hiện
được lòng đau xót của nhân dân Việt Nam và thế giới
đối với vị anh hùng dân tộc. Thế mới biết, sự phong
phú về ý tứ và sự sâu sắc về nghệ thuật của một bài thơ
tứ tuyệt như thế nào.
Bất cứ người dân Việt Nam yêu nước nào cũng đã
hơn một lần nhớ về Nguyễn Trãi, đau lòng và day dứt
về Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi dòng dõi trung thần yêu
nước, đã theo Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, viết Bình
Ngô đại cáo và sáng tạo rất nhiều thơ văn, Nguyễn
Trãi vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế
giới, nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà
ngoại giao kiệt xuất của dân tộc ta. Vậy mà Nguyễn
Trãi đã bị khép tội tru di tam tộc ở Lệ Chi Viên, vì cái
chết của vua Lê Thái Tông (con Lê Lợi) có liên quan
đến một người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị
Lộ. Nguyễn Thị Lộ khi ấy 40 tuổi, xinh đẹp, có tài
năng văn chương và đầy đủ công dung ngôn hạnh của
một người phụ nữ thời đó, đã được vua Lê Thái Tông
(Nguyên Long) mời vào triều làm Lễ nghi học sĩ. Rồi
ts. đặng văn phú 113
114. vua say đắm Nguyễn Thị Lộ và băng hà ở Lệ Chi Viên,
khi đến thăm nhà Nguyễn Trãi. Dẫn giải ra như vậy
để người đọc hiểu, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng
lịch sử, viết về một câu chuyện khá bi thương đau xót
trong lịch sử dân tộc, đã được rất nhiều nhà sử học,
nhà nghiên cứu quan tâm và nhân dân đã ghi nhớ, ám
ảnh. Vậy có khó cho tiến sĩ Đặng Văn Phú chăng? Mỗi
câu, mỗi chữ của bài thơ đều mang nhiều nghĩa - tình.
Hai câu thơ đầu nhà thơ dành để ca ngợi vị anh hùng
dân tộc:
Chí lớn tài cao lo cứu nước
Tâm vàng đức quý giúp cho dân.
Hai câu này đã thể hiện được tầm vóc, tài trí và tấm
lòng Nguyễn Trãi với nước, với dân, với con người.
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để
thay cường bạo (Bình Ngô đại cáo). Ở đây, con người
Nguyễn Trãi đã được thể hiện ở tầm bao quát, khái
quát nhất ở khía cạnh công lao và nhân cách. Thiết
nghĩ ai đọc đến đó cũng có thể hiểu được, có thể hiểu
ít có thể hiểu nhiều về cuộc đời Nguyễn Trãi tùy theo
sự am hiểu về lịch sử của họ. Viết về tiền nhân cốt nhất
là trung thực, công tâm và thành kính, chứ đừng màu
mè, hoa hòe hoa sói. Ở đây, hai câu thơ này đã làm
được điều đó. Tôi chú ý đến hai chữ “lo” và “giúp”, vì
nó rất hiện đại, đó là nỗi lòng của con người hiện đại.
Nguyễn Trãi một đời lo cứu nước giúp dân, với nỗi
lòng thường trực ấy. Các cặp tính từ, danh từ, động từ
114 Sắc xuân
115. song hành: chí - tài - tâm - đức, lớn - cao - vàng - quý,
nước - dân, lo - giúp đã làm toát lên toàn bộ cốt cách
và tài năng của Nguyễn Trãi. Đọc xong hai câu này
người ta nghĩ chắc đây là bài thơ thuần túy ca ngợi
những người có công với nước. Nhưng hai câu thơ sau
mới thật sự chạm đến cõi lòng, lột tả được bi kịch của
Nguyễn Trãi.
Bài thơ không những ca ngợi vị anh hùng Nguyễn
Trãi, mà còn gián tiếp ngợi ca người con gái Nguyễn
Thị Lộ. Nguyễn Thị Lộ - cô bán chiếu Tây Hồ, vợ
người anh hùng Nguyễn Trãi hay Lễ nghi học sĩ triều
Lê, từ lâu là hình ảnh đẹp trong ký ức của nhân dân
ta. Nàng cũng có cùng một phẩm chất như trên, một
tấm lòng vời vợi yêu thương và sẵn lòng hy sinh vì
non sông đất nước, vì sự nghiệp của chồng. Nàng là
người vợ yêu dấu, tri âm tri kỷ, luôn đứng sau cuộc đời
Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi một lòng trung quân
ái quốc, hy sinh vì đại nghĩa. Kết duyên cùng Nguyễn
Trãi trong một mối tình lãng mạn, sau bao nhiêu năm
cùng chồng giúp nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng,
Nguyễn Thị Lộ lại cùng chồng sẻ chia cái chết thảm
khốc nhất trong lịch sử dân tộc. Đánh giá về bà, giáo
sư Vũ Khiêu khẳng định: “Ít nhất, bà cũng là người
tài hoa trong văn học, sắc sảo trong chính trị, chu đáo
trong ứng xử và thủy chung trong tình nghĩa”, “Lễ nghi
học sĩ Nguyễn Thị Lộ đã dâng trọn cuộc đời phục vụ
cho sự bền vững của Vương triều Lê và sự phồn vinh
ts. đặng văn phú 115
116. của non sông Đại Việt”. (Báo Nhân dân, 12/2005).
Hai câu thơ sau diễn tả bi kịch khủng khiếp, nó gây
bất ngờ, hoàn toàn đối lập với hai câu đầu:
Oan gia ba họ đầu rơi sạch
Tuôn lệ đau thương xót cõi trần.
-Người đọc tự hỏi: Tại sao một người tài trí hết lòng
vì dân vì nước mà lại “Oan gia ba họ đầu rơi sạch?”.
Sửng sốt quá! Người ta muốn hiểu rõ sự tình thì phải lật
giở lại nghi án Lệ Chi Viên: Triều đình nhà Lê lúc đó
khép Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ vào tội giết vua,
tru di tam tộc. Máu đã chảy, đầu đã rơi xuống. Câu thơ
với tiết tấu nhanh mạnh gây rợn ngợp, thảm khốc, kinh
ngạc, sửng sốt. “Đầu rơi sạch” chất thơ ở đấy, bi kịch ở
đấy và cái hiện đại cũng ở đấy. Đầu rơi sạch là đầu rơi
nhanh, rơi hết, cùng một lúc, trong thời gian ngắn! Đó
là cách nói của người Thanh Hóa chăng? Chữ “sạch”
ở đây đáng chú ý nhất là nghĩa của nó: “trong sạch,
sạch sẽ, tinh khiết”. Chữ sạch đau đớn làm sao, trắng
trợn, ngay thẳng và quyết liệt. Nó như khẳng định một
làn nữa phẩm chất trung thần của Nguyễn Trãi, một
lòng trung với vua, vì đại nghĩa, vì dân vị nước. Một
người tài trí như Nguyễn Trãi, làm quan đến mức ấy
(đại thần, Nhập nội hành khiển), có công lao và tài
năng đến mức ấy, và vào lúc bấy giờ tuổi đã ngoại 60,
thì thử hỏi ông còn gì ngoài một lòng khát khao giúp
nước? Tuy có thể buồn vì vương triều mâu thuẫn, xáo
trộn, nhưng ông không thể phản bội lại lý tưởng và sự
116 Sắc xuân
117. nghiệp của mình mà đi giết vua, nhất là khi Nguyên
Long lại là người tài đức. Cho nên, cái chết của vua
Lê Thái Tông là do âm mưu của việc tranh giành ngôi
vị của các bà phi và các quan trong vương triều mục
ruỗng. “Sâu xa hơn, đó là sự ghen ghét, đố kỵ của một
số không nhỏ quan lại trong triều lúc bấy giờ trước tài
năng lỗi lạc và tính tình ngay thẳng, cương trực của
Nguyễn Trãi - cái luôn cản trở những việc làm mờ ám
của chúng.” (Nhân dân, 12/2005). Chữ “sạch” ở đây
vô hình trung đã đối chọi với “bẩn”. Vì theo tâm lý của
người Việt chúng ta, ta chỉ nói cái này sạch lắm là khi
ta khẳng định sự “sạch” và khẳng định nó không bẩn
khi nó đang có nguy cơ bị bẩn. Cái sạch lúc ấy đang kề
cận rất gần cái bẩn, bị cái bẩn đe dọa, khủng bố, đồng
hóa. Tôi thật sự thích thú với cái ý này của bài thơ và
rất thán phục sự sâu xa của tiến sĩ Đặng Văn Phú.
Về vụ án Lệ Chi Viên và hai danh nhân văn hóa nói
trên đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, đánh
giá lại, nó là vấn đề lớn của lịch sử. Ở bài thơ này ta
chỉ xét cái tình của con người. Bài thơ của tiến sĩ Đặng
Văn Phú vẫn không nhắc đến tên hai vị công thần triều
Lê có công với nước như ta đã phân tích ở trên. Ở đây
nhân vật trữ tình vẫn ẩn kín - cho bạn đọc có thể tự do
nhìn nhận, suy tưởng, đánh giá. Vì vậy bài thơ không
chỉ có một nghĩa, mà có nhiều nghĩa. Có thể, bài thơ
đang nói chuyện đời, chuyện của mọi thời, mọi người.
Tại sao một người có tâm có đức lớn như vậy, công lao
ts. đặng văn phú 117
118. như vậy, anh hùng như vậy, mà bị cuộc đời làm cho
chết? Chúng ta phải làm gì? Chúng ta khao khát con
người vĩ đại ấy hiểu ta, thương ta, và cho dân tộc ta,
đất nước ta thêm những thành quả, những chiến thắng
của tình thương và trí tuệ. Ta khao khát một lần được
gặp con người đó, để quỳ lạy, để ngợi khen, để cám ơn,
để sám hối! Đọc bài thơ này rồi tôi cũng trở thành một
kẻ bị ám ảnh bởi số phận và cuộc đời Nguyễn Trãi và
Nguyễn Thị Lộ.
Ở đây tác giả đã thành công trong việc chơi chữ
chăng? “Đầu rơi sạch’. Quá đau thương thảm khốc!
Một cái án oan còn vọng đến ngàn sau, biết bao ô
nhục, đau lòng. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ còn
có kỳ tích lớn đối với triều Lê, là đã bảo vệ, nuôi giấu
được vua Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này). Khi
ấy, Tư Thành là con của bà Ngô Thị Ngọc Giao, thứ
phi của vua, đang bị truy sát, vì sự tranh giành quyền
bính. Sau này vua Lê Thánh Tông lên ngôi, nổi tiếng
là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời
hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được
xem là một nhà văn hóa và một người coi trọng hiền
tài. Vua Lê Thánh Tông đã ban chiếu minh oan cho
Nguyễn Trãi, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho câu
“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lòng Ức Trai
sáng như sao Khuê). Một người như vậy mà phải chết
vì sự ngu muội của con người, sự hà khắc của chế độ
phong kiến, đó là câu hỏi lớn vấn đề lớn để cho các
118 Sắc xuân
119. thế hệ sau suy ngẫm và lịch sử dân tộc tự đánh giá lại
chính mình.
Câu thơ cuối trải dài như một tiếng nấc đau thương
đầy nước mắt của nhân dân và thế giới, thậm chí thiên
nhiên cỏ cây đã nhỏ lệ tiếc thương người anh hùng
Nguyễn Trãi. Oan gia ba họ đầu rơi sạch/ Tuôn lệ đau
thương xót cõi trần. Câu thơ cũng có nhiều tính từ
gây chú ý, gợi, nhấn mạnh được nỗi lòng. Như “tuôn”
“xót”. Cái “xót” đây là xót của lệ, và dòng lệ ấy nhiều
đến nỗi ngập tràn trần thế. Ta thấy nỗi lòng nhà thơ và
tâm tình nhân loại được nhà thơ diễn tả rất sâu. Cái
nỗi oan gia ấy, đau thương ấy, máu xương oan khốc
ấy, có thể chẳng những động đến lòng người mà còn
động đến lòng trời. Lệ ở đây là nước mưa hay là nước
mắt. Câu thơ không cần phải rạch ròi quá. Về mặt cảm
xúc và kịch tính, câu thơ này quả là xuất sắc. Phải là
tâm huyết, tri ân với Nguyễn Trãi, nhà thơ mới viết
được hai câu thơ như thế. Cái điều đáng nói cuối cùng
là dòng lệ đau thương ấy sẽ chảy mãi mãi chẳng bao
giờ vơi.
Đây là một bài thơ phúng viếng, để tưởng nhớ tiền
nhân, nên thiết nghĩ nó chấm phá được vài nét cũng
là quý rồi. Huống hồ ở đây nó lại chấm phá được quá
nhiều nét và nó diễn tả được nỗi đau có thực của các
thế hệ đã tiếc thương người anh hùng. Đó là một nỗi
đau chân thực, hiện hữu của tác giả và các thế hệ hậu
sinh, đã được nhà thơ diễn tả rất chân thành, sát thực.
ts. đặng văn phú 119
120. Người đọc cũng thấy đau xót thay. Vì thế bài thơ mới
gây xúc động cho bạn đọc và có được giá trị mới. Bởi
có hàng ngàn học giả, nhà thơ đã viết về cuộc đời
Nguyễn Trãi. Đây là một đề tài không mới, nhưng tác
giả đã đem được cảm xúc của mình vào làm cho bài
thơ hiện đại lên và đầy cảm xúc. Dẫu mỗi dân tộc có
những trang lịch sử sai lầm và mỗi con người từng có
những tháng năm tội lỗi, nhưng bao giờ cũng sẽ được
nhìn nhận lại, làm lại, sửa lại. Sự làm lại con người
không bao giờ là muộn.
Bài thơ và tác giả quả là một tấm lòng tri ân với
Nguyễn Trãi. Với cái nhìn chân thực soi rọi vào cuộc
đời Nguyễn Trãi, thì bài học lịch sử vẫn còn nguyên
giá trị./.
Trần Thị Ngọc Lan
(Nhà xuất bản Văn học)
120 Sắc xuân
121. Kính viếng
ANH LINH CÁC LIỆT SĨ
Đ ất nước Việt Nam ta trải qua mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước, trải qua bao cuộc
kháng chiến gian khổ và oanh liệt, đã có biết bao thế
hệ anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc. Trên đất đai
sông suối của tổ tiên này, đã thấm bao xương máu
những người ngã xuống, cho đất nước trường tồn
và hồi sinh. Tiến sĩ Đặng Văn Phú, một bậc thầy về
tâm linh, một ông tiến sĩ đa tài, qua bao nhiêu năm
hoạt động khoa học và nghệ thuật, đã để lại cho đời
những bài thơ tinh tế, đầy tình người. Đặc biệt, ông
có biệt tài trong việc sáng tạo thể thơ thuận nghịch
độc, với sức sáng tạo tươi mới và mãnh liệt, gần
đây ông đã cho in rất nhiều tập thơ về thể loại này.
Điều đáng chú ý trong các tập thơ đó, là trí tuệ trong
sáng và tình người nồng ấm, làm người đọc rất ngạc
nhiên và yêu thích. Có lẽ qua nhiều năm hoạt động
tâm linh, với tài năng đặc biệt của mình, ông đã thu
được tất cả những tinh hoa năng lượng, về giúp đời,
giúp người và tự tỏa sáng trong thơ. Với một lòng
thành kính, ông đã đi khắp đất nước, đem tài năng
ts. đặng văn phú 121
122. ngoại cảm của mình tìm mộ các liệt sĩ đã hy sinh
trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Sở trường lớn
nhất của ông là khả năng ngoại cảm, ông tham gia
hoạt động này với niềm tin lớn lao về sự bất tử của
con người, của dân tộc, của lịch sử đất nước. Với
ngót 400 bài thơ và gần 10 tập thơ đã ra đời, thì đó
là một chiến tích về tinh thần và giá trị nghệ thuật
không nhỏ của ông góp sức làm đẹp cho đời, khiến
cho người đọc hết lòng khâm phục.
Trên đây là một bài thơ tiêu biểu của ông kính
viếng anh linh các liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn,
làm theo thể thuận nghịch độc, mà ông đã gửi vào
trong đó tất cả niềm tin, lòng biết ơn và sự kính
trọng của mình dành cho các thế hệ liệt sĩ đã hy
sinh vì Tổ quốc.
Vì ông lựa chọn thể thơ Đường, với kiểu thuận
nghịch độc rất “khó chơi” theo lời bạn đọc nhận
xét, nên tôi luôn thấy những bài thơ của ông rất ấn
tượng, có sự tinh luyện về câu từ và giàu chất trí
tuệ, kiệm lời và chắt lọc ngôn ngữ, cấu tứ rất công
phu. Nhưng thật kỳ lạ, ở những bài thơ ấy, ý thơ
của ông vẫn bay bổng, phiêu diêu và nồng thắm,
vượt lên câu từ, vượt lên kỹ thuật. Cũng phải thôi,
mục đích của ông là cái hồn thơ, là ý tứ sâu sắc và
niềm tin của ông dành cho con người. Anh linh các
liệt sĩ đã hiện về trong một không gian trân trọng:
122 Sắc xuân
123. Hương thơm ngát tỏa, tình đồng đội.
Ở đây dường như ta thấy hiện lên trong chiều
rộng và sâu của đất nước mình, những nghĩa trang
hoang hoải với khói hương và màu hoa mua tím.
Cũng có thể, thiên nhiên tươi đẹp ấy luôn ấp iu linh
hồn các liệt sĩ. Đấy là tôi nghĩ vậy, khi đứng trước
không gian câu thơ gợi mở, với tình yêu thương
thủy chung giữa muôn vật và con người. Cái không
gian mênh mông quá, làm lòng người hoài nhớ,
chơi vơi, khi âm dương cách biệt, nhưng không
gian ấy cũng đầy bao dung, đầy hương thơm và
tình nghĩa con người. Tình nghĩa ấy, có lẽ vượt trên
mức cá nhân, riêng tư, để đi đến một nghĩa cả sâu
thẳm và bao la hơn về con người, về đất nước. Ta
sẽ nghĩ về đất nước, về dân tộc, về những điều còn
mất, về những người đã mất và những người còn
sống, về tương lai của chúng ta. Trước mắt chúng
ta như hiện ra một bình nguyên bao la với đất đai,
sông suối, mặt trời, với những hy vọng về sự bất
tử của con người và dân tộc, niềm hy vọng cho
ngày sau. Một sợi dây tâm linh nối hiện tại, quá
khứ, tương lai lại với nhau, và những nhân chứng
sống của chiến tranh sẽ biết sống cuộc đời sao cho
ý nghĩa, khi họ nghĩ về nền hòa bình, về những
người đã khuất. Tất nhiên ở một nghĩa cụ thể hơn,
ta thấy hiện ra hình ảnh những đoàn cựu chiến binh
ts. đặng văn phú 123
124. lặng lẽ đi thăm lại chiến trường xưa, thành kính cắm
những bó hoa và hương thơm lên mộ người chiến sĩ.
Đó cũng là nén tâm hương của thi sĩ Đặng Văn Phú
dâng lên anh linh những người anh hùng với niềm
tri ân sâu nặng.
Xương máu trao đưa, góp trọn phần
Hiến dâng non nước, biệt người thân.
Đây là hai câu thơ đầu của bài thơ, cũng là hai
câu thơ ấn tượng nhất, có chiều sâu nhất, khẳng định
công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ. Câu thơ có
một tầm vóc lớn, khái quát được nỗi đau thương và
sự hy sinh vô điều kiện ấy. Viết về sự hy sinh của
nhiều người, thậm chí của nhiều thế hệ, viết được
như thế cũng là tài. Tôi cứ tần ngần trước sự uyển
chuyển, tinh tế của câu thơ khi diễn tả một vấn đề
quan trọng của sống còn, của sự hy sinh và dâng
hiến. Sao nó diễn tả được sự hy sinh máu xương và
ly biệt một đời mà lại giản dị và thanh tao đến thế?
“Xương máu trao đưa, góp trọn phần”: cái “trao
đưa” (thanh thản, tự nguyện) ấy là “xương máu”
(sống còn, tồn tại), vậy mà nhẹ nhàng sao, như trao
đưa một cành hoa, một lời hứa, một niềm hy vọng
cho tương lai. Một niềm tin cho thế kỷ. Xét cho
cùng trong sự tồn tại, mạng sống con người là quý
nhất. Vậy mà người chiến sĩ trong một phút giây
124 Sắc xuân
125. trong trẻo của đời mình, đã thanh thản “trao đưa”,
với một niềm tin bộc trực và thánh thiện, đi vào cõi
vĩnh hằng, để hy sinh vì cuộc sống. Vì tự do, độc
lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Cái đáng
quý ở đây không chỉ ở tâm thế trao đưa thanh thản
và chủ động tự nguyện, mà sâu xa hơn là khát vọng
“góp trọn phần”. Thì ra trong tâm niệm của những
người chiến sĩ ấy luôn nghĩ rằng, mình phải có bổn
phận đóng góp phần mình vào trong chiến thắng,
vào trong cái chung của dân tộc, để giành độc lập tự
do cho nhân dân ta, có như thế mới hoàn thành trách
nhiệm của mình. Cụm từ “góp trọn phần” có nhiều
cái lạ. Lạ ở chữ “trọn”. Nghĩa là trọn vẹn cái phần
mình, mới an tâm yên lòng thanh thản, cũng có thể
“trọn” là hy sinh tất cả những gì mình có, trọn tình
vẹn nghĩa với đất nước non sông. Và cao hơn, có sự
đóng góp này, mới tròn vẹn cái nghĩa cao cả, mới
trọn niềm vui cho mai sau. Câu thơ đầu tiên khép
lại, tưởng thế đã kiệt cùng, trọn vẹn. Nhưng không,
câu thơ thứ hai còn mở ra, bao la hơn:
Hiến dâng non nước, biệt người thân.
Câu thơ đầu có đau đớn hy sinh, tuy nhiên đó chỉ
là cái phần thế tục, được mất, sống còn. Câu thứ hai
đã nâng lển tầm vóc tâm linh. Sự hy sinh ấy chính
là một hành vi cao cả, một lý tưởng rõ ràng: “hiến
ts. đặng văn phú 125
126. dâng non nước”. Ta hãy chú đến từ “hiến dâng”.
Từ này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt
với nghĩa thiêng liêng, mang một giá trị lớn lao của
đạo lý dân tộc, hoặc của tầm vóc cộng đồng. Từ này
được bổ trợ bởi “non nước” ở đằng sau, càng nâng
thêm cái thiêng liêng cao quý, mang tầm quốc thể
của sự hy sinh. Câu thơ chia làm hai nửa, một bên
là non nước, một bên là người thân. Bên nghĩa bên
tình, cái gánh nặng nghĩa tình sao mà luyến lưu,
xót xa, đau đớn. Biệt người thân, biệt đến muôn
đời. Cái chữ “biệt” ở đây cũng rất đặc biệt, nó được
chọn lọc rất kỹ, diễn tả được nhiều chữ khác, như ly
biệt, tiễn biệt, đi mãi không về, mà cũng là từ biệt.
Một bên là non nước, một bên là cốt nhục, người
thân, nhưng cái non nước cái lý tưởng luôn được đặt
lên trước cái cá nhân, riêng tư của bản thân mình.
Câu thơ ngắn gọn súc tích, dùng những từ đẹp, sang
trọng, nhưng lại chân thật, không hề ồn ào, bi lụy,
không tình cảm sướt mướt. “Biệt người thân” một
tâm nguyện giản dị chân thực đến xao lòng. Thiết
nghĩ, để nói được hai khía cạnh lớn của lòng hy sinh
cao cả, mà chỉ diễn tả trong một câu thơ 7 chữ, là
kiệm lời, súc tích biết mấy, nó gợi đến sự hy sinh
âm thầm lặng lẽ của những người lính trong cuộc
kháng chiến vừa qua.
126 Sắc xuân
127. Hai câu thơ đầu và hai câu thơ cuối của bài vô
hình trung đã tạo ra một khoảng cách, một cách
đoạn lớn về không gian và thời gian, cả chiều sâu
tâm thức và sự đổi thay của bối cảnh xã hội. Mới đó
mà đã mấy chục năm, mới đó mà đã là cả một đời
người, là ly biệt. Giờ đây những đồng đội đang sống
trong nền hòa bình, trong thời kỳ đổi mới mãnh liệt
của đất nước, đã lặn lội tìm lại mộ cho những người
đồng đội xưa, cùng thắp nén tâm hương tưởng nhớ
người đã khuất với lòng biết ơn vô hạn:
Hương thơm ngát tỏa, tình đồng đội
Thương nhớ anh em, suối lệ giàn.
Cái thương nhớ ở đây có cả hai chiều. Người
đang sống nhớ thương người đã khuất đã hy sinh,
và người đã khuất cũng còn vong linh đầy ánh sáng
để nhớ thương người còn sống. Một không gian
bao la không giới hạn, gợi lên bao ý nghĩa của cuộc
sinh tồn, bao lời gửi gắm và mong ước của người
còn sống cho những người đã khuất và thế hệ mai
sau. Nỗi thương nhớ đó thành suối lệ giàn chảy vào
chiều sâu đất nước, lệ chảy tràn như suối vậy thôi.
Nghĩa là nỗi nhớ thương vô tận vô biên, không giới
hạn, không có thời gian, không gian nào nữa. Hay
chính là, không gian ở đây đã chuyển thành không
gian tâm thức rồi. Tâm thức yêu thương, giao cảm,
ts. đặng văn phú 127
128. biết ơn. Chính là khi nhìn về quá khứ, về sự hy sinh,
về những gì đã mất, con người ta mới thấm thía
được sâu sắc về cuộc đời, sự tồn tại và ý nghĩa của
sự sống mình. Và bài thơ đã diễn đạt trọn vẹn một
cuộc giao tiếp về tâm linh quan trọng, là bước ngoặt
trong nhận thức của con người.
Ta hãy chú ý tới cách đặt các từ xương máu - góp
trọn -hiến dâng - biệt - hương thơm - tình - thương
nhớ - suối. Tất cả các từ đó được đặt ở trước một số
từ khác, đây cũng là dụng ý nghệ thuật và cảm quan
của tác giả, muốn đặt những tình cảm, danh dự của
người lính và tình nghĩa đồng đội lên chỗ trang
trọng nhất. Cách chọn chữ, đặt chữ của tiến sĩ Đặng
Văn Phú là hết sức thận trọng. Cho nên ta cảm nhận
được bài thơ rất chân thành, giản dị, nhưng vẫn vô
cùng trang trọng, kính cẩn đối với anh linh các liệt
sĩ. Phải một người tâm huyết mới làm được điều ấy.
Trên đây chỉ là cảm nhận bài thơ khi đọc xuôi.
Còn khi đọc ngược thì bài thơ lại có vẻ mênh mang
hơn vì được cái âm “ương” ở cuối câu bổ trợ. Trên
cơ sở bài thơ đọc xuôi, khi đọc ngược bài thơ vẫn
mượt mà đằm thắm và có thêm ánh sáng mới.
Giàn lệ suối, em anh nhớ thương
Đội đồng tình, tỏa ngát thơm hương
Thân người biệt, nước non dâng hiến
128 Sắc xuân
129. Phần trọn góp, đưa trao máu xương.
Đó là biệt tài, công phu của tiến sĩ Đặng Văn
Phú trong thể thơ thuận nghịch độc. Quả thật,
người tâm huyết với thể thơ này phải rất kỳ công.
Phải chọn lọc từ ngữ, sắp xếp sao cho cho nhuần
nhị về ngôn ngữ, cấu tứ, độ tương xứng của bài
thơ khi đọc xuôi và đọc ngược. Vậy mà ta thấy
những bài thơ thuận nghịch độc của tiến sĩ Đặng
Văn Phú vẫn đậm chất thơ, vẫn bay bổng, phiêu du,
đầy ánh sáng. Tiêu biểu như bài thơ viếng anh linh
các liệt sĩ trên đây. Bài thơ vút lên, tỏa sáng bằng
những vần trắc, và trải dài mênh mang bằng những
vần bằng. Có lẽ cách đọc các bài thơ thuận nghịch
độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú là nên đọc chậm rãi,
nhâm nhi, chiêm ngưỡng từng từ ngữ trong một bố
trí hài hòa, và quan trọng phải đọc bài thơ trong
một niềm tin chan chứa của tâm linh. Vì vậy, bài
thơ không chỉ có một nghĩa mà còn có nhiều nghĩa,
nhiều ý tứ phái sinh, tùy theo thời điểm tiếp nhận
và cá thể tiếp nhận. Cũng bởi thế, thuận nghịch độc
là một thể thơ phức tạp và kỳ thú.
Là một con em của thế hệ này, được sống trong
hòa bình và ổn định của đất nước, được học hành
thăng tiến trong thời đại mới, bài thơ trên thật sự
gợi cho tôi nhiều nghĩ suy và xúc động. Lòng thầm
ts. đặng văn phú 129
130. nhớ thương và biết ơn cha ông đã đổ máu xương để
gìn giữ độc lập tự do, giữ gìn giang sơn Tổ quốc.
Mong một lần được đến với Trường Sơn thắp nén
hương thơm lên mồ liệt sĩ, để hiểu rõ cuộc đời mình
đang sống và biết sống tốt hơn. Có lẽ phải cảm nhận
mỗi lời thơ của tiến sĩ Đặng Văn Phú bằng niềm tin
tâm linh sáng trong mà ông đã thổi vào, đó cũng là
điều đặc biệt mà ông đã làm được với đất trời này,
với con người. Văn học nghệ thuật chính là giá trị
của tinh thần, mang tính biểu tượng, tinh túy chắt
lọc từ cuộc sống của nhân loại. Chỉ cần có một niềm
tin về giá trị đó, cũng làm biến đổi cuộc đời ta.
Đứng trước mỗi bài thơ Đường luật thuận nghịch
độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú, người ta sẽ phải khám
phá từng từ, rồi xem độ liên kết và sự xoay chuyển
của nó trong một cấu tứ chung, nên thường thấy rất
thú vị và mệt. Nó không đơn thuần như một bài thơ
ở thể tự do. Thể thơ thuận nghịch độc là một thể thơ
rất khó, vì ở bài thơ đọc ngược, nó lại lộn ngược cả
câu, cả bài, lộn ngược từ đầu đến cuối, mà không
được lỗi ở chữ nào. Hơn nữa nếu bạn đọc chưa có
nhiều kinh nghiệm với thể thơ này, thì nó thực sự
là một thử thách đối với họ. Đối với người viết bài
này, do chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp cận với thể
thơ thuận nghịch độc, vì thế nó thật sự là một thử
thách, nên không dám lạm bàn. Tôi xin dừng bài
130 Sắc xuân
131. viết tại đây, hy vọng trong tương lai được sự chỉ
dạy của tiến sĩ Đặng Văn Phú và đông đảo bạn
đọc gần xa về thể loại này./.
TRẦN THỊ NGỌC LAN
(Nhà xuất bản Văn học)
ts. đặng văn phú 131
132. Cái độc đáo trong thơ “Sắc xuân”
Của nhà thơ - Tiến sĩ Đặng Văn Phú
C ó thể nói ấn tượng đầu tiên của mỗi người khi
tiếp xúc với những sáng tác của nhà thơ – tiến
sĩ Đặng Văn Phú. Có lẽ ông là người độc nhất trong
đội ngũ các nhà thơ không chuyên nhưng lại chuyên
viết về thơ dạng thuận nghịch độc.
Ông đã từng xuất bản hai tập thơ Đường luật thuận
nghịch độc, một tập thơ lục bát thuận nghịch độc và
đã gây được tiếng vang trên văn đàn Việt Nam. Đó
là các tập thơ: Hương vị cuộc đời (NXB Văn học –
2005), Trăng ngàn (NXB Hội nhà văn – 2009), Vườn
đào (NXB Hội nhà văn – 2010), Bình minh (NXB
Văn học). Lần này ông cho ra đời tập thơ “Sắc xuân”
lục bát hai chiều thuận nghịch độc.
Theo tác giả thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc
được tách thành 4 cách đọc trong tập thơ này là:
“Hai chiều thuận nghịch dám làm
Lục bát tách bốn thích ham diệu huyền”
Thật không có gì ngạc nhiên khi các bạn văn, bạn
thơ đã dành cho ông những lời ngợi ca thân tình.
Nhà báo – nhà văn Đức Ánh đã nhận xét: “Tác
giả là người biết sáng tác và thưởng thức cái hay cái
đẹp, tinh tế mà nhuần nhuyễn, có tâm hồn sâu lắng,
là người có trí tuệ, đã làm được kỳ tích trong thơ ca
132 Sắc xuân
133. hiện nay…”
Nhà thơ Nguyễn Đỗ Lưu qua cảm nghĩ “Trăng
ngàn” có lời khen: “Ông là một người đa tài, mang
kiến thức một tiến sỹ hóa học để hóa nghiệm trong thơ
mình, thành một thứ thần thông đảo thể lật vần xoay
ngược giao cảm của độc giả, đòi độc giả đi vòng để
tới đỉnh thơ ông.”
Nhà thơ Lê Thanh Long trong tập: “Bạn thơ và
tôi” (NXB Lao động 2012) viết về nhà thơ Đặng Văn
Phú: “Đánh giá thơ thuận nghịch độc là đánh giá ở sự
kỳ công, kiên trì của tác giả. Thưởng thức thơ thuận
nghịch độc là thưởng thức sự độc đáo của loại hình
thơ này.”
Như thế có thể nói chúng ta đều mặc nhiên công
nhận sự kiên trì, độc đáo của tác giả khi trình diễn tác
phẩm của mình trên nhiều góc độ thể hiện. Trong tập
thơ “Sắc xuân” gồm 53 bài, chủ yếu thể lục bát 3 câu,
được thể hiện mỗi bài 4 cách đọc: xuôi, nghịch từ phải
sang trái và ngược lại.
Như vậy, 53 bài thơ, nếu theo đủ cách có thể đọc
thành 212 bài mang 636 câu thơ.
Khoan hãy nói về nội dung mà tác giả đề cập khá
phong phú, thể hiện cảm nhận về nhiều vấn đề thuộc
phong cảnh, tình cảm hoắc về xã hội (giảm nghèo,
chăm ngoan, ruộng đồng…) ta đi sâu hơn về hình thức
thể hiện.
Trước hết về thể thơ lục bát mà ông trình bày lần
ts. đặng văn phú 133
134. này đều là bài thơ 3 câu, đây cũng là một sự độc đáo
trong cách thể hiện. Lâu nay ta quen với các dạng thơ
lục bát, song thất lục bát, thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ 7
chữ…Nay ông Đặng Văn Phú đưa ra thơ lục bát chỉ
3 câu (3 dòng) thì thật mới lạ. Bởi vì thơ là một hình
thức nghệ thuật, một loại sáng tác văn học có vần điệu,
súc tích, ý cô đọng, gây cảm xúc cho người đọc. Thông
thường một bài thơ phải có đủ các phần, nhưng quan
trọng hơn là đủ tứ nói lên cái cốt lõi của chủ đề ta định
diễn tả.
Dưới hình thức 3 câu, ông Đặng Văn Phú muốn đưa
chúng ta vào thế giới của hình thức thể hiện mới, lấy ý
thơ là chính. Do vậy, đọc những bài thơ ta thấy ý tứ của
tác giả muốn diễn tả trong một bài thơ.
Nhưng hơn thế, mỗi bài thơ tác giả muốn chúng ta
đọc theo 4 cách. Đã có thời kỳ người ta nêu lên 8 cách,
10 cách đọc, riêng ông Đặng Văn Phú đã giới thiệu
một bài thơ với 20 cách đọc (Trăng ngàn – NXB Hội
nhà văn 2009) xem thế đủ thấy bản thân tác giả đã có
những suy nghĩ khá độc đáo.
Đi sâu vào những bài thơ trong tập “Sắc xuân” tác
giả trình bày mỗi bài thơ có 4 cách đọc: thuận, phải
sang trái dưới lên, phải sang trái trên xuống, trái sang
phải từ dưới lên. Mỗi bài đọc xong có thể là một bài có
tứ độc lập, nhiều bài có sự tìm tòi khá công phu.
Cái hay của tập thơ này, là các bài thơ đều thanh
thoát, lưu loát khi đọc xuôi và đọc ngược đều có ý nghĩa.
134 Sắc xuân
135. Trong “Sắc xuân” có nhiều tứ dù đọc theo cách nào
cũng thấy hay:
Thí dụ:
Bài Hoa Sen
Hồng sen mát dịu hồ trên
Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền
Sông nước sóng lướt êm êm
Êm êm lướt sóng nước sông
Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
Trên hồ dịu mát sen hồng
Trên hồ dịu mát sen hồng
Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
Êm êm lướt sóng nước sông
Sông nước sóng lướt êm êm
Trông nom đòng ruộng lúa xen đẹp nền
Hồng xen dịu mát hồ trên
Và các bài trong tập thơ “Sắc xuân” đều như thế.
Tác giả đã dành bao tâm huyết, thời gian để có những
bài thơ đầy tâm tình như vậy. Điều đó thật đáng chân
trọng. Tất nhiên, khi cố làm được diều này, không hẳn
đã đạt điều khác như ý muốn, đó là do năng lực, trí tuệ
chỉ có đến thế. Nhưng để mọi người có sự đồng cảm
với mình, có thể nói đã thành công rồi.
Ông Đặng Văn Phú vốn là một nhà khoa học, hơn
ts. đặng văn phú 135
136. thế nữa lại là một Lương y gia truyền, cái nghiệp nghề
cần đến sự chi ly, tỷ mỷ của những phân tử hóa nghiệm
hoặc ly lạng trong việc cất từng thang thuốc, đòi hỏi
con người không được sai sót. Ý thức được như vậy,
ông chọn cách làm thơ thuận nghịch độc thể Đường
luật hoặc lục bát như “Sắc xuân”, chắc chắn phải qua
nhiều chăn trở. Vì thế chúng ta – bạn thơ với ông,
mong nhà thơ - Tiến sĩ - thầy thuốc Đặng Văn Phú
sẽ có nhiều dạng thơ hay và độc đáo hơn nữa, để thực
hiện mong ước của ông:
“Đam mê xúc cảm tạo nên
Lưu thêm kỳ tích đẹp nền văn chương”
Nhà thơ Lê Hùng
Phó Chủ tịch Thường trực CLB Thơ Việt Nam
136 Sắc xuân
137. Đôi điều cảm nhận nhân đọc cuốn “Sắc xuân”
Thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc
của tiến sĩ Đặng Văn Phú
Đ ọc tập “Bình minh”, thơ lục bát thuận nghịch
độc của TS.Đặng Văn Phú do nhà xuất bản
Văn học ấn hành năm 2011, tôi có nêu ý kiến là việc sử
dụng thể loại này có cái khó là chỉ cần sơ ý một chút
trong việc sắp xếp từ là sẽ có lệch lạc ngay trong nhịp
điệu và câu thơ sẽ trở nên trúc trắc khó nghe. Đọc toàn
bộ tập thơ chúng ta vui mừng thấy nhà thơ Đặng Văn
Phú đã vượt qua được khó khăn đó.
Dẫn chứng rất nhiều, chúng tôi chỉ đơn cử một bài,
bài “Xuân sang” ở trang 32 ra làm ví dụ. Bài thơ làn
như sau:
“Đua chen táo quất ai nhường
Mua xem hàng bán vị hương thơm lừng
Giang tay đón tết vui mừng
Sang xuân trời ấm vượng hưng hoa đào
Thời xuân nhớ lại lòng nao”
Bài thơ nêu lên quang cảnh tươi vui của đất trời khi
mùa xuân tới, lòng người rộn lên bao niềm xúc cảm
trước mọi cảnh vật dường như hoàn toàn đổi mới.
Đọc ngược lại:
“Nao lòng lại nhớ xuân thời
ts. đặng văn phú 137
138. Đào hoa hưng vượng ấm thời xuân sang
Mừng vui tết đón tay giang
Lừng thơm hương vị bán hàng xem mua
Nhường ai quất táo chen đua”
Người đọc vẫn cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, lòng
như bừng sáng trước cảnh đất trời tươi tắn trong buổi
xuân sang, nơi đâu cũng nhộn nhịp, tưng bừng như
cành quất, đào khoe sắc.
Làm sao đọc xuôi, đọc ngược bài thơ, cảm xúc của
người đọc vẫn không hề thay đổi. Rõ ràng nhà thơ đã
sử dụng ngọn bút của mình rất mực tài tình, không
phải bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể làm như thế
được. Và nhiều người đã phải công nhận là nhà thơ
Đặng Văn Phú quả đã có một biệt tài trong việc sáng
tác loại thơ này.
Có lẽ do được đông đảo bạn đọc hoan nghênh, nên
chỉ ít lâu sau, nhà thơ lại cho xuất bản tập “Sắc xuân”,
thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc.
Lần nay, người đọc không phải chỉ đọc ngược lại
bài thơ , mà còn bất cứ một bài thơ nào trong tập, tác
giả cũng có thể tách thành bốn bài khác nhau và như
vậy là như tác giả đã giới thiệu trong lời đầu sách,
toàn tập thơ gồm 53 bài, tác giả tách thành hai trăm
mười hai bài.
Nhìn chung, thì đề tài tập thơ này cũng vẫn như
đề tài các tập thơ trước. Vẫn là sự vận chuyển không
ngừng, không nghỉ của thời gian: xuân đi, hè lại, thu
138 Sắc xuân
139. đến, đông sang. Vẫn là cảnh hội hè, đình đám của mọi
miền: miền ngược, miền xuôi trên khắp chiều dài đất
nước. Vẫn là cảnh những người lao động trên đồng
ruộng hay trong nhà máy, ở đâu cũng tận tâm tận lực
làm cho đất nước mình thêm đẹp, thêm tươi. Vẫn là
cảnh của những trẻ tật nguyền luôn được những người
chung quanh chăm sóc, đang vui vẻ nô đùa.
Có thêm chăng, có lẽ cũng chỉ là lòng tri ân “tiên tổ
hiển thánh thiêng linh” vốn đã là tập tục tốt đẹp ở hầu
hết mọi nơi, và nhất là việc đề cao nhân nghĩa “thắm
đặm tình người” được đề cập đến ngay trong bài thơ
thứ hai của tập thơ này.
Khi nhận xét về tập “Bình minh”, chúng tôi cũng có
viết: “Mỗi điểm cần chú ý là một tấm lòng nhân hậu
của nhà thơ. Thật vậy, trong cuộc sống đời thường ông
vốn là người tôn trọng nghĩa nhân, luôn luôn có trước
có sau.”
Tôn trọng nghĩa nhân như vậy, nên khi cuộc kháng
chiến thắng lợi đất nước sạch bóng quân thù, mọi
người đều nô nức đến nghiêng mình trước những trang
nghĩa liệt đã không nề hi sinh cả tính mạng của mình
để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc và thế là:
“Thôn quê khắp nẻo buôn làng
Luôn luôn ngời sáng núi vàng viếng thăm”
(Viếng thăm - trang 70 - Bình minh)
Hình ảnh hết sức xúc động này là biểu hiện sáng
ngời lòng nhân nghĩa của nhân dân ta.
ts. đặng văn phú 139
140. Lòng nhân nghĩa ấy đưuọc nhà thơ – tiến sỹ Đặng
Văn Phú cô đúc lại trong bài “Nhân nghĩa”:
“Nghĩa nhân thắm đượm người đời”
Những lời thơ đặt ngang ở bài thơ thứ hai của tập
thơ được nhắc lại nhiều lần gây ắn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc, mọi người đều nhận thức rất rõ là đời
người có “đượm thắm nghĩa nhân” thì mới:
“Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần”
Nhân nghĩa - tr.2
Người đọc cảm ơn tác giả đã nêu lên được một điều
mọi người nên luôn luôn ghi nhớ để cuộc sống thêm
phần ý nghĩa và để góp phần xây dựng hữu hiệu Tổ
quốc thân yêu của chúng ta.
Tháng 6 năm 2012
Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Xuân Dương
140 Sắc xuân
141. Lục bát ghép về thơ
Tiến sĩ Đặng Văn Phú, chơi thơ
Sắc xuân, nhân nghĩa, duyên tơ, tâm hồn
Chơi vui, thơ rượu, hoàng hôn
Yêu mến, làng xóm, mầm non, hoa quỳnh.
Đồng ruộng, trù phú, núi rừng
Chợ Canh, mở hội, vũ trường, Tràng An
Thi đàn, Người cao tuổi Việt Nam
Giao lưu, sông bến, trên ngàn, trời mây
Lên Tam Đảo, vào Cà Mâu
Bến đò, câu cá, nông sâu, ngồi thiền
Thọ cao, nâng đỡ, thanh niên
Giúp trẻ khuyết tật, yêu thương, giảm nghèo
Xuân, hè, thu đến đông theo
Chăm ngoan, cô gái Việt Nam thêm bền
Hoa mai, hoa súng, hoa sen
Hoa loa kèn đỏ, lại thêm hoa hồng
Chông gai, co kéo, măng rừng
Vay mượn, xuôi ngược đọc mừng tập thơ!
8/2012
Nhà thơ Trần Đức Chính
ts. đặng văn phú 141
142. Đóng góp độc đáo
của Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú
T iến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú là người say mê
lối thơ “Thuận nghịch độc”. Sau thi phẩm đầu
tay: “Hương vị cuộc đời” - Thơ Đường luật (NXB
Văn học 2005), tác giả cho in liền 3 tập: “Trăng ngàn”
- Thơ Đường luật Thuận Nghịch độc (NXB Hội nhà
văn 2009); “Bình minh” - Thơ Lục Bát Thuận nghịch
độc (NXB Văn học 2011); năm Nhâm Thìn 2012,
tác giả lại công bố tập “Sắc xuân” - Thơ Lục Bát hai
chiều Thuận nghịch độc (NXB Văn học 2012)
Thơ Lục Bát hai chiều “Thuận nghịch độc” ở tập
“Sắc xuân” có nhiều nét mới và độc đáo. Mỗi bài chỉ
có 3 dòng thơ Lục Bát (câu mở đầu là câu Lục, câu
giữa là câu Bát và câu cuối là câu Lục/6-8-6)
Người đọc có thể đọc từ trái qua phải, từ trên
xuống dưới - cũng có thể đọc từ phải sang trái từ dưới
lên trên… Đều vẫn rất đúng vần thơ Lục Bát. Và tạo
thành 3 bài thơ Lục Bát mới nữa (ba bài thơ mới này
cũng có kết cấu: 6-8-6/ Lục-Bát-Lục)
Như vậy, cùng với bài thơ gốc, bây giờ ta có 4 bài
thơ Lục Bát. Chỉ với 20 từ, sắp xếp trên, dưới, phải,
trái… mà thành 4 bài thơ. Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn
Phú quả là một nghệ sĩ xiếc chữ tài tình biến ảo khôn
lường. Điều đáng khâm phục là cả 4 bài thơ cho phép
“Thuận nghịch độc” mà thành ấy đều có chung chủ đề
142 Sắc xuân
143. ban đầu, bài nọ bổ trợ bài kia giúp cho cảm nhận của
người đọc thêm sâu sắc.
Nhiều bạn yêu thơ gần xa, và một số nhà nghiên cứu
đã đề xuất: Nên chăng tập hợp những sáng tác của Tiến
sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú gửi đến “Trung tâm sách
kỷ lục Việt Nam” đề nghị xem xét xác lập kỷ lục viết
thơ “Thuận nghịch độc” nhiều nhất Việt Nam cho ông
Đặng Văn Phú.
Tuy nhiên, cũng có đôi ba người cho rằng lối thơ
“Thuận nghịch độc” chỉ là thú chơi của một số người
nhiều thời gian rảnh rỗi và có trình độ nhất định, khó
phổ cập trong quần chúng rộng rãi.
Tôi thì lại nghĩ khác, vì đọc thơ “Thuận nghịch độc”
của Đặng Văn Phú tôi vẫn thấy đề tài muôn mặt của
đời sống, đa dạng và phong phú. Nghĩa là lối thơ ấy
vẫn đảm bảo những tiêu chí thơ, vẫn có thể tìm được
nơi neo đậu trong tâm tư người đọc, người nghe.
Lối thơ “Thuận nghịch độc” có sớm được quảng bá
rộng rãi trong công chúng hay không còn tùy thuộc
vào sự sàng lọc của thời gian, nhưng đóng góp của
Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú rất đáng ghi nhận và
trân trọng.
Nhà thơ Bùi Đăng Sinh
ts. đặng văn phú 143
144. Mục lục
Lời thưa 5
1. Sắc xuân 6
2. Nhân nghĩa 8
3. Trời mây 10
4. Hoa mai 12
5. Làng xóm 14
6. Bến đò 16
7. Cô gái Việt Nam 18
8. Duyên tơ 20
9. Thanh niên 22
10. Hoa sen 24
11. Hoa hồng 26
12. Tam Đảo 28
13. Núi rừng 30
14. Cà Mau 32
15. Nâng đỡ 34
16. Mầm non 36
17. Trẻ khuyết tật 38
18. Chợ canh 40
19. Yêu thương 42
20. Xuân sang 44
144 Sắc xuân
145. 21. Thọ cao 46
22. Chơi vui 48
23. Giao lưu 50
24. Thi đàn người cao tuổi Việt Nam 52
25. Thu sang 54
26. Chơi thơ 56
27. Thơ rượu 58
28. Kéo co 60
29. Mở hội 62
30. Câu cá 64
31. Hè sang 66
32. Đông sang 68
33. Hoàng hôn 70
34. Trên ngàn 72
35. Ngồi thiền 74
36. Sông bên 76
37. Đồng ruộng 78
38. Yêu mến 80
39. Chăm ngoan 82
40. Giảm nghèo 84
41. Trù phú 86
42. Tâm hồn 88
43. Nông sâu 90
44. Măng rừng 92
ts. đặng văn phú 145
146. 45. Hoa loa kèn đỏ 94
46. Tiên tổ 96
47. Hoa súng 98
48. Hoa quỳnh 100
49. Chông gai 102
50. Vũ trường 104
51. Vay mượn 106
52. Quen thân 108
53. Tràng An 110
54. Cảm nhận bài thơ “Lệ Chi Viên”
của Tiến sĩ Đặng Văn Phú 112
55.Kính viếng anh linh các liệt sĩ 121
56.Cái độc đáo trong thơ “Sắc xuân”
Của nhà thơ - Tiến sĩ Đặng Văn Phú 132
57. Đôi điều cảm nhận nhân đọc cuốn “Sắc xuân”
Thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc
của Tiến sĩ Đặng Văn Phú 137
58.Lục bát ghép về thơ 141
59. Đóng góp độc đáo của
Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú 142
146 Sắc xuân
147. Sắc xuân
thơ - Ts. Đặng văn phú
Nhà xuất bản văn học
18 Nguyễn Trường Tộ - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại: 04.37161518 - 04.37161190, Fax: 04.38294781
Email: tonghopvanhoc@vnn.vn
* Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh
290/20 Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Quận 3
Điện thoại: 08.38469858 - Fax: 08.38483481
* Văn phòng đại diện tại thành phố Đà Nẵng
580 đường Núi Thành - thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0511. 3797709
Chịu trách nhiệm xuất bản
Chủ tịch hội đồng thành viên
Phó Giám đốc phụ trách
Nguyễn Anh Vũ
Chịu trách nhiệm nội dung
Nguyễn Thị Hạnh
Biên tập : Ngọc Lan
Trình bày : LÊ An
Bìa : Thanh bình
Sửa bản in : Tác giả
148. In 1000 cuốn, khổ 13 x 19 cm. Tại Nhà in KH&CN
Giấy đăng kí KHXB số: 1190-2012/CXB/26-113/VH.
Số QĐXB của Giám đốc: 1087/QĐ-VH cấp ngày 5/10/2012
In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2012.