SlideShare a Scribd company logo
1 of 148
Download to read offline
Sắc xuân
     thơ
Ts. Đặng văn phú




Sắc xuân
Thơ Lục bát hai chiều
 Thuận nghịch độc




nhà xuất bản văn học
     Hà Nội - 2012
Lời thưa
           Hai chiều thuận nghịch dám làm
        Lục bát tách bốn thích ham diệu huyền
               Đam mê xúc cảm tạo nên
        Lưu thêm kỳ tích đẹp nền văn chương.
            Một mình gắng sức thân thương
        Tâm hồn lắng đọng vấn vương lâu dài
              Tạo nên nền tảng tương lai
       Mọi người thưởng thức miệt mài đêm thâu
               Cảm ơn nhận xét sắc sâu
         Động viên tác giả đi đầu thành công.

   Để bạn đọc dễ hiểu, Tác giả tách một bài thơ lục
bát hai chiều thuận nghịch độc thành 4 bài lục bát:


Bài 1: Đọc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
Bài 2: Đọc từ phải sang trái, từ dưới lên trên.
Bài 3: Đọc từ phải sang trái, từ trên xuống dưới.
Bài 4: Đọc từ trái sang phải, từ dưới lên trên.


   Toàn tập thơ gồm 53 bài, Tác giả tách thành 212 bài.
Thể thơ khó và nhiều mới mẻ nên không tránh khỏi
thiếu sót, mong nhận được sự ưu ái và cảm thông
của bạn đọc.
   Xin chân thành cảm ơn!



                                 ts. đặng văn phú         5
Sắc xuân
       Đào mai lẫn quyện chim đàn
    Cao bay vào chốn sắc xuân xoay vần
        Trao đưa báu vật nước dân.

        Dân nước vật báu đưa trao
    Vần xoay xuân sắc chốn vào bay cao
       Đàn chim quyện lẫn mai đào.




6   Sắc xuân
Đàn chim quyện lẫn mai đào
Vần xoay xuân sắc chốn vào bay cao
    Dân nước vật báu đưa trao.

    Trao đưa báu vật nước dân
Cao bay vào chốn sắc xuân xoay vần
   Đào mai lẫn quyện chim đàn.




                    ts. đặng văn phú   7
Nhân nghĩa
      Nhân nghĩa thắm đượm người đời
      Phần thêm an ổn đẹp lời vui tươi
         Phân tâm ẩn hiện hợt hời.

         Hời hợt hiện ẩn tâm phân
      Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần
      Đời người đượm lắm nghĩa nhân.




8   Sắc xuân
Đời người đượm thắm nghĩa nhân
Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần
   Hời hợt hiện ẩn tâm phân.

    Phân tâm ẩn hiện hợt hời
 Phần thêm an ổn đẹp lời vui tươi
Nhân nghĩa thắm đượm người đời.




                    ts. đặng văn phú   9
Trời mây
        Trời mây quyện lẫn nước trong
      Ơi ai thời nhớ thắm nồng ước mong
           Vơi đầy tốt lúa vàng ong.

          Ong vàng lúa tốt đầy vơi
      Mong ước nồng thắm nhớ thời ai ơi
       Trong nước lẫn quyện mây trời.




10   Sắc xuân
Trong nước lẫn quyện mây trời
Mong ước nồng thắm nhớ thời ai ơi
   Ong vàng lúa tốt đầy vơi.

      Vơi đầy tốt lúa vàng ong
Ơi ai thời nhớ thắm nồng ước mong
 Trời mây quyện lẫn nước trong.




                    ts. đặng văn phú   11
Hoa mai
        Bông tuyết trắng muốt hoa mai
     Trông ngắm đồng điệu sánh vai sắc tài
           Ông bà mãi thú hoa khai.

            Khai hoa thú mãi bà ông
     Tài sắc vai sánh điệu đồng ngắm trông
        Mai hoa muốt trắng tuyết bông.




12   Sắc xuân
Mai hoa muốt trắng tuyết bông
Tài sắc vai sánh điệu đồng ngắm trông
       Khai hoa thú mãi bà ông.

      Ông bà mãi thú hoa khai
Trông ngắm đồng điệu sánh vai sắc tài
   Bông tuyết trắng muốt hoa mai.




                      ts. đặng văn phú   13
Làng xóm
        Đông vui bản xóm tràn lan
     Đồng tâm mong đợi vẹn toàn dân an
      Phong sương cố gắng vượt tràn.

      Tràn vượt gắng cố sương phong
     An dân toàn vẹn đợi mong tâm đồng
         Lan tràn xóm bản vui đông.




14   Sắc xuân
Lan tràn xóm bản vui đông
An dân toàn vẹn đợi mong tâm đồng
 Tràn vượt gắng cố sương phong.

  Phong sương cố gắng vượt tràn
Đồng tâm mong đợt vẹn toàn dân an
   Đông vui bản xóm tràn lan.




                    ts. đặng văn phú   15
Bến đò
           Xưa xa nhớ mãi đầy đò
       Mùa qua đưa đón sóng to thăm dò
          Mưa rơi gánh nặng âu lo.

          Lo âu nặng gánh rơi mưa
      Dò thăm to sóng đón đưa qua mùa
           Đò đầy mãi nhớ xa xưa.




16   Sắc xuân
Đò đầy mãi nhớ xa xưa
Dò thăm to sóng đón đưa qua mùa
    Lo âu nặng gánh rơi mưa.

   Mưa rơi gánh nặng âu lo
Mùa qua đưa đón sóng to thăm dò
    Xưa xa nhớ mãi đầy đò.




                   ts. đặng văn phú   17
Cô gái Việt Nam
          Xinh tươi đẹp gái Việt Nam
     Minh thông tình thắm việc làm mê đam
        Mình trong đức sáng xanh lam.

        Lam xanh sáng đức trong mình
     Đam mê làm việc thắm tình thông minh
         Nam Việt gái đẹp tươi xinh.




18   Sắc xuân
Nam Việt gái đẹp tươi xinh
Đam mê làm việc thắm tình thông minh
   Lam xanh sáng đức trong mình.

   Mình trong đức sáng xanh lam
Minh thông tình thắm việc làm mê đam
    Xinh tươi đẹp gái Việt Nam.




                     ts. đặng văn phú   19
Duyên tơ
            Duyên tơ bám sát lạ thường
     Yên bình miền đất thịnh cường ngát hương
           Hiền hòa đất biển yêu thương.

          Thương yêu biển đất hòa hiền
     Hương ngát cường thịnh đất miền bình yên
          Thường lạ sát bám tơ duyên.




20     Sắc xuân
Thường lạ sát bám tơ duyên
Hương ngát cường thịnh đất miền bình yên
    Thương yêu biển đất hòa hiền.

      Hiền hòa đất biển yêu thương
Yên bình miền đất thịnh cường ngát hương
       Duyên tơ bám sát lạ thường.




                       ts. đặng văn phú    21
Thanh niên
       Hanh thông tiến bước vượt đầu
     Tranh đấu thành quả đức giàu trí sâu
         Lành an đất nước thỉnh cầu.

          Cầu thỉnh nước đất an lành
      Sâu trí giàu đức quả thành đấu tranh
        Đầu vượt bước tiến thông hanh.




22   Sắc xuân
Đầu vượt bước tiến thông hanh
Sâu trí giàu đức quả thành đấu tranh
    Cầu thỉnh nước đất an lành.

    Lành an đất nước thỉnh cầu
Tranh đấu thành quả đức giàu trí sâu
  Hanh thông tiến bước vượt đầu.




                     ts. đặng văn phú   23
Hoa sen
           Hồng sen mát dịu hồ trên
     Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền
         Sông nước sóng lướt êm êm.

          Êm êm lướt sóng nước sông
     Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
           Trên hồ dịu mát sen hồng.




24   Sắc xuân
Trên hồ dịu mát sen hồng
Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
    Êm êm lướt sóng nước sông.

     Sông nước sóng lướt êm êm
Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền
      Hồng sen mát dịu hồ trên.




                     ts. đặng văn phú   25
Hoa hồng
         Hồng hoa sắc đẹp mượt mà
     Bông đơm lồng cánh đậm đà thơm xa
        Trồng vun đắp xới sương pha.

         Pha sương xới đắp vun trồng
     Xa thơm đà đậm cánh lồng đơm bông
          Mà mượt đẹp sắc hoa hồng.




26   Sắc xuân
Mà mượt đẹp sắc hoa hồng
Xa thơm đà đậm cánh lồng đơm bông
    Pha sương xới đắp vun trồng.

   Trồng vun đắp xới sương pha
Bông đơm lồng cánh đậm đà thơm xa
    Hồng hoa sắc đẹp mượt mà.




                   ts. đặng văn phú   27
Tam Đảo
        Mây sương quyện lẫn núi ngàn
        Đầy vơi may rủi vẹn an dây đàn
           Say mê tiết khí lan tràn.

           Tràn lan khí tiết mê say
        Đàn dây an vẹn rủi may vơi đầy
        Ngàn núi lẫn quyện sương mây.




28   Sắc xuân
Ngàn núi lẫn quyện sương mây
Đàn dây an vẹn rủi may vơi đầy
   Tràn lan khí tiết mê say.

   Say mê tiết khí lan tràn
Đầy vơi may rủi vẹn an dây đàn
Mây sương quyện lẫn núi ngàn.




                  ts. đặng văn phú   29
Núi rừng
        Sương mây quyện lẫn núi rừng
 Thương yêu đường vượt đón mừng vượng hưng
         Vương tơ sợi nhớ rưng rưng.

             Rưng rưng nhớ sợi tơ vương
     Hưng vượng mừng đón vượt đường yêu thương
           Rừng núi lẫn quyện mây sương.




30        Sắc xuân
Rừng núi lẫn quyện mây sương
Hưng vượng mừng đón vượt đường yêu thương
       Rưng rưng nhớ sợi tơ vương.

        Vương tơ sợi nhớ rưng rưng
Thương yêu đường vượt đón mừng vượng hưng
      Sương mây quyện lẫn núi rừng.




                      ts. đặng văn phú      31
Cà Mau
       Trời mây lướt sóng phương nam
      Vơi đầy thời nhớ sắc chàm màu lam
          Cười tươi dịu nhẹ thì thầm.

        thầm thì nhẹ dịu tươi cười
     Lam màu chàm sắc nhớ thời đầy vơi
      Nam phương sóng lướt mây trời.




32   Sắc xuân
Nam phương sóng lướt mây trời
Lam màu chàm sắc nhớ thời đầy vơi
    Thầm thì nhẹ dịu tươi cười.

    Cười tươi dịu nhẹ thì thầm
Vơi đầy thời nhớ sắc chàm màu lam
 Trời mây lướt sóng phương nam.




                    ts. đặng văn phú   33
Nâng đỡ
          Nâng đỡ bé nhỏ tươi xinh
     Vàng quí mang đến sáng tinh đẹp hình
         Sang cao giữ được yên bình.

          Bình yên được giữ cao sang
     Hình đẹp tinh sáng đến mang quí vàng
          Xinh tươi nhỏ bé đỡ nâng.




34   Sắc xuân
Xinh tươi nhỏ bé đỡ nâng
Hình đẹp tinh sáng đến mang quí vàng
    Bình yên được giữ cao sang.

    Sang cao giữ được yên bình
Vàng quí mang đến sáng tinh đẹp hình
     Nâng đỡ bé nhỏ tươi xinh.




                     ts. đặng văn phú   35
Mầm non
         Mầm tươi trí não trước sau
     Tâm trong đầm ấm sắc sâu tuyến đầu
         Làm nên sáng đẹp bền lâu.

          Lâu bền đẹp sáng nên làm
     Đầu tuyến sâu sắc ấm đầm trong tâm
         Sau trước não trí tươi mầm.




36   Sắc xuân
Sau trước não trí tươi mầm
Đầu tuyến sâu sắc ấm đầm trong tâm
    Lâu bền đẹp sáng nên làm.

     Làm nên sáng đẹp bền lâu
Tâm trong đầm ấm sắc sâu tuyến đầu
   Mầm tươi trí não trước sau.




                    ts. đặng văn phú   37
Trẻ khuyết tật
         Đùa chơi múa nhảy vui cười
     Dua thêu mùa được đẹp đời xanh tươi
           Xua tan vợi bớt buồn vơi.

           Vơi buồn bớt vợi tan xua
     Tươi xanh đời đẹp được mùa thêu dua
         Cười vui nhảy múa chơi đùa.




38   Sắc xuân
Cười vui nhảy múa chơi đùa
Tươi xanh đời đẹp được mùa thêu dua
      Vơi buồn bớt vợi tan xua.

      Xua tan vợi bớt buồn vơi
Dua thêu mùa được đẹp đời xanh tươi
   Đùa chơi múa nhảy vui cười.




                     ts. đặng văn phú   39
Chợ canh
         Xanh vàng đủ loại nhiều màu
     Nhanh mua thành giá ước cầu bán mau
         Sành sỏi lựa chọn hàng đầu.

         Đầu hàng chọn lựa sỏi sành
     Mau bán cầu ước giá thành mua nhanh
        Màu nhiều loại đủ vàng xanh.




40   Sắc xuân
Màu nhiều loại đủ vàng xanh
Mau bán cầu ước giá thành mua nhanh
    Đầu hàng chọn lựa sỏi sành.

    Sành sỏi lựa chọn hàng đầu
Nhanh mua thành giá ước cầu bán mau
   Xanh vàng đủ loại nhiều màu.




                     ts. đặng văn phú   41
Yêu thương
         Yêu thương hiện rõ dỗi hờn
      Thêu dệt điều nhớ thả hồn nước non
         Khêu gợi cảm xúc vẹn tròn.

         Tròn vẹn xúc cảm gợi khêu
      Non nước hồn thả nhớ điều dệt thêu
         Hờn dỗi rõ hiện thương yêu.




42   Sắc xuân
Hờn dỗi rõ hiện thương yêu
Non nước hồn thả nhớ điều dệt thêu
   Tròn vẹn xúc cảm gợi khêu.

    Khêu gợi cảm xúc vẹn tròn
Thêu dệt điều nhớ thả hồn nước non
   Yêu thương hiện rõ dỗi hờn.




                    ts. đặng văn phú   43
Xuân sang
           Xuân sang đón nhận trăm hoa
     Tràn sương vân trắng thuận hòa nắng pha
           An lành mải miết ngâm nga.

           Nga ngâm miết mải lành an
     Pha nắng hòa thuận trắng vân sương tràn
          Hoa trăm nhận đón sang xuân.




44    Sắc xuân
Hoa trăm nhận đón sang xuân
Pha nắng hòa thuận trắng vân sương tràn
      Nga ngâm miết mải lành an.

      An lành mải miết ngâm nga
Tràn sương vân trắng thuận hòa nắng pha
     Xuân sang đón nhận trăm hoa.




                       ts. đặng văn phú   45
Thọ cao
           Già rồi thọ tuổi gần trăm
     Xa thăm bà cháu tháng năm nhiều lần
         Xa gần nghĩa nặng lặng thầm.

         Thầm lặng nặng nghĩa gần xa
     Lần nhiều năm tháng cháu bà thăm xa
          Trăm gần tuổi thọ rồi già.




46   Sắc xuân
Trăm gần tuổi thọ rồi già
Lần nhiều năm tháng cháu bà thăm xa
   Thầm lặng nặng nghĩa gần xa.

    Xa gần nghĩa nặng lặng thầm
Xa thăm bà cháu tháng năm nhiều lần
      Già rồi thọ tuổi gần trăm.




                     ts. đặng văn phú   47
Chơi vui
          Chơi vui múa nhảy đô sòn
     Tươi cười ngời sáng đắp dồn cháu con
          Đời đời tiếp bước vàng son.

          Son vàng bước tiếp đời đời
     Con cháu dồn đắp sáng ngời cười tươi
          Sòn đô nhảy múa vui chơi.




48   Sắc xuân
Sòn đô nhảy múa vui chơi
Con cháu dồn đắp sáng ngời cười tươi
    Son vàng bước tiếp đời đời.

     Đời đời tiếp bước vàng son
Tươi cười ngời sáng đắp dồn cháu con
     Chơi vui múa nhảy đô sòn.




                     ts. đặng văn phú   49
Giao lưu
         Đêm thâu đón nhận em anh
     Thêm vui mềm dẻo đọc nhanh thơ sành
        Xem ra thắm đượm tươi xanh.

         Xanh tươi đượm thắm ra xem
     Sành thơ nhanh đọc dẻo mềm vui thêm
          Anh em nhận đón thâu đêm.




50   Sắc xuân
Anh em nhận đón thâu đêm
Sành thơ nhanh đọc dẻo mềm vui thêm
    Xanh tươi đượm thắm ra xem.

    Xem ra thắm đượm tươi xanh
Thêm vui mềm dẻo đọc nhanh thơ sành
    Đêm thâu đón nhận em anh.




                     ts. đặng văn phú   51
Thi đàn
       người cao tuổi Việt Nam
           Thi đàn nét đẹp Việt Nam
     Thì thầm suy ngẫm việc làm sâu thâm
           Vi vu lắng đọng trong tâm.

         Tâm trong đọng lắng vu vi
     Thâm sâu làm việc ngẫm suy thầm thì
          Nam Việt đẹp nét đàn thi.




52   Sắc xuân
Nam Việt đẹp nét đàn thi
Thâm sâu làm việc ngẫm suy thầm thì
    Tâm trong đọng lắng vu vi.

      Vi vu lắng đọng trong tâm
Thì thầm suy ngẫm việc làm sâu thâm
      Thi đàn nét đẹp Việt Nam.




                     ts. đặng văn phú   53
Thu sang
            Hoa cúc đón nhận thu sang
     Hòa giao xoa dịu nắng vàng chuyển mang
          Đa tình đứng ngắm sao trăng.

          Trăng sao ngắm đứng tình đa
     Mang chuyển vàng nắng dịu xoa giao hòa
           Sang thu nhận đón cúc hoa.




54    Sắc xuân
Sang thu nhận đón cúc hoa
Mang chuyển vàng nắng dịu xoa giao hòa
    Trăng sao ngắm đứng tình đa.

      Đa tình đứng ngắm sao trăng
Hòa giao xoa dịu nắng vàng chuyển mang
      Hoa cúc đón nhận thu sang.




                      ts. đặng văn phú   55
Chơi thơ
         Chơi vui lắng đọng tâm hồn
      Thơi thảnh lời nói góp dồn yêu con
         Cười tươi xúc cảm vẹn tròn.

         Tròn vẹn cảm xúc tươi cười
      Con yêu dồn góp nói lời thảnh thơi
        Hồn tâm đọng lắng vui chơi.




56   Sắc xuân
Hồn tâm đọng lắng vui chơi
Con yêu dồn góp nói lời thảnh thơi
  Tròn vẹn cảm xúc tươi cười.

   Cười tươi xúc cảm vẹn tròn
Thơi thảnh lời nói góp dồn yêu con
  Chơi vui lắng đọng tâm hồn.




                    ts. đặng văn phú   57
Thơ rượu
            Thơ rượu ấp ủ tuôn trào
     Mơ trong chờ đợi dạt dào nghiêng chao
         Tơ duyên lắng đọng dâng cao.

         Cao dâng đọng lắng duyên tơ
     Chao nghiêng dào dạt đợi chờ trong mơ
           Trào tuôn ủ ấp rượu thơ.




58   Sắc xuân
Trào tuôn ủ ấp rượu thơ
Chao nghiêng dào dạt đợi chờ trong mơ
    Cao dâng đọng lắng duyên tơ.

    Tơ duyên lắng đọng dâng cao
Mơ trong chờ đợi dạt dào nghiêng chao
      Thơ rượu ấp ủ tuôn trào.




                      ts. đặng văn phú   59
Kéo co
            Co kéo tục lệ dân làng
      Lo chăm hò hát được nàng kia sang
         Tô thêm nét đẹp danh vang.

         Vang danh đẹp nét thêm tô
      Sang kia nàng được hát hò chăm lo
           Làng dân lệ tục kéo co.




60   Sắc xuân
Làng dân lệ tục kéo co
Sang kia nàng được hát hò chăm lo
   Vang danh đẹp nét thêm tô.

    Tô thêm nét đẹp danh vang
Lo chăm hò hát được nàng kia sang
     Co kéo tục lệ dân làng.




                    ts. đặng văn phú   61
Mở hội
         Làng dân mở hội vui xuân
      Tăng cao sàng lọc đẹp dần thơ văn
        Nàng ta góp sức chuyên cần.

        Cần chuyên sức góp ta nàng
      Văn thơ dần đẹp lọc sàng cao tăng
         Xuân vui hội mở dân làng.




62   Sắc xuân
Xuân vui hội mở dân làng
Văn thơ dần đẹp lọc sàng cao tăng
  Cần chuyên sức góp ta nàng.

  Nàng ta góp sức chuyên cần
Tăng cao sàng lọc đẹp dần thơ văn
   Làng dân mở hội vui xuân.




                    ts. đặng văn phú   63
Câu cá
         Câu thả đứng cạnh bên ao
        Đâu đây rầu rĩ lướt lao rào rào
          Cầu trên tĩnh lặng ra vào.

          Vào ra lặng tĩnh trên cầu
        Rào rào lao lướt rĩ rầu đây đâu
         Ao bên cạnh đứng thả câu.




64   Sắc xuân
Ao bên cạnh đứng thả câu
Rào rào lao lướt rĩ rầu đây đâu
  Vào ra lặng tĩnh trên cầu.

  Cầu trên tĩnh lặng ra vào
Đâu đây rầu rĩ lướt lao rào rào
 Câu thả đứng cạnh bên ao.




                   ts. đặng văn phú   65
Hè sang
           Hè sang gọi tiếng ve ve
        Tre lũy lề chỉnh cản che vó bè
          Mê say mát mặt ngồi kề.

           Kề ngồi mặt mát say mê
         Bè vó che cản chỉnh tề lũy tre
           Ve ve tiếng gọi sang hè.




66   Sắc xuân
Ve ve tiếng gọi sang hè
Bè vó che cản chỉnh tề lũy tre
  Kề ngồi mặt mát say mê.

   Mê say mát mặt ngồi kề
Tre lũy tề chỉnh cản che vó bè
   Hè sang gọi tiếng ve ve.




                  ts. đặng văn phú   67
Đông sang
           Đông sang giá lạnh thân hình
     Trông xem đồng lúa nhuộm mình vàng tinh
            Sông bên gái đẹp tươi xinh.

            Xinh tươi đẹp gái bên sông
     Tinh vàng mình nhuộm lúa đồng xem trông
           Hình thân lạnh giá sang đông.




68     Sắc xuân
Hình thân lạnh giá sang đông
Tinh vàng mình nhuộm lúa đồng xem trông
       Xinh tươi đẹp gái bên sông.

       Sông bên gái đẹp tươi xinh
Trông xem đồng lúa nhuộm mình vàng tinh
      Đông sang giá lạnh thân hình.




                       ts. đặng văn phú   69
Hoàng hôn
      Vàng nhạt chiếu khoảng miền Tây
      Vang xa làng xóm đó đây trâu bầy
       Loang chiều tỏa đám khói mây.

       Mây khói đám tỏa chiều loang
      Bầy trâu đây đó xóm lành xa vang
      Tây miền khoảng chiếu nhạt vàng.




70   Sắc xuân
Tây miền khoảng chiếu nhạt vàng
Bầy trâu đây đó xóm làng xa vang
 Mây khói đám tỏa chiều loang.

 Loang chiều tỏa đám khói mây
Vang xa làng xóm đó đây trâu bầy
Vàng nhạt chiếu khoảng miền Tây.




                   ts. đặng văn phú   71
Trên ngàn
          Xanh xanh lá biếc cây ngàn
     Anh chị dành góp nghĩa nhân lưu phần
         Thanh cao tiếp nhận an nhàn.

         Nhàn an nhận tiếp cao thanh
     Phần lưu nhân nghĩa góp dành chị anh
         Ngàn cây biếc lá xanh xanh.




72   Sắc xuân
Ngàn cây biếc lá xanh xanh
Phần lưu nhân nghĩa góp dành chị anh
    Nhàn an nhận tiếp cao thanh.

    Thanh cao tiếp nhận an nhàn
Anh chị dành góp nghĩa nhân lưu phần
    Xanh xanh lá biếc cây ngàn.




                     ts. đặng văn phú   73
Ngồi thiền
        Ngồi thiền tĩnh lặng sắc không
     Tôi anh bồi đắp nhủ lòng hanh thông
          Đồi bên ẩn hiện tâm đồng.

         Đồng tâm hiện ẩn bên đồi
     Thông hanh lòng nhủ đắp bồi anh tôi
       Không sắc lặng tĩnh thiền ngồi.




74   Sắc xuân
Không sắc lặng tĩnh thiền ngồi
Thông hanh lòng nhủ đắp bồi anh tôi
    Đồng tâm hiện ẩn bên đồi.

     Đồi bên ẩn hiện tâm đồng
Tôi anh bồi đắp nhủ lòng hanh thông
  Ngồi thiền tĩnh lặng sắc không.




                     ts. đặng văn phú   75
Sông bên
        Sông bên sóng nước hiền hòa
     Đồng tâm mong ước sắc hoa chói lòa
          Đông vui sớm tối lại qua.

           Qua lại tối sớm vui đông
     Lòa chói hoa sắc ước mong tâm đồng
        Hòa hiền nước sóng bên sông.




76   Sắc xuân
Hòa hiền nước sóng bên sông
Lòa chói hoa sắc ước mong tâm đồng
     Qua lại tối sớm vui đông.

     Đông vui sớm tối lại qua
Đồng tâm mong ước sắc hoa chói lòa
  Sông bên sóng nước hiền hòa.




                    ts. đặng văn phú   77
Đồng ruộng
         Đồng ruộng sớm tối chuyên cần
     Thông hanh dòng nước bón phân an nhàn
         Bông đơm trĩu nặng nhiều cân.

         Cân nhiều nặng trĩu đơm bông
     Nhàn an phân bón nước dòng hanh thông
        Cần chuyên tối sớm ruộng đồng.




78    Sắc xuân
Cần chuyên tối sớm ruộng đồng
Nhàn an phân bón nước dòng hanh thông
    Cân nhiều nặng trĩu đơm bông.

    Bông đơm trĩu nặng nhiều cân
Thông hanh dòng nước bón phân an nhàn
   Đồng ruộng sớm tối chuyên cần.




                      ts. đặng văn phú   79
Yêu mến
            Yêu em sớm tối lo chăm
     Nhiều mong thêu dệt tháng năm nuôi tằm
         Chiều chiều tĩnh lặng thanh âm.

         Âm thanh lặng tĩnh chiều chiều
     Tằm nuôi năm tháng dệt thêu mong nhiều
           Chăm lo tối sớm em yêu.




80    Sắc xuân
Chăm lo tối sớm em yêu
Tằm nuôi năm tháng dệt thêu mong nhiều
    Âm thanh lặng tĩnh chiều chiều.

    Chiều chiều tĩnh lặng thanh âm
Nhiều mong thêu dệt tháng năm nuôi tằm
       Yêu em sớm tối lo chăm.




                      ts. đặng văn phú   81
Chăm ngoan
      Chăm ngoan thấu suốt tháng ngày
     Thăm nom đằm thắm đắm say tỏ bày
        Thầm lặng giúp đỡ vơi đầy.

          Đầy vơi đỡ giúp lặng thầm
      Bày tỏ say đắm thắm đằm non thăm
      Ngày tháng suốt thấu ngoan chăm.




82   Sắc xuân
Ngày tháng suốt thấu ngoan chăm
Bày tỏ say đắm thắm đằm nom thăm
    Đầy vơi đỡ giúp lặng thầm.

    Thầm lặng giúp đỡ vơi đầy
Thăm nom đằm thắm đắm say tỏ bày
 Chăm ngoan thấu suốt tháng ngày.




                   ts. đặng văn phú   83
Giảm nghèo
         Trao đưa giúp tiếp lui nghèo
     Nao lòng chào đón đến theo giữa đèo
       Cao thanh sáng đẹp trong veo.

        Veo trong đẹp sáng thanh cao
     Đèo giữa theo đến đón chào lòng nao
        Nghèo lui tiếp giúp đưa trao.




84   Sắc xuân
Nghèo lui tiếp giúp đưa trao
Đèo giữa theo đến đón chào lòng nao
   Veo trong đẹp sáng thanh cao.

   Cao thanh sáng đẹp trong veo
Nao lòng chào đón đến theo giữa đèo
   Trao đưa giúp tiếp lui nghèo.




                     ts. đặng văn phú   85
Trù phú
        Mênh mông tốt lúa đồng xa
     Kênh con dềnh nước mượt mà quê ta
        Thênh thênh hát tiếp câu ca.

         Ca câu tiếp hát thênh thênh
     Ta quê mà mượt nước dềnh con kênh
         Xa đồng lúa tốt mông mênh.




86   Sắc xuân
Xa đồng lúa tốt mông mênh
Ta quê mà mượt nước dềnh con kênh
    Ca câu tiếp hát thênh thênh.

   Thênh thênh hát tiếp câu ca
Kênh con dềnh nước mượt mà quê ta
   Mênh mông tốt lúa đồng xa.




                   ts. đặng văn phú   87
Tâm hồn
            Êm ru mát dịu tâm hồn
     Đêm thâu thềm dưới sức dồn chăm con
           Em yêu nốt nhạc đô sòn.

           Sòn đô nhạc nốt yêu em
     Con chăm dồn sức dưới thềm thâu đêm
            Hồn tâm dịu mát ru êm.




88   Sắc xuân
Hồn tâm dịu mát ru êm
Con chăm dồn sức dưới thềm thâu đêm
      Sòn đô nhạc nốt yêu em.

      Em yêu nốt nhạc đô sòn
Đêm thâu thềm dưới sức dồn chăm con
      Êm ru mát dịu tâm hồn.




                    ts. đặng văn phú   89
Nông sâu
           Nông sâu khó hiểu đo lòng
     Hồng tươi bông đẹp uốn cong trên đồng
        Sông bên ngã bóng nhiều thông.

        Thông nhiều bóng ngã bên sông
     Đồng trên cong uốn đẹp bông tươi hồng
          Lòng đo hiểu khó sâu nông.




90   Sắc xuân
Lòng đo hiểu khó sâu nông
Đồng trên cong uốn đẹp bông tươi hồng
  Thông nhiều bóng ngã bên sông.

   Sông bên ngã bóng nhiều thông
Hồng tươi bông đẹp uốn cong trên đồng
     Nông sâu khó hiểu đo lòng.




                      ts. đặng văn phú   91
Măng rừng
        Măng mầm mọc mới trên rừng
     Làng dân mang đổi lạc vừng ăn chung
         Màng mơ lúa gạo tỉnh bừng.

         Bừng tỉnh gạo lúa mơ màng
     Chung ăn vừng lạc đổi mang dân làng
       Rừng trên mới mọc mầm măng.




92   Sắc xuân
Rừng trên mới mọc mầm măng
Chung ăn vừng lạc đổi mang dân làng
   Bừng tỉnh gạo lúa mơ màng.

    Màng mơ lúa gạo tỉnh bừng
Làng dân mang đổi lạc vừng ăn chung
   Măng mầm mọc mới trên rừng.




                     ts. đặng văn phú   93
Hoa loa kèn đỏ
            Loa kèn đỏ sẫm màu tươi
     Hoa đẹp xòa cánh thích người ngắm chơi
            Lòa chói tỏa ánh nơi nơi.

             Nơi nơi ánh tỏa chói lòa
     Chơi ngắm người thích cánh xòa đẹp hoa
            Tươi màu sẫm đỏ kèn loa.




94    Sắc xuân
Tươi màu sẫm đỏ kèn loa
Chơi ngắm người thích cánh xòa đẹp hoa
       Nơi nơi ánh tỏa chói lòa.

       Lòa chói tỏa ánh nơi nơi
Hoa đẹp xòa cánh thích người ngắm chơi
      Loa kèn đỏ sẫm màu tươi.




                      ts. đặng văn phú   95
Tiên tổ
         Tiên tổ hiển thánh thiêng linh
     Thiên địa truyền phát đức sinh ân tình
          Liên hồi sáng dạ anh minh.

           Minh anh dạ sáng hồi liên
     Tình ân sinh đức phát truyền địa thiên
        Linh thiêng thánh hiển tổ tiên.




96   Sắc xuân
Linh thiêng thánh hiển tổ tiên
Tình ân sinh đức phát truyền địa thiên
     Minh anh dạ sáng hồi liên.

     Liên hồi sáng dạ anh minh
Thiên địa truyền phát đức sinh ân tình
    Tiên tổ hiển trách thiêng linh.




                      ts. đặng văn phú   97
Hoa súng
          Màu tím rộng trải trên hồ
        Đâu đây cầu ước bản đồ vẽ thô
         Giàu sang thích thú điểm tô.

         Tô điểm thú thích sang giàu
        Thô vẽ đồ bản ước cầu đây đâu
          Hồ trên trải rộng tím màu.




98   Sắc xuân
Hồ trên trải rộng tím màu
Thô vẽ đồ bản ước cầu đây đâu
 Tô điểm thú thích sang giàu.

 Giàu sang thích thú điểm tô
Đâu đây cầu ước bản đồ vẽ thô
  Màu tím rộng trải bên hồ.




                  ts. đặng văn phú   99
Hoa quỳnh
           Màu trắng hiện rõ đơm bông
      Sâu sắc đầu cuối suốt thông được lòng
       Thâu đêm ước nguyện ngóng trông.

       Trông ngóng nguyện ước đêm thâu
      Lòng được thông suốt cuối đầu sắc sâu
          Bông đơm rõ hiện trắng màu.




100   Sắc xuân
Bông đơm rõ hiện trắng màu
Lòng được thông suốt cuối đầu sắc sâu
 Trông ngóng nguyện ước đêm thâu.

 Thâu đêm ước nguyện ngóng trông
Sâu sắc đầu cuối suốt thông được lòng
    Màu trắng hiện rõ đơm bông.




                      ts. đặng văn phú   101
Chông gai
          Chông gai cắm được dưới hầm
      Đồng dân mong ước giặc tầm vướng đâm
         Vòng quanh trốn chạy xuyên tâm.

         Tâm xuyên chạy trốn quanh vòng
      Đâm vướng tầm giặc ước mong dân đồng
          Hầm dưới được cắm gai chông.




102    Sắc xuân
Hầm dưới được cắm gai chông
Đâm vướng tầm giặc ước mong dân đồng
  Tâm xuyên chạy trốn quanh vòng.

   Vòng quanh trốn chạy xuyên tâm
Đồng dân mong ước giặc tầm vướng đâm
    Chông gai cắm được dưới hầm.




                     ts. đặng văn phú   103
Vũ trường
          Ca múa lắc nhảy đêm thâu
        Khà cười ta tự buốt đầu trước sau
           Va chạm bệnh tật gây sầu.

           Sầu gây tật bệnh chạm va
        Sau trước đầu buốt tự ta cười khà
          Thâu đêm nhảy lắc múa ca.




104   Sắc xuân
Thâu đêm nhảy lắc múa ca
Sau trước đầu buốt tự ta cười khà
   Sầu gây tật bệnh chạm va.

   Va chạm bệnh tật gây sầu
Khà cười ta tự buốt đầu trước sau
  Ca múa lắc nhảy đêm thâu.




                    ts. đặng văn phú   105
Vay mượn
            Vay mượn tốt đẹp đầy vơi
      Say mê ngày tháng gượng cười vui chơi
          Bay xa cánh mượn người đời.

           Đời người mượn cánh xa bay
      Chơi vui cười gượng tháng ngày mê say
            Vơi đầy đẹp tốt mượn vay.




106   Sắc xuân
Vơi đầy đẹp tốt mượn vay
Chơi vui cười gượng tháng ngày mê say
    Đời người mượn cánh xa bay.

     Bay xa cánh mượn người đời
Say mê ngày tháng gượng cười vui chơi
      Vay mượn tốt đẹp đầy vơi.




                      ts. đặng văn phú   107
Quen thân
            Quen thân kết bạn xa gần
      Trên nền bền vững biết cần người thân
           Nên xây tốt đẹp nghĩa nhân.

           Nhân nghĩa đẹp tốt xây nên
      Thân người cần biết vững bền nền trên
           Gần xa bạn kết thân quen.




108   Sắc xuân
Gần xa bạn kết thân quen
Thân người cần biết vững bền nền trên
    Nhân nghĩa đẹp tốt xây nên.

     Nên xây tốt đẹp nghĩa nhân
Trên nền bền vững biết cần người thân
      Quen thân kết bạn xa gần.




                      ts. đặng văn phú   109
Tràng An
           Tiên ông khéo tạc nhiều hang
      Thuyền bơi chuyên trở xếp hàng dọc ngang
           Duyên nên lướt sóng đẹp sang.

           Sang đẹp sóng lướt nên duyên
      Ngang dọc hàng xếp chở duyên bơi thuyền
           Hang nhiều tạc khéo ông Tiên.




110     Sắc xuân
Hang nhiều tạc khéo ông Tiên
Ngang dọc hàng xếp chở chuyên bơi thuyền
     Sang đẹp sóng lướt nên duyên.

     Duyên nên lướt sóng đẹp sang
Thuyền bơi chuyên chở xếp hàng dọc ngang
      Tiên ông khéo tạc nhiều hang.




                       ts. đặng văn phú    111
Cảm nhận bài thơ “Lệ Chi Viên”
             của Tiến sĩ Đặng Văn Phú


        Đ      ọc tập thơ Bình minh mới đây của nhà thơ -
               tiến sĩ Đặng Văn Phú với những sáng tạo tâm
      huyết và mẫu mực, tôi rất chú ý đến bài thơ Lệ Chi
      Viên. Bởi bài thơ chữ trắng được khắc trang trọng
      trên bia đá, với những nét chạm trổ rồng phượng và lư
      hương mà con cháu hậu sinh kính cẩn nhớ đến người
      xưa.
         Mới đọc vào nhan đề bài thơ, chúng ta đã cảm thấy
      một cái gì rất đẹp, diễm lệ và trong suốt, như một kỷ
      niệm, như dòng nước mắt kéo qua. Ba chữ Lệ - Chi -
      Viên đều gợi lên những nét thanh sạch, thoáng đãng
      và nhiều xúc cảm như tâm hồn con người. Lệ là nước
      mắt, chi là xương thịt thân thể, và viên là một khu
      vườn với cây cối thanh thoát. Tưởng như nhà thơ đang
      tả cảnh một công viên nào đấy. Một khu vườn đầy
      nước mắt! Thì đó, đây đúng là một bài thơ nhắc đến
      một vết thương không bao giờ lành trong lịch sử dân
      tộc. Đó là cái án oan của vị anh hùng dân tộc Nguyễn
      Trãi, với rất nhiều máu và nước mắt. Đó là lý do vì sao
      bài thơ mở đầu bằng chữ “Lệ”. Tất nhiên, khi đặt bút
      viết, nhà thơ không nên gò ép, nhưng rõ ràng từ “Lệ”
      rất đắc địa, đã được nhà thơ cảm và đặt làm dấu báo

112         Sắc xuân
hiệu cho một cuộc đời đau thương, oan khuất, mà cả
dân tộc đã phải soi vào.
   Bài thơ không hề nhắc đến tên Nguyễn Trãi, nhưng
đã viết rất đầy đủ về cuộc đời oanh liệt của ông. Chỉ
bằng bốn câu ngắn gọn súc tích của thể tứ tuyệt, tác
giả đã thể hiện được tầm vóc, chiều rộng của một cuộc
đời, chiều dài của một nỗi đau, dòng nước mắt, tái
hiện được không khí hãi hùng đầy máu chảy, thể hiện
được lòng đau xót của nhân dân Việt Nam và thế giới
đối với vị anh hùng dân tộc. Thế mới biết, sự phong
phú về ý tứ và sự sâu sắc về nghệ thuật của một bài thơ
tứ tuyệt như thế nào.
   Bất cứ người dân Việt Nam yêu nước nào cũng đã
hơn một lần nhớ về Nguyễn Trãi, đau lòng và day dứt
về Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi dòng dõi trung thần yêu
nước, đã theo Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, viết Bình
Ngô đại cáo và sáng tạo rất nhiều thơ văn, Nguyễn
Trãi vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế
giới, nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà
ngoại giao kiệt xuất của dân tộc ta. Vậy mà Nguyễn
Trãi đã bị khép tội tru di tam tộc ở Lệ Chi Viên, vì cái
chết của vua Lê Thái Tông (con Lê Lợi) có liên quan
đến một người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị
Lộ. Nguyễn Thị Lộ khi ấy 40 tuổi, xinh đẹp, có tài
năng văn chương và đầy đủ công dung ngôn hạnh của
một người phụ nữ thời đó, đã được vua Lê Thái Tông
(Nguyên Long) mời vào triều làm Lễ nghi học sĩ. Rồi

                                ts. đặng văn phú         113
vua say đắm Nguyễn Thị Lộ và băng hà ở Lệ Chi Viên,
      khi đến thăm nhà Nguyễn Trãi. Dẫn giải ra như vậy
      để người đọc hiểu, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng
      lịch sử, viết về một câu chuyện khá bi thương đau xót
      trong lịch sử dân tộc, đã được rất nhiều nhà sử học,
      nhà nghiên cứu quan tâm và nhân dân đã ghi nhớ, ám
      ảnh. Vậy có khó cho tiến sĩ Đặng Văn Phú chăng? Mỗi
      câu, mỗi chữ của bài thơ đều mang nhiều nghĩa - tình.
      Hai câu thơ đầu nhà thơ dành để ca ngợi vị anh hùng
      dân tộc:
          Chí lớn tài cao lo cứu nước
          Tâm vàng đức quý giúp cho dân.
          Hai câu này đã thể hiện được tầm vóc, tài trí và tấm
      lòng Nguyễn Trãi với nước, với dân, với con người.
      Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để
      thay cường bạo (Bình Ngô đại cáo). Ở đây, con người
      Nguyễn Trãi đã được thể hiện ở tầm bao quát, khái
      quát nhất ở khía cạnh công lao và nhân cách. Thiết
      nghĩ ai đọc đến đó cũng có thể hiểu được, có thể hiểu
      ít có thể hiểu nhiều về cuộc đời Nguyễn Trãi tùy theo
      sự am hiểu về lịch sử của họ. Viết về tiền nhân cốt nhất
      là trung thực, công tâm và thành kính, chứ đừng màu
      mè, hoa hòe hoa sói. Ở đây, hai câu thơ này đã làm
      được điều đó. Tôi chú ý đến hai chữ “lo” và “giúp”, vì
      nó rất hiện đại, đó là nỗi lòng của con người hiện đại.
      Nguyễn Trãi một đời lo cứu nước giúp dân, với nỗi
      lòng thường trực ấy. Các cặp tính từ, danh từ, động từ

114         Sắc xuân
song hành: chí - tài - tâm - đức, lớn - cao - vàng - quý,
nước - dân, lo - giúp đã làm toát lên toàn bộ cốt cách
và tài năng của Nguyễn Trãi. Đọc xong hai câu này
người ta nghĩ chắc đây là bài thơ thuần túy ca ngợi
những người có công với nước. Nhưng hai câu thơ sau
mới thật sự chạm đến cõi lòng, lột tả được bi kịch của
Nguyễn Trãi.
   Bài thơ không những ca ngợi vị anh hùng Nguyễn
Trãi, mà còn gián tiếp ngợi ca người con gái Nguyễn
Thị Lộ. Nguyễn Thị Lộ - cô bán chiếu Tây Hồ, vợ
người anh hùng Nguyễn Trãi hay Lễ nghi học sĩ triều
Lê, từ lâu là hình ảnh đẹp trong ký ức của nhân dân
ta. Nàng cũng có cùng một phẩm chất như trên, một
tấm lòng vời vợi yêu thương và sẵn lòng hy sinh vì
non sông đất nước, vì sự nghiệp của chồng. Nàng là
người vợ yêu dấu, tri âm tri kỷ, luôn đứng sau cuộc đời
Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi một lòng trung quân
ái quốc, hy sinh vì đại nghĩa. Kết duyên cùng Nguyễn
Trãi trong một mối tình lãng mạn, sau bao nhiêu năm
cùng chồng giúp nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng,
Nguyễn Thị Lộ lại cùng chồng sẻ chia cái chết thảm
khốc nhất trong lịch sử dân tộc. Đánh giá về bà, giáo
sư Vũ Khiêu khẳng định: “Ít nhất, bà cũng là người
tài hoa trong văn học, sắc sảo trong chính trị, chu đáo
trong ứng xử và thủy chung trong tình nghĩa”, “Lễ nghi
học sĩ Nguyễn Thị Lộ đã dâng trọn cuộc đời phục vụ
cho sự bền vững của Vương triều Lê và sự phồn vinh

                                ts. đặng văn phú        115
của non sông Đại Việt”. (Báo Nhân dân, 12/2005).
     Hai câu thơ sau diễn tả bi kịch khủng khiếp, nó gây
  bất ngờ, hoàn toàn đối lập với hai câu đầu:
     Oan gia ba họ đầu rơi sạch
     Tuôn lệ đau thương xót cõi trần.
     -Người đọc tự hỏi: Tại sao một người tài trí hết lòng
  vì dân vì nước mà lại “Oan gia ba họ đầu rơi sạch?”.
  Sửng sốt quá! Người ta muốn hiểu rõ sự tình thì phải lật
  giở lại nghi án Lệ Chi Viên: Triều đình nhà Lê lúc đó
  khép Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ vào tội giết vua,
  tru di tam tộc. Máu đã chảy, đầu đã rơi xuống. Câu thơ
  với tiết tấu nhanh mạnh gây rợn ngợp, thảm khốc, kinh
  ngạc, sửng sốt. “Đầu rơi sạch” chất thơ ở đấy, bi kịch ở
  đấy và cái hiện đại cũng ở đấy. Đầu rơi sạch là đầu rơi
  nhanh, rơi hết, cùng một lúc, trong thời gian ngắn! Đó
  là cách nói của người Thanh Hóa chăng? Chữ “sạch”
  ở đây đáng chú ý nhất là nghĩa của nó: “trong sạch,
  sạch sẽ, tinh khiết”. Chữ sạch đau đớn làm sao, trắng
  trợn, ngay thẳng và quyết liệt. Nó như khẳng định một
  làn nữa phẩm chất trung thần của Nguyễn Trãi, một
  lòng trung với vua, vì đại nghĩa, vì dân vị nước. Một
  người tài trí như Nguyễn Trãi, làm quan đến mức ấy
  (đại thần, Nhập nội hành khiển), có công lao và tài
  năng đến mức ấy, và vào lúc bấy giờ tuổi đã ngoại 60,
  thì thử hỏi ông còn gì ngoài một lòng khát khao giúp
  nước? Tuy có thể buồn vì vương triều mâu thuẫn, xáo
  trộn, nhưng ông không thể phản bội lại lý tưởng và sự

116      Sắc xuân
nghiệp của mình mà đi giết vua, nhất là khi Nguyên
Long lại là người tài đức. Cho nên, cái chết của vua
Lê Thái Tông là do âm mưu của việc tranh giành ngôi
vị của các bà phi và các quan trong vương triều mục
ruỗng. “Sâu xa hơn, đó là sự ghen ghét, đố kỵ của một
số không nhỏ quan lại trong triều lúc bấy giờ trước tài
năng lỗi lạc và tính tình ngay thẳng, cương trực của
Nguyễn Trãi - cái luôn cản trở những việc làm mờ ám
của chúng.” (Nhân dân, 12/2005). Chữ “sạch” ở đây
vô hình trung đã đối chọi với “bẩn”. Vì theo tâm lý của
người Việt chúng ta, ta chỉ nói cái này sạch lắm là khi
ta khẳng định sự “sạch” và khẳng định nó không bẩn
khi nó đang có nguy cơ bị bẩn. Cái sạch lúc ấy đang kề
cận rất gần cái bẩn, bị cái bẩn đe dọa, khủng bố, đồng
hóa. Tôi thật sự thích thú với cái ý này của bài thơ và
rất thán phục sự sâu xa của tiến sĩ Đặng Văn Phú.
   Về vụ án Lệ Chi Viên và hai danh nhân văn hóa nói
trên đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, đánh
giá lại, nó là vấn đề lớn của lịch sử. Ở bài thơ này ta
chỉ xét cái tình của con người. Bài thơ của tiến sĩ Đặng
Văn Phú vẫn không nhắc đến tên hai vị công thần triều
Lê có công với nước như ta đã phân tích ở trên. Ở đây
nhân vật trữ tình vẫn ẩn kín - cho bạn đọc có thể tự do
nhìn nhận, suy tưởng, đánh giá. Vì vậy bài thơ không
chỉ có một nghĩa, mà có nhiều nghĩa. Có thể, bài thơ
đang nói chuyện đời, chuyện của mọi thời, mọi người.
Tại sao một người có tâm có đức lớn như vậy, công lao

                               ts. đặng văn phú        117
như vậy, anh hùng như vậy, mà bị cuộc đời làm cho
  chết? Chúng ta phải làm gì? Chúng ta khao khát con
  người vĩ đại ấy hiểu ta, thương ta, và cho dân tộc ta,
  đất nước ta thêm những thành quả, những chiến thắng
  của tình thương và trí tuệ. Ta khao khát một lần được
  gặp con người đó, để quỳ lạy, để ngợi khen, để cám ơn,
  để sám hối! Đọc bài thơ này rồi tôi cũng trở thành một
  kẻ bị ám ảnh bởi số phận và cuộc đời Nguyễn Trãi và
  Nguyễn Thị Lộ.
     Ở đây tác giả đã thành công trong việc chơi chữ
  chăng? “Đầu rơi sạch’. Quá đau thương thảm khốc!
  Một cái án oan còn vọng đến ngàn sau, biết bao ô
  nhục, đau lòng. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ còn
  có kỳ tích lớn đối với triều Lê, là đã bảo vệ, nuôi giấu
  được vua Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này). Khi
  ấy, Tư Thành là con của bà Ngô Thị Ngọc Giao, thứ
  phi của vua, đang bị truy sát, vì sự tranh giành quyền
  bính. Sau này vua Lê Thánh Tông lên ngôi, nổi tiếng
  là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời
  hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được
  xem là một nhà văn hóa và một người coi trọng hiền
  tài. Vua Lê Thánh Tông đã ban chiếu minh oan cho
  Nguyễn Trãi, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho câu
  “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lòng Ức Trai
  sáng như sao Khuê). Một người như vậy mà phải chết
  vì sự ngu muội của con người, sự hà khắc của chế độ
  phong kiến, đó là câu hỏi lớn vấn đề lớn để cho các

118      Sắc xuân
thế hệ sau suy ngẫm và lịch sử dân tộc tự đánh giá lại
chính mình.
   Câu thơ cuối trải dài như một tiếng nấc đau thương
đầy nước mắt của nhân dân và thế giới, thậm chí thiên
nhiên cỏ cây đã nhỏ lệ tiếc thương người anh hùng
Nguyễn Trãi. Oan gia ba họ đầu rơi sạch/ Tuôn lệ đau
thương xót cõi trần. Câu thơ cũng có nhiều tính từ
gây chú ý, gợi, nhấn mạnh được nỗi lòng. Như “tuôn”
“xót”. Cái “xót” đây là xót của lệ, và dòng lệ ấy nhiều
đến nỗi ngập tràn trần thế. Ta thấy nỗi lòng nhà thơ và
tâm tình nhân loại được nhà thơ diễn tả rất sâu. Cái
nỗi oan gia ấy, đau thương ấy, máu xương oan khốc
ấy, có thể chẳng những động đến lòng người mà còn
động đến lòng trời. Lệ ở đây là nước mưa hay là nước
mắt. Câu thơ không cần phải rạch ròi quá. Về mặt cảm
xúc và kịch tính, câu thơ này quả là xuất sắc. Phải là
tâm huyết, tri ân với Nguyễn Trãi, nhà thơ mới viết
được hai câu thơ như thế. Cái điều đáng nói cuối cùng
là dòng lệ đau thương ấy sẽ chảy mãi mãi chẳng bao
giờ vơi.
   Đây là một bài thơ phúng viếng, để tưởng nhớ tiền
nhân, nên thiết nghĩ nó chấm phá được vài nét cũng
là quý rồi. Huống hồ ở đây nó lại chấm phá được quá
nhiều nét và nó diễn tả được nỗi đau có thực của các
thế hệ đã tiếc thương người anh hùng. Đó là một nỗi
đau chân thực, hiện hữu của tác giả và các thế hệ hậu
sinh, đã được nhà thơ diễn tả rất chân thành, sát thực.

                               ts. đặng văn phú       119
Người đọc cũng thấy đau xót thay. Vì thế bài thơ mới
  gây xúc động cho bạn đọc và có được giá trị mới. Bởi
  có hàng ngàn học giả, nhà thơ đã viết về cuộc đời
  Nguyễn Trãi. Đây là một đề tài không mới, nhưng tác
  giả đã đem được cảm xúc của mình vào làm cho bài
  thơ hiện đại lên và đầy cảm xúc. Dẫu mỗi dân tộc có
  những trang lịch sử sai lầm và mỗi con người từng có
  những tháng năm tội lỗi, nhưng bao giờ cũng sẽ được
  nhìn nhận lại, làm lại, sửa lại. Sự làm lại con người
  không bao giờ là muộn.
     Bài thơ và tác giả quả là một tấm lòng tri ân với
  Nguyễn Trãi. Với cái nhìn chân thực soi rọi vào cuộc
  đời Nguyễn Trãi, thì bài học lịch sử vẫn còn nguyên
  giá trị./.
                              Trần Thị Ngọc Lan
                              (Nhà xuất bản Văn học)




120     Sắc xuân
Kính viếng
      ANH LINH CÁC LIỆT SĨ


  Đ     ất nước Việt Nam ta trải qua mấy nghìn năm
        dựng nước và giữ nước, trải qua bao cuộc
kháng chiến gian khổ và oanh liệt, đã có biết bao thế
hệ anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc. Trên đất đai
sông suối của tổ tiên này, đã thấm bao xương máu
những người ngã xuống, cho đất nước trường tồn
và hồi sinh. Tiến sĩ Đặng Văn Phú, một bậc thầy về
tâm linh, một ông tiến sĩ đa tài, qua bao nhiêu năm
hoạt động khoa học và nghệ thuật, đã để lại cho đời
những bài thơ tinh tế, đầy tình người. Đặc biệt, ông
có biệt tài trong việc sáng tạo thể thơ thuận nghịch
độc, với sức sáng tạo tươi mới và mãnh liệt, gần
đây ông đã cho in rất nhiều tập thơ về thể loại này.
Điều đáng chú ý trong các tập thơ đó, là trí tuệ trong
sáng và tình người nồng ấm, làm người đọc rất ngạc
nhiên và yêu thích. Có lẽ qua nhiều năm hoạt động
tâm linh, với tài năng đặc biệt của mình, ông đã thu
được tất cả những tinh hoa năng lượng, về giúp đời,
giúp người và tự tỏa sáng trong thơ. Với một lòng
thành kính, ông đã đi khắp đất nước, đem tài năng

                              ts. đặng văn phú       121
ngoại cảm của mình tìm mộ các liệt sĩ đã hy sinh
      trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Sở trường lớn
      nhất của ông là khả năng ngoại cảm, ông tham gia
      hoạt động này với niềm tin lớn lao về sự bất tử của
      con người, của dân tộc, của lịch sử đất nước. Với
      ngót 400 bài thơ và gần 10 tập thơ đã ra đời, thì đó
      là một chiến tích về tinh thần và giá trị nghệ thuật
      không nhỏ của ông góp sức làm đẹp cho đời, khiến
      cho người đọc hết lòng khâm phục.
         Trên đây là một bài thơ tiêu biểu của ông kính
      viếng anh linh các liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn,
      làm theo thể thuận nghịch độc, mà ông đã gửi vào
      trong đó tất cả niềm tin, lòng biết ơn và sự kính
      trọng của mình dành cho các thế hệ liệt sĩ đã hy
      sinh vì Tổ quốc.
         Vì ông lựa chọn thể thơ Đường, với kiểu thuận
      nghịch độc rất “khó chơi” theo lời bạn đọc nhận
      xét, nên tôi luôn thấy những bài thơ của ông rất ấn
      tượng, có sự tinh luyện về câu từ và giàu chất trí
      tuệ, kiệm lời và chắt lọc ngôn ngữ, cấu tứ rất công
      phu. Nhưng thật kỳ lạ, ở những bài thơ ấy, ý thơ
      của ông vẫn bay bổng, phiêu diêu và nồng thắm,
      vượt lên câu từ, vượt lên kỹ thuật. Cũng phải thôi,
      mục đích của ông là cái hồn thơ, là ý tứ sâu sắc và
      niềm tin của ông dành cho con người. Anh linh các
      liệt sĩ đã hiện về trong một không gian trân trọng:

122         Sắc xuân
Hương thơm ngát tỏa, tình đồng đội.
   Ở đây dường như ta thấy hiện lên trong chiều
rộng và sâu của đất nước mình, những nghĩa trang
hoang hoải với khói hương và màu hoa mua tím.
Cũng có thể, thiên nhiên tươi đẹp ấy luôn ấp iu linh
hồn các liệt sĩ. Đấy là tôi nghĩ vậy, khi đứng trước
không gian câu thơ gợi mở, với tình yêu thương
thủy chung giữa muôn vật và con người. Cái không
gian mênh mông quá, làm lòng người hoài nhớ,
chơi vơi, khi âm dương cách biệt, nhưng không
gian ấy cũng đầy bao dung, đầy hương thơm và
tình nghĩa con người. Tình nghĩa ấy, có lẽ vượt trên
mức cá nhân, riêng tư, để đi đến một nghĩa cả sâu
thẳm và bao la hơn về con người, về đất nước. Ta
sẽ nghĩ về đất nước, về dân tộc, về những điều còn
mất, về những người đã mất và những người còn
sống, về tương lai của chúng ta. Trước mắt chúng
ta như hiện ra một bình nguyên bao la với đất đai,
sông suối, mặt trời, với những hy vọng về sự bất
tử của con người và dân tộc, niềm hy vọng cho
ngày sau. Một sợi dây tâm linh nối hiện tại, quá
khứ, tương lai lại với nhau, và những nhân chứng
sống của chiến tranh sẽ biết sống cuộc đời sao cho
ý nghĩa, khi họ nghĩ về nền hòa bình, về những
người đã khuất. Tất nhiên ở một nghĩa cụ thể hơn,
ta thấy hiện ra hình ảnh những đoàn cựu chiến binh
                             ts. đặng văn phú          123
lặng lẽ đi thăm lại chiến trường xưa, thành kính cắm
      những bó hoa và hương thơm lên mộ người chiến sĩ.
      Đó cũng là nén tâm hương của thi sĩ Đặng Văn Phú
      dâng lên anh linh những người anh hùng với niềm
      tri ân sâu nặng.
          Xương máu trao đưa, góp trọn phần
          Hiến dâng non nước, biệt người thân.
          Đây là hai câu thơ đầu của bài thơ, cũng là hai
      câu thơ ấn tượng nhất, có chiều sâu nhất, khẳng định
      công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ. Câu thơ có
      một tầm vóc lớn, khái quát được nỗi đau thương và
      sự hy sinh vô điều kiện ấy. Viết về sự hy sinh của
      nhiều người, thậm chí của nhiều thế hệ, viết được
      như thế cũng là tài. Tôi cứ tần ngần trước sự uyển
      chuyển, tinh tế của câu thơ khi diễn tả một vấn đề
      quan trọng của sống còn, của sự hy sinh và dâng
      hiến. Sao nó diễn tả được sự hy sinh máu xương và
      ly biệt một đời mà lại giản dị và thanh tao đến thế?
      “Xương máu trao đưa, góp trọn phần”: cái “trao
      đưa” (thanh thản, tự nguyện) ấy là “xương máu”
      (sống còn, tồn tại), vậy mà nhẹ nhàng sao, như trao
      đưa một cành hoa, một lời hứa, một niềm hy vọng
      cho tương lai. Một niềm tin cho thế kỷ. Xét cho
      cùng trong sự tồn tại, mạng sống con người là quý
      nhất. Vậy mà người chiến sĩ trong một phút giây


124         Sắc xuân
trong trẻo của đời mình, đã thanh thản “trao đưa”,
với một niềm tin bộc trực và thánh thiện, đi vào cõi
vĩnh hằng, để hy sinh vì cuộc sống. Vì tự do, độc
lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Cái đáng
quý ở đây không chỉ ở tâm thế trao đưa thanh thản
và chủ động tự nguyện, mà sâu xa hơn là khát vọng
“góp trọn phần”. Thì ra trong tâm niệm của những
người chiến sĩ ấy luôn nghĩ rằng, mình phải có bổn
phận đóng góp phần mình vào trong chiến thắng,
vào trong cái chung của dân tộc, để giành độc lập tự
do cho nhân dân ta, có như thế mới hoàn thành trách
nhiệm của mình. Cụm từ “góp trọn phần” có nhiều
cái lạ. Lạ ở chữ “trọn”. Nghĩa là trọn vẹn cái phần
mình, mới an tâm yên lòng thanh thản, cũng có thể
“trọn” là hy sinh tất cả những gì mình có, trọn tình
vẹn nghĩa với đất nước non sông. Và cao hơn, có sự
đóng góp này, mới tròn vẹn cái nghĩa cao cả, mới
trọn niềm vui cho mai sau. Câu thơ đầu tiên khép
lại, tưởng thế đã kiệt cùng, trọn vẹn. Nhưng không,
câu thơ thứ hai còn mở ra, bao la hơn:
   Hiến dâng non nước, biệt người thân.
   Câu thơ đầu có đau đớn hy sinh, tuy nhiên đó chỉ
là cái phần thế tục, được mất, sống còn. Câu thứ hai
đã nâng lển tầm vóc tâm linh. Sự hy sinh ấy chính
là một hành vi cao cả, một lý tưởng rõ ràng: “hiến


                             ts. đặng văn phú      125
dâng non nước”. Ta hãy chú đến từ “hiến dâng”.
      Từ này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt
      với nghĩa thiêng liêng, mang một giá trị lớn lao của
      đạo lý dân tộc, hoặc của tầm vóc cộng đồng. Từ này
      được bổ trợ bởi “non nước” ở đằng sau, càng nâng
      thêm cái thiêng liêng cao quý, mang tầm quốc thể
      của sự hy sinh. Câu thơ chia làm hai nửa, một bên
      là non nước, một bên là người thân. Bên nghĩa bên
      tình, cái gánh nặng nghĩa tình sao mà luyến lưu,
      xót xa, đau đớn. Biệt người thân, biệt đến muôn
      đời. Cái chữ “biệt” ở đây cũng rất đặc biệt, nó được
      chọn lọc rất kỹ, diễn tả được nhiều chữ khác, như ly
      biệt, tiễn biệt, đi mãi không về, mà cũng là từ biệt.
      Một bên là non nước, một bên là cốt nhục, người
      thân, nhưng cái non nước cái lý tưởng luôn được đặt
      lên trước cái cá nhân, riêng tư của bản thân mình.
      Câu thơ ngắn gọn súc tích, dùng những từ đẹp, sang
      trọng, nhưng lại chân thật, không hề ồn ào, bi lụy,
      không tình cảm sướt mướt. “Biệt người thân” một
      tâm nguyện giản dị chân thực đến xao lòng. Thiết
      nghĩ, để nói được hai khía cạnh lớn của lòng hy sinh
      cao cả, mà chỉ diễn tả trong một câu thơ 7 chữ, là
      kiệm lời, súc tích biết mấy, nó gợi đến sự hy sinh
      âm thầm lặng lẽ của những người lính trong cuộc
      kháng chiến vừa qua.


126         Sắc xuân
Hai câu thơ đầu và hai câu thơ cuối của bài vô
hình trung đã tạo ra một khoảng cách, một cách
đoạn lớn về không gian và thời gian, cả chiều sâu
tâm thức và sự đổi thay của bối cảnh xã hội. Mới đó
mà đã mấy chục năm, mới đó mà đã là cả một đời
người, là ly biệt. Giờ đây những đồng đội đang sống
trong nền hòa bình, trong thời kỳ đổi mới mãnh liệt
của đất nước, đã lặn lội tìm lại mộ cho những người
đồng đội xưa, cùng thắp nén tâm hương tưởng nhớ
người đã khuất với lòng biết ơn vô hạn:
   Hương thơm ngát tỏa, tình đồng đội
   Thương nhớ anh em, suối lệ giàn.
   Cái thương nhớ ở đây có cả hai chiều. Người
đang sống nhớ thương người đã khuất đã hy sinh,
và người đã khuất cũng còn vong linh đầy ánh sáng
để nhớ thương người còn sống. Một không gian
bao la không giới hạn, gợi lên bao ý nghĩa của cuộc
sinh tồn, bao lời gửi gắm và mong ước của người
còn sống cho những người đã khuất và thế hệ mai
sau. Nỗi thương nhớ đó thành suối lệ giàn chảy vào
chiều sâu đất nước, lệ chảy tràn như suối vậy thôi.
Nghĩa là nỗi nhớ thương vô tận vô biên, không giới
hạn, không có thời gian, không gian nào nữa. Hay
chính là, không gian ở đây đã chuyển thành không
gian tâm thức rồi. Tâm thức yêu thương, giao cảm,


                             ts. đặng văn phú         127
biết ơn. Chính là khi nhìn về quá khứ, về sự hy sinh,
      về những gì đã mất, con người ta mới thấm thía
      được sâu sắc về cuộc đời, sự tồn tại và ý nghĩa của
      sự sống mình. Và bài thơ đã diễn đạt trọn vẹn một
      cuộc giao tiếp về tâm linh quan trọng, là bước ngoặt
      trong nhận thức của con người.
          Ta hãy chú ý tới cách đặt các từ xương máu - góp
      trọn -hiến dâng - biệt - hương thơm - tình - thương
      nhớ - suối. Tất cả các từ đó được đặt ở trước một số
      từ khác, đây cũng là dụng ý nghệ thuật và cảm quan
      của tác giả, muốn đặt những tình cảm, danh dự của
      người lính và tình nghĩa đồng đội lên chỗ trang
      trọng nhất. Cách chọn chữ, đặt chữ của tiến sĩ Đặng
      Văn Phú là hết sức thận trọng. Cho nên ta cảm nhận
      được bài thơ rất chân thành, giản dị, nhưng vẫn vô
      cùng trang trọng, kính cẩn đối với anh linh các liệt
      sĩ. Phải một người tâm huyết mới làm được điều ấy.
          Trên đây chỉ là cảm nhận bài thơ khi đọc xuôi.
      Còn khi đọc ngược thì bài thơ lại có vẻ mênh mang
      hơn vì được cái âm “ương” ở cuối câu bổ trợ. Trên
      cơ sở bài thơ đọc xuôi, khi đọc ngược bài thơ vẫn
      mượt mà đằm thắm và có thêm ánh sáng mới.
          Giàn lệ suối, em anh nhớ thương
          Đội đồng tình, tỏa ngát thơm hương
          Thân người biệt, nước non dâng hiến


128         Sắc xuân
Phần trọn góp, đưa trao máu xương.
   Đó là biệt tài, công phu của tiến sĩ Đặng Văn
Phú trong thể thơ thuận nghịch độc. Quả thật,
người tâm huyết với thể thơ này phải rất kỳ công.
Phải chọn lọc từ ngữ, sắp xếp sao cho cho nhuần
nhị về ngôn ngữ, cấu tứ, độ tương xứng của bài
thơ khi đọc xuôi và đọc ngược. Vậy mà ta thấy
những bài thơ thuận nghịch độc của tiến sĩ Đặng
Văn Phú vẫn đậm chất thơ, vẫn bay bổng, phiêu du,
đầy ánh sáng. Tiêu biểu như bài thơ viếng anh linh
các liệt sĩ trên đây. Bài thơ vút lên, tỏa sáng bằng
những vần trắc, và trải dài mênh mang bằng những
vần bằng. Có lẽ cách đọc các bài thơ thuận nghịch
độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú là nên đọc chậm rãi,
nhâm nhi, chiêm ngưỡng từng từ ngữ trong một bố
trí hài hòa, và quan trọng phải đọc bài thơ trong
một niềm tin chan chứa của tâm linh. Vì vậy, bài
thơ không chỉ có một nghĩa mà còn có nhiều nghĩa,
nhiều ý tứ phái sinh, tùy theo thời điểm tiếp nhận
và cá thể tiếp nhận. Cũng bởi thế, thuận nghịch độc
là một thể thơ phức tạp và kỳ thú.
   Là một con em của thế hệ này, được sống trong
hòa bình và ổn định của đất nước, được học hành
thăng tiến trong thời đại mới, bài thơ trên thật sự
gợi cho tôi nhiều nghĩ suy và xúc động. Lòng thầm


                             ts. đặng văn phú          129
nhớ thương và biết ơn cha ông đã đổ máu xương để
      gìn giữ độc lập tự do, giữ gìn giang sơn Tổ quốc.
      Mong một lần được đến với Trường Sơn thắp nén
      hương thơm lên mồ liệt sĩ, để hiểu rõ cuộc đời mình
      đang sống và biết sống tốt hơn. Có lẽ phải cảm nhận
      mỗi lời thơ của tiến sĩ Đặng Văn Phú bằng niềm tin
      tâm linh sáng trong mà ông đã thổi vào, đó cũng là
      điều đặc biệt mà ông đã làm được với đất trời này,
      với con người. Văn học nghệ thuật chính là giá trị
      của tinh thần, mang tính biểu tượng, tinh túy chắt
      lọc từ cuộc sống của nhân loại. Chỉ cần có một niềm
      tin về giá trị đó, cũng làm biến đổi cuộc đời ta.
         Đứng trước mỗi bài thơ Đường luật thuận nghịch
      độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú, người ta sẽ phải khám
      phá từng từ, rồi xem độ liên kết và sự xoay chuyển
      của nó trong một cấu tứ chung, nên thường thấy rất
      thú vị và mệt. Nó không đơn thuần như một bài thơ
      ở thể tự do. Thể thơ thuận nghịch độc là một thể thơ
      rất khó, vì ở bài thơ đọc ngược, nó lại lộn ngược cả
      câu, cả bài, lộn ngược từ đầu đến cuối, mà không
      được lỗi ở chữ nào. Hơn nữa nếu bạn đọc chưa có
      nhiều kinh nghiệm với thể thơ này, thì nó thực sự
      là một thử thách đối với họ. Đối với người viết bài
      này, do chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp cận với thể
      thơ thuận nghịch độc, vì thế nó thật sự là một thử
      thách, nên không dám lạm bàn. Tôi xin dừng bài

130         Sắc xuân
viết tại đây, hy vọng trong tương lai được sự chỉ
dạy của tiến sĩ Đặng Văn Phú và đông đảo bạn
đọc gần xa về thể loại này./.

                        TRẦN THỊ NGỌC LAN
                        (Nhà xuất bản Văn học)




                             ts. đặng văn phú       131
Cái độc đáo trong thơ “Sắc xuân”
            Của nhà thơ - Tiến sĩ Đặng Văn Phú


        C     ó thể nói ấn tượng đầu tiên của mỗi người khi
              tiếp xúc với những sáng tác của nhà thơ – tiến
      sĩ Đặng Văn Phú. Có lẽ ông là người độc nhất trong
      đội ngũ các nhà thơ không chuyên nhưng lại chuyên
      viết về thơ dạng thuận nghịch độc.
         Ông đã từng xuất bản hai tập thơ Đường luật thuận
      nghịch độc, một tập thơ lục bát thuận nghịch độc và
      đã gây được tiếng vang trên văn đàn Việt Nam. Đó
      là các tập thơ: Hương vị cuộc đời (NXB Văn học –
      2005), Trăng ngàn (NXB Hội nhà văn – 2009), Vườn
      đào (NXB Hội nhà văn – 2010), Bình minh (NXB
      Văn học). Lần này ông cho ra đời tập thơ “Sắc xuân”
      lục bát hai chiều thuận nghịch độc.
         Theo tác giả thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc
      được tách thành 4 cách đọc trong tập thơ này là:
         “Hai chiều thuận nghịch dám làm
         Lục bát tách bốn thích ham diệu huyền”
         Thật không có gì ngạc nhiên khi các bạn văn, bạn
      thơ đã dành cho ông những lời ngợi ca thân tình.
         Nhà báo – nhà văn Đức Ánh đã nhận xét: “Tác
      giả là người biết sáng tác và thưởng thức cái hay cái
      đẹp, tinh tế mà nhuần nhuyễn, có tâm hồn sâu lắng,
      là người có trí tuệ, đã làm được kỳ tích trong thơ ca

132         Sắc xuân
hiện nay…”
   Nhà thơ Nguyễn Đỗ Lưu qua cảm nghĩ “Trăng
ngàn” có lời khen: “Ông là một người đa tài, mang
kiến thức một tiến sỹ hóa học để hóa nghiệm trong thơ
mình, thành một thứ thần thông đảo thể lật vần xoay
ngược giao cảm của độc giả, đòi độc giả đi vòng để
tới đỉnh thơ ông.”
   Nhà thơ Lê Thanh Long trong tập: “Bạn thơ và
tôi” (NXB Lao động 2012) viết về nhà thơ Đặng Văn
Phú: “Đánh giá thơ thuận nghịch độc là đánh giá ở sự
kỳ công, kiên trì của tác giả. Thưởng thức thơ thuận
nghịch độc là thưởng thức sự độc đáo của loại hình
thơ này.”
   Như thế có thể nói chúng ta đều mặc nhiên công
nhận sự kiên trì, độc đáo của tác giả khi trình diễn tác
phẩm của mình trên nhiều góc độ thể hiện. Trong tập
thơ “Sắc xuân” gồm 53 bài, chủ yếu thể lục bát 3 câu,
được thể hiện mỗi bài 4 cách đọc: xuôi, nghịch từ phải
sang trái và ngược lại.
   Như vậy, 53 bài thơ, nếu theo đủ cách có thể đọc
thành 212 bài mang 636 câu thơ.
   Khoan hãy nói về nội dung mà tác giả đề cập khá
phong phú, thể hiện cảm nhận về nhiều vấn đề thuộc
phong cảnh, tình cảm hoắc về xã hội (giảm nghèo,
chăm ngoan, ruộng đồng…) ta đi sâu hơn về hình thức
thể hiện.
   Trước hết về thể thơ lục bát mà ông trình bày lần

                               ts. đặng văn phú        133
này đều là bài thơ 3 câu, đây cũng là một sự độc đáo
  trong cách thể hiện. Lâu nay ta quen với các dạng thơ
  lục bát, song thất lục bát, thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ 7
  chữ…Nay ông Đặng Văn Phú đưa ra thơ lục bát chỉ
  3 câu (3 dòng) thì thật mới lạ. Bởi vì thơ là một hình
  thức nghệ thuật, một loại sáng tác văn học có vần điệu,
  súc tích, ý cô đọng, gây cảm xúc cho người đọc. Thông
  thường một bài thơ phải có đủ các phần, nhưng quan
  trọng hơn là đủ tứ nói lên cái cốt lõi của chủ đề ta định
  diễn tả.
     Dưới hình thức 3 câu, ông Đặng Văn Phú muốn đưa
  chúng ta vào thế giới của hình thức thể hiện mới, lấy ý
  thơ là chính. Do vậy, đọc những bài thơ ta thấy ý tứ của
  tác giả muốn diễn tả trong một bài thơ.
     Nhưng hơn thế, mỗi bài thơ tác giả muốn chúng ta
  đọc theo 4 cách. Đã có thời kỳ người ta nêu lên 8 cách,
  10 cách đọc, riêng ông Đặng Văn Phú đã giới thiệu
  một bài thơ với 20 cách đọc (Trăng ngàn – NXB Hội
  nhà văn 2009) xem thế đủ thấy bản thân tác giả đã có
  những suy nghĩ khá độc đáo.
     Đi sâu vào những bài thơ trong tập “Sắc xuân” tác
  giả trình bày mỗi bài thơ có 4 cách đọc: thuận, phải
  sang trái dưới lên, phải sang trái trên xuống, trái sang
  phải từ dưới lên. Mỗi bài đọc xong có thể là một bài có
  tứ độc lập, nhiều bài có sự tìm tòi khá công phu.
     Cái hay của tập thơ này, là các bài thơ đều thanh
  thoát, lưu loát khi đọc xuôi và đọc ngược đều có ý nghĩa.

134      Sắc xuân
Trong “Sắc xuân” có nhiều tứ dù đọc theo cách nào
cũng thấy hay:
  Thí dụ:
  Bài Hoa Sen
  Hồng sen mát dịu hồ trên
  Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền
  Sông nước sóng lướt êm êm

  Êm êm lướt sóng nước sông
  Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
  Trên hồ dịu mát sen hồng

  Trên hồ dịu mát sen hồng
  Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông
  Êm êm lướt sóng nước sông

   Sông nước sóng lướt êm êm
   Trông nom đòng ruộng lúa xen đẹp nền
   Hồng xen dịu mát hồ trên
   Và các bài trong tập thơ “Sắc xuân” đều như thế.
Tác giả đã dành bao tâm huyết, thời gian để có những
bài thơ đầy tâm tình như vậy. Điều đó thật đáng chân
trọng. Tất nhiên, khi cố làm được diều này, không hẳn
đã đạt điều khác như ý muốn, đó là do năng lực, trí tuệ
chỉ có đến thế. Nhưng để mọi người có sự đồng cảm
với mình, có thể nói đã thành công rồi.
   Ông Đặng Văn Phú vốn là một nhà khoa học, hơn

                              ts. đặng văn phú        135
thế nữa lại là một Lương y gia truyền, cái nghiệp nghề
      cần đến sự chi ly, tỷ mỷ của những phân tử hóa nghiệm
      hoặc ly lạng trong việc cất từng thang thuốc, đòi hỏi
      con người không được sai sót. Ý thức được như vậy,
      ông chọn cách làm thơ thuận nghịch độc thể Đường
      luật hoặc lục bát như “Sắc xuân”, chắc chắn phải qua
      nhiều chăn trở. Vì thế chúng ta – bạn thơ với ông,
      mong nhà thơ - Tiến sĩ - thầy thuốc Đặng Văn Phú
      sẽ có nhiều dạng thơ hay và độc đáo hơn nữa, để thực
      hiện mong ước của ông:
         “Đam mê xúc cảm tạo nên
         Lưu thêm kỳ tích đẹp nền văn chương”

                                        Nhà thơ Lê Hùng
             Phó Chủ tịch Thường trực CLB Thơ Việt Nam




136         Sắc xuân
Đôi điều cảm nhận nhân đọc cuốn “Sắc xuân”
   Thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc
             của tiến sĩ Đặng Văn Phú


  Đ     ọc tập “Bình minh”, thơ lục bát thuận nghịch
        độc của TS.Đặng Văn Phú do nhà xuất bản
Văn học ấn hành năm 2011, tôi có nêu ý kiến là việc sử
dụng thể loại này có cái khó là chỉ cần sơ ý một chút
trong việc sắp xếp từ là sẽ có lệch lạc ngay trong nhịp
điệu và câu thơ sẽ trở nên trúc trắc khó nghe. Đọc toàn
bộ tập thơ chúng ta vui mừng thấy nhà thơ Đặng Văn
Phú đã vượt qua được khó khăn đó.
   Dẫn chứng rất nhiều, chúng tôi chỉ đơn cử một bài,
bài “Xuân sang” ở trang 32 ra làm ví dụ. Bài thơ làn
như sau:
   “Đua chen táo quất ai nhường
   Mua xem hàng bán vị hương thơm lừng
   Giang tay đón tết vui mừng
   Sang xuân trời ấm vượng hưng hoa đào
   Thời xuân nhớ lại lòng nao”
   Bài thơ nêu lên quang cảnh tươi vui của đất trời khi
mùa xuân tới, lòng người rộn lên bao niềm xúc cảm
trước mọi cảnh vật dường như hoàn toàn đổi mới.
   Đọc ngược lại:
   “Nao lòng lại nhớ xuân thời

                               ts. đặng văn phú       137
Đào hoa hưng vượng ấm thời xuân sang
         Mừng vui tết đón tay giang
         Lừng thơm hương vị bán hàng xem mua
         Nhường ai quất táo chen đua”
         Người đọc vẫn cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, lòng
      như bừng sáng trước cảnh đất trời tươi tắn trong buổi
      xuân sang, nơi đâu cũng nhộn nhịp, tưng bừng như
      cành quất, đào khoe sắc.
         Làm sao đọc xuôi, đọc ngược bài thơ, cảm xúc của
      người đọc vẫn không hề thay đổi. Rõ ràng nhà thơ đã
      sử dụng ngọn bút của mình rất mực tài tình, không
      phải bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể làm như thế
      được. Và nhiều người đã phải công nhận là nhà thơ
      Đặng Văn Phú quả đã có một biệt tài trong việc sáng
      tác loại thơ này.
         Có lẽ do được đông đảo bạn đọc hoan nghênh, nên
      chỉ ít lâu sau, nhà thơ lại cho xuất bản tập “Sắc xuân”,
      thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc.
         Lần nay, người đọc không phải chỉ đọc ngược lại
      bài thơ , mà còn bất cứ một bài thơ nào trong tập, tác
      giả cũng có thể tách thành bốn bài khác nhau và như
      vậy là như tác giả đã giới thiệu trong lời đầu sách,
      toàn tập thơ gồm 53 bài, tác giả tách thành hai trăm
      mười hai bài.
         Nhìn chung, thì đề tài tập thơ này cũng vẫn như
      đề tài các tập thơ trước. Vẫn là sự vận chuyển không
      ngừng, không nghỉ của thời gian: xuân đi, hè lại, thu

138         Sắc xuân
đến, đông sang. Vẫn là cảnh hội hè, đình đám của mọi
miền: miền ngược, miền xuôi trên khắp chiều dài đất
nước. Vẫn là cảnh những người lao động trên đồng
ruộng hay trong nhà máy, ở đâu cũng tận tâm tận lực
làm cho đất nước mình thêm đẹp, thêm tươi. Vẫn là
cảnh của những trẻ tật nguyền luôn được những người
chung quanh chăm sóc, đang vui vẻ nô đùa.
   Có thêm chăng, có lẽ cũng chỉ là lòng tri ân “tiên tổ
hiển thánh thiêng linh” vốn đã là tập tục tốt đẹp ở hầu
hết mọi nơi, và nhất là việc đề cao nhân nghĩa “thắm
đặm tình người” được đề cập đến ngay trong bài thơ
thứ hai của tập thơ này.
   Khi nhận xét về tập “Bình minh”, chúng tôi cũng có
viết: “Mỗi điểm cần chú ý là một tấm lòng nhân hậu
của nhà thơ. Thật vậy, trong cuộc sống đời thường ông
vốn là người tôn trọng nghĩa nhân, luôn luôn có trước
có sau.”
   Tôn trọng nghĩa nhân như vậy, nên khi cuộc kháng
chiến thắng lợi đất nước sạch bóng quân thù, mọi
người đều nô nức đến nghiêng mình trước những trang
nghĩa liệt đã không nề hi sinh cả tính mạng của mình
để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc và thế là:
   “Thôn quê khắp nẻo buôn làng
   Luôn luôn ngời sáng núi vàng viếng thăm”
                (Viếng thăm - trang 70 - Bình minh)
   Hình ảnh hết sức xúc động này là biểu hiện sáng
ngời lòng nhân nghĩa của nhân dân ta.

                               ts. đặng văn phú        139
Lòng nhân nghĩa ấy đưuọc nhà thơ – tiến sỹ Đặng
      Văn Phú cô đúc lại trong bài “Nhân nghĩa”:
         “Nghĩa nhân thắm đượm người đời”
         Những lời thơ đặt ngang ở bài thơ thứ hai của tập
      thơ được nhắc lại nhiều lần gây ắn tượng sâu sắc trong
      lòng người đọc, mọi người đều nhận thức rất rõ là đời
      người có “đượm thắm nghĩa nhân” thì mới:
         “Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần”
                                          Nhân nghĩa - tr.2
         Người đọc cảm ơn tác giả đã nêu lên được một điều
      mọi người nên luôn luôn ghi nhớ để cuộc sống thêm
      phần ý nghĩa và để góp phần xây dựng hữu hiệu Tổ
      quốc thân yêu của chúng ta.

                                        Tháng 6 năm 2012
              Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Xuân Dương




140         Sắc xuân
Lục bát ghép về thơ

      Tiến sĩ Đặng Văn Phú, chơi thơ
 Sắc xuân, nhân nghĩa, duyên tơ, tâm hồn
       Chơi vui, thơ rượu, hoàng hôn
Yêu mến, làng xóm, mầm non, hoa quỳnh.
       Đồng ruộng, trù phú, núi rừng
  Chợ Canh, mở hội, vũ trường, Tràng An
    Thi đàn, Người cao tuổi Việt Nam
  Giao lưu, sông bến, trên ngàn, trời mây
         Lên Tam Đảo, vào Cà Mâu
   Bến đò, câu cá, nông sâu, ngồi thiền
       Thọ cao, nâng đỡ, thanh niên
Giúp trẻ khuyết tật, yêu thương, giảm nghèo
        Xuân, hè, thu đến đông theo
  Chăm ngoan, cô gái Việt Nam thêm bền
        Hoa mai, hoa súng, hoa sen
    Hoa loa kèn đỏ, lại thêm hoa hồng
       Chông gai, co kéo, măng rừng
 Vay mượn, xuôi ngược đọc mừng tập thơ!

                                          8/2012
                  Nhà thơ Trần Đức Chính




                       ts. đặng văn phú        141
Đóng góp độc đáo
          của Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú


        T     iến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú là người say mê
              lối thơ “Thuận nghịch độc”. Sau thi phẩm đầu
      tay: “Hương vị cuộc đời” - Thơ Đường luật (NXB
      Văn học 2005), tác giả cho in liền 3 tập: “Trăng ngàn”
      - Thơ Đường luật Thuận Nghịch độc (NXB Hội nhà
      văn 2009); “Bình minh” - Thơ Lục Bát Thuận nghịch
      độc (NXB Văn học 2011); năm Nhâm Thìn 2012,
      tác giả lại công bố tập “Sắc xuân” - Thơ Lục Bát hai
      chiều Thuận nghịch độc (NXB Văn học 2012)
         Thơ Lục Bát hai chiều “Thuận nghịch độc” ở tập
      “Sắc xuân” có nhiều nét mới và độc đáo. Mỗi bài chỉ
      có 3 dòng thơ Lục Bát (câu mở đầu là câu Lục, câu
      giữa là câu Bát và câu cuối là câu Lục/6-8-6)
         Người đọc có thể đọc từ trái qua phải, từ trên
      xuống dưới - cũng có thể đọc từ phải sang trái từ dưới
      lên trên… Đều vẫn rất đúng vần thơ Lục Bát. Và tạo
      thành 3 bài thơ Lục Bát mới nữa (ba bài thơ mới này
      cũng có kết cấu: 6-8-6/ Lục-Bát-Lục)
         Như vậy, cùng với bài thơ gốc, bây giờ ta có 4 bài
      thơ Lục Bát. Chỉ với 20 từ, sắp xếp trên, dưới, phải,
      trái… mà thành 4 bài thơ. Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn
      Phú quả là một nghệ sĩ xiếc chữ tài tình biến ảo khôn
      lường. Điều đáng khâm phục là cả 4 bài thơ cho phép
      “Thuận nghịch độc” mà thành ấy đều có chung chủ đề

142         Sắc xuân
ban đầu, bài nọ bổ trợ bài kia giúp cho cảm nhận của
người đọc thêm sâu sắc.
   Nhiều bạn yêu thơ gần xa, và một số nhà nghiên cứu
đã đề xuất: Nên chăng tập hợp những sáng tác của Tiến
sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú gửi đến “Trung tâm sách
kỷ lục Việt Nam” đề nghị xem xét xác lập kỷ lục viết
thơ “Thuận nghịch độc” nhiều nhất Việt Nam cho ông
Đặng Văn Phú.
   Tuy nhiên, cũng có đôi ba người cho rằng lối thơ
“Thuận nghịch độc” chỉ là thú chơi của một số người
nhiều thời gian rảnh rỗi và có trình độ nhất định, khó
phổ cập trong quần chúng rộng rãi.
   Tôi thì lại nghĩ khác, vì đọc thơ “Thuận nghịch độc”
của Đặng Văn Phú tôi vẫn thấy đề tài muôn mặt của
đời sống, đa dạng và phong phú. Nghĩa là lối thơ ấy
vẫn đảm bảo những tiêu chí thơ, vẫn có thể tìm được
nơi neo đậu trong tâm tư người đọc, người nghe.
   Lối thơ “Thuận nghịch độc” có sớm được quảng bá
rộng rãi trong công chúng hay không còn tùy thuộc
vào sự sàng lọc của thời gian, nhưng đóng góp của
Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú rất đáng ghi nhận và
trân trọng.

                            Nhà thơ Bùi Đăng Sinh




                               ts. đặng văn phú       143
Mục lục


      Lời thưa						            5
      1. Sắc xuân						         6
      2. Nhân nghĩa						       8
      3. Trời mây						         10
      4. Hoa mai						          12
      5. Làng xóm						         14
      6. Bến đò						           16
      7. Cô gái Việt Nam					   18
      8. Duyên tơ						         20
      9. Thanh niên						       22
      10. Hoa sen						         24
      11. Hoa hồng						        26
      12. Tam Đảo						         28
      13. Núi rừng						        30
      14. Cà Mau						          32
      15. Nâng đỡ						         34
      16. Mầm non						         36
      17. Trẻ khuyết tật					   38
      18. Chợ canh						        40
      19. Yêu thương						      42
      20. Xuân sang						       44

144      Sắc xuân
21. Thọ cao						                           46
22. Chơi vui						                          48
23. Giao lưu						                          50
24. Thi đàn người cao tuổi Việt Nam			      52
25. Thu sang						                          54
26. Chơi thơ						                          56
27. Thơ rượu						                          58
28. Kéo co						                            60
29. Mở hội						                            62
30. Câu cá						                            64
31. Hè sang						                           66
32. Đông sang						                         68
33. Hoàng hôn						                         70
34. Trên ngàn						                         72
35. Ngồi thiền						                        74
36. Sông bên						                          76
37. Đồng ruộng						                        78
38. Yêu mến						                           80
39. Chăm ngoan					                         82
40. Giảm nghèo						                        84
41. Trù phú						                           86
42. Tâm hồn						                           88
43. Nông sâu						                          90
44. Măng rừng						                         92

                         ts. đặng văn phú        145
45. Hoa loa kèn đỏ					                          94
      46. Tiên tổ						                                96
      47. Hoa súng						                               98
      48. Hoa quỳnh						                              100
      49. Chông gai						                              102
      50. Vũ trường						                              104
      51. Vay mượn						                               106
      52. Quen thân						                              108
      53. Tràng An						                               110
      54. Cảm nhận bài thơ “Lệ Chi Viên”
         của Tiến sĩ Đặng Văn Phú				                  112
      55.Kính viếng anh linh các liệt sĩ				           121
      56.Cái độc đáo trong thơ “Sắc xuân”
         Của nhà thơ - Tiến sĩ Đặng Văn Phú			         132
      57. Đôi điều cảm nhận nhân đọc cuốn “Sắc xuân”
        Thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc
         của Tiến sĩ Đặng Văn Phú				                  137
      58.Lục bát ghép về thơ					                      141
      59. Đóng góp độc đáo của
         Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú			             142




146         Sắc xuân
Sắc xuân
               thơ - Ts. Đặng văn phú




              Nhà xuất bản văn học
        18 Nguyễn Trường Tộ - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại: 04.37161518 - 04.37161190, Fax: 04.38294781
            Email: tonghopvanhoc@vnn.vn
           * Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh
         290/20 Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Quận 3
      Điện thoại: 08.38469858 - Fax: 08.38483481
     * Văn phòng đại diện tại thành phố Đà Nẵng
       580 đường Núi Thành - thành phố Đà Nẵng
               Điện thoại: 0511. 3797709


              Chịu trách nhiệm xuất bản
          Chủ tịch hội đồng thành viên
               Phó Giám đốc phụ trách
                  Nguyễn Anh Vũ


              Chịu trách nhiệm nội dung
                 Nguyễn Thị Hạnh



              Biên tập		       : Ngọc Lan
              Trình bày	       : LÊ An
              Bìa		            : Thanh bình
              Sửa bản in	      : Tác giả
In 1000 cuốn, khổ 13 x 19 cm. Tại Nhà in KH&CN
   Giấy đăng kí KHXB số: 1190-2012/CXB/26-113/VH.
Số QĐXB của Giám đốc: 1087/QĐ-VH cấp ngày 5/10/2012
       In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2012.

More Related Content

What's hot (20)

Vườn Đào
Vườn ĐàoVườn Đào
Vườn Đào
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 
Tình quê
Tình quêTình quê
Tình quê
 
đườNg đời
đườNg đờiđườNg đời
đườNg đời
 
Về thăm quê nhà
Về thăm quê nhàVề thăm quê nhà
Về thăm quê nhà
 
Thương cha
Thương chaThương cha
Thương cha
 
Thu cam
Thu camThu cam
Thu cam
 
Thu cam 1
Thu cam 1Thu cam 1
Thu cam 1
 
100 bai tho hay nhat the ky xx 0604
100 bai tho hay nhat the ky xx 0604100 bai tho hay nhat the ky xx 0604
100 bai tho hay nhat the ky xx 0604
 
Nặng tình
Nặng tìnhNặng tình
Nặng tình
 
Tình nghĩa làng quê
Tình nghĩa làng quêTình nghĩa làng quê
Tình nghĩa làng quê
 
đêM trăng
đêM trăngđêM trăng
đêM trăng
 
Tập thơ " Hương tình"
Tập thơ " Hương tình"Tập thơ " Hương tình"
Tập thơ " Hương tình"
 
Nhớ nguồn - Lê Giang
Nhớ nguồn - Lê GiangNhớ nguồn - Lê Giang
Nhớ nguồn - Lê Giang
 
Gió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quêGió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quê
 
Một thoáng vùng quê
Một thoáng vùng quêMột thoáng vùng quê
Một thoáng vùng quê
 
Nhớ nguồn
Nhớ nguồnNhớ nguồn
Nhớ nguồn
 
Ký Ức Thời Gian
Ký Ức Thời GianKý Ức Thời Gian
Ký Ức Thời Gian
 
Vườn Đào
Vườn ĐàoVườn Đào
Vườn Đào
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 

Similar to Sắc Xuân (20)

Thơ
ThơThơ
Thơ
 
Vudactrungky
VudactrungkyVudactrungky
Vudactrungky
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 
Hương xuânđất việt.
Hương xuânđất việt.Hương xuânđất việt.
Hương xuânđất việt.
 
Đóa hồng sen
Đóa hồng senĐóa hồng sen
Đóa hồng sen
 
Tập thơ " Hương tình"
Tập thơ " Hương tình"Tập thơ " Hương tình"
Tập thơ " Hương tình"
 
Việt nam quê hương tôi
Việt nam quê hương tôiViệt nam quê hương tôi
Việt nam quê hương tôi
 
Tuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị Tỉnh
Tuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị TỉnhTuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị Tỉnh
Tuyển tập những bài thơ của Nhà thơ Vũ Thị Tỉnh
 
10 40 dep giac mo hoa
10 40 dep giac mo hoa  10 40 dep giac mo hoa
10 40 dep giac mo hoa
 
Thơ Đường và tranh
Thơ Đường và tranhThơ Đường và tranh
Thơ Đường và tranh
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 
Thoduongvatranhtau a
Thoduongvatranhtau aThoduongvatranhtau a
Thoduongvatranhtau a
 
Ca co
Ca coCa co
Ca co
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 
Thơ Ngô Toàn - Chè Xanh
Thơ Ngô Toàn - Chè XanhThơ Ngô Toàn - Chè Xanh
Thơ Ngô Toàn - Chè Xanh
 
Một thời hương cốm
Một thời hương cốmMột thời hương cốm
Một thời hương cốm
 
Hương vị tình yêu
Hương vị tình yêuHương vị tình yêu
Hương vị tình yêu
 
Buc tranh que
Buc tranh queBuc tranh que
Buc tranh que
 
Thiên trường vãn vọng - Côn sơn ca
Thiên trường vãn vọng - Côn sơn caThiên trường vãn vọng - Côn sơn ca
Thiên trường vãn vọng - Côn sơn ca
 
thơ
thơthơ
thơ
 

More from Thi đàn Việt Nam (18)

Lòng mẹ
Lòng mẹLòng mẹ
Lòng mẹ
 
Những lá thư tình thế kỷ 21
Những lá thư tình thế kỷ 21Những lá thư tình thế kỷ 21
Những lá thư tình thế kỷ 21
 
Tình yêu-người-lính
Tình yêu-người-línhTình yêu-người-lính
Tình yêu-người-lính
 
Tát nước gầu đôi
Tát nước gầu đôiTát nước gầu đôi
Tát nước gầu đôi
 
Lời hẹn vườn hoa
Lời hẹn vườn hoaLời hẹn vườn hoa
Lời hẹn vườn hoa
 
Tập truyện ngắn: Tình yêu người lính
Tập truyện ngắn: Tình yêu người línhTập truyện ngắn: Tình yêu người lính
Tập truyện ngắn: Tình yêu người lính
 
Gió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quêGió thổi chiều quê
Gió thổi chiều quê
 
Tâm sự thường ngày
Tâm sự thường ngàyTâm sự thường ngày
Tâm sự thường ngày
 
Tập thơ " Cánh cầu bay"
Tập thơ " Cánh cầu bay"Tập thơ " Cánh cầu bay"
Tập thơ " Cánh cầu bay"
 
Bia tho chia se
Bia tho chia seBia tho chia se
Bia tho chia se
 
4 trang anh
4 trang anh4 trang anh
4 trang anh
 
Nhận cổ tức
Nhận cổ tứcNhận cổ tức
Nhận cổ tức
 
Nq&tb
Nq&tbNq&tb
Nq&tb
 
Biên bản 2015
Biên bản 2015Biên bản 2015
Biên bản 2015
 
Nghị quyết 2015
Nghị quyết 2015Nghị quyết 2015
Nghị quyết 2015
 
Bckt mediplast 2014
Bckt mediplast 2014Bckt mediplast 2014
Bckt mediplast 2014
 
Chuong trinh
Chuong trinhChuong trinh
Chuong trinh
 
Quy che dai hoi
Quy che dai hoiQuy che dai hoi
Quy che dai hoi
 

Sắc Xuân

  • 1. Sắc xuân thơ
  • 2.
  • 3. Ts. Đặng văn phú Sắc xuân Thơ Lục bát hai chiều Thuận nghịch độc nhà xuất bản văn học Hà Nội - 2012
  • 4.
  • 5. Lời thưa Hai chiều thuận nghịch dám làm Lục bát tách bốn thích ham diệu huyền Đam mê xúc cảm tạo nên Lưu thêm kỳ tích đẹp nền văn chương. Một mình gắng sức thân thương Tâm hồn lắng đọng vấn vương lâu dài Tạo nên nền tảng tương lai Mọi người thưởng thức miệt mài đêm thâu Cảm ơn nhận xét sắc sâu Động viên tác giả đi đầu thành công. Để bạn đọc dễ hiểu, Tác giả tách một bài thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc thành 4 bài lục bát: Bài 1: Đọc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Bài 2: Đọc từ phải sang trái, từ dưới lên trên. Bài 3: Đọc từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Bài 4: Đọc từ trái sang phải, từ dưới lên trên. Toàn tập thơ gồm 53 bài, Tác giả tách thành 212 bài. Thể thơ khó và nhiều mới mẻ nên không tránh khỏi thiếu sót, mong nhận được sự ưu ái và cảm thông của bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn! ts. đặng văn phú 5
  • 6. Sắc xuân Đào mai lẫn quyện chim đàn Cao bay vào chốn sắc xuân xoay vần Trao đưa báu vật nước dân. Dân nước vật báu đưa trao Vần xoay xuân sắc chốn vào bay cao Đàn chim quyện lẫn mai đào. 6 Sắc xuân
  • 7. Đàn chim quyện lẫn mai đào Vần xoay xuân sắc chốn vào bay cao Dân nước vật báu đưa trao. Trao đưa báu vật nước dân Cao bay vào chốn sắc xuân xoay vần Đào mai lẫn quyện chim đàn. ts. đặng văn phú 7
  • 8. Nhân nghĩa Nhân nghĩa thắm đượm người đời Phần thêm an ổn đẹp lời vui tươi Phân tâm ẩn hiện hợt hời. Hời hợt hiện ẩn tâm phân Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần Đời người đượm lắm nghĩa nhân. 8 Sắc xuân
  • 9. Đời người đượm thắm nghĩa nhân Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần Hời hợt hiện ẩn tâm phân. Phân tâm ẩn hiện hợt hời Phần thêm an ổn đẹp lời vui tươi Nhân nghĩa thắm đượm người đời. ts. đặng văn phú 9
  • 10. Trời mây Trời mây quyện lẫn nước trong Ơi ai thời nhớ thắm nồng ước mong Vơi đầy tốt lúa vàng ong. Ong vàng lúa tốt đầy vơi Mong ước nồng thắm nhớ thời ai ơi Trong nước lẫn quyện mây trời. 10 Sắc xuân
  • 11. Trong nước lẫn quyện mây trời Mong ước nồng thắm nhớ thời ai ơi Ong vàng lúa tốt đầy vơi. Vơi đầy tốt lúa vàng ong Ơi ai thời nhớ thắm nồng ước mong Trời mây quyện lẫn nước trong. ts. đặng văn phú 11
  • 12. Hoa mai Bông tuyết trắng muốt hoa mai Trông ngắm đồng điệu sánh vai sắc tài Ông bà mãi thú hoa khai. Khai hoa thú mãi bà ông Tài sắc vai sánh điệu đồng ngắm trông Mai hoa muốt trắng tuyết bông. 12 Sắc xuân
  • 13. Mai hoa muốt trắng tuyết bông Tài sắc vai sánh điệu đồng ngắm trông Khai hoa thú mãi bà ông. Ông bà mãi thú hoa khai Trông ngắm đồng điệu sánh vai sắc tài Bông tuyết trắng muốt hoa mai. ts. đặng văn phú 13
  • 14. Làng xóm Đông vui bản xóm tràn lan Đồng tâm mong đợi vẹn toàn dân an Phong sương cố gắng vượt tràn. Tràn vượt gắng cố sương phong An dân toàn vẹn đợi mong tâm đồng Lan tràn xóm bản vui đông. 14 Sắc xuân
  • 15. Lan tràn xóm bản vui đông An dân toàn vẹn đợi mong tâm đồng Tràn vượt gắng cố sương phong. Phong sương cố gắng vượt tràn Đồng tâm mong đợt vẹn toàn dân an Đông vui bản xóm tràn lan. ts. đặng văn phú 15
  • 16. Bến đò Xưa xa nhớ mãi đầy đò Mùa qua đưa đón sóng to thăm dò Mưa rơi gánh nặng âu lo. Lo âu nặng gánh rơi mưa Dò thăm to sóng đón đưa qua mùa Đò đầy mãi nhớ xa xưa. 16 Sắc xuân
  • 17. Đò đầy mãi nhớ xa xưa Dò thăm to sóng đón đưa qua mùa Lo âu nặng gánh rơi mưa. Mưa rơi gánh nặng âu lo Mùa qua đưa đón sóng to thăm dò Xưa xa nhớ mãi đầy đò. ts. đặng văn phú 17
  • 18. Cô gái Việt Nam Xinh tươi đẹp gái Việt Nam Minh thông tình thắm việc làm mê đam Mình trong đức sáng xanh lam. Lam xanh sáng đức trong mình Đam mê làm việc thắm tình thông minh Nam Việt gái đẹp tươi xinh. 18 Sắc xuân
  • 19. Nam Việt gái đẹp tươi xinh Đam mê làm việc thắm tình thông minh Lam xanh sáng đức trong mình. Mình trong đức sáng xanh lam Minh thông tình thắm việc làm mê đam Xinh tươi đẹp gái Việt Nam. ts. đặng văn phú 19
  • 20. Duyên tơ Duyên tơ bám sát lạ thường Yên bình miền đất thịnh cường ngát hương Hiền hòa đất biển yêu thương. Thương yêu biển đất hòa hiền Hương ngát cường thịnh đất miền bình yên Thường lạ sát bám tơ duyên. 20 Sắc xuân
  • 21. Thường lạ sát bám tơ duyên Hương ngát cường thịnh đất miền bình yên Thương yêu biển đất hòa hiền. Hiền hòa đất biển yêu thương Yên bình miền đất thịnh cường ngát hương Duyên tơ bám sát lạ thường. ts. đặng văn phú 21
  • 22. Thanh niên Hanh thông tiến bước vượt đầu Tranh đấu thành quả đức giàu trí sâu Lành an đất nước thỉnh cầu. Cầu thỉnh nước đất an lành Sâu trí giàu đức quả thành đấu tranh Đầu vượt bước tiến thông hanh. 22 Sắc xuân
  • 23. Đầu vượt bước tiến thông hanh Sâu trí giàu đức quả thành đấu tranh Cầu thỉnh nước đất an lành. Lành an đất nước thỉnh cầu Tranh đấu thành quả đức giàu trí sâu Hanh thông tiến bước vượt đầu. ts. đặng văn phú 23
  • 24. Hoa sen Hồng sen mát dịu hồ trên Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền Sông nước sóng lướt êm êm. Êm êm lướt sóng nước sông Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông Trên hồ dịu mát sen hồng. 24 Sắc xuân
  • 25. Trên hồ dịu mát sen hồng Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông Êm êm lướt sóng nước sông. Sông nước sóng lướt êm êm Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền Hồng sen mát dịu hồ trên. ts. đặng văn phú 25
  • 26. Hoa hồng Hồng hoa sắc đẹp mượt mà Bông đơm lồng cánh đậm đà thơm xa Trồng vun đắp xới sương pha. Pha sương xới đắp vun trồng Xa thơm đà đậm cánh lồng đơm bông Mà mượt đẹp sắc hoa hồng. 26 Sắc xuân
  • 27. Mà mượt đẹp sắc hoa hồng Xa thơm đà đậm cánh lồng đơm bông Pha sương xới đắp vun trồng. Trồng vun đắp xới sương pha Bông đơm lồng cánh đậm đà thơm xa Hồng hoa sắc đẹp mượt mà. ts. đặng văn phú 27
  • 28. Tam Đảo Mây sương quyện lẫn núi ngàn Đầy vơi may rủi vẹn an dây đàn Say mê tiết khí lan tràn. Tràn lan khí tiết mê say Đàn dây an vẹn rủi may vơi đầy Ngàn núi lẫn quyện sương mây. 28 Sắc xuân
  • 29. Ngàn núi lẫn quyện sương mây Đàn dây an vẹn rủi may vơi đầy Tràn lan khí tiết mê say. Say mê tiết khí lan tràn Đầy vơi may rủi vẹn an dây đàn Mây sương quyện lẫn núi ngàn. ts. đặng văn phú 29
  • 30. Núi rừng Sương mây quyện lẫn núi rừng Thương yêu đường vượt đón mừng vượng hưng Vương tơ sợi nhớ rưng rưng. Rưng rưng nhớ sợi tơ vương Hưng vượng mừng đón vượt đường yêu thương Rừng núi lẫn quyện mây sương. 30 Sắc xuân
  • 31. Rừng núi lẫn quyện mây sương Hưng vượng mừng đón vượt đường yêu thương Rưng rưng nhớ sợi tơ vương. Vương tơ sợi nhớ rưng rưng Thương yêu đường vượt đón mừng vượng hưng Sương mây quyện lẫn núi rừng. ts. đặng văn phú 31
  • 32. Cà Mau Trời mây lướt sóng phương nam Vơi đầy thời nhớ sắc chàm màu lam Cười tươi dịu nhẹ thì thầm. thầm thì nhẹ dịu tươi cười Lam màu chàm sắc nhớ thời đầy vơi Nam phương sóng lướt mây trời. 32 Sắc xuân
  • 33. Nam phương sóng lướt mây trời Lam màu chàm sắc nhớ thời đầy vơi Thầm thì nhẹ dịu tươi cười. Cười tươi dịu nhẹ thì thầm Vơi đầy thời nhớ sắc chàm màu lam Trời mây lướt sóng phương nam. ts. đặng văn phú 33
  • 34. Nâng đỡ Nâng đỡ bé nhỏ tươi xinh Vàng quí mang đến sáng tinh đẹp hình Sang cao giữ được yên bình. Bình yên được giữ cao sang Hình đẹp tinh sáng đến mang quí vàng Xinh tươi nhỏ bé đỡ nâng. 34 Sắc xuân
  • 35. Xinh tươi nhỏ bé đỡ nâng Hình đẹp tinh sáng đến mang quí vàng Bình yên được giữ cao sang. Sang cao giữ được yên bình Vàng quí mang đến sáng tinh đẹp hình Nâng đỡ bé nhỏ tươi xinh. ts. đặng văn phú 35
  • 36. Mầm non Mầm tươi trí não trước sau Tâm trong đầm ấm sắc sâu tuyến đầu Làm nên sáng đẹp bền lâu. Lâu bền đẹp sáng nên làm Đầu tuyến sâu sắc ấm đầm trong tâm Sau trước não trí tươi mầm. 36 Sắc xuân
  • 37. Sau trước não trí tươi mầm Đầu tuyến sâu sắc ấm đầm trong tâm Lâu bền đẹp sáng nên làm. Làm nên sáng đẹp bền lâu Tâm trong đầm ấm sắc sâu tuyến đầu Mầm tươi trí não trước sau. ts. đặng văn phú 37
  • 38. Trẻ khuyết tật Đùa chơi múa nhảy vui cười Dua thêu mùa được đẹp đời xanh tươi Xua tan vợi bớt buồn vơi. Vơi buồn bớt vợi tan xua Tươi xanh đời đẹp được mùa thêu dua Cười vui nhảy múa chơi đùa. 38 Sắc xuân
  • 39. Cười vui nhảy múa chơi đùa Tươi xanh đời đẹp được mùa thêu dua Vơi buồn bớt vợi tan xua. Xua tan vợi bớt buồn vơi Dua thêu mùa được đẹp đời xanh tươi Đùa chơi múa nhảy vui cười. ts. đặng văn phú 39
  • 40. Chợ canh Xanh vàng đủ loại nhiều màu Nhanh mua thành giá ước cầu bán mau Sành sỏi lựa chọn hàng đầu. Đầu hàng chọn lựa sỏi sành Mau bán cầu ước giá thành mua nhanh Màu nhiều loại đủ vàng xanh. 40 Sắc xuân
  • 41. Màu nhiều loại đủ vàng xanh Mau bán cầu ước giá thành mua nhanh Đầu hàng chọn lựa sỏi sành. Sành sỏi lựa chọn hàng đầu Nhanh mua thành giá ước cầu bán mau Xanh vàng đủ loại nhiều màu. ts. đặng văn phú 41
  • 42. Yêu thương Yêu thương hiện rõ dỗi hờn Thêu dệt điều nhớ thả hồn nước non Khêu gợi cảm xúc vẹn tròn. Tròn vẹn xúc cảm gợi khêu Non nước hồn thả nhớ điều dệt thêu Hờn dỗi rõ hiện thương yêu. 42 Sắc xuân
  • 43. Hờn dỗi rõ hiện thương yêu Non nước hồn thả nhớ điều dệt thêu Tròn vẹn xúc cảm gợi khêu. Khêu gợi cảm xúc vẹn tròn Thêu dệt điều nhớ thả hồn nước non Yêu thương hiện rõ dỗi hờn. ts. đặng văn phú 43
  • 44. Xuân sang Xuân sang đón nhận trăm hoa Tràn sương vân trắng thuận hòa nắng pha An lành mải miết ngâm nga. Nga ngâm miết mải lành an Pha nắng hòa thuận trắng vân sương tràn Hoa trăm nhận đón sang xuân. 44 Sắc xuân
  • 45. Hoa trăm nhận đón sang xuân Pha nắng hòa thuận trắng vân sương tràn Nga ngâm miết mải lành an. An lành mải miết ngâm nga Tràn sương vân trắng thuận hòa nắng pha Xuân sang đón nhận trăm hoa. ts. đặng văn phú 45
  • 46. Thọ cao Già rồi thọ tuổi gần trăm Xa thăm bà cháu tháng năm nhiều lần Xa gần nghĩa nặng lặng thầm. Thầm lặng nặng nghĩa gần xa Lần nhiều năm tháng cháu bà thăm xa Trăm gần tuổi thọ rồi già. 46 Sắc xuân
  • 47. Trăm gần tuổi thọ rồi già Lần nhiều năm tháng cháu bà thăm xa Thầm lặng nặng nghĩa gần xa. Xa gần nghĩa nặng lặng thầm Xa thăm bà cháu tháng năm nhiều lần Già rồi thọ tuổi gần trăm. ts. đặng văn phú 47
  • 48. Chơi vui Chơi vui múa nhảy đô sòn Tươi cười ngời sáng đắp dồn cháu con Đời đời tiếp bước vàng son. Son vàng bước tiếp đời đời Con cháu dồn đắp sáng ngời cười tươi Sòn đô nhảy múa vui chơi. 48 Sắc xuân
  • 49. Sòn đô nhảy múa vui chơi Con cháu dồn đắp sáng ngời cười tươi Son vàng bước tiếp đời đời. Đời đời tiếp bước vàng son Tươi cười ngời sáng đắp dồn cháu con Chơi vui múa nhảy đô sòn. ts. đặng văn phú 49
  • 50. Giao lưu Đêm thâu đón nhận em anh Thêm vui mềm dẻo đọc nhanh thơ sành Xem ra thắm đượm tươi xanh. Xanh tươi đượm thắm ra xem Sành thơ nhanh đọc dẻo mềm vui thêm Anh em nhận đón thâu đêm. 50 Sắc xuân
  • 51. Anh em nhận đón thâu đêm Sành thơ nhanh đọc dẻo mềm vui thêm Xanh tươi đượm thắm ra xem. Xem ra thắm đượm tươi xanh Thêm vui mềm dẻo đọc nhanh thơ sành Đêm thâu đón nhận em anh. ts. đặng văn phú 51
  • 52. Thi đàn người cao tuổi Việt Nam Thi đàn nét đẹp Việt Nam Thì thầm suy ngẫm việc làm sâu thâm Vi vu lắng đọng trong tâm. Tâm trong đọng lắng vu vi Thâm sâu làm việc ngẫm suy thầm thì Nam Việt đẹp nét đàn thi. 52 Sắc xuân
  • 53. Nam Việt đẹp nét đàn thi Thâm sâu làm việc ngẫm suy thầm thì Tâm trong đọng lắng vu vi. Vi vu lắng đọng trong tâm Thì thầm suy ngẫm việc làm sâu thâm Thi đàn nét đẹp Việt Nam. ts. đặng văn phú 53
  • 54. Thu sang Hoa cúc đón nhận thu sang Hòa giao xoa dịu nắng vàng chuyển mang Đa tình đứng ngắm sao trăng. Trăng sao ngắm đứng tình đa Mang chuyển vàng nắng dịu xoa giao hòa Sang thu nhận đón cúc hoa. 54 Sắc xuân
  • 55. Sang thu nhận đón cúc hoa Mang chuyển vàng nắng dịu xoa giao hòa Trăng sao ngắm đứng tình đa. Đa tình đứng ngắm sao trăng Hòa giao xoa dịu nắng vàng chuyển mang Hoa cúc đón nhận thu sang. ts. đặng văn phú 55
  • 56. Chơi thơ Chơi vui lắng đọng tâm hồn Thơi thảnh lời nói góp dồn yêu con Cười tươi xúc cảm vẹn tròn. Tròn vẹn cảm xúc tươi cười Con yêu dồn góp nói lời thảnh thơi Hồn tâm đọng lắng vui chơi. 56 Sắc xuân
  • 57. Hồn tâm đọng lắng vui chơi Con yêu dồn góp nói lời thảnh thơi Tròn vẹn cảm xúc tươi cười. Cười tươi xúc cảm vẹn tròn Thơi thảnh lời nói góp dồn yêu con Chơi vui lắng đọng tâm hồn. ts. đặng văn phú 57
  • 58. Thơ rượu Thơ rượu ấp ủ tuôn trào Mơ trong chờ đợi dạt dào nghiêng chao Tơ duyên lắng đọng dâng cao. Cao dâng đọng lắng duyên tơ Chao nghiêng dào dạt đợi chờ trong mơ Trào tuôn ủ ấp rượu thơ. 58 Sắc xuân
  • 59. Trào tuôn ủ ấp rượu thơ Chao nghiêng dào dạt đợi chờ trong mơ Cao dâng đọng lắng duyên tơ. Tơ duyên lắng đọng dâng cao Mơ trong chờ đợi dạt dào nghiêng chao Thơ rượu ấp ủ tuôn trào. ts. đặng văn phú 59
  • 60. Kéo co Co kéo tục lệ dân làng Lo chăm hò hát được nàng kia sang Tô thêm nét đẹp danh vang. Vang danh đẹp nét thêm tô Sang kia nàng được hát hò chăm lo Làng dân lệ tục kéo co. 60 Sắc xuân
  • 61. Làng dân lệ tục kéo co Sang kia nàng được hát hò chăm lo Vang danh đẹp nét thêm tô. Tô thêm nét đẹp danh vang Lo chăm hò hát được nàng kia sang Co kéo tục lệ dân làng. ts. đặng văn phú 61
  • 62. Mở hội Làng dân mở hội vui xuân Tăng cao sàng lọc đẹp dần thơ văn Nàng ta góp sức chuyên cần. Cần chuyên sức góp ta nàng Văn thơ dần đẹp lọc sàng cao tăng Xuân vui hội mở dân làng. 62 Sắc xuân
  • 63. Xuân vui hội mở dân làng Văn thơ dần đẹp lọc sàng cao tăng Cần chuyên sức góp ta nàng. Nàng ta góp sức chuyên cần Tăng cao sàng lọc đẹp dần thơ văn Làng dân mở hội vui xuân. ts. đặng văn phú 63
  • 64. Câu cá Câu thả đứng cạnh bên ao Đâu đây rầu rĩ lướt lao rào rào Cầu trên tĩnh lặng ra vào. Vào ra lặng tĩnh trên cầu Rào rào lao lướt rĩ rầu đây đâu Ao bên cạnh đứng thả câu. 64 Sắc xuân
  • 65. Ao bên cạnh đứng thả câu Rào rào lao lướt rĩ rầu đây đâu Vào ra lặng tĩnh trên cầu. Cầu trên tĩnh lặng ra vào Đâu đây rầu rĩ lướt lao rào rào Câu thả đứng cạnh bên ao. ts. đặng văn phú 65
  • 66. Hè sang Hè sang gọi tiếng ve ve Tre lũy lề chỉnh cản che vó bè Mê say mát mặt ngồi kề. Kề ngồi mặt mát say mê Bè vó che cản chỉnh tề lũy tre Ve ve tiếng gọi sang hè. 66 Sắc xuân
  • 67. Ve ve tiếng gọi sang hè Bè vó che cản chỉnh tề lũy tre Kề ngồi mặt mát say mê. Mê say mát mặt ngồi kề Tre lũy tề chỉnh cản che vó bè Hè sang gọi tiếng ve ve. ts. đặng văn phú 67
  • 68. Đông sang Đông sang giá lạnh thân hình Trông xem đồng lúa nhuộm mình vàng tinh Sông bên gái đẹp tươi xinh. Xinh tươi đẹp gái bên sông Tinh vàng mình nhuộm lúa đồng xem trông Hình thân lạnh giá sang đông. 68 Sắc xuân
  • 69. Hình thân lạnh giá sang đông Tinh vàng mình nhuộm lúa đồng xem trông Xinh tươi đẹp gái bên sông. Sông bên gái đẹp tươi xinh Trông xem đồng lúa nhuộm mình vàng tinh Đông sang giá lạnh thân hình. ts. đặng văn phú 69
  • 70. Hoàng hôn Vàng nhạt chiếu khoảng miền Tây Vang xa làng xóm đó đây trâu bầy Loang chiều tỏa đám khói mây. Mây khói đám tỏa chiều loang Bầy trâu đây đó xóm lành xa vang Tây miền khoảng chiếu nhạt vàng. 70 Sắc xuân
  • 71. Tây miền khoảng chiếu nhạt vàng Bầy trâu đây đó xóm làng xa vang Mây khói đám tỏa chiều loang. Loang chiều tỏa đám khói mây Vang xa làng xóm đó đây trâu bầy Vàng nhạt chiếu khoảng miền Tây. ts. đặng văn phú 71
  • 72. Trên ngàn Xanh xanh lá biếc cây ngàn Anh chị dành góp nghĩa nhân lưu phần Thanh cao tiếp nhận an nhàn. Nhàn an nhận tiếp cao thanh Phần lưu nhân nghĩa góp dành chị anh Ngàn cây biếc lá xanh xanh. 72 Sắc xuân
  • 73. Ngàn cây biếc lá xanh xanh Phần lưu nhân nghĩa góp dành chị anh Nhàn an nhận tiếp cao thanh. Thanh cao tiếp nhận an nhàn Anh chị dành góp nghĩa nhân lưu phần Xanh xanh lá biếc cây ngàn. ts. đặng văn phú 73
  • 74. Ngồi thiền Ngồi thiền tĩnh lặng sắc không Tôi anh bồi đắp nhủ lòng hanh thông Đồi bên ẩn hiện tâm đồng. Đồng tâm hiện ẩn bên đồi Thông hanh lòng nhủ đắp bồi anh tôi Không sắc lặng tĩnh thiền ngồi. 74 Sắc xuân
  • 75. Không sắc lặng tĩnh thiền ngồi Thông hanh lòng nhủ đắp bồi anh tôi Đồng tâm hiện ẩn bên đồi. Đồi bên ẩn hiện tâm đồng Tôi anh bồi đắp nhủ lòng hanh thông Ngồi thiền tĩnh lặng sắc không. ts. đặng văn phú 75
  • 76. Sông bên Sông bên sóng nước hiền hòa Đồng tâm mong ước sắc hoa chói lòa Đông vui sớm tối lại qua. Qua lại tối sớm vui đông Lòa chói hoa sắc ước mong tâm đồng Hòa hiền nước sóng bên sông. 76 Sắc xuân
  • 77. Hòa hiền nước sóng bên sông Lòa chói hoa sắc ước mong tâm đồng Qua lại tối sớm vui đông. Đông vui sớm tối lại qua Đồng tâm mong ước sắc hoa chói lòa Sông bên sóng nước hiền hòa. ts. đặng văn phú 77
  • 78. Đồng ruộng Đồng ruộng sớm tối chuyên cần Thông hanh dòng nước bón phân an nhàn Bông đơm trĩu nặng nhiều cân. Cân nhiều nặng trĩu đơm bông Nhàn an phân bón nước dòng hanh thông Cần chuyên tối sớm ruộng đồng. 78 Sắc xuân
  • 79. Cần chuyên tối sớm ruộng đồng Nhàn an phân bón nước dòng hanh thông Cân nhiều nặng trĩu đơm bông. Bông đơm trĩu nặng nhiều cân Thông hanh dòng nước bón phân an nhàn Đồng ruộng sớm tối chuyên cần. ts. đặng văn phú 79
  • 80. Yêu mến Yêu em sớm tối lo chăm Nhiều mong thêu dệt tháng năm nuôi tằm Chiều chiều tĩnh lặng thanh âm. Âm thanh lặng tĩnh chiều chiều Tằm nuôi năm tháng dệt thêu mong nhiều Chăm lo tối sớm em yêu. 80 Sắc xuân
  • 81. Chăm lo tối sớm em yêu Tằm nuôi năm tháng dệt thêu mong nhiều Âm thanh lặng tĩnh chiều chiều. Chiều chiều tĩnh lặng thanh âm Nhiều mong thêu dệt tháng năm nuôi tằm Yêu em sớm tối lo chăm. ts. đặng văn phú 81
  • 82. Chăm ngoan Chăm ngoan thấu suốt tháng ngày Thăm nom đằm thắm đắm say tỏ bày Thầm lặng giúp đỡ vơi đầy. Đầy vơi đỡ giúp lặng thầm Bày tỏ say đắm thắm đằm non thăm Ngày tháng suốt thấu ngoan chăm. 82 Sắc xuân
  • 83. Ngày tháng suốt thấu ngoan chăm Bày tỏ say đắm thắm đằm nom thăm Đầy vơi đỡ giúp lặng thầm. Thầm lặng giúp đỡ vơi đầy Thăm nom đằm thắm đắm say tỏ bày Chăm ngoan thấu suốt tháng ngày. ts. đặng văn phú 83
  • 84. Giảm nghèo Trao đưa giúp tiếp lui nghèo Nao lòng chào đón đến theo giữa đèo Cao thanh sáng đẹp trong veo. Veo trong đẹp sáng thanh cao Đèo giữa theo đến đón chào lòng nao Nghèo lui tiếp giúp đưa trao. 84 Sắc xuân
  • 85. Nghèo lui tiếp giúp đưa trao Đèo giữa theo đến đón chào lòng nao Veo trong đẹp sáng thanh cao. Cao thanh sáng đẹp trong veo Nao lòng chào đón đến theo giữa đèo Trao đưa giúp tiếp lui nghèo. ts. đặng văn phú 85
  • 86. Trù phú Mênh mông tốt lúa đồng xa Kênh con dềnh nước mượt mà quê ta Thênh thênh hát tiếp câu ca. Ca câu tiếp hát thênh thênh Ta quê mà mượt nước dềnh con kênh Xa đồng lúa tốt mông mênh. 86 Sắc xuân
  • 87. Xa đồng lúa tốt mông mênh Ta quê mà mượt nước dềnh con kênh Ca câu tiếp hát thênh thênh. Thênh thênh hát tiếp câu ca Kênh con dềnh nước mượt mà quê ta Mênh mông tốt lúa đồng xa. ts. đặng văn phú 87
  • 88. Tâm hồn Êm ru mát dịu tâm hồn Đêm thâu thềm dưới sức dồn chăm con Em yêu nốt nhạc đô sòn. Sòn đô nhạc nốt yêu em Con chăm dồn sức dưới thềm thâu đêm Hồn tâm dịu mát ru êm. 88 Sắc xuân
  • 89. Hồn tâm dịu mát ru êm Con chăm dồn sức dưới thềm thâu đêm Sòn đô nhạc nốt yêu em. Em yêu nốt nhạc đô sòn Đêm thâu thềm dưới sức dồn chăm con Êm ru mát dịu tâm hồn. ts. đặng văn phú 89
  • 90. Nông sâu Nông sâu khó hiểu đo lòng Hồng tươi bông đẹp uốn cong trên đồng Sông bên ngã bóng nhiều thông. Thông nhiều bóng ngã bên sông Đồng trên cong uốn đẹp bông tươi hồng Lòng đo hiểu khó sâu nông. 90 Sắc xuân
  • 91. Lòng đo hiểu khó sâu nông Đồng trên cong uốn đẹp bông tươi hồng Thông nhiều bóng ngã bên sông. Sông bên ngã bóng nhiều thông Hồng tươi bông đẹp uốn cong trên đồng Nông sâu khó hiểu đo lòng. ts. đặng văn phú 91
  • 92. Măng rừng Măng mầm mọc mới trên rừng Làng dân mang đổi lạc vừng ăn chung Màng mơ lúa gạo tỉnh bừng. Bừng tỉnh gạo lúa mơ màng Chung ăn vừng lạc đổi mang dân làng Rừng trên mới mọc mầm măng. 92 Sắc xuân
  • 93. Rừng trên mới mọc mầm măng Chung ăn vừng lạc đổi mang dân làng Bừng tỉnh gạo lúa mơ màng. Màng mơ lúa gạo tỉnh bừng Làng dân mang đổi lạc vừng ăn chung Măng mầm mọc mới trên rừng. ts. đặng văn phú 93
  • 94. Hoa loa kèn đỏ Loa kèn đỏ sẫm màu tươi Hoa đẹp xòa cánh thích người ngắm chơi Lòa chói tỏa ánh nơi nơi. Nơi nơi ánh tỏa chói lòa Chơi ngắm người thích cánh xòa đẹp hoa Tươi màu sẫm đỏ kèn loa. 94 Sắc xuân
  • 95. Tươi màu sẫm đỏ kèn loa Chơi ngắm người thích cánh xòa đẹp hoa Nơi nơi ánh tỏa chói lòa. Lòa chói tỏa ánh nơi nơi Hoa đẹp xòa cánh thích người ngắm chơi Loa kèn đỏ sẫm màu tươi. ts. đặng văn phú 95
  • 96. Tiên tổ Tiên tổ hiển thánh thiêng linh Thiên địa truyền phát đức sinh ân tình Liên hồi sáng dạ anh minh. Minh anh dạ sáng hồi liên Tình ân sinh đức phát truyền địa thiên Linh thiêng thánh hiển tổ tiên. 96 Sắc xuân
  • 97. Linh thiêng thánh hiển tổ tiên Tình ân sinh đức phát truyền địa thiên Minh anh dạ sáng hồi liên. Liên hồi sáng dạ anh minh Thiên địa truyền phát đức sinh ân tình Tiên tổ hiển trách thiêng linh. ts. đặng văn phú 97
  • 98. Hoa súng Màu tím rộng trải trên hồ Đâu đây cầu ước bản đồ vẽ thô Giàu sang thích thú điểm tô. Tô điểm thú thích sang giàu Thô vẽ đồ bản ước cầu đây đâu Hồ trên trải rộng tím màu. 98 Sắc xuân
  • 99. Hồ trên trải rộng tím màu Thô vẽ đồ bản ước cầu đây đâu Tô điểm thú thích sang giàu. Giàu sang thích thú điểm tô Đâu đây cầu ước bản đồ vẽ thô Màu tím rộng trải bên hồ. ts. đặng văn phú 99
  • 100. Hoa quỳnh Màu trắng hiện rõ đơm bông Sâu sắc đầu cuối suốt thông được lòng Thâu đêm ước nguyện ngóng trông. Trông ngóng nguyện ước đêm thâu Lòng được thông suốt cuối đầu sắc sâu Bông đơm rõ hiện trắng màu. 100 Sắc xuân
  • 101. Bông đơm rõ hiện trắng màu Lòng được thông suốt cuối đầu sắc sâu Trông ngóng nguyện ước đêm thâu. Thâu đêm ước nguyện ngóng trông Sâu sắc đầu cuối suốt thông được lòng Màu trắng hiện rõ đơm bông. ts. đặng văn phú 101
  • 102. Chông gai Chông gai cắm được dưới hầm Đồng dân mong ước giặc tầm vướng đâm Vòng quanh trốn chạy xuyên tâm. Tâm xuyên chạy trốn quanh vòng Đâm vướng tầm giặc ước mong dân đồng Hầm dưới được cắm gai chông. 102 Sắc xuân
  • 103. Hầm dưới được cắm gai chông Đâm vướng tầm giặc ước mong dân đồng Tâm xuyên chạy trốn quanh vòng. Vòng quanh trốn chạy xuyên tâm Đồng dân mong ước giặc tầm vướng đâm Chông gai cắm được dưới hầm. ts. đặng văn phú 103
  • 104. Vũ trường Ca múa lắc nhảy đêm thâu Khà cười ta tự buốt đầu trước sau Va chạm bệnh tật gây sầu. Sầu gây tật bệnh chạm va Sau trước đầu buốt tự ta cười khà Thâu đêm nhảy lắc múa ca. 104 Sắc xuân
  • 105. Thâu đêm nhảy lắc múa ca Sau trước đầu buốt tự ta cười khà Sầu gây tật bệnh chạm va. Va chạm bệnh tật gây sầu Khà cười ta tự buốt đầu trước sau Ca múa lắc nhảy đêm thâu. ts. đặng văn phú 105
  • 106. Vay mượn Vay mượn tốt đẹp đầy vơi Say mê ngày tháng gượng cười vui chơi Bay xa cánh mượn người đời. Đời người mượn cánh xa bay Chơi vui cười gượng tháng ngày mê say Vơi đầy đẹp tốt mượn vay. 106 Sắc xuân
  • 107. Vơi đầy đẹp tốt mượn vay Chơi vui cười gượng tháng ngày mê say Đời người mượn cánh xa bay. Bay xa cánh mượn người đời Say mê ngày tháng gượng cười vui chơi Vay mượn tốt đẹp đầy vơi. ts. đặng văn phú 107
  • 108. Quen thân Quen thân kết bạn xa gần Trên nền bền vững biết cần người thân Nên xây tốt đẹp nghĩa nhân. Nhân nghĩa đẹp tốt xây nên Thân người cần biết vững bền nền trên Gần xa bạn kết thân quen. 108 Sắc xuân
  • 109. Gần xa bạn kết thân quen Thân người cần biết vững bền nền trên Nhân nghĩa đẹp tốt xây nên. Nên xây tốt đẹp nghĩa nhân Trên nền bền vững biết cần người thân Quen thân kết bạn xa gần. ts. đặng văn phú 109
  • 110. Tràng An Tiên ông khéo tạc nhiều hang Thuyền bơi chuyên trở xếp hàng dọc ngang Duyên nên lướt sóng đẹp sang. Sang đẹp sóng lướt nên duyên Ngang dọc hàng xếp chở duyên bơi thuyền Hang nhiều tạc khéo ông Tiên. 110 Sắc xuân
  • 111. Hang nhiều tạc khéo ông Tiên Ngang dọc hàng xếp chở chuyên bơi thuyền Sang đẹp sóng lướt nên duyên. Duyên nên lướt sóng đẹp sang Thuyền bơi chuyên chở xếp hàng dọc ngang Tiên ông khéo tạc nhiều hang. ts. đặng văn phú 111
  • 112. Cảm nhận bài thơ “Lệ Chi Viên” của Tiến sĩ Đặng Văn Phú Đ ọc tập thơ Bình minh mới đây của nhà thơ - tiến sĩ Đặng Văn Phú với những sáng tạo tâm huyết và mẫu mực, tôi rất chú ý đến bài thơ Lệ Chi Viên. Bởi bài thơ chữ trắng được khắc trang trọng trên bia đá, với những nét chạm trổ rồng phượng và lư hương mà con cháu hậu sinh kính cẩn nhớ đến người xưa. Mới đọc vào nhan đề bài thơ, chúng ta đã cảm thấy một cái gì rất đẹp, diễm lệ và trong suốt, như một kỷ niệm, như dòng nước mắt kéo qua. Ba chữ Lệ - Chi - Viên đều gợi lên những nét thanh sạch, thoáng đãng và nhiều xúc cảm như tâm hồn con người. Lệ là nước mắt, chi là xương thịt thân thể, và viên là một khu vườn với cây cối thanh thoát. Tưởng như nhà thơ đang tả cảnh một công viên nào đấy. Một khu vườn đầy nước mắt! Thì đó, đây đúng là một bài thơ nhắc đến một vết thương không bao giờ lành trong lịch sử dân tộc. Đó là cái án oan của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, với rất nhiều máu và nước mắt. Đó là lý do vì sao bài thơ mở đầu bằng chữ “Lệ”. Tất nhiên, khi đặt bút viết, nhà thơ không nên gò ép, nhưng rõ ràng từ “Lệ” rất đắc địa, đã được nhà thơ cảm và đặt làm dấu báo 112 Sắc xuân
  • 113. hiệu cho một cuộc đời đau thương, oan khuất, mà cả dân tộc đã phải soi vào. Bài thơ không hề nhắc đến tên Nguyễn Trãi, nhưng đã viết rất đầy đủ về cuộc đời oanh liệt của ông. Chỉ bằng bốn câu ngắn gọn súc tích của thể tứ tuyệt, tác giả đã thể hiện được tầm vóc, chiều rộng của một cuộc đời, chiều dài của một nỗi đau, dòng nước mắt, tái hiện được không khí hãi hùng đầy máu chảy, thể hiện được lòng đau xót của nhân dân Việt Nam và thế giới đối với vị anh hùng dân tộc. Thế mới biết, sự phong phú về ý tứ và sự sâu sắc về nghệ thuật của một bài thơ tứ tuyệt như thế nào. Bất cứ người dân Việt Nam yêu nước nào cũng đã hơn một lần nhớ về Nguyễn Trãi, đau lòng và day dứt về Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi dòng dõi trung thần yêu nước, đã theo Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, viết Bình Ngô đại cáo và sáng tạo rất nhiều thơ văn, Nguyễn Trãi vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất của dân tộc ta. Vậy mà Nguyễn Trãi đã bị khép tội tru di tam tộc ở Lệ Chi Viên, vì cái chết của vua Lê Thái Tông (con Lê Lợi) có liên quan đến một người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ. Nguyễn Thị Lộ khi ấy 40 tuổi, xinh đẹp, có tài năng văn chương và đầy đủ công dung ngôn hạnh của một người phụ nữ thời đó, đã được vua Lê Thái Tông (Nguyên Long) mời vào triều làm Lễ nghi học sĩ. Rồi ts. đặng văn phú 113
  • 114. vua say đắm Nguyễn Thị Lộ và băng hà ở Lệ Chi Viên, khi đến thăm nhà Nguyễn Trãi. Dẫn giải ra như vậy để người đọc hiểu, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng lịch sử, viết về một câu chuyện khá bi thương đau xót trong lịch sử dân tộc, đã được rất nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu quan tâm và nhân dân đã ghi nhớ, ám ảnh. Vậy có khó cho tiến sĩ Đặng Văn Phú chăng? Mỗi câu, mỗi chữ của bài thơ đều mang nhiều nghĩa - tình. Hai câu thơ đầu nhà thơ dành để ca ngợi vị anh hùng dân tộc: Chí lớn tài cao lo cứu nước Tâm vàng đức quý giúp cho dân. Hai câu này đã thể hiện được tầm vóc, tài trí và tấm lòng Nguyễn Trãi với nước, với dân, với con người. Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo (Bình Ngô đại cáo). Ở đây, con người Nguyễn Trãi đã được thể hiện ở tầm bao quát, khái quát nhất ở khía cạnh công lao và nhân cách. Thiết nghĩ ai đọc đến đó cũng có thể hiểu được, có thể hiểu ít có thể hiểu nhiều về cuộc đời Nguyễn Trãi tùy theo sự am hiểu về lịch sử của họ. Viết về tiền nhân cốt nhất là trung thực, công tâm và thành kính, chứ đừng màu mè, hoa hòe hoa sói. Ở đây, hai câu thơ này đã làm được điều đó. Tôi chú ý đến hai chữ “lo” và “giúp”, vì nó rất hiện đại, đó là nỗi lòng của con người hiện đại. Nguyễn Trãi một đời lo cứu nước giúp dân, với nỗi lòng thường trực ấy. Các cặp tính từ, danh từ, động từ 114 Sắc xuân
  • 115. song hành: chí - tài - tâm - đức, lớn - cao - vàng - quý, nước - dân, lo - giúp đã làm toát lên toàn bộ cốt cách và tài năng của Nguyễn Trãi. Đọc xong hai câu này người ta nghĩ chắc đây là bài thơ thuần túy ca ngợi những người có công với nước. Nhưng hai câu thơ sau mới thật sự chạm đến cõi lòng, lột tả được bi kịch của Nguyễn Trãi. Bài thơ không những ca ngợi vị anh hùng Nguyễn Trãi, mà còn gián tiếp ngợi ca người con gái Nguyễn Thị Lộ. Nguyễn Thị Lộ - cô bán chiếu Tây Hồ, vợ người anh hùng Nguyễn Trãi hay Lễ nghi học sĩ triều Lê, từ lâu là hình ảnh đẹp trong ký ức của nhân dân ta. Nàng cũng có cùng một phẩm chất như trên, một tấm lòng vời vợi yêu thương và sẵn lòng hy sinh vì non sông đất nước, vì sự nghiệp của chồng. Nàng là người vợ yêu dấu, tri âm tri kỷ, luôn đứng sau cuộc đời Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi một lòng trung quân ái quốc, hy sinh vì đại nghĩa. Kết duyên cùng Nguyễn Trãi trong một mối tình lãng mạn, sau bao nhiêu năm cùng chồng giúp nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng, Nguyễn Thị Lộ lại cùng chồng sẻ chia cái chết thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc. Đánh giá về bà, giáo sư Vũ Khiêu khẳng định: “Ít nhất, bà cũng là người tài hoa trong văn học, sắc sảo trong chính trị, chu đáo trong ứng xử và thủy chung trong tình nghĩa”, “Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ đã dâng trọn cuộc đời phục vụ cho sự bền vững của Vương triều Lê và sự phồn vinh ts. đặng văn phú 115
  • 116. của non sông Đại Việt”. (Báo Nhân dân, 12/2005). Hai câu thơ sau diễn tả bi kịch khủng khiếp, nó gây bất ngờ, hoàn toàn đối lập với hai câu đầu: Oan gia ba họ đầu rơi sạch Tuôn lệ đau thương xót cõi trần. -Người đọc tự hỏi: Tại sao một người tài trí hết lòng vì dân vì nước mà lại “Oan gia ba họ đầu rơi sạch?”. Sửng sốt quá! Người ta muốn hiểu rõ sự tình thì phải lật giở lại nghi án Lệ Chi Viên: Triều đình nhà Lê lúc đó khép Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ vào tội giết vua, tru di tam tộc. Máu đã chảy, đầu đã rơi xuống. Câu thơ với tiết tấu nhanh mạnh gây rợn ngợp, thảm khốc, kinh ngạc, sửng sốt. “Đầu rơi sạch” chất thơ ở đấy, bi kịch ở đấy và cái hiện đại cũng ở đấy. Đầu rơi sạch là đầu rơi nhanh, rơi hết, cùng một lúc, trong thời gian ngắn! Đó là cách nói của người Thanh Hóa chăng? Chữ “sạch” ở đây đáng chú ý nhất là nghĩa của nó: “trong sạch, sạch sẽ, tinh khiết”. Chữ sạch đau đớn làm sao, trắng trợn, ngay thẳng và quyết liệt. Nó như khẳng định một làn nữa phẩm chất trung thần của Nguyễn Trãi, một lòng trung với vua, vì đại nghĩa, vì dân vị nước. Một người tài trí như Nguyễn Trãi, làm quan đến mức ấy (đại thần, Nhập nội hành khiển), có công lao và tài năng đến mức ấy, và vào lúc bấy giờ tuổi đã ngoại 60, thì thử hỏi ông còn gì ngoài một lòng khát khao giúp nước? Tuy có thể buồn vì vương triều mâu thuẫn, xáo trộn, nhưng ông không thể phản bội lại lý tưởng và sự 116 Sắc xuân
  • 117. nghiệp của mình mà đi giết vua, nhất là khi Nguyên Long lại là người tài đức. Cho nên, cái chết của vua Lê Thái Tông là do âm mưu của việc tranh giành ngôi vị của các bà phi và các quan trong vương triều mục ruỗng. “Sâu xa hơn, đó là sự ghen ghét, đố kỵ của một số không nhỏ quan lại trong triều lúc bấy giờ trước tài năng lỗi lạc và tính tình ngay thẳng, cương trực của Nguyễn Trãi - cái luôn cản trở những việc làm mờ ám của chúng.” (Nhân dân, 12/2005). Chữ “sạch” ở đây vô hình trung đã đối chọi với “bẩn”. Vì theo tâm lý của người Việt chúng ta, ta chỉ nói cái này sạch lắm là khi ta khẳng định sự “sạch” và khẳng định nó không bẩn khi nó đang có nguy cơ bị bẩn. Cái sạch lúc ấy đang kề cận rất gần cái bẩn, bị cái bẩn đe dọa, khủng bố, đồng hóa. Tôi thật sự thích thú với cái ý này của bài thơ và rất thán phục sự sâu xa của tiến sĩ Đặng Văn Phú. Về vụ án Lệ Chi Viên và hai danh nhân văn hóa nói trên đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, đánh giá lại, nó là vấn đề lớn của lịch sử. Ở bài thơ này ta chỉ xét cái tình của con người. Bài thơ của tiến sĩ Đặng Văn Phú vẫn không nhắc đến tên hai vị công thần triều Lê có công với nước như ta đã phân tích ở trên. Ở đây nhân vật trữ tình vẫn ẩn kín - cho bạn đọc có thể tự do nhìn nhận, suy tưởng, đánh giá. Vì vậy bài thơ không chỉ có một nghĩa, mà có nhiều nghĩa. Có thể, bài thơ đang nói chuyện đời, chuyện của mọi thời, mọi người. Tại sao một người có tâm có đức lớn như vậy, công lao ts. đặng văn phú 117
  • 118. như vậy, anh hùng như vậy, mà bị cuộc đời làm cho chết? Chúng ta phải làm gì? Chúng ta khao khát con người vĩ đại ấy hiểu ta, thương ta, và cho dân tộc ta, đất nước ta thêm những thành quả, những chiến thắng của tình thương và trí tuệ. Ta khao khát một lần được gặp con người đó, để quỳ lạy, để ngợi khen, để cám ơn, để sám hối! Đọc bài thơ này rồi tôi cũng trở thành một kẻ bị ám ảnh bởi số phận và cuộc đời Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Ở đây tác giả đã thành công trong việc chơi chữ chăng? “Đầu rơi sạch’. Quá đau thương thảm khốc! Một cái án oan còn vọng đến ngàn sau, biết bao ô nhục, đau lòng. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ còn có kỳ tích lớn đối với triều Lê, là đã bảo vệ, nuôi giấu được vua Lê Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này). Khi ấy, Tư Thành là con của bà Ngô Thị Ngọc Giao, thứ phi của vua, đang bị truy sát, vì sự tranh giành quyền bính. Sau này vua Lê Thánh Tông lên ngôi, nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hóa và một người coi trọng hiền tài. Vua Lê Thánh Tông đã ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho câu “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê). Một người như vậy mà phải chết vì sự ngu muội của con người, sự hà khắc của chế độ phong kiến, đó là câu hỏi lớn vấn đề lớn để cho các 118 Sắc xuân
  • 119. thế hệ sau suy ngẫm và lịch sử dân tộc tự đánh giá lại chính mình. Câu thơ cuối trải dài như một tiếng nấc đau thương đầy nước mắt của nhân dân và thế giới, thậm chí thiên nhiên cỏ cây đã nhỏ lệ tiếc thương người anh hùng Nguyễn Trãi. Oan gia ba họ đầu rơi sạch/ Tuôn lệ đau thương xót cõi trần. Câu thơ cũng có nhiều tính từ gây chú ý, gợi, nhấn mạnh được nỗi lòng. Như “tuôn” “xót”. Cái “xót” đây là xót của lệ, và dòng lệ ấy nhiều đến nỗi ngập tràn trần thế. Ta thấy nỗi lòng nhà thơ và tâm tình nhân loại được nhà thơ diễn tả rất sâu. Cái nỗi oan gia ấy, đau thương ấy, máu xương oan khốc ấy, có thể chẳng những động đến lòng người mà còn động đến lòng trời. Lệ ở đây là nước mưa hay là nước mắt. Câu thơ không cần phải rạch ròi quá. Về mặt cảm xúc và kịch tính, câu thơ này quả là xuất sắc. Phải là tâm huyết, tri ân với Nguyễn Trãi, nhà thơ mới viết được hai câu thơ như thế. Cái điều đáng nói cuối cùng là dòng lệ đau thương ấy sẽ chảy mãi mãi chẳng bao giờ vơi. Đây là một bài thơ phúng viếng, để tưởng nhớ tiền nhân, nên thiết nghĩ nó chấm phá được vài nét cũng là quý rồi. Huống hồ ở đây nó lại chấm phá được quá nhiều nét và nó diễn tả được nỗi đau có thực của các thế hệ đã tiếc thương người anh hùng. Đó là một nỗi đau chân thực, hiện hữu của tác giả và các thế hệ hậu sinh, đã được nhà thơ diễn tả rất chân thành, sát thực. ts. đặng văn phú 119
  • 120. Người đọc cũng thấy đau xót thay. Vì thế bài thơ mới gây xúc động cho bạn đọc và có được giá trị mới. Bởi có hàng ngàn học giả, nhà thơ đã viết về cuộc đời Nguyễn Trãi. Đây là một đề tài không mới, nhưng tác giả đã đem được cảm xúc của mình vào làm cho bài thơ hiện đại lên và đầy cảm xúc. Dẫu mỗi dân tộc có những trang lịch sử sai lầm và mỗi con người từng có những tháng năm tội lỗi, nhưng bao giờ cũng sẽ được nhìn nhận lại, làm lại, sửa lại. Sự làm lại con người không bao giờ là muộn. Bài thơ và tác giả quả là một tấm lòng tri ân với Nguyễn Trãi. Với cái nhìn chân thực soi rọi vào cuộc đời Nguyễn Trãi, thì bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị./. Trần Thị Ngọc Lan (Nhà xuất bản Văn học) 120 Sắc xuân
  • 121. Kính viếng ANH LINH CÁC LIỆT SĨ Đ ất nước Việt Nam ta trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trải qua bao cuộc kháng chiến gian khổ và oanh liệt, đã có biết bao thế hệ anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc. Trên đất đai sông suối của tổ tiên này, đã thấm bao xương máu những người ngã xuống, cho đất nước trường tồn và hồi sinh. Tiến sĩ Đặng Văn Phú, một bậc thầy về tâm linh, một ông tiến sĩ đa tài, qua bao nhiêu năm hoạt động khoa học và nghệ thuật, đã để lại cho đời những bài thơ tinh tế, đầy tình người. Đặc biệt, ông có biệt tài trong việc sáng tạo thể thơ thuận nghịch độc, với sức sáng tạo tươi mới và mãnh liệt, gần đây ông đã cho in rất nhiều tập thơ về thể loại này. Điều đáng chú ý trong các tập thơ đó, là trí tuệ trong sáng và tình người nồng ấm, làm người đọc rất ngạc nhiên và yêu thích. Có lẽ qua nhiều năm hoạt động tâm linh, với tài năng đặc biệt của mình, ông đã thu được tất cả những tinh hoa năng lượng, về giúp đời, giúp người và tự tỏa sáng trong thơ. Với một lòng thành kính, ông đã đi khắp đất nước, đem tài năng ts. đặng văn phú 121
  • 122. ngoại cảm của mình tìm mộ các liệt sĩ đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Sở trường lớn nhất của ông là khả năng ngoại cảm, ông tham gia hoạt động này với niềm tin lớn lao về sự bất tử của con người, của dân tộc, của lịch sử đất nước. Với ngót 400 bài thơ và gần 10 tập thơ đã ra đời, thì đó là một chiến tích về tinh thần và giá trị nghệ thuật không nhỏ của ông góp sức làm đẹp cho đời, khiến cho người đọc hết lòng khâm phục. Trên đây là một bài thơ tiêu biểu của ông kính viếng anh linh các liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn, làm theo thể thuận nghịch độc, mà ông đã gửi vào trong đó tất cả niềm tin, lòng biết ơn và sự kính trọng của mình dành cho các thế hệ liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Vì ông lựa chọn thể thơ Đường, với kiểu thuận nghịch độc rất “khó chơi” theo lời bạn đọc nhận xét, nên tôi luôn thấy những bài thơ của ông rất ấn tượng, có sự tinh luyện về câu từ và giàu chất trí tuệ, kiệm lời và chắt lọc ngôn ngữ, cấu tứ rất công phu. Nhưng thật kỳ lạ, ở những bài thơ ấy, ý thơ của ông vẫn bay bổng, phiêu diêu và nồng thắm, vượt lên câu từ, vượt lên kỹ thuật. Cũng phải thôi, mục đích của ông là cái hồn thơ, là ý tứ sâu sắc và niềm tin của ông dành cho con người. Anh linh các liệt sĩ đã hiện về trong một không gian trân trọng: 122 Sắc xuân
  • 123. Hương thơm ngát tỏa, tình đồng đội. Ở đây dường như ta thấy hiện lên trong chiều rộng và sâu của đất nước mình, những nghĩa trang hoang hoải với khói hương và màu hoa mua tím. Cũng có thể, thiên nhiên tươi đẹp ấy luôn ấp iu linh hồn các liệt sĩ. Đấy là tôi nghĩ vậy, khi đứng trước không gian câu thơ gợi mở, với tình yêu thương thủy chung giữa muôn vật và con người. Cái không gian mênh mông quá, làm lòng người hoài nhớ, chơi vơi, khi âm dương cách biệt, nhưng không gian ấy cũng đầy bao dung, đầy hương thơm và tình nghĩa con người. Tình nghĩa ấy, có lẽ vượt trên mức cá nhân, riêng tư, để đi đến một nghĩa cả sâu thẳm và bao la hơn về con người, về đất nước. Ta sẽ nghĩ về đất nước, về dân tộc, về những điều còn mất, về những người đã mất và những người còn sống, về tương lai của chúng ta. Trước mắt chúng ta như hiện ra một bình nguyên bao la với đất đai, sông suối, mặt trời, với những hy vọng về sự bất tử của con người và dân tộc, niềm hy vọng cho ngày sau. Một sợi dây tâm linh nối hiện tại, quá khứ, tương lai lại với nhau, và những nhân chứng sống của chiến tranh sẽ biết sống cuộc đời sao cho ý nghĩa, khi họ nghĩ về nền hòa bình, về những người đã khuất. Tất nhiên ở một nghĩa cụ thể hơn, ta thấy hiện ra hình ảnh những đoàn cựu chiến binh ts. đặng văn phú 123
  • 124. lặng lẽ đi thăm lại chiến trường xưa, thành kính cắm những bó hoa và hương thơm lên mộ người chiến sĩ. Đó cũng là nén tâm hương của thi sĩ Đặng Văn Phú dâng lên anh linh những người anh hùng với niềm tri ân sâu nặng. Xương máu trao đưa, góp trọn phần Hiến dâng non nước, biệt người thân. Đây là hai câu thơ đầu của bài thơ, cũng là hai câu thơ ấn tượng nhất, có chiều sâu nhất, khẳng định công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ. Câu thơ có một tầm vóc lớn, khái quát được nỗi đau thương và sự hy sinh vô điều kiện ấy. Viết về sự hy sinh của nhiều người, thậm chí của nhiều thế hệ, viết được như thế cũng là tài. Tôi cứ tần ngần trước sự uyển chuyển, tinh tế của câu thơ khi diễn tả một vấn đề quan trọng của sống còn, của sự hy sinh và dâng hiến. Sao nó diễn tả được sự hy sinh máu xương và ly biệt một đời mà lại giản dị và thanh tao đến thế? “Xương máu trao đưa, góp trọn phần”: cái “trao đưa” (thanh thản, tự nguyện) ấy là “xương máu” (sống còn, tồn tại), vậy mà nhẹ nhàng sao, như trao đưa một cành hoa, một lời hứa, một niềm hy vọng cho tương lai. Một niềm tin cho thế kỷ. Xét cho cùng trong sự tồn tại, mạng sống con người là quý nhất. Vậy mà người chiến sĩ trong một phút giây 124 Sắc xuân
  • 125. trong trẻo của đời mình, đã thanh thản “trao đưa”, với một niềm tin bộc trực và thánh thiện, đi vào cõi vĩnh hằng, để hy sinh vì cuộc sống. Vì tự do, độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Cái đáng quý ở đây không chỉ ở tâm thế trao đưa thanh thản và chủ động tự nguyện, mà sâu xa hơn là khát vọng “góp trọn phần”. Thì ra trong tâm niệm của những người chiến sĩ ấy luôn nghĩ rằng, mình phải có bổn phận đóng góp phần mình vào trong chiến thắng, vào trong cái chung của dân tộc, để giành độc lập tự do cho nhân dân ta, có như thế mới hoàn thành trách nhiệm của mình. Cụm từ “góp trọn phần” có nhiều cái lạ. Lạ ở chữ “trọn”. Nghĩa là trọn vẹn cái phần mình, mới an tâm yên lòng thanh thản, cũng có thể “trọn” là hy sinh tất cả những gì mình có, trọn tình vẹn nghĩa với đất nước non sông. Và cao hơn, có sự đóng góp này, mới tròn vẹn cái nghĩa cao cả, mới trọn niềm vui cho mai sau. Câu thơ đầu tiên khép lại, tưởng thế đã kiệt cùng, trọn vẹn. Nhưng không, câu thơ thứ hai còn mở ra, bao la hơn: Hiến dâng non nước, biệt người thân. Câu thơ đầu có đau đớn hy sinh, tuy nhiên đó chỉ là cái phần thế tục, được mất, sống còn. Câu thứ hai đã nâng lển tầm vóc tâm linh. Sự hy sinh ấy chính là một hành vi cao cả, một lý tưởng rõ ràng: “hiến ts. đặng văn phú 125
  • 126. dâng non nước”. Ta hãy chú đến từ “hiến dâng”. Từ này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt với nghĩa thiêng liêng, mang một giá trị lớn lao của đạo lý dân tộc, hoặc của tầm vóc cộng đồng. Từ này được bổ trợ bởi “non nước” ở đằng sau, càng nâng thêm cái thiêng liêng cao quý, mang tầm quốc thể của sự hy sinh. Câu thơ chia làm hai nửa, một bên là non nước, một bên là người thân. Bên nghĩa bên tình, cái gánh nặng nghĩa tình sao mà luyến lưu, xót xa, đau đớn. Biệt người thân, biệt đến muôn đời. Cái chữ “biệt” ở đây cũng rất đặc biệt, nó được chọn lọc rất kỹ, diễn tả được nhiều chữ khác, như ly biệt, tiễn biệt, đi mãi không về, mà cũng là từ biệt. Một bên là non nước, một bên là cốt nhục, người thân, nhưng cái non nước cái lý tưởng luôn được đặt lên trước cái cá nhân, riêng tư của bản thân mình. Câu thơ ngắn gọn súc tích, dùng những từ đẹp, sang trọng, nhưng lại chân thật, không hề ồn ào, bi lụy, không tình cảm sướt mướt. “Biệt người thân” một tâm nguyện giản dị chân thực đến xao lòng. Thiết nghĩ, để nói được hai khía cạnh lớn của lòng hy sinh cao cả, mà chỉ diễn tả trong một câu thơ 7 chữ, là kiệm lời, súc tích biết mấy, nó gợi đến sự hy sinh âm thầm lặng lẽ của những người lính trong cuộc kháng chiến vừa qua. 126 Sắc xuân
  • 127. Hai câu thơ đầu và hai câu thơ cuối của bài vô hình trung đã tạo ra một khoảng cách, một cách đoạn lớn về không gian và thời gian, cả chiều sâu tâm thức và sự đổi thay của bối cảnh xã hội. Mới đó mà đã mấy chục năm, mới đó mà đã là cả một đời người, là ly biệt. Giờ đây những đồng đội đang sống trong nền hòa bình, trong thời kỳ đổi mới mãnh liệt của đất nước, đã lặn lội tìm lại mộ cho những người đồng đội xưa, cùng thắp nén tâm hương tưởng nhớ người đã khuất với lòng biết ơn vô hạn: Hương thơm ngát tỏa, tình đồng đội Thương nhớ anh em, suối lệ giàn. Cái thương nhớ ở đây có cả hai chiều. Người đang sống nhớ thương người đã khuất đã hy sinh, và người đã khuất cũng còn vong linh đầy ánh sáng để nhớ thương người còn sống. Một không gian bao la không giới hạn, gợi lên bao ý nghĩa của cuộc sinh tồn, bao lời gửi gắm và mong ước của người còn sống cho những người đã khuất và thế hệ mai sau. Nỗi thương nhớ đó thành suối lệ giàn chảy vào chiều sâu đất nước, lệ chảy tràn như suối vậy thôi. Nghĩa là nỗi nhớ thương vô tận vô biên, không giới hạn, không có thời gian, không gian nào nữa. Hay chính là, không gian ở đây đã chuyển thành không gian tâm thức rồi. Tâm thức yêu thương, giao cảm, ts. đặng văn phú 127
  • 128. biết ơn. Chính là khi nhìn về quá khứ, về sự hy sinh, về những gì đã mất, con người ta mới thấm thía được sâu sắc về cuộc đời, sự tồn tại và ý nghĩa của sự sống mình. Và bài thơ đã diễn đạt trọn vẹn một cuộc giao tiếp về tâm linh quan trọng, là bước ngoặt trong nhận thức của con người. Ta hãy chú ý tới cách đặt các từ xương máu - góp trọn -hiến dâng - biệt - hương thơm - tình - thương nhớ - suối. Tất cả các từ đó được đặt ở trước một số từ khác, đây cũng là dụng ý nghệ thuật và cảm quan của tác giả, muốn đặt những tình cảm, danh dự của người lính và tình nghĩa đồng đội lên chỗ trang trọng nhất. Cách chọn chữ, đặt chữ của tiến sĩ Đặng Văn Phú là hết sức thận trọng. Cho nên ta cảm nhận được bài thơ rất chân thành, giản dị, nhưng vẫn vô cùng trang trọng, kính cẩn đối với anh linh các liệt sĩ. Phải một người tâm huyết mới làm được điều ấy. Trên đây chỉ là cảm nhận bài thơ khi đọc xuôi. Còn khi đọc ngược thì bài thơ lại có vẻ mênh mang hơn vì được cái âm “ương” ở cuối câu bổ trợ. Trên cơ sở bài thơ đọc xuôi, khi đọc ngược bài thơ vẫn mượt mà đằm thắm và có thêm ánh sáng mới. Giàn lệ suối, em anh nhớ thương Đội đồng tình, tỏa ngát thơm hương Thân người biệt, nước non dâng hiến 128 Sắc xuân
  • 129. Phần trọn góp, đưa trao máu xương. Đó là biệt tài, công phu của tiến sĩ Đặng Văn Phú trong thể thơ thuận nghịch độc. Quả thật, người tâm huyết với thể thơ này phải rất kỳ công. Phải chọn lọc từ ngữ, sắp xếp sao cho cho nhuần nhị về ngôn ngữ, cấu tứ, độ tương xứng của bài thơ khi đọc xuôi và đọc ngược. Vậy mà ta thấy những bài thơ thuận nghịch độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú vẫn đậm chất thơ, vẫn bay bổng, phiêu du, đầy ánh sáng. Tiêu biểu như bài thơ viếng anh linh các liệt sĩ trên đây. Bài thơ vút lên, tỏa sáng bằng những vần trắc, và trải dài mênh mang bằng những vần bằng. Có lẽ cách đọc các bài thơ thuận nghịch độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú là nên đọc chậm rãi, nhâm nhi, chiêm ngưỡng từng từ ngữ trong một bố trí hài hòa, và quan trọng phải đọc bài thơ trong một niềm tin chan chứa của tâm linh. Vì vậy, bài thơ không chỉ có một nghĩa mà còn có nhiều nghĩa, nhiều ý tứ phái sinh, tùy theo thời điểm tiếp nhận và cá thể tiếp nhận. Cũng bởi thế, thuận nghịch độc là một thể thơ phức tạp và kỳ thú. Là một con em của thế hệ này, được sống trong hòa bình và ổn định của đất nước, được học hành thăng tiến trong thời đại mới, bài thơ trên thật sự gợi cho tôi nhiều nghĩ suy và xúc động. Lòng thầm ts. đặng văn phú 129
  • 130. nhớ thương và biết ơn cha ông đã đổ máu xương để gìn giữ độc lập tự do, giữ gìn giang sơn Tổ quốc. Mong một lần được đến với Trường Sơn thắp nén hương thơm lên mồ liệt sĩ, để hiểu rõ cuộc đời mình đang sống và biết sống tốt hơn. Có lẽ phải cảm nhận mỗi lời thơ của tiến sĩ Đặng Văn Phú bằng niềm tin tâm linh sáng trong mà ông đã thổi vào, đó cũng là điều đặc biệt mà ông đã làm được với đất trời này, với con người. Văn học nghệ thuật chính là giá trị của tinh thần, mang tính biểu tượng, tinh túy chắt lọc từ cuộc sống của nhân loại. Chỉ cần có một niềm tin về giá trị đó, cũng làm biến đổi cuộc đời ta. Đứng trước mỗi bài thơ Đường luật thuận nghịch độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú, người ta sẽ phải khám phá từng từ, rồi xem độ liên kết và sự xoay chuyển của nó trong một cấu tứ chung, nên thường thấy rất thú vị và mệt. Nó không đơn thuần như một bài thơ ở thể tự do. Thể thơ thuận nghịch độc là một thể thơ rất khó, vì ở bài thơ đọc ngược, nó lại lộn ngược cả câu, cả bài, lộn ngược từ đầu đến cuối, mà không được lỗi ở chữ nào. Hơn nữa nếu bạn đọc chưa có nhiều kinh nghiệm với thể thơ này, thì nó thực sự là một thử thách đối với họ. Đối với người viết bài này, do chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp cận với thể thơ thuận nghịch độc, vì thế nó thật sự là một thử thách, nên không dám lạm bàn. Tôi xin dừng bài 130 Sắc xuân
  • 131. viết tại đây, hy vọng trong tương lai được sự chỉ dạy của tiến sĩ Đặng Văn Phú và đông đảo bạn đọc gần xa về thể loại này./. TRẦN THỊ NGỌC LAN (Nhà xuất bản Văn học) ts. đặng văn phú 131
  • 132. Cái độc đáo trong thơ “Sắc xuân” Của nhà thơ - Tiến sĩ Đặng Văn Phú C ó thể nói ấn tượng đầu tiên của mỗi người khi tiếp xúc với những sáng tác của nhà thơ – tiến sĩ Đặng Văn Phú. Có lẽ ông là người độc nhất trong đội ngũ các nhà thơ không chuyên nhưng lại chuyên viết về thơ dạng thuận nghịch độc. Ông đã từng xuất bản hai tập thơ Đường luật thuận nghịch độc, một tập thơ lục bát thuận nghịch độc và đã gây được tiếng vang trên văn đàn Việt Nam. Đó là các tập thơ: Hương vị cuộc đời (NXB Văn học – 2005), Trăng ngàn (NXB Hội nhà văn – 2009), Vườn đào (NXB Hội nhà văn – 2010), Bình minh (NXB Văn học). Lần này ông cho ra đời tập thơ “Sắc xuân” lục bát hai chiều thuận nghịch độc. Theo tác giả thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc được tách thành 4 cách đọc trong tập thơ này là: “Hai chiều thuận nghịch dám làm Lục bát tách bốn thích ham diệu huyền” Thật không có gì ngạc nhiên khi các bạn văn, bạn thơ đã dành cho ông những lời ngợi ca thân tình. Nhà báo – nhà văn Đức Ánh đã nhận xét: “Tác giả là người biết sáng tác và thưởng thức cái hay cái đẹp, tinh tế mà nhuần nhuyễn, có tâm hồn sâu lắng, là người có trí tuệ, đã làm được kỳ tích trong thơ ca 132 Sắc xuân
  • 133. hiện nay…” Nhà thơ Nguyễn Đỗ Lưu qua cảm nghĩ “Trăng ngàn” có lời khen: “Ông là một người đa tài, mang kiến thức một tiến sỹ hóa học để hóa nghiệm trong thơ mình, thành một thứ thần thông đảo thể lật vần xoay ngược giao cảm của độc giả, đòi độc giả đi vòng để tới đỉnh thơ ông.” Nhà thơ Lê Thanh Long trong tập: “Bạn thơ và tôi” (NXB Lao động 2012) viết về nhà thơ Đặng Văn Phú: “Đánh giá thơ thuận nghịch độc là đánh giá ở sự kỳ công, kiên trì của tác giả. Thưởng thức thơ thuận nghịch độc là thưởng thức sự độc đáo của loại hình thơ này.” Như thế có thể nói chúng ta đều mặc nhiên công nhận sự kiên trì, độc đáo của tác giả khi trình diễn tác phẩm của mình trên nhiều góc độ thể hiện. Trong tập thơ “Sắc xuân” gồm 53 bài, chủ yếu thể lục bát 3 câu, được thể hiện mỗi bài 4 cách đọc: xuôi, nghịch từ phải sang trái và ngược lại. Như vậy, 53 bài thơ, nếu theo đủ cách có thể đọc thành 212 bài mang 636 câu thơ. Khoan hãy nói về nội dung mà tác giả đề cập khá phong phú, thể hiện cảm nhận về nhiều vấn đề thuộc phong cảnh, tình cảm hoắc về xã hội (giảm nghèo, chăm ngoan, ruộng đồng…) ta đi sâu hơn về hình thức thể hiện. Trước hết về thể thơ lục bát mà ông trình bày lần ts. đặng văn phú 133
  • 134. này đều là bài thơ 3 câu, đây cũng là một sự độc đáo trong cách thể hiện. Lâu nay ta quen với các dạng thơ lục bát, song thất lục bát, thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ 7 chữ…Nay ông Đặng Văn Phú đưa ra thơ lục bát chỉ 3 câu (3 dòng) thì thật mới lạ. Bởi vì thơ là một hình thức nghệ thuật, một loại sáng tác văn học có vần điệu, súc tích, ý cô đọng, gây cảm xúc cho người đọc. Thông thường một bài thơ phải có đủ các phần, nhưng quan trọng hơn là đủ tứ nói lên cái cốt lõi của chủ đề ta định diễn tả. Dưới hình thức 3 câu, ông Đặng Văn Phú muốn đưa chúng ta vào thế giới của hình thức thể hiện mới, lấy ý thơ là chính. Do vậy, đọc những bài thơ ta thấy ý tứ của tác giả muốn diễn tả trong một bài thơ. Nhưng hơn thế, mỗi bài thơ tác giả muốn chúng ta đọc theo 4 cách. Đã có thời kỳ người ta nêu lên 8 cách, 10 cách đọc, riêng ông Đặng Văn Phú đã giới thiệu một bài thơ với 20 cách đọc (Trăng ngàn – NXB Hội nhà văn 2009) xem thế đủ thấy bản thân tác giả đã có những suy nghĩ khá độc đáo. Đi sâu vào những bài thơ trong tập “Sắc xuân” tác giả trình bày mỗi bài thơ có 4 cách đọc: thuận, phải sang trái dưới lên, phải sang trái trên xuống, trái sang phải từ dưới lên. Mỗi bài đọc xong có thể là một bài có tứ độc lập, nhiều bài có sự tìm tòi khá công phu. Cái hay của tập thơ này, là các bài thơ đều thanh thoát, lưu loát khi đọc xuôi và đọc ngược đều có ý nghĩa. 134 Sắc xuân
  • 135. Trong “Sắc xuân” có nhiều tứ dù đọc theo cách nào cũng thấy hay: Thí dụ: Bài Hoa Sen Hồng sen mát dịu hồ trên Trông nom đồng ruộng lúa xen đẹp nền Sông nước sóng lướt êm êm Êm êm lướt sóng nước sông Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông Trên hồ dịu mát sen hồng Trên hồ dịu mát sen hồng Nền đẹp xen lúa ruộng đồng nom trông Êm êm lướt sóng nước sông Sông nước sóng lướt êm êm Trông nom đòng ruộng lúa xen đẹp nền Hồng xen dịu mát hồ trên Và các bài trong tập thơ “Sắc xuân” đều như thế. Tác giả đã dành bao tâm huyết, thời gian để có những bài thơ đầy tâm tình như vậy. Điều đó thật đáng chân trọng. Tất nhiên, khi cố làm được diều này, không hẳn đã đạt điều khác như ý muốn, đó là do năng lực, trí tuệ chỉ có đến thế. Nhưng để mọi người có sự đồng cảm với mình, có thể nói đã thành công rồi. Ông Đặng Văn Phú vốn là một nhà khoa học, hơn ts. đặng văn phú 135
  • 136. thế nữa lại là một Lương y gia truyền, cái nghiệp nghề cần đến sự chi ly, tỷ mỷ của những phân tử hóa nghiệm hoặc ly lạng trong việc cất từng thang thuốc, đòi hỏi con người không được sai sót. Ý thức được như vậy, ông chọn cách làm thơ thuận nghịch độc thể Đường luật hoặc lục bát như “Sắc xuân”, chắc chắn phải qua nhiều chăn trở. Vì thế chúng ta – bạn thơ với ông, mong nhà thơ - Tiến sĩ - thầy thuốc Đặng Văn Phú sẽ có nhiều dạng thơ hay và độc đáo hơn nữa, để thực hiện mong ước của ông: “Đam mê xúc cảm tạo nên Lưu thêm kỳ tích đẹp nền văn chương” Nhà thơ Lê Hùng Phó Chủ tịch Thường trực CLB Thơ Việt Nam 136 Sắc xuân
  • 137. Đôi điều cảm nhận nhân đọc cuốn “Sắc xuân” Thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc của tiến sĩ Đặng Văn Phú Đ ọc tập “Bình minh”, thơ lục bát thuận nghịch độc của TS.Đặng Văn Phú do nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2011, tôi có nêu ý kiến là việc sử dụng thể loại này có cái khó là chỉ cần sơ ý một chút trong việc sắp xếp từ là sẽ có lệch lạc ngay trong nhịp điệu và câu thơ sẽ trở nên trúc trắc khó nghe. Đọc toàn bộ tập thơ chúng ta vui mừng thấy nhà thơ Đặng Văn Phú đã vượt qua được khó khăn đó. Dẫn chứng rất nhiều, chúng tôi chỉ đơn cử một bài, bài “Xuân sang” ở trang 32 ra làm ví dụ. Bài thơ làn như sau: “Đua chen táo quất ai nhường Mua xem hàng bán vị hương thơm lừng Giang tay đón tết vui mừng Sang xuân trời ấm vượng hưng hoa đào Thời xuân nhớ lại lòng nao” Bài thơ nêu lên quang cảnh tươi vui của đất trời khi mùa xuân tới, lòng người rộn lên bao niềm xúc cảm trước mọi cảnh vật dường như hoàn toàn đổi mới. Đọc ngược lại: “Nao lòng lại nhớ xuân thời ts. đặng văn phú 137
  • 138. Đào hoa hưng vượng ấm thời xuân sang Mừng vui tết đón tay giang Lừng thơm hương vị bán hàng xem mua Nhường ai quất táo chen đua” Người đọc vẫn cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, lòng như bừng sáng trước cảnh đất trời tươi tắn trong buổi xuân sang, nơi đâu cũng nhộn nhịp, tưng bừng như cành quất, đào khoe sắc. Làm sao đọc xuôi, đọc ngược bài thơ, cảm xúc của người đọc vẫn không hề thay đổi. Rõ ràng nhà thơ đã sử dụng ngọn bút của mình rất mực tài tình, không phải bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể làm như thế được. Và nhiều người đã phải công nhận là nhà thơ Đặng Văn Phú quả đã có một biệt tài trong việc sáng tác loại thơ này. Có lẽ do được đông đảo bạn đọc hoan nghênh, nên chỉ ít lâu sau, nhà thơ lại cho xuất bản tập “Sắc xuân”, thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc. Lần nay, người đọc không phải chỉ đọc ngược lại bài thơ , mà còn bất cứ một bài thơ nào trong tập, tác giả cũng có thể tách thành bốn bài khác nhau và như vậy là như tác giả đã giới thiệu trong lời đầu sách, toàn tập thơ gồm 53 bài, tác giả tách thành hai trăm mười hai bài. Nhìn chung, thì đề tài tập thơ này cũng vẫn như đề tài các tập thơ trước. Vẫn là sự vận chuyển không ngừng, không nghỉ của thời gian: xuân đi, hè lại, thu 138 Sắc xuân
  • 139. đến, đông sang. Vẫn là cảnh hội hè, đình đám của mọi miền: miền ngược, miền xuôi trên khắp chiều dài đất nước. Vẫn là cảnh những người lao động trên đồng ruộng hay trong nhà máy, ở đâu cũng tận tâm tận lực làm cho đất nước mình thêm đẹp, thêm tươi. Vẫn là cảnh của những trẻ tật nguyền luôn được những người chung quanh chăm sóc, đang vui vẻ nô đùa. Có thêm chăng, có lẽ cũng chỉ là lòng tri ân “tiên tổ hiển thánh thiêng linh” vốn đã là tập tục tốt đẹp ở hầu hết mọi nơi, và nhất là việc đề cao nhân nghĩa “thắm đặm tình người” được đề cập đến ngay trong bài thơ thứ hai của tập thơ này. Khi nhận xét về tập “Bình minh”, chúng tôi cũng có viết: “Mỗi điểm cần chú ý là một tấm lòng nhân hậu của nhà thơ. Thật vậy, trong cuộc sống đời thường ông vốn là người tôn trọng nghĩa nhân, luôn luôn có trước có sau.” Tôn trọng nghĩa nhân như vậy, nên khi cuộc kháng chiến thắng lợi đất nước sạch bóng quân thù, mọi người đều nô nức đến nghiêng mình trước những trang nghĩa liệt đã không nề hi sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc và thế là: “Thôn quê khắp nẻo buôn làng Luôn luôn ngời sáng núi vàng viếng thăm” (Viếng thăm - trang 70 - Bình minh) Hình ảnh hết sức xúc động này là biểu hiện sáng ngời lòng nhân nghĩa của nhân dân ta. ts. đặng văn phú 139
  • 140. Lòng nhân nghĩa ấy đưuọc nhà thơ – tiến sỹ Đặng Văn Phú cô đúc lại trong bài “Nhân nghĩa”: “Nghĩa nhân thắm đượm người đời” Những lời thơ đặt ngang ở bài thơ thứ hai của tập thơ được nhắc lại nhiều lần gây ắn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, mọi người đều nhận thức rất rõ là đời người có “đượm thắm nghĩa nhân” thì mới: “Tươi vui lời đẹp ổn an thêm phần” Nhân nghĩa - tr.2 Người đọc cảm ơn tác giả đã nêu lên được một điều mọi người nên luôn luôn ghi nhớ để cuộc sống thêm phần ý nghĩa và để góp phần xây dựng hữu hiệu Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Tháng 6 năm 2012 Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Xuân Dương 140 Sắc xuân
  • 141. Lục bát ghép về thơ Tiến sĩ Đặng Văn Phú, chơi thơ Sắc xuân, nhân nghĩa, duyên tơ, tâm hồn Chơi vui, thơ rượu, hoàng hôn Yêu mến, làng xóm, mầm non, hoa quỳnh. Đồng ruộng, trù phú, núi rừng Chợ Canh, mở hội, vũ trường, Tràng An Thi đàn, Người cao tuổi Việt Nam Giao lưu, sông bến, trên ngàn, trời mây Lên Tam Đảo, vào Cà Mâu Bến đò, câu cá, nông sâu, ngồi thiền Thọ cao, nâng đỡ, thanh niên Giúp trẻ khuyết tật, yêu thương, giảm nghèo Xuân, hè, thu đến đông theo Chăm ngoan, cô gái Việt Nam thêm bền Hoa mai, hoa súng, hoa sen Hoa loa kèn đỏ, lại thêm hoa hồng Chông gai, co kéo, măng rừng Vay mượn, xuôi ngược đọc mừng tập thơ! 8/2012 Nhà thơ Trần Đức Chính ts. đặng văn phú 141
  • 142. Đóng góp độc đáo của Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú T iến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú là người say mê lối thơ “Thuận nghịch độc”. Sau thi phẩm đầu tay: “Hương vị cuộc đời” - Thơ Đường luật (NXB Văn học 2005), tác giả cho in liền 3 tập: “Trăng ngàn” - Thơ Đường luật Thuận Nghịch độc (NXB Hội nhà văn 2009); “Bình minh” - Thơ Lục Bát Thuận nghịch độc (NXB Văn học 2011); năm Nhâm Thìn 2012, tác giả lại công bố tập “Sắc xuân” - Thơ Lục Bát hai chiều Thuận nghịch độc (NXB Văn học 2012) Thơ Lục Bát hai chiều “Thuận nghịch độc” ở tập “Sắc xuân” có nhiều nét mới và độc đáo. Mỗi bài chỉ có 3 dòng thơ Lục Bát (câu mở đầu là câu Lục, câu giữa là câu Bát và câu cuối là câu Lục/6-8-6) Người đọc có thể đọc từ trái qua phải, từ trên xuống dưới - cũng có thể đọc từ phải sang trái từ dưới lên trên… Đều vẫn rất đúng vần thơ Lục Bát. Và tạo thành 3 bài thơ Lục Bát mới nữa (ba bài thơ mới này cũng có kết cấu: 6-8-6/ Lục-Bát-Lục) Như vậy, cùng với bài thơ gốc, bây giờ ta có 4 bài thơ Lục Bát. Chỉ với 20 từ, sắp xếp trên, dưới, phải, trái… mà thành 4 bài thơ. Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú quả là một nghệ sĩ xiếc chữ tài tình biến ảo khôn lường. Điều đáng khâm phục là cả 4 bài thơ cho phép “Thuận nghịch độc” mà thành ấy đều có chung chủ đề 142 Sắc xuân
  • 143. ban đầu, bài nọ bổ trợ bài kia giúp cho cảm nhận của người đọc thêm sâu sắc. Nhiều bạn yêu thơ gần xa, và một số nhà nghiên cứu đã đề xuất: Nên chăng tập hợp những sáng tác của Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú gửi đến “Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam” đề nghị xem xét xác lập kỷ lục viết thơ “Thuận nghịch độc” nhiều nhất Việt Nam cho ông Đặng Văn Phú. Tuy nhiên, cũng có đôi ba người cho rằng lối thơ “Thuận nghịch độc” chỉ là thú chơi của một số người nhiều thời gian rảnh rỗi và có trình độ nhất định, khó phổ cập trong quần chúng rộng rãi. Tôi thì lại nghĩ khác, vì đọc thơ “Thuận nghịch độc” của Đặng Văn Phú tôi vẫn thấy đề tài muôn mặt của đời sống, đa dạng và phong phú. Nghĩa là lối thơ ấy vẫn đảm bảo những tiêu chí thơ, vẫn có thể tìm được nơi neo đậu trong tâm tư người đọc, người nghe. Lối thơ “Thuận nghịch độc” có sớm được quảng bá rộng rãi trong công chúng hay không còn tùy thuộc vào sự sàng lọc của thời gian, nhưng đóng góp của Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú rất đáng ghi nhận và trân trọng. Nhà thơ Bùi Đăng Sinh ts. đặng văn phú 143
  • 144. Mục lục Lời thưa 5 1. Sắc xuân 6 2. Nhân nghĩa 8 3. Trời mây 10 4. Hoa mai 12 5. Làng xóm 14 6. Bến đò 16 7. Cô gái Việt Nam 18 8. Duyên tơ 20 9. Thanh niên 22 10. Hoa sen 24 11. Hoa hồng 26 12. Tam Đảo 28 13. Núi rừng 30 14. Cà Mau 32 15. Nâng đỡ 34 16. Mầm non 36 17. Trẻ khuyết tật 38 18. Chợ canh 40 19. Yêu thương 42 20. Xuân sang 44 144 Sắc xuân
  • 145. 21. Thọ cao 46 22. Chơi vui 48 23. Giao lưu 50 24. Thi đàn người cao tuổi Việt Nam 52 25. Thu sang 54 26. Chơi thơ 56 27. Thơ rượu 58 28. Kéo co 60 29. Mở hội 62 30. Câu cá 64 31. Hè sang 66 32. Đông sang 68 33. Hoàng hôn 70 34. Trên ngàn 72 35. Ngồi thiền 74 36. Sông bên 76 37. Đồng ruộng 78 38. Yêu mến 80 39. Chăm ngoan 82 40. Giảm nghèo 84 41. Trù phú 86 42. Tâm hồn 88 43. Nông sâu 90 44. Măng rừng 92 ts. đặng văn phú 145
  • 146. 45. Hoa loa kèn đỏ 94 46. Tiên tổ 96 47. Hoa súng 98 48. Hoa quỳnh 100 49. Chông gai 102 50. Vũ trường 104 51. Vay mượn 106 52. Quen thân 108 53. Tràng An 110 54. Cảm nhận bài thơ “Lệ Chi Viên” của Tiến sĩ Đặng Văn Phú 112 55.Kính viếng anh linh các liệt sĩ 121 56.Cái độc đáo trong thơ “Sắc xuân” Của nhà thơ - Tiến sĩ Đặng Văn Phú 132 57. Đôi điều cảm nhận nhân đọc cuốn “Sắc xuân” Thơ lục bát hai chiều thuận nghịch độc của Tiến sĩ Đặng Văn Phú 137 58.Lục bát ghép về thơ 141 59. Đóng góp độc đáo của Tiến sĩ - Nhà thơ Đặng Văn Phú 142 146 Sắc xuân
  • 147. Sắc xuân thơ - Ts. Đặng văn phú Nhà xuất bản văn học 18 Nguyễn Trường Tộ - Ba Đình - Hà Nội Điện thoại: 04.37161518 - 04.37161190, Fax: 04.38294781 Email: tonghopvanhoc@vnn.vn * Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh 290/20 Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Quận 3 Điện thoại: 08.38469858 - Fax: 08.38483481 * Văn phòng đại diện tại thành phố Đà Nẵng 580 đường Núi Thành - thành phố Đà Nẵng Điện thoại: 0511. 3797709 Chịu trách nhiệm xuất bản Chủ tịch hội đồng thành viên Phó Giám đốc phụ trách Nguyễn Anh Vũ Chịu trách nhiệm nội dung Nguyễn Thị Hạnh Biên tập : Ngọc Lan Trình bày : LÊ An Bìa : Thanh bình Sửa bản in : Tác giả
  • 148. In 1000 cuốn, khổ 13 x 19 cm. Tại Nhà in KH&CN Giấy đăng kí KHXB số: 1190-2012/CXB/26-113/VH. Số QĐXB của Giám đốc: 1087/QĐ-VH cấp ngày 5/10/2012 In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2012.