SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ THU HƢƠNG
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS PHẠM HỒNG THÁI
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân tôi. Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn
là trung thực, bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chứ từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Tác giả luận văn
Hà Thu Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG NHÀ NƢỚC..................................................................... 5
1.1. Khái niệm............................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về quyền con người............................................ 5
1.1.2. Khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở
Việt Nam .............................................................................................. 6
1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách
nhiệm về bồi thường nhà nước ở Việt Nam......................................... 8
1.1.4. Quan hệ pháp luật về TNBTCNN........................................................ 8
1.2. TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới .................................10
1.2.1. Quy định về TNBTCNN của một số quốc gia trên thế giới ..............10
1.2.2. Đánh giá .............................................................................................15
1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền con ngƣời trong pháp luật về
TNBTCNN ở Việt Nam....................................................................17
1.3.1. Việc xây dựng chế định TNBTCNN là phù hợp với yêu cầu của
việc bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế
chung của thế giới ..............................................................................17
1.3.2. Quá trình ra đời Luật TNBTCNN 2010 với mục đích bảo vệ tối
đa các quyền con người về BTNN ở Việt Nam cho đến nay.............19
1.4. Pháp luật TNBTCNN hiện hành ở Việt Nam................................24
1.4.1. Về đối tượng được bồi thường...........................................................25
1.4.2. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường...................................................25
1.4.3. Về quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu
bồi thường ..........................................................................................33
1.4.4. Căn cứ xác định TNBTCNN..............................................................34
1.4.5. Trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường..............................................35
1.4.6. Về các thiệt hại được bồi thường và mức bồi thường........................40
1.4.7. Việc áp dụng Luật TNBTCNN ..........................................................43
1.5. Một số điểm mới của Luật TNBTCNN so với các văn bản
quy định trƣớc đây...........................................................................44
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
CỦA NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM...................................................48
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trƣớc khi có đạo luật riêng ............48
2.2. Thực tiễn áp dụng Luật TNBTCNN và văn bản hƣớng dẫn
thi hành..............................................................................................52
2.2.1. Kết quả giải quyết bồi thường............................................................53
2.2.2. Thực trạng hạn chế, vướng mắc của Luật TNBTCNN......................54
2.2.3. Nhận diện một số sai phạm của người thi hành công vụ dẫn đến
thiệt hại giúp người dân nhận thức và tự bảo vệ quyền.....................75
2.3. Đánh giá chung về pháp luật TNBTCNN......................................80
2.3.1. Pháp luật về TNBTCNN có phù hợp với Nhà nước pháp
quyền không? ......................................................................................................80
2.3.2. Quyền con người về bồi thường nhà nước có phù hợp với pháp
luật quốc tế hay không?......................................................................81
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM ...............................86
3.1. Mục đích ban đầu khi ban hành đao luật riêng về bồi thƣờng
nhà nƣớc không đạt đƣợc................................................................88
3.2. Quan điểm về giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN.........89
3.3. Một số giải pháp bảo đảm việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con
ngƣời trong pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà
nƣớc ở Việt Nam một cách hữu hiệu..............................................90
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện thể chế..............................................................90
3.3.2. Giải pháp lâu dài về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức và hiểu biết của người dân.........................................................97
3.3.3. Xây dựng cơ quan chuyên trách bảo vệ các quyền và lợi ích của
con người về bồi thường nhà nước cấp quốc gia...............................97
3.3.4. Hợp tác quốc tế...................................................................................99
KẾT LUẬN..................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................103
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLDS : Bộ luật dân sự
BTNN : Bồi thường nhà nước
BTTH : Bồi thường thiệt hại
CQNN : Cơ quan nhà nước
QPPL : Quy phạm pháp luật
TNBT : Trách nhiệm bồi thường
TNBTCNN : Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
TNHT : Trách nhiệm hoàn trả
TTDS : Tố tụng dân sự
TTHC : Tố tụng hành chính
TTHS : Tố tụng hình sự
TTLT : Thông tư liên tịch
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
công cuộc đổi mới hiện nay là tiến tới xây dựng một Nhà nước Pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. “Quá trình
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua hành vi của đội
ngũ công chức thì một điều tất yếu là có thể gây thiệt hại cho bất kỳ cá nhân,
tổ chức nào” [30, tr.1]. Vậy nếu Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức
thì Nhà nước phải chịu TNBT thiệt hại.
Pháp luật về TNBTCNN là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, hình thành và phát triển cùng với sự đổi mới về nhận thức của
Đảng ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật để phục vụ quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Việt Nam hiện nay đã có một đạo luật riêng quy định về
TNBTCNN, cụ thể là Luật TNBTCNN 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Như vậy, về mặt thực tiễn pháp lý, Việt Nam đã thừa nhận trách nhiệm của Nhà
nước trong các trường hợp cụ thể song về mặt thực thi các quy định của pháp
luật trên thực tế đã đầy đủ, bao quát, toàn diện và hiệu quả để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân hay chưa lại là câu hỏi lớn cần được giải đáp.
Từ thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu có hệ thống về pháp luật nói
chung về TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới; tại các giai đoạn cụ thể
của Việt Nam thông qua các bản Hiến pháp và tại quy định của đạo luật riêng
về BTNN liên quan đến phạm vi bồi thường, đối tượng bồi thường, các loại
thiệt hại được bồi thường và quyền yêu cầu của người bị thiệt hại, qua đó,
nhận định được những mặt phù hợp và hạn chế của Luật; phát hiện những sai
phạm chủ yếu dẫn đến phát sinh TNBTCNN; đồng thời, đánh giá pháp luật về
TNBTCNN đã phù hợp với Nhà nước pháp quyền và phù hợp với các quy
định của Luật quốc tế hay chưa là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2
Đó là lý do để học viên lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong pháp
luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam”. Luận văn có thể sẽ là cơ
sở để xác định TNBTCNN một cách toàn diện, đầy đủ, góp phần hoàn thiện
pháp luật về TNBTCNN, làm nền tảng pháp lý cho việc bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam.
Trong đề tài này, học viên nghiên cứu chủ yếu dựa trên các nghiên cứu từ:
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Thái Phương (2006): “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước”. Luận văn này chủ yếu nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, nội
dung và quá trình thực thi pháp luật về trách nhiệm của Nhà nước.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Phạm Thị Thu Hương (2013):
“Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước ở tỉnh Hưng Yên”. Luận văn này chủ yếu
tập chung đánh giá ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân trong thực hiện pháp luật
về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong quản lý hành chính, đồng thời,
đưa ra nhiều giải pháp bảo đảm việc thực hiện pháp luật về bồi thường nhà
nước có hiệu quả.
- Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Hoàng Xuân Hoan (2013):
“Pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước”. Luận văn này nghiên cứu sâu sắc về TNBTCNN tại
một số quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, học viên còn nghiên cứu những báo cáo khoa học, bài
nghiên cứu, các bài báo, các văn bản Luật có liên quan đến BTNN, …
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu các bản Hiến pháp có quy định về BTNN,
pháp luật quốc tế về chế định BTNN, các văn bản Luật về BTNN tại một số
quốc gia và đạo luật riêng về TNBTCNN ở Việt Nam, cụ thể là Luật
3
TNBTCNN 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành, mục đích của học viên
là đưa ra được một cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các
vấn đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về
TNBTCNN tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm, giải pháp
để hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN nhằm bảo vệ, thúc đẩy quyền con
người, quyền công dân về BTNN ở nước ta trong thời gian tới.
3. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Các phương pháp
cụ thể được sử dụng để giải quyết những cấn đề đặt ra trong khóa luận này là:
tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
4. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn “Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi
thường nhà nước ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu, phân tích những cơ
sở lý luận tại một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam để khẳng định rằng
Nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ quyền con người cho những thiệt hại
mà Nhà nước đã gây ra. Từ đó, nêu lên thực tiễn việc áp dụng các quy định
của pháp luật hiện hành về bồi thường nhà nước trong yêu cầu bồi thường và
giải quyết bồi thường qua các ví dụ cụ thể, điển hình trong lĩnh vực quản lý
hành chính, tố tụng và thi hành án.
Đồng thời, Luận văn tập trung phân tích những bất cập, hạn chế của
pháp luật Việt Nam hiện hành về TNBTCNN, chỉ ra được các sai phạm chính
dẫn đến bồi thường nhà nước mà cơ quan nhà nước có thể gây ra để người
dân có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Qua đó, đánh giá
tính phù hợp của pháp luật hiện hành về TNBTCNN đối với Nhà nước pháp
quyền và đối với pháp luật quốc tế.
Sau cùng, Luận văn đưa ra quan điểm và kiến nghị góp phần hoàn thiện
pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam.
4
5. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
TNBTCNN là một vấn đề mới, chỉ mới thực sự được biết đến kể từ khi
Luật TNBTCNN năm 2010 ra đời, do đó, chưa có nhiều bài viết nghiên cứu
vấn đề này. Luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà thực tiễn
phát sinh, đánh giá được những hạn chế liên quan đến phạm vi bồi thường,
đối tượng bồi thường, thiệt hại được bồi thường và khó khăn, vướng mắc
trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại cũng
như việc áp dụng các quy định của pháp luật đối với thủ tục giải quyết bồi
thường của cơ quan có TNBT. Học viên nghiên cứu đề tài này với tham vọng
Luận văn sẽ là cẩm nang để người dân cũng như các cán bộ, công chức của cơ
quan Nhà nước nghiên cứu, vận dụng để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình,
quyền và lợi ích của Nhà nước. Đồng thời, Luận văn được hy vọng sẽ là một
phương tiện, mà thông qua đó, có tính chất tuyên truyền, giáo dục tới các đối
tượng trong xã hội đã, đang và sẽ có liên quan đến TNBTCNN.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan
đến bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước ở Việt Nam. Thêm vào đó, luận văn cũng có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứ, giảng dạy môn luật nhân quyền và các
môn học khác có liên quan ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người trong pháp luật
trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người trong pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong pháp
luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về quyền con người
1.1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn
hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của tất cả
các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên thế giới”
[52, tr.14]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực trên thế giới có
sự khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, do đó, hình thành nên rất
nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Cho đến nay, có đến “gần 50
định nghĩa về quyền con người” [52, tr.41], theo đó, mỗi định nghĩa tiếp cận
vấn đề về quyền con người khác nhau bởi lẽ mỗi định nghĩa lại phụ thuộc vào
sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân sống tại quốc gia đó, dân tộc đó.
Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con
người đã định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có
trác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ
bản của con người” [52, tr.41].
Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động
khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết
chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn
hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha,
tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ phong
kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến
6
ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con người được
hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế” [52, tr.42].
Như vậy, từ khái niệm mang cấp độ quốc tế đến khái niệm mang cấp độ
quốc gia, mà ở đây là nước Việt Nam, cho thấy dù nhìn quyền con người ở
góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ; là những
giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai
đoạn lịch sử.
1.1.1.2. Đặc điểm của quyền con người
Quyền con người có đặc điểm cơ bản của riêng nó, mà trong đó, quyền
con người mang tính phổ biến được hiểu là những quyền tự nhiên, vốn có, tất
yếu của con người khi sinh ra, được áp dụng bình đẳng, không phân biệt về
chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, thành phần, xuất thân…Đồng thời,
quyền con người còn mang tính không thể chuyển nhượng thể hiện ở việc các
quyền đó không thể bị tước đoạt hay hạn chế một các tùy tiện bởi bất cứ ai,
Nhà nước nào, chủ thể nào trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia cho
phép; quyền con người mang tính không thể phân chia, mọi quyền đều có tầm
quan trọng như nhau, việc tước bỏ hay hạn chế vát kỳ quyền con người nào
đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, gia trị và sự phát triển của con người.
Và, quyền con người mang tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, trong đó, sự vi
phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc
bảo đảm các quyền khác và ngược lại.
1.1.2. Khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở
Việt Nam
Bồi thường là việc “đền bù những tổn thất đã gây ra” [60, tr.191]. Về
7
mặt pháp lý, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do
gây thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù
những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì
vậy bồi thường thiệt hại là “hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có
hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù
tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại” [50, tr.31].
Bên cạnh đó, thiệt hại, về mặt pháp lý, là những tổn thất về tài sản, tổn thất
về tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm. Do đó, bồi thường thiệt
hại là sự khôi phục lại những tổn thất trên bằng những cách thức và tiêu chí
do pháp luật đặt ra.
Mục tiêu của Nhà nước là bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, do đó, đối với các thiệt hại gây ra trong khi thi hành công vụ cũng
phải được pháp luật bảo vệ. Như vậy, khi Nhà nước thực hiện quyền lực công
thông qua các hành vi thi hành công vụ của đội ngũ công chức mà gây thiệt
hại cho các tổ chức, cá nhân thì phải chịu TNBT. Do đó, trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù
đắp những tổn thất về uy tín, tinh thần khi người thi hành công vụ gây thiệt
hại cho các cá nhân, tổ chức trong quá trình thực thi quyền lực công/trong quá
trình thi hành công vụ. Khái niệm này có thể được hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, TNBTCNN là trách nhiệm mà trong đó Nhà
nước có nghĩa vụ bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do CQNN,
người thi hành công vụ gây ra. Nghĩa là, việc bồi thường thiệt hại được thực
hiện cho tất cả các trường hợp có thiệt hại do hành vi của cơ quan, người thi
hành công vụ nhà nước gây ra. Theo nghĩa hẹp, thì TNBTCNN là trách nhiệm
pháp lý trong đó Nhà nước có nghĩa vụ phải bồi thường cho cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại do người thi hành công vụ nhà nước gây ra.
Để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động thực hiện TNBTCNN, luôn
8
cần có sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật để bảo đảm các hoạt động
này đi đúng với các chủ trương, định hướng, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Do đó, pháp luật về TNBTCNN được hiểu là tổng thể các văn bản quy phạm
pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, từ các quy định của
Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các vấn đề khác có liên quan để thực
hiện có hiệu quả trách nhiệm này. Như vậy, pháp luật về TNBTCNN là hệ
thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do các CQNN có
thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện trên nguyên tắc thỏa thuận, bình
đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện
TNBTCNN, xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ và hoạt động quản
lý nhà nước về công tác bồi thường.
1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách
nhiệm về bồi thường nhà nước ở Việt Nam
Từ những khái niệm nêu trên về quyền con người, về TNBTCNN, học
viên cho rằng bảo vệ quyền con người trong pháp luật TNBTCNN là việc xây
dựng một hệ thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của
Đảng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thi hành công vụ giữa các CQNN có thẩm
quyền với các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có và khách quan của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
1.1.4. Quan hệ pháp luật về TNBTCNN
Có thể hiểu quan hệ pháp luật về TNBTCNN là những quan hệ phát
sinh trong quá trình thực hiện TNBTCNN và được các quy phạm pháp luật về
TNBTCNN điều chỉnh, trong đó các chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối với
nhau trên nguyên tắc bình đẳng và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Cũng
9
như các quan hệ pháp luật chuyên ngành khác, bên cạnh những đặc điểm của
quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ pháp luật về TNBTCNN có những đặc
điểm riêng như sau:
1.1.4.1. Quan hệ TNBTCNN đối với tổ chức, cá nhân trong Nhà nước
pháp quyền là quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Pháp luật Việt Nam kể từ Bộ luật Dân sự 1995 đến Hiến pháp 2013 đều
quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra, theo
đó, quan hệ BTNN là quan hệ pháp luật dân sự. Cũng có ý kiến cho rằng quan
hệ pháp luật này vừa có tính dân sự, vừa có tính hành chính vì một bên chủ
thể trong quan hệ pháp luật luôn là Nhà nước. Bởi lẽ Nhà nước khi tham gia
vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang một trong hai tư cách như một chủ
thể thông thường và tư cách của chủ thể của quyền lực công; theo đó, những
quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể mang quyền
lực công không phải là những quan hệ hợp đồng. Những quan hệ pháp luật
mà Nhà nước tham gia và nhân danh quyền lực công phải là những quan hệ
pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc về chức
năng chính của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện những hoạt động này mà
Nhà nước gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì Nhà nước sẽ phải bồi
thường. Việc bồi thường không phải do vi phạm các nghĩa vụ về hợp đồng,
chính vì vậy TNBTCNN đối với các thiệt hại gây ra bởi hoạt động công
quyền là TNBT thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.4.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Pháp luật TNBTCNN thực chất là một dạng cụ thể của TNBT thiệt hại
ngoài hợp đồng như đã phân tích ở trên, do đó, điều kiện phát sinh
TNBTCNN được xác định là phải có thiệt hại xảy ra; thiệt hại đó bị gây ra bởi
hành vi trái pháp luật; hành vi trái pháp luật được thực hiện trong quá trình thi
hành công vụ; công chức gây thiệt hại phải có lỗi cố ý hoặc vô ý và có mối
10
quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra. Chính vì vậy,
ngoài những điểm giống nhau thì giữa TNBTCNN và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những điểm khác biệt, chứa đựng những yếu
tố đặc thù về xác định TNBTCNN bao gồm: không quy định lỗi là một căn cứ
xác định TNBTCNN; hành vi gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là trái pháp luật; hành vi trái
pháp luật gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải thuộc các trường
hợp được bồi thường mà Luật quy định.
1.2. TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới
Chế định pháp luật về TNBTCNN là một chế định khá phức
tạp và có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến chính sách pháp lý
của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, với nỗ lực mong muốn bảo vệ triệt để
các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi
hoạt động công quyền; kiểm soát, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp
luật, xu hướng lạm dụng quyền lực của những người thực hiện công
quyền mà việc xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật này là
hoàn toàn cần thiết [34, tr.68].
1.2.1. Quy định về TNBTCNN của một số quốc gia trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới, chế định pháp luật về BTNN của các nước có
hai mô hình chính bao gồm nhóm quốc gia có đạo luật riêng về BTNN và
nhóm các quốc gia không có đạo luật riêng về BTNN. Việc quy định
TNBTCNN trong một văn bản luật riêng hay chỉ quy định tại một số điều
trong văn bản luật chung của một số quốc gia, mục đích duy nhất và chung
nhất, là nhằm bảo vệ một cách cao nhất, có hệ thống các quyền của con người
trong việc thể hiện TNBTCNN. Do đó, có thể hiểu, dù ở quốc gia nào, dân tộc
nào, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ra sao, hệ thống pháp luật quy
định như thế nào, thì mưu cầu mang lại sự bình đẳng, dân chủ cho người dân
11
luôn ở vị trí thượng tôn. Việc hình thành và phát triển của pháp luật về
TNBTCNN gắn liền với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, đồng thời,
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ của con người.
Trong đó, nhóm các quốc gia có đạo luật riêng quy định chế độ
TNBTCNNN trên cơ sở là một dạng đặc biệt của trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng theo quy định của BLDS. Tại Châu á, nhiều nước có luật điều chỉnh
riêng về TNBTCNN như: Hàn Quốc có Luật BTNN 1967 và Luật ĐBHS
1958. Nhật Bản có Luật BTNN 1947 và Luật ĐBHS 1950. Trung Quốc có
Luật về thủ tục giải quyết vụ án hành chính năm 1989. Bên cạnh đó, trong
khu vực Đông nam á thì Philippine cũng đã có luật về TNBTCNN. Tại Châu
âu, Thụy Sỹ có Luật liên bang ngày 14/3/1958 về trách nhiệm của Liên bang
và công chức, viên chức của Liên bang. Tại khu vực Bắc Mĩ thì Canada và
Hoa Kỳ là những nước có luật điều chỉnh riêng về TNBTCNN, trong đó,
“Canada có Luật về trách nhiệm nhà nước của Liên bang Canada được ban
hành năm 1953. Đến năm 1990, Luật về Trách nhiệm nhà nước được sửa đổi
thành Luật về thủ tục và trách nhiệm nhà nước” [60, tr.170]. Hoa Kỳ áp dụng
theo hệ thống pháp luật thông lệ về miễn trừ trách nhiệm quốc gia và Hoa Kỳ
không có sự hiện diện của chế định TNBTCNN. Tuy nhiên, “Hoa Kỳ cũng đã
thừa nhận trách nhiệm trong lĩnh vực hành chính tại Luật Khiếu kiện bồi
thường liên bang 1946” [48, tr.1].
Đối với nhóm các quốc gia không có đạo luật riêng về BTNN thì chế
độ TNBTCNN được quy định bằng các điều luật riêng trong BLDS và phát
triển thông qua án lệ hoặc các văn bản hướng dẫn thi hành như Nga, Đức,
Pháp… Trong đó, điển hình là Pháp, “là quốc gia không có một đạo luật
riêng biệt về TNBTCNN. Chế định về TNBTCNN trong pháp luật Pháp nằm
tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau và có phạm vi khá rộng” [57, tr.112],
theo đó, TNBTCNN của Pháp được áp dụng dựa trên án lệ. Đức là quốc gia
12
không có một hệ thống pháp luật rõ ràng về TNBTCNN mà chỉ có các quy
định về trách nhiệm của công chức nhà nước trong nhiều đạo luật khác nhau.
“Có thể nói, cho đến nay, pháp luật về BTNN của Đức là một chế định pháp
luật hết sức phức tạp và thiếu vắng tính hệ thống. Bên cạnh những quy phạm
pháp luật thành văn thì hình thức tồn tại chủ yếu của pháp luật về BTNN của
Đức đến nay vẫn chủ yêu là án lệ” [33, tr. 158].
Ở các quốc gia này, nhìn chung, các quy định về TNBTCNN nhằm
điều chỉnh đối với các vấn đề như sau:
- Về quyền yêu cầu bồi thường thể hiện ở hai khía cạnh là: “khi nào thì
người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường và người bị thiệt hại có quyền
yêu cầu ai bồi thường” [36, tr.5]. Đa số pháp luật của các nước quy định
người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án để yêu cầu bồi thường
nhưng người bị thiệt hại lại không có quyền yêu cầu người thi hành công vụ
bồi thường mà phải yêu cầu Nhà nước, hoặc CQNN bồi thường. Ví dụ: Thụy
Sỹ quy định người bị thiệt hại phải gửi yêu cầu của mình đến Bộ Tài chính để
xem xét việc yêu cầu bồi thường và sau đó mới có quyền khởi kiện ra Tòa án
để yêu cầu bồi thường; Nhật Bản lại quy định cho người bị thiệt hại có quyền
khởi kiện ngay ra Tòa để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Về thời hiệu yêu cầu bồi thường quy định tương tự thời hiệu yêu cầu
bồi thường trong luật dân sự, như Nhật Bản quy định thời hiệu yêu cầu bồi
thường như quy định của BLDS. Thụy Sỹ quy định thời hiệu yêu cầu Liên
bang bồi thường là 06 tháng. Nếu trong thời hạn 1 năm sau khi biết về thiệt
hại mà người bị thiệt hại không yêu cầu bồi thường thì Liên bang không có trách
nhiệm bồi thường, đồng thời, “trong thời hạn 10 năm kể từ ngày công chức thực
hiện hành vi gây thiệt hại nếu Liên bang từ chối yêu cầu hoặc không trả lời
trong thời hạn 03 tháng, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện trong thời hạn 06
tháng, nếu không khởi kiện thì mất quyền được bồi thường” [36, tr.5]. Trong khi
13
đó, Trung Quốc quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là 2 năm, kể từ khi xác
định được hành vi của người thi hành công vụ là trái quy định của pháp luật.
Nước Đức thì quy định thời hiệu tùy theo loại TNBT căn cứ thời hiệu quy
định của pháp luật chuyên ngành.
- Về cơ quan có TNBT “Có hai mô hình chính là mô hình tập trung,
trong đó, trách nhiệm bồi thường do một cơ quan chuyên trách thực hiện, và
mô hình phân tán, trong đó, trách nhiệm bồi thường do từng cơ quan cụ thể
thực hiện” [8, tr.9]. Ví dụ: Hàn Quốc tổ chức theo mô hình tập trung, tức là
có cơ quan hành chính được giao thẩm quyền giải quyết bồi thường ngoài tố
tụng, bên cạnh việc giải quyết tố tụng tại Tòa án. Hoa Kỳ không giao cho một
CQNN thực hiện việc giải quyết bồi thường, nhưng Bộ Tư pháp có trách
nhiệm là đầu mối phối hợp với các cơ quan khác trong chính phủ liên bang
thực hiện việc giải quyết bồi thường và có thể làm trọng tài, thực hiện việc
dàn sếp hoặc giải quyết bất cứ yêu cầu bồi thường nào theo quy định. Nhật
Bản cũng quy định trách nhiệm này cho Bộ Tư pháp, và đồng thời Bộ Tư
pháp là đại diện cho Nhà nước tham gia tố tụng tại Tòa án về việc giải quyết
yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, Trung Quốc lại quy định về cơ quan có TNBT
theo mô hình phân tán là CQNN nào gây ra tổn hại cho cá nhân, pháp nhân
hay tổ chức khác thì CQNN đó có TNBT cho đối tượng bị tổn hại.
- Về phạm vi TNBTCNN do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như văn hóa,
tư duy, tài chính, phòng tục tập quán của mỗi quốc gia khác nhau nên chính
sách pháp lý của các nước là rất khác nhau. Ví dụ: Nhật Bản bồi thường với
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước; Hàn Quốc và Canada - có phạm vi
BTNN rộng đối với các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, là lập pháp, hành
pháp hay tư pháp; Thụy Sỹ- quy định TNBTCNN đối với hầu hết các hoạt
động công vụ của Nhà nước. Ngược lại, có quốc gia lại hạn chế phạm vi
TNBTCNN như Hoa Kỳ - chỉ bồi thường đối với lĩnh vực hành pháp, Đức -
14
có phạm vi BTNN chỉ bao gồm hai lĩnh vực là hành pháp và tư pháp, không
bao gồm lập pháp, Trung Quốc “quy định phạm vi bồi thường tư pháp theo
phương pháp vừa kết hợp vừa khẳng định, vừa phủ định” [7, tr.59], theo đó,
xác định lĩnh vực được bồi thường và liệt kê cụ thể trường hợp nào là trường
hợp được bồi thường trong hành chính và tố tụng hình sự “bao gồm cả những
sự việc tích cực và tiêu cực” [7, tr.59].
- Về thủ tục giải quyết bồi thường được quy định rất khác nhau, trong
đó, có nhiều loại hình thủ tục như thủ tục tố tụng, thủ tục thương lượng bắt
buộc, trong đó, Canada quy định “Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
giải quyết bồi thường và thủ tục giải quyết bồi thường là thủ tục tố tụng dân
sự” [60, tr.176]. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Canada chưa có văn bản nào
quy định cụ thể về vấn đề đền bù thiệt hại cho người buộc tội oan mà chủ yếu
thực hiện thông qua án lệ. Giống như Canada, Hàn Quốc cũng quy định thủ
tục giải quyết bồi thường là TTDS. Hoa Kỳ quy định thủ tục giải quyết bồi
thường tại cơ quan có TNBT, nếu không được thụ lý giải quyết bồi thường thì
người bị thiệt hại “có thể khởi kiện ra Toà án liên bang cấp quận với thời
hiệu không giới hạn” [48, tr.11] để yêu cầu giải quyết bồi thường. Ngược lại
với các quốc gia trên, Pháp quy định “người bị hại có quyền lựa chọn một
trong hai khả năng: khởi kiện công chức ra Tòa án tư pháp để yêu cầu bồi
thường theo thủ tục dân sự, hoặc khởi kiện CQNN ra trước Tòa án hành
chính để yêu cầu bồi thường theo thủ tục BTNN” [57, tr.116]. Ngoài ra, Nhật
Bản, do có hai cơ chế là bồi thường thiệt hại và đền bù tổn thất, do đó, đối với
TNBT thiệt hại thì đây là nghĩa vụ bắt buộc của Nhà nước nên cơ chế thực
hiện trách nhiệm là cơ chế dân sự, “bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu Nhà
nước bồi thường thông qua thương lượng hoặc khởi yêu cầu Nhà nước bồi
thường theo pháp luật tố tụng dân sự” [35, tr.125]. Đối với trách nhiệm đền
bù tổn thất là một chính sách của Nhà nước nhằm bù đắp một phần thiệt hại,
15
vì vậy, “trong quá trình giải quyết vụ việc, khi cơ quan có thẩm quyền giải
quyết vụ việc sẽ quyết định luôn việc đền bù theo mức cố định đã được pháp
luật quy định” [35, tr.125].
- Về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ, hầu hết pháp luật
của tất cả các nước đều có quy định về TNHT của người thi hành công vụ,
được coi là một chế tài không thể thiếu mang tính răn đe, giáo dục đối với cán
bộ, công chức thừa hành công vụ. Trách nhiệm này được quy định dưới hai
dạng: là nghĩa vụ tự thân của người thi hành công vụ hoặc là hoàn trả khi Nhà
nước yêu cầu. Ví dụ: Canada coi nghĩa vụ hoàn trả là nghĩa vụ tự thân, công
chức“phải bồi hoàn cho Nhà nước một phần hoặc toàn bộ khoản tiền mà Nhà
nước đã trả và sẽ được khấu trừ dần vào tiền lương. Việc khấu trừ tiền lương
sẽ không được thực hiện một cách tùy tiện nếu chưa được sự chấp nhận của
công chức đó phải được sự phê chuẩn của Trưởng cơ quan thuế” [60, tr.175].
Nhật Bản chỉ quy định người thi hành công phải hoàn trả nếu họ “có lỗi cố ý
hoặc vô ý nghiêm trọng” [35, tr.130]. Thụy Sỹ lại coi việc hoàn trả là do
quyền của Nhà nước yêu cầu công chức đó phải thực hiện “nếu công chức
gây thiệt hại do cố ý hoặc sơ suất nghiêm trọng, ngay cả sau khi quan hệ
công vụ đã chấm dứt” [1, tr.21].
1.2.2. Đánh giá
Nói chung, hầu hết các quốc gia trên thế giới dù thuộc nhóm các
quốc gia có đạo luật riêng về TNBTCNN hay thuộc nhóm các quốc gia
không có đạo luật riêng về TNBTCNN nhưng hầu hết các quốc gia đều ghi
nhận vấn đề BTNN trong Hiến pháp của họ. Bên cạnh việc quy định trong
Hiến pháp, không phải tất cả các quốc gia đều ban hành luật riêng để điều
chỉnh về bồi thường nhà nước mà có thể quy định rải rác ở BLDS và các
luật liên quan.
Có thể nói, đa số các quốc gia đều coi trách nhiệm bồi
16
thường nhà nước là một loại trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Chỉ một số ít quốc gia coi quan hệ pháp luật
này là quan hệ hành chính hoặc nửa hành chính nửa dân sự. Một số
nước còn có sự phân biệt rạch rồi giữa hai loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và đền bù tổn thất [36, tr 4].
Từ những nghiên cứu về TNBTCNN của các quốc gia trên thế giới, cho
thấy, việc quy định TNBTCNN dựa trên văn bản luật, văn bản dưới luật hay
án lệ thì vấn đề cốt lõi những quy định đó của pháp luật mỗi quốc gia cùng
hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền con người khi bị gây ra thiệt hại của người
thi hành công vụ của cơ quan công quyền. Do đó, việc vận dụng các quy định
của pháp luật cũng như từ thực tiễn thi hành của các quốc gia trên thế giới
liên quan đến TNBTCNN là điều vô cùng quan trọng để xây dựng một hệ
thống pháp luật về BTNN ở Việt Nam, mang tinh thần thượng tôn trong việc
bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực BTNN. Điển hình, việc ghi nhận các
quy định liên quan đến phạm vi bồi thường, các yếu tố lỗi để xác định TNBT
của người thi hành công vụ và các thiệt hại thực tế xảy ra là kim chỉ nam cho
việc xây dựng một đạo luật riêng, linh hoạt, có tính bền vững và hiệu quả áp
dụng cho Việt Nam. Qua đó, trên tinh thần pháp luật về BTNN trên thế giới,
học viên khẳng định Việt Nam cũng đã tiếp thu, chọn lọc, rút ra được kinh
nghiệm trong việc xây dựng Luật TNBTCNN ở Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, pháp luật về TNBTCNN của Việt Nam tiếp thu trên tinh thần
không quy định quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết bồi thường
ngay mà quy định việc giải quyết bồi thường phải được thực hiện tại cơ quan
có TNBT thông qua việc thương lượng giữa người bị thiệt hại và cơ quan có
TNBT. Người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường
do cơ quan có TNBT ban hành thì trong thời hạn Luật định, người đó mới có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường theo thủ tục TTDS.
Thứ hai, Luật TNBTCNN của Việt Nam tiếp thu một phần kinh nghiệm
17
xây dựng cơ quan có TNBT theo mô hình phân tán giống một số nước trên
thế giới, trong đó, xác định đối với từng vụ việc cụ thể thì cơ quan có TNBT
sẽ là cơ quan giải quyết bồi thường thông qua thương lượng và nếu người bị
thiệt hại khởi kiện sau thì Tòa án sẽ giải quyết bồi thường.
Thứ ba, Việt Nam tiếp thu tinh thần xây dựng luật theo hướng quy định
rõ lĩnh vực được bồi thường và liệt kê cụ thể từng trường hợp được bồi thường.
Thứ tư, Việt Nam ghi nhận và tiếp thu quan điểm về nghĩa vụ hoàn trả
của các quốc gia trên thế giới dưới góc độ coi TNHT là một nghĩa vụ tự thân và
người thi hành công vụ chỉ phải hoàn trả nếu có lỗi vô ý hoặc cố ý. Riêng trong
lĩnh vực TTHS, người thi hành công vụ chỉ phải hoàn trả nếu có lỗi cố ý. Ngoài
ra, mức hoàn trả cũng được xác định là quy định ở mức cao nhất đối với 3
trường hợp lỗi: lỗi vô ý, lỗi cố ý nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và lỗi cố ý và người thi hành công vụ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền con ngƣời trong pháp luật về
TNBTCNN ở Việt Nam
1.3.1. Việc xây dựng chế định TNBTCNN là phù hợp với yêu cầu của
việc bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế chung của
thế giới
“Các điều ước quốc tế về quyền con người là cơ sở pháp lý quốc tế
quan trọng, góp phần xác lập các tiêu chuẩn chung và tối thiểu về quyền con
người” [25, tr.92], do đó, trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia nhiều
Công ước quốc tế về quyền con người bao gồm Công ước quốc tế về quyền
dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) ngày 24/9/1982; Công ước quốc tế về
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (ICESCR); Công ước quốc tế xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (CEDAW); Công
ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (CRC)... Theo các Công ước này, quyền
con người trong mọi lĩnh vực phải được tôn trọng và bảo vệ gồm cả các
18
quyền cần được bảo đảm bởi pháp luật hình sự, tố tụng hình sự như quyền
sống, quyền không bị tra tấn, đối xử một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
thấp nhân phẩm; quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền không bị bắt giữ và
giam cầm vô cớ...
Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết bảo đảm các quyền con
người trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước
pháp quyền chủ nghĩa. Một trong những hoạt động trọng tâm của Đảng và
Nhà nước ta là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người phù hợp với
các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế nêu trong các điều ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam đã là thành viên, trong đó, từ những yêu cầu cơ bản
đối với việc bảo đảm các quyền con người, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
do công chức nhà nước gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự,
chính trị của con người. Tại khoản 5 Điều 9, ICCPR đã tuyên bố: "Bất cứ
người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp
đều có quyền yêu cầu được bồi thường" [52, tr.503]. Bên cạnh đó, thực tiễn
pháp lý trên thế giới đã cho thấy càng ngày càng có nhiều quốc gia có luật về
TNBTCNN mặc dù nội dung cũng như truyền thống, tư duy pháp luật giữa
các nước có sự khác nhau nhưng có chung một quan điểm về việc Nhà nước
phải thừa nhận trách nhiệm đối với những hậu quả do cán bộ, công chức Nhà
nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ. Đồng thời, việc bảo vệ và thúc
đẩy các quyền con người về dân sự, chính trị ngày càng được quan tâm, duy
trì một trật tự xã hội ổn định và công bằng là mục tiêu mà mọi quốc gia, dù ở
chế độ chính trị nào, dù trong hoàn cảnh nào, nền kinh tế ra sao, vẫn luôn
hướng đến và mong mỏi nguyện vọng đó, ý chí đó.
Như đã nêu ở mục trên, trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới thể
hiện quyền lực của Nhà nước với nhân dân song song với việc bảo đảm tối ưu
nhất sự bình đẳng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt, là quyền
19
con người trong pháp luật về BTNN như vậy, không chỉ hòa vào xu thế chung
của khu vực, của thế giới mà việc thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước cũng
là phù hợp với nền dân chủ mà chúng ta đang tích cực xây dựng trong Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
1.3.2. Quá trình ra đời Luật TNBTCNN 2010 với mục đích bảo vệ tối
đa các quyền con người về BTNN ở Việt Nam cho đến nay
Ở nước ta, quyền con người đã được khẳng định ngay từ những lời nói
đầu khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt
Nam vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chỉ một ngày sau đó, tức là ngày 3 tháng
9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ một trong những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam mới là tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập
hiến, thông qua hiến pháp để khẳng định quyền làm chủ đất nước, phấn đấu
thúc đẩy quyền lợi của người dân ngay cả trong điều kiện đầy ngặt nghèo của
những năm tháng kháng chiến. Các quyền và tự do cơ bản của nhân dân được
thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chủ
trương, chính sách và cơ chế. Với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống
pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà
nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về
TNBTCNN đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong
khi thi hành công vụ.
1.3.2.1. Những quy định của pháp luật về TNBTCNN qua các bản Hiến
pháp và các văn bản luật chuyên ngành
Việc tôn trọng và thúc đẩy quyền con người, quyền được bồi thường và
TNBTCNN được ghi nhận và quy định từ rất sớm trong pháp luật của Nhà
nước ta ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên cho đến bản Hiến pháp 2013.
Ban đầu, TNBTCNN được quy định tại Hiến pháp 1959 ghi nhận tại
20
Điều 29, và để tiếp tục phát triển tinh thần theo quy định của bản Hiến pháp
này, ngày 23/3/1972, TANDTC đã ban hành Thông tư số 173/UBTP hướng
dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó để xác định
TNBT phải căn cứ vào 04 yếu tố là phải có thiệt hại xảy ra, phải có hành vi
trái pháp luật, phải có quan hệ nhân quả và hành vi trái pháp luật phải có lỗi
của người gây thiệt hại.
Hiến pháp năm 1980 cũng khẳng định quyền được bồi thường tại Điều
73, trong đó, việc quy định công dân có quyền được bình đẳng với Nhà nước
thông qua việc khiếu nại, tố cáo chính Nhà nước của mình nếu phát hiện ra cơ
quan, tổ chức Nhà nước nào có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại. Bản
Hiến pháp thể hiện tinh thần quyết tâm thúc đẩy quyền con người ở chỗ quy
định rõ mọi điều khiếu nại, tố cáo đó của công dân đều phải được giải quyết,
đồng thời, nếu khiếu nại, tố cáo đó được công nhận là đúng, nếu hành vi trái
pháp luật đó gây ra thiệt hại, thì công dân có quyền được bồi thường thiệt hại
những tổn thất do Nhà nước gây ra. Có thể nói, bản Hiến pháp này đã bước
đầu thể hiện rõ tính nhân văn trong việc bảo vệ, duy trì sự bình đẳng giữa
nhân dân và Nhà nước của nước ra giai đoạn này.
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 tiếp tục quy định về
quyền con người liên quan đến BTNN tại Điều 72 và Điều 74, qua đó, tinh
thần bảo vệ quyền con người trong hoạt động TTHS đã được hình thành, làm
tiền đề cho việc thúc đẩy các quyền được bồi thường về vật chất và tinh thần
của người dân bị thiệt hại thông qua các văn bản quy định sau này. Để thể chế
hóa các quy định về bồi thường thiệt hại, BLDS 1995 đã dành riêng chương V
và sau này là BLDS 2005 quy định trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, trong đó, quy định cụ thể về TNBTCNN tại Điều 623 và 624
về việc CQNN gây thiệt hại có TNBT cho người bị thiệt hại khi công chức
nhà nước gây ra trong quá trình thi hành công vụ. Bên cạnh đó, BLTTHS năm
2003 cũng đã có những quy định để cụ thể hóa các quy định tại Điều 72 của
21
Hiến pháp 1992 về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực tư pháp, hình sự.
Luật Khiếu nại, Tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005)
đã quy định tại Điều 1, Điều 6 và Điều 8 về THBT thiệt hại của cơ quan nhà
nước gây ra thiệt hại cho người dân khi thiếu trách nhiệm hoặc cố tình giải
quyết trái pháp luật làm xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân
thì phải có trách nhiệm bồi thường. Có thể nói việc quy định như vậy là tương
đối chặt chẽ, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của
người dân cũng như của chính CQNN.
Gần đây nhất, ngày 28/11/2013, chủ tịch Quốc Hội đã ký ban hành Hiến
pháp sửa đổi 2013, trong đó, quyền con người đối với TNBTCNN được quy
định cụ thể tại Điều 30 nối tiếp tinh thần bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
trong mối quan hệ bình đẳng với Nhà nước đã được nêu tại bản Hiến pháp
1959 và 1980 như đã nêu trên. Tuy nhiên, để bảo vệ tối đa nhất các quyền về
khiếu nại, tố cáo của công dân, bản Hiến pháp mới đã thực sự tạo được lòng tin
của nhân dân khi bổ sung thêm một quy định chặt chẽ, thể hiện tính nhân văn
sâu sắc, tinh thần đoàn kết, bảo vệ lẫn nhau vốn có của con người Việt Nam, đó
là việc nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, bên cạnh
việc bảo vệ quyền của nhân dân, bản Hiến pháp cũng quy định chặt chẽ nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước đối với việc người dân vì một lý do nào đó, lợi
dụng quyền của mình để khiếu nại, tố cáo vu khống hại người thừa hành công
vụ của Nhà nước. Điều 31 đồng thời cũng quy định việc tiếp tục đề cao tinh
thần bảo vệ các quyền của con người trong hoạt động tố tụng.
Có thể thấy rằng việc quy định sơ khai ban đầu về TNBTCNN tại các
bản Hiến pháp trước đây cũng như việc quy định cụ thể về TNBTCNN trong
Hiến pháp sửa đổi 2013 đã thể hiện việc Nhà nước đề cao và tôn trọng quyền
con người nói chung cũng như quyền con người về TNBTCNN do hành vi
trái pháp luật của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ gây ra nói riêng.
22
Tạo lòng tin cho nhân dân về một Nhà nước pháp quyền luôn lấy dân làm
chủ, làm mục tiêu để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân. Không phải ngẫu nhiên, trong nhiều nội dung đổi mới, Hiến pháp lại đặc
biệt coi trọng quyền con người. So sánh mới thấy, mỗi bản Hiến pháp sau, số
lượng các điều khoản về quyền con người, quyền công dân đều nhiều hơn, mở
rộng hơn, cụ thể hơn Hiến pháp trước, thể hiện sự kế thừa và phát triển trong
điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Những nỗ lực không ngừng của Việt
Nam trong nhiều năm qua, đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, quyền con người, quyền về bồi
thường nhà nước đã nói lên thực tế đó.
1.3.2.2. Những quy định của pháp luật về TNBTCNN qua một số Nghị
quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam
Pháp luật về TNBTCNN chỉ thực sự phát triển từ khi Đảng ta quan tâm,
chỉ đạo, chỉ được thể hiện một cách cụ thể từ khi ban hành Nghị định số 47/CP
hướng dẫn cụ thể và để triển khai thực hiện có hiệu quả Điều 623, Điều 624
của BLDS năm 1995. Tiếp đến là việc ban hành Nghị quyết số 388, theo đó,
khi người dân gặp oan sai vì một lý do đáng nghi ngờ nào đó mà bị cơ quan
điều tra tạm giữ, tạm giam để điều tra một vụ án; hoặc bị kết án tù oan mà sau
đó chứng minh được mình vô tội trong hoạt động tố tụng hình sự thì sẽ được
nhà nước BTTH, đính chính những oan ức do người thi hành công vụ vô tình
hay cố tình gây ra theo Nghị quyết 388. Bên cạnh đó, cơ quan tiến hành tố tụng
đồng thời cũng phải BTTH gây ra cho người dân trong khi thi hành công vụ
hoặc trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thuộc
phạm vi được quy định tại Điều 623 và Điều 624 của BLDS; hoặc người dân tự
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình theo tại Nghị định số 47.
Mặc dù cùng quy định về trách nhiệm BTTH của CQNN do gây thiệt
hại trong quá trình thi hành công vụ, tuy nhiên, Nghị định 47/CP và Nghị
23
quyết 388 là hai nhóm văn bản hoàn toàn độc lập, trong đó, Nghị định số
47/CP chủ yếu được áp dụng để điều chỉnh trách nhiệm BTTH của các cơ
quan quản lý hành chính và thi hành án trong khi Nghị quyết số 388 được áp
dụng để điều chỉnh trách nhiệm BTTH của các cơ quan tiến hành tố tụng bao
gồm cơ quan điều tra, truy tố và xét xử.
1.3.2.3. Pháp luật về TNBTCNN thông qua đạo luật riêng
Có thể nói, “vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước Việt
Nam đã manh nha hình thành ngay từ những ngày đầu tiên thành lập nước
thông qua một số quy định cụ thể trong Hiến pháp” [34, tr. 15]. Tuy nhiên,
phần lớn các quy định pháp luật về BTTH do người thi hành công vụ gây ra
tại các văn bản nêu trên mới chỉ dừng ở việc quy định về những nguyên tắc
mà chưa quy định cụ thể về phạm vi bồi thường và TNBTCNN. Hơn nữa,
việc áp dụng các quy định trên thực tế giải quyết các vụ việc bồi thường còn
có nhiều hạn chế, bất cập như: hình thức văn bản QPPL quy định về trách
nhiệm BTTH do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý không
cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm BTTH do người thi hành công vụ gây
ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là TNBTCNN nói chung mà
chỉ coi là TNBT của từng CQNN cụ thể; cơ quan có TNBT trong nhiều
trường hợp chưa được xác định rõ. Do đó, việc giải quyết bồi thường không
đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt hại được bồi thường, mức bồi
thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp luật quy định không thống
nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước
lẫn người bị thiệt hại; TNHT của công chức chưa được quy định rõ ràng.
Luật TNBTCNN được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2009
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Đây là một đạo luật
quan trọng, là cơ sở pháp lý để tổ chức, cá nhân thực hiện quyền
yêu cầu bồi thường khi bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán
24
bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ [18, tr.1].
Có thể nói, Luật TNBTCNN được xây dựng dựa trên một trong những
quan điểm chỉ đạo là kế thừa các quy định pháp luật còn phù hợp và từng
bước pháp điển hoá các quy định pháp luật hiện hành về BTTH, đồng thời
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có thể vận dụng được phù
hợp với điều kiện của nước ta đã là một quan điểm đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta trong việc xây dựng một cơ chế BTNN mang tính toàn diện,
chứa đựng nhiều tham vọng. Bên cạnh việc ban hành Luật TNBTCNN, các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật một cách hiệu quả trong các lĩnh vực thuộc
phạm vi TNBTCNN cũng lần lượt được ra đời nhằm hướng dẫn chi tiết một
số quy định của đạo luật này.
1.4. Pháp luật TNBTCNN hiện hành ở Việt Nam
Luật TNBTCNN bao gồm 8 chương và 67 Điều điều chỉnh một cách
toàn diện trong cả 03 lĩnh vực là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án,
trong đó, quy định chi tiết tại các điều, khoản về trình tự, thủ tục và quy định
rõ về thời hạn giải quyết bồi thường tại cơ quan có TNBT bao gồm: việc thụ
lý đơn yêu cầu bồi thường, xác minh thiệt hại; thương lượng việc bồi thường,
ra quyết định giải quyết bồi thường, chuyển giao quyết định giải quyết bồi
thường cho người bị thiệt hại; và thủ tục thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu
bồi thường tại Tòa án. Bên cạnh đó, Luật TNBTCNN cũng quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ của người bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm
hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.
Việc Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn được
thực thi nghiêm túc, hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến việc
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và
làm hạn chế những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức trong
khi thi hành công vụ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của
25
Nhà nước [17, tr.1].
1.4.1. Về đối tượng được bồi thường
Đối tượng được Nhà nước bồi thường bao gồm các “cá nhân, tổ chức
bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần” [31, tr.1] thuộc các trường hợp
đã được quy định trong Luật TNBTCNN trong cả 03 lĩnh vực quản lý hành
chính, tố tụng và thi hành án do hành vi trái pháp luật của các cán bộ, công
chức Nhà nước vì vô ý làm sai hay cố tình làm sai để trục lợi, thực hiện hành
vi tư thù cá nhân hoặc vì vô trách nhiệm trong quá trình thực thi công vụ gây
ra thiệt hại và hậu quả cho các cá nhân, tổ chức đó. Theo quy định này, có thể
hiểu, các cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng được Nhà nước Việt Nam bồi
thường bao gồm công dân Việt Nam, tổ chức được thành lập theo quy định
của pháp luật Việt Nam; cá nhân mang quốc tịch của quốc gia, vùng lãnh thổ
khác, tổ chức nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; người không
quốc tịch đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Các đối tượng này đều có
thể trở thành đối tượng được bồi thường miễn là đáp ứng đủ các điều kiện
theo quy định của Luật TNBTCNN.
Tuy nhiên, Luật TNBTCNN không quy định nguyên tắc có đi có lại
trong việc thực hiện TNBTCNN mà một số quốc gia, vùng lãnh thổ như Nhật
Bản, Đài Loan…có quy định trong Luật về BTNN của họ, theo đó, một quốc
gia chỉ bồi thường cho công dân mang quốc tịch của một quốc gia, vùng lãnh
thổ khác nếu pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ mà công dân đó mang
quốc tịch có quy định về TNBTCNN đối với người nước ngoài trong điều
kiện tương tự. Tuy nhiên, để thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước ta đối với
các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức đang sống và làm
việc trên đất nước Việt Nam nên Luật TNBTCNN của Việt Nam không quy
định nguyên tắc này.
1.4.2. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường
26
Việc xác định phạm vi TNBTCNN bảo đảm được quy định phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn ban hành
đạo luật riêng về BTNN, phù hợp với Hiến pháp năm 1992 và BLDS năm
2005 đã ghi nhận một nguyên tắc rất cơ bản, theo đó, Nhà nước có trách
nhiệm BTTH do cán bộ, công chức của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân
trong khi thi hành công vụ. Do đó, để bảo đảm tính khả thi của Luật
TNBTCNN, phạm vi TNBTCNN được xác định phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội; khả năng của ngân sách nhà nước; năng lực chuyên môn
của đội ngũ cán bộ, công chức và bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu
bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, lợi ích của Nhà nước, đồng
thời, cũng bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công
quyền, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Trong 03 lĩnh vực được Nhà nước điều chỉnh và bảo vệ, thì phạm vi
TNBTCNN được giới hạn đối với một số hành vi do cán bộ, công chức
làm trái pháp luật trong khi thi hành những nhiệm vụ cụ thể trong từng
lĩnh vực như sau:
1.4.2.1. Phạm vi bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính
Phạm vi bồi thường trong lĩnh vực này được liệt kê đối với 11 nhóm
hành vi mà nếu gây ra thiệt hại thì Nhà nước có TNBT. Đây là những hành vi
có ảnh hưởng lớn đến các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do thân
thể, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sở hữu... do đó cần được Nhà nước
dành sự quan tâm đặc biệt, bằng cách cam kết sẽ bồi thường nếu các hành vi
này của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ gây thiệt hại cho
cá nhân, tổ chức. Các hành vi đó được quy định cụ thể trong Luật TNBTCNN
và hướng dẫn chi tiết tại Điều 3 TTLT số 19 bao gồm hành vi:
ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; áp dụng biện
pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm
27
hành chính; áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến
trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính khác; áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường
giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở
chữa bệnh; cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; giấy
chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép;
áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử
dụng đất; áp dụng thủ tục hải quan; giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng
mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; ban hành
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; cấp văn bằng bảo hộ cho người
không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ
cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện được cấp văn
bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ; và
không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu
tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ
cho đối tượng có đủ điều kiện [44, tr.6].
Như vậy, thiệt hại do các hành vi khác của cán bộ, công chức gây ra
nếu làm trái quy định của pháp luật mà không được liệt kê tại các nhóm hành
vi trên thì không được Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên, để thể hiện sự tôn
trọng quyền con người, quyền công dân, quyền của người bị thiệt hại do hành
vi công quyền gây ra của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, pháp luật về BTNN đã quy định thêm một hành vi
Nhà nước có TNBT đối với thiệt hại gây ra “các trường hợp được bồi thường
khác do pháp luật quy định” [44, tr.6]. Tuy nhiên, việc quy định về trường
hợp khác trong lĩnh vực quản lý hành chính ngoài phạm vi TNBTCNN được
28
quy định trong luật hiện nay chưa được văn bản nào hướng dẫn chi tiết về các
trường hợp được bồi thường, do đó, gây khó khăn trong việc vận dụng các
quy định của pháp luật về TNBTCNN đối với nhóm hành vi này.
1.4.2.2. Phạm vi TNBTCNN trong hoạt động tố tụng
Đối với hoạt động TTHS và TTDS, pháp luật về BTNN cũng đã liệt kê
các trường hợp mà Nhà nước có TNBT liên quan trực tiếp đến các quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền không bị tra tấn, nhục
hình và được đối xử nhân đạo; quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện, độc đoán;
quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng;
quyền sống, tránh mọi hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra
khi xâm phạm quyền sống… là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước trong việc nhận
trách nhiệm về mình và bồi thường những thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra
khi thi hành công vụ. Theo đó, các cá nhân, tổ chức trong phạm vi được Nhà
nước bồi thường bao gồm: người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì
người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; Người bị tạm giam,
người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù
chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản
án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác
định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; Người bị khởi tố, truy tố, xét
xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn
mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; Người bị khởi tố,
truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà
sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt
của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì
29
được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành
hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải
chấp hành; Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án
và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của
cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó
không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít
hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời
gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà
người đó phải chấp hành; Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng
hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không
phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã
bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng
với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình
phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; Tổ chức, cá nhân có tài sản bị
thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các
trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 thì được bồi thường.
Vấn đề phạm vi BTTH trong TTDS, TTHC cũng được ghi nhận trong
pháp luật về BTNN mà trong đó, đã quy định cụ thể 4 trường hợp được Nhà
nước bồi thường là: hành vi tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà
cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan,
tổ chức; ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai
lệch hồ sơ vụ án.
1.4.2.3. Phạm vi TNBTCNN trong hoạt động thi hành án
Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, pháp luật về BTNN có quy định tại
30
Điều 38 Luật TNBTCN và cụ thể hóa tại Điều 6 TTLT số 24 đối với các hành
vi trái pháp luật gây ra bởi cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ liên
quan trực tiếp đến các nhóm quyền bao gồm quyền về tài sản, quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tư nhân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác, quyền thừa kế… và Nhà nước có TNBT nếu có thiệt hại gây
ra do 8 nhóm hành vi của người thi hành công vụ, bao gồm: việc ra hoặc cố ý
không ra các quyết định thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định
về thi hành án; áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; cưỡng chế thi hành án;
thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án; hoãn thi
hành án; tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; tiếp tục thi hành án.
Đồng thời, tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành các quyết
định đó, được quy định cụ thể tại Điều 6 TTLT số 24 là việc Thủ trưởng cơ
quan thi hành án, Chấp hành viên và những người thi hành công vụ khác có
hành vi trái pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành các quyết định về thi
hành án hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên và những
người thi hành công vụ khác cố ý không tổ chức thi hành các quyết định về
thi hành án theo quy định của pháp luật.
Đối với lĩnh vực thi hành án hình sự, là một lĩnh vực tương đối nhạy cảm
và phức tạp, các quy định của pháp luật về BTNN chỉ dừng lại ở mức quy định
mà không kiểm chứng được trên thực tế áp dụng. Trong đó, Nhà nước có
TNBT do 4 nhóm hành vi của người thi hành công vụ gây ra được quy định tại
Điều 39 của Luật và được bổ sung chi tiết tại Điều 3 TTLT số 11 đối với 7
nhóm thuộc phạm vi được Nhà nước bồi thường bao gồm nhóm bị hành vi: ra
quyết định thi hành án tử hình đối với người có đủ điều kiện quy định tại Điều
35 của BLHS, bao gồm: phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi, người đã được Chủ tịch nước quyết định ân giảm hình phạt tử hình, người
31
chưa thành niên; giam người quá thời hạn phải thi hành án phạt tù theo bản án,
quyết định của Toà án; không thực hiện quyết định hoãn thi hành án của Tòa án
đối với người bị kết án hình phạt tù; không thực hiện quyết định tạm đình chỉ
thi hành án của Tòa án đối với người bị kết án hình phạt tù; không thực hiện
quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của Tòa án đối với người đang
chấp hành hình phạt tù; không thực hiện các quyết định đặc xá của Chủ tịch
nước đối với người bị kết án phạt tù được đặc xá; không thực hiện quyết định
đại xá của Quốc hội đối với người bị kết án được ân xá.
1.4.2.4. Đối tượng không thuộc phạm vi TNBTCNN
Bên cạnh những trường hợp thuộc phạm vi TNBTCNN trong cả 03 lĩnh
vực được liệt kê cụ thể, chi tiết đối với từng hành vi trong pháp luật về BTNN
ở Việt Nam thì bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng có giới hạn những đối tượng
không thuộc phạm vi TNBTCNN, cụ thể là:
Thứ nhất, những đối tượng không được Nhà nước bồi thường trong
hoạt động tố tụng hình sự, là trường hợp: người được miễn trách nhiệm hình
sự theo quy định của pháp luật; cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu,
vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu
tội phạm; người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án
hoặc Toà án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đã bị tạm giữ, bị
tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi
hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội
nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 26
của Luật này; người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo
yêu cầu của người bị hại nhưng vụ án đã được đình chỉ do người bị hại đã rút
yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu
thành tội phạm; người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy
32
phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà theo các văn bản quy phạm pháp
luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ
không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, là Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người bị thiệt hại; người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu
hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc; do sự kiện
bất khả kháng, tình thế cấp thiết. Trường hợp người thi hành công vụ và
người bị thiệt hại cùng có lỗi thì Nhà nước chỉ bồi thường một phần thiệt hại
tương ứng với phần lỗi của người thi hành công vụ. Việc xác định thiệt hại
tương ứng với phần lỗi của người thi hành công vụ trong hoạt động quản lý
hành chính được thực hiện theo quy định tại Điều 308 và Điều 617 Bộ luật
Dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định tại khoản 1
TTLT số 08. Để không bỏ sót các thiệt hại gây ra cho người dân, hoặc bồi
thường nhầm những khoản không phải là thiệt hại thì “Khi xác định thiệt hại
để bồi thường, cần tham khảo Nghị quyết 03 ngày 7/8/2006 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao” [47, tr.95].
Thứ ba, là những đối tượng thuộc trường hợp bị gây ra thiệt hại do Nhà
nước có vi phạm pháp luật trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng dân
sự, hợp đồng kinh tế; đối tượng thuộc trường hợp bị gây ra thiệt hại do tài sản
thuộc quyền quản lý, sử dụng, vận hành của Nhà nước; đối tượng thuộc trường
hợp bị gây ra thiệt hại do việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật sai của
Nhà nước; những trường hợp bị gây ra thiệt hại không do hoạt động công vụ.
Có thể nhận thấy rằng việc quy định về phạm vi TNBTCNN tại Luật
TNBTCNN so với các văn bản quy định về TNBTCNN trước đây cho thấy
phạm vi TNBTCNN tương đối rộng, bao phủ hầu hết các hoạt động của Nhà
nước trên cả 03 lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tuy rằng
33
việc điều chỉnh phạm vi TNBTCNN chưa được toàn diện và đầy đủ, chưa giải
quyết được hoàn toàn và triệt để những sai phạm trong mọi mặt của đời sống
xã hội, tuy nhiên, việc Nhà nước ban hành một cơ chế bồi thường quy định rõ
từng loại trường hợp nếu có sai phạm gây ra thiệt hại sẽ được Nhà nước bồi
thường đã thể hiện một ý chí, một tư tưởng tiến bộ của Nhà nước ta. Ý chí đó
thể hiện ở tư duy Nhà nước dám chịu trách nhiệm về mình, và giải quyết
những thiệt hại mà mình gây ra thông qua việc bồi thường, quyền con người
đã phần nào được bảo vệ trong 03 lĩnh vực của đời sống nói trên. Đây là một
bước tiến lớn của Đảng và Nhà nước ra khi ban hành Luật TNBTCNN và
mong muốn Luật sẽ từng bước đi vào cuộc sống.
1.4.3. Về quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu
bồi thường
Quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại được pháp luật quy định
tương đối cụ thể và rõ ràng, trong đó, thể hiện ở chỗ Nhà nước quy định rằng
người dân nếu bị thiệt hại là có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường. Điều
này thể hiện sự bình đẳng của nhân dân trước pháp luật và Nhà nước. Tại
khoản 1 Điều 4 Luật TNBTCNN quy định:
Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi
thường giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là
trái pháp luật hoặc có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường
hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này [44, tr.2].
Thể hiện quan hệ TNBTCNN được xác định là quan hệ dân sự đặc thù,
vì vậy, khác với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường, Luật TNBTCNN
không quy định cho người bị thiệt hại được quyền làm đơn yêu cầu Nhà nước
bồi thường ngay sau khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã bị vi
34
phạm mà quyền đó chỉ phát sinh khi có văn bản của CQNN có thẩm quyền
xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc có bản án,
quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại
thuộc các trường hợp được bồi thường.
Việc quy định như vậy là thể hiện rõ một trong những nguyên tắc
xuyên suốt của Luật TNBTCNN là phải bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục
tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước,
tức là Luật TNBTCNN được ban hành là nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ
chức bị người thi hành công vụ gây thiệt hại nhưng đồng thời cũng phải bảo
đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công quyền. Như vậy,
nếu quy định quyền yêu cầu bồi thường phát sinh ngay từ thời điểm người bị
thiệt hại cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm thì sẽ gây
ảnh hưởng không tốt đến sự hoạt động của các cơ quan nhà nước.
1.4.4. Căn cứ xác định TNBTCNN
Để xác định TNBTCNN, pháp luật về BTNN ở Việt Nam quy định rất
rõ về căn cứ mà người bị thiệt hại phải chứng minh với CQNN khi cho rằng
cơ quan đó đã gây ra thiệt hại cho mình, cụ thể, căn cứ đó được quy định cụ
thể đối với các lĩnh vực hoạt động khác nhau trong quản lý hành chính, tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án và tố tụng hình sự.
Theo đó, căn cứ để xác định TNBTCNN trong các lĩnh vực quản lý
hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án (khoản 1 Điều 6
của Luật) được quy định cụ thể bao gồm 03 căn cứ là: phải có văn bản xác
định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, phải có thiệt hại thực
tế xảy ra và phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và
hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Riêng trong hoạt động tố
tụng hình sự, pháp luật quy định cụ thể việc người bị thiệt hại phải có đủ căn
cứ xác định trách nhiệm bồi thường là bản án, quyết định của CQNN có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định thuộc phạm vi TNBT quy
35
định tại Điều 26 Luật TNBTCNN và có thiệt hại thực tế xảy ra.
Ở đây, văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công
vụ được xác định cụ thể đối với loại văn bản hợp lệ, bao gồm: Quyết định giải
quyết khiếu nại của người có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật theo quy
định của pháp luật; Kết luận nội dung tố cáo của cơ quan hoặc người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
Một điểm đáng lưu ý là mặc dù không quy định trực tiếp lỗi là một
trong các căn cứ để xác định TNBTCNN, tuy nhiên, pháp luật về BTNN trong
đạo luật riêng đã gián tiếp quy định về căn cứ này thông qua việc quy định
một số trường hợp không làm phát sinh TNBTCNN, cụ thể là theo khoản 3
Điều 6 thì Nhà nước không có TNBT đối với các thiệt hại xảy ra nếu thiệt hại
đó là do lỗi của người bị thiệt hại; hoặc người bị thiệt hại che dấu chứng cứ,
tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc;
hoặc thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết.
1.4.5. Trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường
Theo tinh thần của việc ban hành một đạo luật riêng về BTNN trong
đó, tạo một cơ chế thuận lợi và thông thoáng nhất cho người bị thiệt hại thực
hiện quyền yêu cầu bồi thường, bảo vệ quyền con người một cách toàn diện
trong việc thực hiện quyền và bảo vệ lợi ích của mình liên quan đến tài sản bị
thiệt hại và tinh thần, danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm hại. Do đó, Luật
TNBTCNN đã quy định một thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tương đối
toàn diện, bắt đầu từ việc thỏa thuận trực tiếp giữa người bị thiệt hại và cơ
quan có TNBT đến việc cơ quan có TNBT và người bị thiệt hại không thực
hiện đúng quy định của pháp luật về BTNN hoặc người bị thiệt hại không
đồng ý với thỏa thuận chung, thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc bồi
36
thường cho mình theo thủ tục TTDS tại Tòa án.
1.4.5.1. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có trách
nhiệm bồi thường
Pháp luật về BTNN quy định người bị thiệt hại phải thực hiện việc yêu
cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại giải quyết bồi thường trước khi khởi kiện yêu cầu Toà án giải
quyết. Quy định này không chỉ giúp cho người bị thiệt hại và cơ quan có
TNBT có thể hiểu nhau hơn mà còn để cơ quan có TNBT có cơ hội chuộc lại
những sai phạm đã gây ra, thể hiện tính chịu trách nhiệm của mình và tự bảo
vệ lợi ích của Nhà nước trước người bị thiệt hại. Mặt khác, thủ tục này nhằm
bảo vệ người bị thiệt hại trong việc cùng cơ quan có TNBT xác định đúng
thiệt hại đã gây ra, thỏa thuận mức bồi thường giữa hai bên. Về cơ bản, thủ
tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có TNBT diễn ra như sau:
Bước một, sau khi nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp luật
của người thi hành công vụ, người bị thiệt hại sẽ gửi đơn yêu cầu bồi thường
đến cơ quan có TNBT kèm theo văn bản này và giấy tờ, tài liệu có liên quan
đến yêu cầu bồi thường theo quy định tại Điều 16 Luật TNBTCNN về hồ sơ
yêu cầu bồi thường. Nếu cơ quan có TNBT không thụ lý hoặc không hướng
dẫn việc gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối với hồ sơ yêu cầu
bồi thường đã hợp lệ; hoặc quá thời hạn thụ lý là 05 ngày làm việc mà cơ
quan có TNBT không hướng dẫn người bị thiệt hại bổ sung hồ sơ theo quy
định thì người bị thiệt hại có quyền khiếu nại việc thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi
thường quy định tại Điều 8 TTLT số 06.
Bước hai, cơ quan có TNBT phải kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ yêu
cầu bồi thường, nếu xác định yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm giải quyết
của mình thì phải thụ lý trong thời hạn 5 ngày làm việc; trường hợp thấy
không thuộc thẩm quyền của mình thì có trách nhiệm hướng dẫn người bị
thiệt hại gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường
37
Bước ba, ngay sau khi thụ lý đơn yêu cầu bồi thường của người bị thiệt
hại, Thủ trưởng cơ quan có TNBT phải ra quyết định cử người đại diện giải
quyết việc bồi thường theo đúng quy định về tiêu chuẩn và điều kiện về cử
người đại diện quy định tại Điều 7, Điều 8 Nghị định số 16, đó là, người đại
diện phải hội tụ đủ các điều kiện là cán bộ lãnh đạo cấp phòng trở lên hoặc
tương đương; có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực phát sinh trách
nhiệm bồi thường và không phải là người liên quan của người thi hành công
vụ đã gây ra thiệt hại hoặc của người bị thiệt hại. Nếu người đại diện được cử
không đủ điều kiện theo quy định hoặc cơ quan có TNBT không cử người đại
diện thì người bị thiệt hại có quyền khiếu nại việc cử người đại diện thực hiện
việc giải quyết bồi thường quy định tại Điều 9 TTLT số 06.
Bước bốn, sau khi thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường của người bị thiệt
hại, trong thời hạn luật định là 20 ngày kể từ ngày cơ quan có TNBT thụ lý
đơn thì cơ quan đó phải tiến hành “xác minh thiệt hại căn cứ vào tài liệu,
chứng cứ gửi kèm đơn yêu cầu của người bị thiệt hại cũng như đối chiếu với
những thiệt hại thực tế xảy ra đối với thiệt hại về vật chất và thiệt hại về sức
khỏe để làm căn cứ xác định mức bồi thường” [44, tr.9]. Trong giai đoạn này,
nếu người bị thiệt hại không đồng ý với kết quả định giá, giám định về tài sản
và sức khỏe mà cơ quan có TNBT xác minh thì người bị thiệt hại có thể tự chi
trả để được định giá, giám định lại nếu cơ quan có TNBT đồng ý. Đặc biệt,
pháp luật về bồi thường còn quy định, trường hợp việc định giá, giám định lại
của người bị thiệt hại là có căn cứ thì cơ quan có TNBT phải chi trả cho việc
định giá, giám định đó. Nếu không, người bị thiệt hại có quyền khiếu nại về
việc này quy định tại Điều 10 TTLT số 06.
Bước năm, trong thời hạn 10 ngày kể từ khi kết thúc việc xác minh thiệt
hại, cơ quan có TNBT phải tiến hành việc thương lượng với người bị thiệt hại.
Đây đươc coi là một thủ tục bắt buộc tại cơ quan có TNBT trước khi ra quyết
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước

More Related Content

What's hot

Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao độngLuận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
OnTimeVitThu
 
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânBảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sựNguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Nhận Viết Thuê Đề Tài Baocaothuctap.net 0973.287.149
 
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn
hieu anh
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAY
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAYLuận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAY
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao độngLuận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
Luận văn: Chấm dứt hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động
 
Luận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Thương lượng tập thể theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânBảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sựNguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật – lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAY
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAYLuận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAY
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, HAY
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
 

Similar to Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước

Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...
Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...
Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoài
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoàiTrách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoài
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoài
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luậtĐề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt NamLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Viết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Địa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAYĐịa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến phápĐề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOTLuận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOTTrách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước (20)

Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...
Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...
Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở ...
 
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoài
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoàiTrách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoài
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân nước ngoài
 
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luậtĐề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt NamLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường hiện nay, HOT
 
Địa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAYĐịa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự, HAY
 
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến phápĐề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
 
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOTLuận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
 
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOTTrách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
Trách nhiệm của pháp nhân đối với các tội phạm về chức vụ, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 

Recently uploaded (10)

Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 

Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ THU HƢƠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS PHẠM HỒNG THÁI HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chứ từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội Tác giả luận văn Hà Thu Hƣơng
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt trong luận văn MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC..................................................................... 5 1.1. Khái niệm............................................................................................ 5 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về quyền con người............................................ 5 1.1.2. Khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam .............................................................................................. 6 1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm về bồi thường nhà nước ở Việt Nam......................................... 8 1.1.4. Quan hệ pháp luật về TNBTCNN........................................................ 8 1.2. TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới .................................10 1.2.1. Quy định về TNBTCNN của một số quốc gia trên thế giới ..............10 1.2.2. Đánh giá .............................................................................................15 1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền con ngƣời trong pháp luật về TNBTCNN ở Việt Nam....................................................................17 1.3.1. Việc xây dựng chế định TNBTCNN là phù hợp với yêu cầu của việc bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới ..............................................................................17 1.3.2. Quá trình ra đời Luật TNBTCNN 2010 với mục đích bảo vệ tối
  • 4. đa các quyền con người về BTNN ở Việt Nam cho đến nay.............19 1.4. Pháp luật TNBTCNN hiện hành ở Việt Nam................................24 1.4.1. Về đối tượng được bồi thường...........................................................25 1.4.2. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường...................................................25 1.4.3. Về quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu bồi thường ..........................................................................................33 1.4.4. Căn cứ xác định TNBTCNN..............................................................34 1.4.5. Trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường..............................................35 1.4.6. Về các thiệt hại được bồi thường và mức bồi thường........................40 1.4.7. Việc áp dụng Luật TNBTCNN ..........................................................43 1.5. Một số điểm mới của Luật TNBTCNN so với các văn bản quy định trƣớc đây...........................................................................44 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM...................................................48 2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trƣớc khi có đạo luật riêng ............48 2.2. Thực tiễn áp dụng Luật TNBTCNN và văn bản hƣớng dẫn thi hành..............................................................................................52 2.2.1. Kết quả giải quyết bồi thường............................................................53 2.2.2. Thực trạng hạn chế, vướng mắc của Luật TNBTCNN......................54 2.2.3. Nhận diện một số sai phạm của người thi hành công vụ dẫn đến thiệt hại giúp người dân nhận thức và tự bảo vệ quyền.....................75 2.3. Đánh giá chung về pháp luật TNBTCNN......................................80 2.3.1. Pháp luật về TNBTCNN có phù hợp với Nhà nước pháp quyền không? ......................................................................................................80 2.3.2. Quyền con người về bồi thường nhà nước có phù hợp với pháp luật quốc tế hay không?......................................................................81
  • 5. CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM ...............................86 3.1. Mục đích ban đầu khi ban hành đao luật riêng về bồi thƣờng nhà nƣớc không đạt đƣợc................................................................88 3.2. Quan điểm về giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN.........89 3.3. Một số giải pháp bảo đảm việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con ngƣời trong pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc ở Việt Nam một cách hữu hiệu..............................................90 3.3.1. Giải pháp hoàn thiện thể chế..............................................................90 3.3.2. Giải pháp lâu dài về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và hiểu biết của người dân.........................................................97 3.3.3. Xây dựng cơ quan chuyên trách bảo vệ các quyền và lợi ích của con người về bồi thường nhà nước cấp quốc gia...............................97 3.3.4. Hợp tác quốc tế...................................................................................99 KẾT LUẬN..................................................................................................100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................103
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLDS : Bộ luật dân sự BTNN : Bồi thường nhà nước BTTH : Bồi thường thiệt hại CQNN : Cơ quan nhà nước QPPL : Quy phạm pháp luật TNBT : Trách nhiệm bồi thường TNBTCNN : Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước TNHT : Trách nhiệm hoàn trả TTDS : Tố tụng dân sự TTHC : Tố tụng hành chính TTHS : Tố tụng hình sự TTLT : Thông tư liên tịch
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới hiện nay là tiến tới xây dựng một Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. “Quá trình Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua hành vi của đội ngũ công chức thì một điều tất yếu là có thể gây thiệt hại cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào” [30, tr.1]. Vậy nếu Nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước phải chịu TNBT thiệt hại. Pháp luật về TNBTCNN là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp luật Việt Nam, hình thành và phát triển cùng với sự đổi mới về nhận thức của Đảng ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật để phục vụ quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Việt Nam hiện nay đã có một đạo luật riêng quy định về TNBTCNN, cụ thể là Luật TNBTCNN 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Như vậy, về mặt thực tiễn pháp lý, Việt Nam đã thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước trong các trường hợp cụ thể song về mặt thực thi các quy định của pháp luật trên thực tế đã đầy đủ, bao quát, toàn diện và hiệu quả để bảo vệ quyền con người, quyền công dân hay chưa lại là câu hỏi lớn cần được giải đáp. Từ thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu có hệ thống về pháp luật nói chung về TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới; tại các giai đoạn cụ thể của Việt Nam thông qua các bản Hiến pháp và tại quy định của đạo luật riêng về BTNN liên quan đến phạm vi bồi thường, đối tượng bồi thường, các loại thiệt hại được bồi thường và quyền yêu cầu của người bị thiệt hại, qua đó, nhận định được những mặt phù hợp và hạn chế của Luật; phát hiện những sai phạm chủ yếu dẫn đến phát sinh TNBTCNN; đồng thời, đánh giá pháp luật về TNBTCNN đã phù hợp với Nhà nước pháp quyền và phù hợp với các quy định của Luật quốc tế hay chưa là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
  • 8. 2 Đó là lý do để học viên lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam”. Luận văn có thể sẽ là cơ sở để xác định TNBTCNN một cách toàn diện, đầy đủ, góp phần hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN, làm nền tảng pháp lý cho việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Trong đề tài này, học viên nghiên cứu chủ yếu dựa trên các nghiên cứu từ: - Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Thái Phương (2006): “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước”. Luận văn này chủ yếu nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, nội dung và quá trình thực thi pháp luật về trách nhiệm của Nhà nước. - Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Phạm Thị Thu Hương (2013): “Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở tỉnh Hưng Yên”. Luận văn này chủ yếu tập chung đánh giá ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân trong thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong quản lý hành chính, đồng thời, đưa ra nhiều giải pháp bảo đảm việc thực hiện pháp luật về bồi thường nhà nước có hiệu quả. - Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Hoàng Xuân Hoan (2013): “Pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”. Luận văn này nghiên cứu sâu sắc về TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó, học viên còn nghiên cứu những báo cáo khoa học, bài nghiên cứu, các bài báo, các văn bản Luật có liên quan đến BTNN, … 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Thông qua việc tìm hiểu các bản Hiến pháp có quy định về BTNN, pháp luật quốc tế về chế định BTNN, các văn bản Luật về BTNN tại một số quốc gia và đạo luật riêng về TNBTCNN ở Việt Nam, cụ thể là Luật
  • 9. 3 TNBTCNN 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành, mục đích của học viên là đưa ra được một cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về TNBTCNN tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN nhằm bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân về BTNN ở nước ta trong thời gian tới. 3. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những cấn đề đặt ra trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh. 4. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn “Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu, phân tích những cơ sở lý luận tại một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam để khẳng định rằng Nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ quyền con người cho những thiệt hại mà Nhà nước đã gây ra. Từ đó, nêu lên thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường nhà nước trong yêu cầu bồi thường và giải quyết bồi thường qua các ví dụ cụ thể, điển hình trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Đồng thời, Luận văn tập trung phân tích những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về TNBTCNN, chỉ ra được các sai phạm chính dẫn đến bồi thường nhà nước mà cơ quan nhà nước có thể gây ra để người dân có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Qua đó, đánh giá tính phù hợp của pháp luật hiện hành về TNBTCNN đối với Nhà nước pháp quyền và đối với pháp luật quốc tế. Sau cùng, Luận văn đưa ra quan điểm và kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam.
  • 10. 4 5. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn TNBTCNN là một vấn đề mới, chỉ mới thực sự được biết đến kể từ khi Luật TNBTCNN năm 2010 ra đời, do đó, chưa có nhiều bài viết nghiên cứu vấn đề này. Luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà thực tiễn phát sinh, đánh giá được những hạn chế liên quan đến phạm vi bồi thường, đối tượng bồi thường, thiệt hại được bồi thường và khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại cũng như việc áp dụng các quy định của pháp luật đối với thủ tục giải quyết bồi thường của cơ quan có TNBT. Học viên nghiên cứu đề tài này với tham vọng Luận văn sẽ là cẩm nang để người dân cũng như các cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước nghiên cứu, vận dụng để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình, quyền và lợi ích của Nhà nước. Đồng thời, Luận văn được hy vọng sẽ là một phương tiện, mà thông qua đó, có tính chất tuyên truyền, giáo dục tới các đối tượng trong xã hội đã, đang và sẽ có liên quan đến TNBTCNN. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam. Thêm vào đó, luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứ, giảng dạy môn luật nhân quyền và các môn học khác có liên quan ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước. Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam.
  • 11. 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC 1.1. Khái niệm 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về quyền con người 1.1.1.1. Khái niệm về quyền con người Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên thế giới” [52, tr.14]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực trên thế giới có sự khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, do đó, hình thành nên rất nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Cho đến nay, có đến “gần 50 định nghĩa về quyền con người” [52, tr.41], theo đó, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề về quyền con người khác nhau bởi lẽ mỗi định nghĩa lại phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân sống tại quốc gia đó, dân tộc đó. Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đã định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có trác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [52, tr.41]. Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha, tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến
  • 12. 6 ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con người được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [52, tr.42]. Như vậy, từ khái niệm mang cấp độ quốc tế đến khái niệm mang cấp độ quốc gia, mà ở đây là nước Việt Nam, cho thấy dù nhìn quyền con người ở góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ; là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. 1.1.1.2. Đặc điểm của quyền con người Quyền con người có đặc điểm cơ bản của riêng nó, mà trong đó, quyền con người mang tính phổ biến được hiểu là những quyền tự nhiên, vốn có, tất yếu của con người khi sinh ra, được áp dụng bình đẳng, không phân biệt về chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, thành phần, xuất thân…Đồng thời, quyền con người còn mang tính không thể chuyển nhượng thể hiện ở việc các quyền đó không thể bị tước đoạt hay hạn chế một các tùy tiện bởi bất cứ ai, Nhà nước nào, chủ thể nào trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia cho phép; quyền con người mang tính không thể phân chia, mọi quyền đều có tầm quan trọng như nhau, việc tước bỏ hay hạn chế vát kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, gia trị và sự phát triển của con người. Và, quyền con người mang tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, trong đó, sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại. 1.1.2. Khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam Bồi thường là việc “đền bù những tổn thất đã gây ra” [60, tr.191]. Về
  • 13. 7 mặt pháp lý, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do gây thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy bồi thường thiệt hại là “hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại” [50, tr.31]. Bên cạnh đó, thiệt hại, về mặt pháp lý, là những tổn thất về tài sản, tổn thất về tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm. Do đó, bồi thường thiệt hại là sự khôi phục lại những tổn thất trên bằng những cách thức và tiêu chí do pháp luật đặt ra. Mục tiêu của Nhà nước là bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, do đó, đối với các thiệt hại gây ra trong khi thi hành công vụ cũng phải được pháp luật bảo vệ. Như vậy, khi Nhà nước thực hiện quyền lực công thông qua các hành vi thi hành công vụ của đội ngũ công chức mà gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân thì phải chịu TNBT. Do đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù đắp những tổn thất về uy tín, tinh thần khi người thi hành công vụ gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức trong quá trình thực thi quyền lực công/trong quá trình thi hành công vụ. Khái niệm này có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, TNBTCNN là trách nhiệm mà trong đó Nhà nước có nghĩa vụ bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do CQNN, người thi hành công vụ gây ra. Nghĩa là, việc bồi thường thiệt hại được thực hiện cho tất cả các trường hợp có thiệt hại do hành vi của cơ quan, người thi hành công vụ nhà nước gây ra. Theo nghĩa hẹp, thì TNBTCNN là trách nhiệm pháp lý trong đó Nhà nước có nghĩa vụ phải bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ nhà nước gây ra. Để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động thực hiện TNBTCNN, luôn
  • 14. 8 cần có sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật để bảo đảm các hoạt động này đi đúng với các chủ trương, định hướng, chính sách của Đảng, Nhà nước. Do đó, pháp luật về TNBTCNN được hiểu là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, từ các quy định của Hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các vấn đề khác có liên quan để thực hiện có hiệu quả trách nhiệm này. Như vậy, pháp luật về TNBTCNN là hệ thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do các CQNN có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện trên nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện TNBTCNN, xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ và hoạt động quản lý nhà nước về công tác bồi thường. 1.1.3. Khái niệm về bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm về bồi thường nhà nước ở Việt Nam Từ những khái niệm nêu trên về quyền con người, về TNBTCNN, học viên cho rằng bảo vệ quyền con người trong pháp luật TNBTCNN là việc xây dựng một hệ thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành công vụ giữa các CQNN có thẩm quyền với các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. 1.1.4. Quan hệ pháp luật về TNBTCNN Có thể hiểu quan hệ pháp luật về TNBTCNN là những quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện TNBTCNN và được các quy phạm pháp luật về TNBTCNN điều chỉnh, trong đó các chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối với nhau trên nguyên tắc bình đẳng và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Cũng
  • 15. 9 như các quan hệ pháp luật chuyên ngành khác, bên cạnh những đặc điểm của quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ pháp luật về TNBTCNN có những đặc điểm riêng như sau: 1.1.4.1. Quan hệ TNBTCNN đối với tổ chức, cá nhân trong Nhà nước pháp quyền là quan hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Pháp luật Việt Nam kể từ Bộ luật Dân sự 1995 đến Hiến pháp 2013 đều quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra, theo đó, quan hệ BTNN là quan hệ pháp luật dân sự. Cũng có ý kiến cho rằng quan hệ pháp luật này vừa có tính dân sự, vừa có tính hành chính vì một bên chủ thể trong quan hệ pháp luật luôn là Nhà nước. Bởi lẽ Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang một trong hai tư cách như một chủ thể thông thường và tư cách của chủ thể của quyền lực công; theo đó, những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể mang quyền lực công không phải là những quan hệ hợp đồng. Những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia và nhân danh quyền lực công phải là những quan hệ pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc về chức năng chính của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện những hoạt động này mà Nhà nước gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì Nhà nước sẽ phải bồi thường. Việc bồi thường không phải do vi phạm các nghĩa vụ về hợp đồng, chính vì vậy TNBTCNN đối với các thiệt hại gây ra bởi hoạt động công quyền là TNBT thiệt hại ngoài hợp đồng. 1.1.4.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Pháp luật TNBTCNN thực chất là một dạng cụ thể của TNBT thiệt hại ngoài hợp đồng như đã phân tích ở trên, do đó, điều kiện phát sinh TNBTCNN được xác định là phải có thiệt hại xảy ra; thiệt hại đó bị gây ra bởi hành vi trái pháp luật; hành vi trái pháp luật được thực hiện trong quá trình thi hành công vụ; công chức gây thiệt hại phải có lỗi cố ý hoặc vô ý và có mối
  • 16. 10 quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra. Chính vì vậy, ngoài những điểm giống nhau thì giữa TNBTCNN và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những điểm khác biệt, chứa đựng những yếu tố đặc thù về xác định TNBTCNN bao gồm: không quy định lỗi là một căn cứ xác định TNBTCNN; hành vi gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là trái pháp luật; hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải thuộc các trường hợp được bồi thường mà Luật quy định. 1.2. TNBTCNN tại một số quốc gia trên thế giới Chế định pháp luật về TNBTCNN là một chế định khá phức tạp và có nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến chính sách pháp lý của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, với nỗ lực mong muốn bảo vệ triệt để các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi hoạt động công quyền; kiểm soát, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật, xu hướng lạm dụng quyền lực của những người thực hiện công quyền mà việc xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật này là hoàn toàn cần thiết [34, tr.68]. 1.2.1. Quy định về TNBTCNN của một số quốc gia trên thế giới Hiện nay, trên thế giới, chế định pháp luật về BTNN của các nước có hai mô hình chính bao gồm nhóm quốc gia có đạo luật riêng về BTNN và nhóm các quốc gia không có đạo luật riêng về BTNN. Việc quy định TNBTCNN trong một văn bản luật riêng hay chỉ quy định tại một số điều trong văn bản luật chung của một số quốc gia, mục đích duy nhất và chung nhất, là nhằm bảo vệ một cách cao nhất, có hệ thống các quyền của con người trong việc thể hiện TNBTCNN. Do đó, có thể hiểu, dù ở quốc gia nào, dân tộc nào, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ra sao, hệ thống pháp luật quy định như thế nào, thì mưu cầu mang lại sự bình đẳng, dân chủ cho người dân
  • 17. 11 luôn ở vị trí thượng tôn. Việc hình thành và phát triển của pháp luật về TNBTCNN gắn liền với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, đồng thời, thừa nhận các quyền tự do, dân chủ của con người. Trong đó, nhóm các quốc gia có đạo luật riêng quy định chế độ TNBTCNNN trên cơ sở là một dạng đặc biệt của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo quy định của BLDS. Tại Châu á, nhiều nước có luật điều chỉnh riêng về TNBTCNN như: Hàn Quốc có Luật BTNN 1967 và Luật ĐBHS 1958. Nhật Bản có Luật BTNN 1947 và Luật ĐBHS 1950. Trung Quốc có Luật về thủ tục giải quyết vụ án hành chính năm 1989. Bên cạnh đó, trong khu vực Đông nam á thì Philippine cũng đã có luật về TNBTCNN. Tại Châu âu, Thụy Sỹ có Luật liên bang ngày 14/3/1958 về trách nhiệm của Liên bang và công chức, viên chức của Liên bang. Tại khu vực Bắc Mĩ thì Canada và Hoa Kỳ là những nước có luật điều chỉnh riêng về TNBTCNN, trong đó, “Canada có Luật về trách nhiệm nhà nước của Liên bang Canada được ban hành năm 1953. Đến năm 1990, Luật về Trách nhiệm nhà nước được sửa đổi thành Luật về thủ tục và trách nhiệm nhà nước” [60, tr.170]. Hoa Kỳ áp dụng theo hệ thống pháp luật thông lệ về miễn trừ trách nhiệm quốc gia và Hoa Kỳ không có sự hiện diện của chế định TNBTCNN. Tuy nhiên, “Hoa Kỳ cũng đã thừa nhận trách nhiệm trong lĩnh vực hành chính tại Luật Khiếu kiện bồi thường liên bang 1946” [48, tr.1]. Đối với nhóm các quốc gia không có đạo luật riêng về BTNN thì chế độ TNBTCNN được quy định bằng các điều luật riêng trong BLDS và phát triển thông qua án lệ hoặc các văn bản hướng dẫn thi hành như Nga, Đức, Pháp… Trong đó, điển hình là Pháp, “là quốc gia không có một đạo luật riêng biệt về TNBTCNN. Chế định về TNBTCNN trong pháp luật Pháp nằm tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau và có phạm vi khá rộng” [57, tr.112], theo đó, TNBTCNN của Pháp được áp dụng dựa trên án lệ. Đức là quốc gia
  • 18. 12 không có một hệ thống pháp luật rõ ràng về TNBTCNN mà chỉ có các quy định về trách nhiệm của công chức nhà nước trong nhiều đạo luật khác nhau. “Có thể nói, cho đến nay, pháp luật về BTNN của Đức là một chế định pháp luật hết sức phức tạp và thiếu vắng tính hệ thống. Bên cạnh những quy phạm pháp luật thành văn thì hình thức tồn tại chủ yếu của pháp luật về BTNN của Đức đến nay vẫn chủ yêu là án lệ” [33, tr. 158]. Ở các quốc gia này, nhìn chung, các quy định về TNBTCNN nhằm điều chỉnh đối với các vấn đề như sau: - Về quyền yêu cầu bồi thường thể hiện ở hai khía cạnh là: “khi nào thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường và người bị thiệt hại có quyền yêu cầu ai bồi thường” [36, tr.5]. Đa số pháp luật của các nước quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án để yêu cầu bồi thường nhưng người bị thiệt hại lại không có quyền yêu cầu người thi hành công vụ bồi thường mà phải yêu cầu Nhà nước, hoặc CQNN bồi thường. Ví dụ: Thụy Sỹ quy định người bị thiệt hại phải gửi yêu cầu của mình đến Bộ Tài chính để xem xét việc yêu cầu bồi thường và sau đó mới có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bồi thường; Nhật Bản lại quy định cho người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ngay ra Tòa để yêu cầu bồi thường thiệt hại. - Về thời hiệu yêu cầu bồi thường quy định tương tự thời hiệu yêu cầu bồi thường trong luật dân sự, như Nhật Bản quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường như quy định của BLDS. Thụy Sỹ quy định thời hiệu yêu cầu Liên bang bồi thường là 06 tháng. Nếu trong thời hạn 1 năm sau khi biết về thiệt hại mà người bị thiệt hại không yêu cầu bồi thường thì Liên bang không có trách nhiệm bồi thường, đồng thời, “trong thời hạn 10 năm kể từ ngày công chức thực hiện hành vi gây thiệt hại nếu Liên bang từ chối yêu cầu hoặc không trả lời trong thời hạn 03 tháng, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện trong thời hạn 06 tháng, nếu không khởi kiện thì mất quyền được bồi thường” [36, tr.5]. Trong khi
  • 19. 13 đó, Trung Quốc quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là 2 năm, kể từ khi xác định được hành vi của người thi hành công vụ là trái quy định của pháp luật. Nước Đức thì quy định thời hiệu tùy theo loại TNBT căn cứ thời hiệu quy định của pháp luật chuyên ngành. - Về cơ quan có TNBT “Có hai mô hình chính là mô hình tập trung, trong đó, trách nhiệm bồi thường do một cơ quan chuyên trách thực hiện, và mô hình phân tán, trong đó, trách nhiệm bồi thường do từng cơ quan cụ thể thực hiện” [8, tr.9]. Ví dụ: Hàn Quốc tổ chức theo mô hình tập trung, tức là có cơ quan hành chính được giao thẩm quyền giải quyết bồi thường ngoài tố tụng, bên cạnh việc giải quyết tố tụng tại Tòa án. Hoa Kỳ không giao cho một CQNN thực hiện việc giải quyết bồi thường, nhưng Bộ Tư pháp có trách nhiệm là đầu mối phối hợp với các cơ quan khác trong chính phủ liên bang thực hiện việc giải quyết bồi thường và có thể làm trọng tài, thực hiện việc dàn sếp hoặc giải quyết bất cứ yêu cầu bồi thường nào theo quy định. Nhật Bản cũng quy định trách nhiệm này cho Bộ Tư pháp, và đồng thời Bộ Tư pháp là đại diện cho Nhà nước tham gia tố tụng tại Tòa án về việc giải quyết yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, Trung Quốc lại quy định về cơ quan có TNBT theo mô hình phân tán là CQNN nào gây ra tổn hại cho cá nhân, pháp nhân hay tổ chức khác thì CQNN đó có TNBT cho đối tượng bị tổn hại. - Về phạm vi TNBTCNN do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như văn hóa, tư duy, tài chính, phòng tục tập quán của mỗi quốc gia khác nhau nên chính sách pháp lý của các nước là rất khác nhau. Ví dụ: Nhật Bản bồi thường với mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước; Hàn Quốc và Canada - có phạm vi BTNN rộng đối với các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, là lập pháp, hành pháp hay tư pháp; Thụy Sỹ- quy định TNBTCNN đối với hầu hết các hoạt động công vụ của Nhà nước. Ngược lại, có quốc gia lại hạn chế phạm vi TNBTCNN như Hoa Kỳ - chỉ bồi thường đối với lĩnh vực hành pháp, Đức -
  • 20. 14 có phạm vi BTNN chỉ bao gồm hai lĩnh vực là hành pháp và tư pháp, không bao gồm lập pháp, Trung Quốc “quy định phạm vi bồi thường tư pháp theo phương pháp vừa kết hợp vừa khẳng định, vừa phủ định” [7, tr.59], theo đó, xác định lĩnh vực được bồi thường và liệt kê cụ thể trường hợp nào là trường hợp được bồi thường trong hành chính và tố tụng hình sự “bao gồm cả những sự việc tích cực và tiêu cực” [7, tr.59]. - Về thủ tục giải quyết bồi thường được quy định rất khác nhau, trong đó, có nhiều loại hình thủ tục như thủ tục tố tụng, thủ tục thương lượng bắt buộc, trong đó, Canada quy định “Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết bồi thường và thủ tục giải quyết bồi thường là thủ tục tố tụng dân sự” [60, tr.176]. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Canada chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề đền bù thiệt hại cho người buộc tội oan mà chủ yếu thực hiện thông qua án lệ. Giống như Canada, Hàn Quốc cũng quy định thủ tục giải quyết bồi thường là TTDS. Hoa Kỳ quy định thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan có TNBT, nếu không được thụ lý giải quyết bồi thường thì người bị thiệt hại “có thể khởi kiện ra Toà án liên bang cấp quận với thời hiệu không giới hạn” [48, tr.11] để yêu cầu giải quyết bồi thường. Ngược lại với các quốc gia trên, Pháp quy định “người bị hại có quyền lựa chọn một trong hai khả năng: khởi kiện công chức ra Tòa án tư pháp để yêu cầu bồi thường theo thủ tục dân sự, hoặc khởi kiện CQNN ra trước Tòa án hành chính để yêu cầu bồi thường theo thủ tục BTNN” [57, tr.116]. Ngoài ra, Nhật Bản, do có hai cơ chế là bồi thường thiệt hại và đền bù tổn thất, do đó, đối với TNBT thiệt hại thì đây là nghĩa vụ bắt buộc của Nhà nước nên cơ chế thực hiện trách nhiệm là cơ chế dân sự, “bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường thông qua thương lượng hoặc khởi yêu cầu Nhà nước bồi thường theo pháp luật tố tụng dân sự” [35, tr.125]. Đối với trách nhiệm đền bù tổn thất là một chính sách của Nhà nước nhằm bù đắp một phần thiệt hại,
  • 21. 15 vì vậy, “trong quá trình giải quyết vụ việc, khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc sẽ quyết định luôn việc đền bù theo mức cố định đã được pháp luật quy định” [35, tr.125]. - Về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ, hầu hết pháp luật của tất cả các nước đều có quy định về TNHT của người thi hành công vụ, được coi là một chế tài không thể thiếu mang tính răn đe, giáo dục đối với cán bộ, công chức thừa hành công vụ. Trách nhiệm này được quy định dưới hai dạng: là nghĩa vụ tự thân của người thi hành công vụ hoặc là hoàn trả khi Nhà nước yêu cầu. Ví dụ: Canada coi nghĩa vụ hoàn trả là nghĩa vụ tự thân, công chức“phải bồi hoàn cho Nhà nước một phần hoặc toàn bộ khoản tiền mà Nhà nước đã trả và sẽ được khấu trừ dần vào tiền lương. Việc khấu trừ tiền lương sẽ không được thực hiện một cách tùy tiện nếu chưa được sự chấp nhận của công chức đó phải được sự phê chuẩn của Trưởng cơ quan thuế” [60, tr.175]. Nhật Bản chỉ quy định người thi hành công phải hoàn trả nếu họ “có lỗi cố ý hoặc vô ý nghiêm trọng” [35, tr.130]. Thụy Sỹ lại coi việc hoàn trả là do quyền của Nhà nước yêu cầu công chức đó phải thực hiện “nếu công chức gây thiệt hại do cố ý hoặc sơ suất nghiêm trọng, ngay cả sau khi quan hệ công vụ đã chấm dứt” [1, tr.21]. 1.2.2. Đánh giá Nói chung, hầu hết các quốc gia trên thế giới dù thuộc nhóm các quốc gia có đạo luật riêng về TNBTCNN hay thuộc nhóm các quốc gia không có đạo luật riêng về TNBTCNN nhưng hầu hết các quốc gia đều ghi nhận vấn đề BTNN trong Hiến pháp của họ. Bên cạnh việc quy định trong Hiến pháp, không phải tất cả các quốc gia đều ban hành luật riêng để điều chỉnh về bồi thường nhà nước mà có thể quy định rải rác ở BLDS và các luật liên quan. Có thể nói, đa số các quốc gia đều coi trách nhiệm bồi
  • 22. 16 thường nhà nước là một loại trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chỉ một số ít quốc gia coi quan hệ pháp luật này là quan hệ hành chính hoặc nửa hành chính nửa dân sự. Một số nước còn có sự phân biệt rạch rồi giữa hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại và đền bù tổn thất [36, tr 4]. Từ những nghiên cứu về TNBTCNN của các quốc gia trên thế giới, cho thấy, việc quy định TNBTCNN dựa trên văn bản luật, văn bản dưới luật hay án lệ thì vấn đề cốt lõi những quy định đó của pháp luật mỗi quốc gia cùng hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền con người khi bị gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ của cơ quan công quyền. Do đó, việc vận dụng các quy định của pháp luật cũng như từ thực tiễn thi hành của các quốc gia trên thế giới liên quan đến TNBTCNN là điều vô cùng quan trọng để xây dựng một hệ thống pháp luật về BTNN ở Việt Nam, mang tinh thần thượng tôn trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực BTNN. Điển hình, việc ghi nhận các quy định liên quan đến phạm vi bồi thường, các yếu tố lỗi để xác định TNBT của người thi hành công vụ và các thiệt hại thực tế xảy ra là kim chỉ nam cho việc xây dựng một đạo luật riêng, linh hoạt, có tính bền vững và hiệu quả áp dụng cho Việt Nam. Qua đó, trên tinh thần pháp luật về BTNN trên thế giới, học viên khẳng định Việt Nam cũng đã tiếp thu, chọn lọc, rút ra được kinh nghiệm trong việc xây dựng Luật TNBTCNN ở Việt Nam, cụ thể là: Thứ nhất, pháp luật về TNBTCNN của Việt Nam tiếp thu trên tinh thần không quy định quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết bồi thường ngay mà quy định việc giải quyết bồi thường phải được thực hiện tại cơ quan có TNBT thông qua việc thương lượng giữa người bị thiệt hại và cơ quan có TNBT. Người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường do cơ quan có TNBT ban hành thì trong thời hạn Luật định, người đó mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường theo thủ tục TTDS. Thứ hai, Luật TNBTCNN của Việt Nam tiếp thu một phần kinh nghiệm
  • 23. 17 xây dựng cơ quan có TNBT theo mô hình phân tán giống một số nước trên thế giới, trong đó, xác định đối với từng vụ việc cụ thể thì cơ quan có TNBT sẽ là cơ quan giải quyết bồi thường thông qua thương lượng và nếu người bị thiệt hại khởi kiện sau thì Tòa án sẽ giải quyết bồi thường. Thứ ba, Việt Nam tiếp thu tinh thần xây dựng luật theo hướng quy định rõ lĩnh vực được bồi thường và liệt kê cụ thể từng trường hợp được bồi thường. Thứ tư, Việt Nam ghi nhận và tiếp thu quan điểm về nghĩa vụ hoàn trả của các quốc gia trên thế giới dưới góc độ coi TNHT là một nghĩa vụ tự thân và người thi hành công vụ chỉ phải hoàn trả nếu có lỗi vô ý hoặc cố ý. Riêng trong lĩnh vực TTHS, người thi hành công vụ chỉ phải hoàn trả nếu có lỗi cố ý. Ngoài ra, mức hoàn trả cũng được xác định là quy định ở mức cao nhất đối với 3 trường hợp lỗi: lỗi vô ý, lỗi cố ý nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự và lỗi cố ý và người thi hành công vụ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền con ngƣời trong pháp luật về TNBTCNN ở Việt Nam 1.3.1. Việc xây dựng chế định TNBTCNN là phù hợp với yêu cầu của việc bảo đảm các quyền con người cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới “Các điều ước quốc tế về quyền con người là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng, góp phần xác lập các tiêu chuẩn chung và tối thiểu về quyền con người” [25, tr.92], do đó, trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước quốc tế về quyền con người bao gồm Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) ngày 24/9/1982; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 (ICESCR); Công ước quốc tế xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979 (CEDAW); Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (CRC)... Theo các Công ước này, quyền con người trong mọi lĩnh vực phải được tôn trọng và bảo vệ gồm cả các
  • 24. 18 quyền cần được bảo đảm bởi pháp luật hình sự, tố tụng hình sự như quyền sống, quyền không bị tra tấn, đối xử một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền không bị bắt giữ và giam cầm vô cớ... Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết bảo đảm các quyền con người trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền chủ nghĩa. Một trong những hoạt động trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế nêu trong các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã là thành viên, trong đó, từ những yêu cầu cơ bản đối với việc bảo đảm các quyền con người, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do công chức nhà nước gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của con người. Tại khoản 5 Điều 9, ICCPR đã tuyên bố: "Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu được bồi thường" [52, tr.503]. Bên cạnh đó, thực tiễn pháp lý trên thế giới đã cho thấy càng ngày càng có nhiều quốc gia có luật về TNBTCNN mặc dù nội dung cũng như truyền thống, tư duy pháp luật giữa các nước có sự khác nhau nhưng có chung một quan điểm về việc Nhà nước phải thừa nhận trách nhiệm đối với những hậu quả do cán bộ, công chức Nhà nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ. Đồng thời, việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người về dân sự, chính trị ngày càng được quan tâm, duy trì một trật tự xã hội ổn định và công bằng là mục tiêu mà mọi quốc gia, dù ở chế độ chính trị nào, dù trong hoàn cảnh nào, nền kinh tế ra sao, vẫn luôn hướng đến và mong mỏi nguyện vọng đó, ý chí đó. Như đã nêu ở mục trên, trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới thể hiện quyền lực của Nhà nước với nhân dân song song với việc bảo đảm tối ưu nhất sự bình đẳng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt, là quyền
  • 25. 19 con người trong pháp luật về BTNN như vậy, không chỉ hòa vào xu thế chung của khu vực, của thế giới mà việc thừa nhận trách nhiệm của Nhà nước cũng là phù hợp với nền dân chủ mà chúng ta đang tích cực xây dựng trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. 1.3.2. Quá trình ra đời Luật TNBTCNN 2010 với mục đích bảo vệ tối đa các quyền con người về BTNN ở Việt Nam cho đến nay Ở nước ta, quyền con người đã được khẳng định ngay từ những lời nói đầu khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chỉ một ngày sau đó, tức là ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ một trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam mới là tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến, thông qua hiến pháp để khẳng định quyền làm chủ đất nước, phấn đấu thúc đẩy quyền lợi của người dân ngay cả trong điều kiện đầy ngặt nghèo của những năm tháng kháng chiến. Các quyền và tự do cơ bản của nhân dân được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế. Với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về TNBTCNN đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ. 1.3.2.1. Những quy định của pháp luật về TNBTCNN qua các bản Hiến pháp và các văn bản luật chuyên ngành Việc tôn trọng và thúc đẩy quyền con người, quyền được bồi thường và TNBTCNN được ghi nhận và quy định từ rất sớm trong pháp luật của Nhà nước ta ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên cho đến bản Hiến pháp 2013. Ban đầu, TNBTCNN được quy định tại Hiến pháp 1959 ghi nhận tại
  • 26. 20 Điều 29, và để tiếp tục phát triển tinh thần theo quy định của bản Hiến pháp này, ngày 23/3/1972, TANDTC đã ban hành Thông tư số 173/UBTP hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó để xác định TNBT phải căn cứ vào 04 yếu tố là phải có thiệt hại xảy ra, phải có hành vi trái pháp luật, phải có quan hệ nhân quả và hành vi trái pháp luật phải có lỗi của người gây thiệt hại. Hiến pháp năm 1980 cũng khẳng định quyền được bồi thường tại Điều 73, trong đó, việc quy định công dân có quyền được bình đẳng với Nhà nước thông qua việc khiếu nại, tố cáo chính Nhà nước của mình nếu phát hiện ra cơ quan, tổ chức Nhà nước nào có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại. Bản Hiến pháp thể hiện tinh thần quyết tâm thúc đẩy quyền con người ở chỗ quy định rõ mọi điều khiếu nại, tố cáo đó của công dân đều phải được giải quyết, đồng thời, nếu khiếu nại, tố cáo đó được công nhận là đúng, nếu hành vi trái pháp luật đó gây ra thiệt hại, thì công dân có quyền được bồi thường thiệt hại những tổn thất do Nhà nước gây ra. Có thể nói, bản Hiến pháp này đã bước đầu thể hiện rõ tính nhân văn trong việc bảo vệ, duy trì sự bình đẳng giữa nhân dân và Nhà nước của nước ra giai đoạn này. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 tiếp tục quy định về quyền con người liên quan đến BTNN tại Điều 72 và Điều 74, qua đó, tinh thần bảo vệ quyền con người trong hoạt động TTHS đã được hình thành, làm tiền đề cho việc thúc đẩy các quyền được bồi thường về vật chất và tinh thần của người dân bị thiệt hại thông qua các văn bản quy định sau này. Để thể chế hóa các quy định về bồi thường thiệt hại, BLDS 1995 đã dành riêng chương V và sau này là BLDS 2005 quy định trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó, quy định cụ thể về TNBTCNN tại Điều 623 và 624 về việc CQNN gây thiệt hại có TNBT cho người bị thiệt hại khi công chức nhà nước gây ra trong quá trình thi hành công vụ. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2003 cũng đã có những quy định để cụ thể hóa các quy định tại Điều 72 của
  • 27. 21 Hiến pháp 1992 về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực tư pháp, hình sự. Luật Khiếu nại, Tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005) đã quy định tại Điều 1, Điều 6 và Điều 8 về THBT thiệt hại của cơ quan nhà nước gây ra thiệt hại cho người dân khi thiếu trách nhiệm hoặc cố tình giải quyết trái pháp luật làm xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân thì phải có trách nhiệm bồi thường. Có thể nói việc quy định như vậy là tương đối chặt chẽ, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người dân cũng như của chính CQNN. Gần đây nhất, ngày 28/11/2013, chủ tịch Quốc Hội đã ký ban hành Hiến pháp sửa đổi 2013, trong đó, quyền con người đối với TNBTCNN được quy định cụ thể tại Điều 30 nối tiếp tinh thần bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong mối quan hệ bình đẳng với Nhà nước đã được nêu tại bản Hiến pháp 1959 và 1980 như đã nêu trên. Tuy nhiên, để bảo vệ tối đa nhất các quyền về khiếu nại, tố cáo của công dân, bản Hiến pháp mới đã thực sự tạo được lòng tin của nhân dân khi bổ sung thêm một quy định chặt chẽ, thể hiện tính nhân văn sâu sắc, tinh thần đoàn kết, bảo vệ lẫn nhau vốn có của con người Việt Nam, đó là việc nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, bên cạnh việc bảo vệ quyền của nhân dân, bản Hiến pháp cũng quy định chặt chẽ nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước đối với việc người dân vì một lý do nào đó, lợi dụng quyền của mình để khiếu nại, tố cáo vu khống hại người thừa hành công vụ của Nhà nước. Điều 31 đồng thời cũng quy định việc tiếp tục đề cao tinh thần bảo vệ các quyền của con người trong hoạt động tố tụng. Có thể thấy rằng việc quy định sơ khai ban đầu về TNBTCNN tại các bản Hiến pháp trước đây cũng như việc quy định cụ thể về TNBTCNN trong Hiến pháp sửa đổi 2013 đã thể hiện việc Nhà nước đề cao và tôn trọng quyền con người nói chung cũng như quyền con người về TNBTCNN do hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ gây ra nói riêng.
  • 28. 22 Tạo lòng tin cho nhân dân về một Nhà nước pháp quyền luôn lấy dân làm chủ, làm mục tiêu để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Không phải ngẫu nhiên, trong nhiều nội dung đổi mới, Hiến pháp lại đặc biệt coi trọng quyền con người. So sánh mới thấy, mỗi bản Hiến pháp sau, số lượng các điều khoản về quyền con người, quyền công dân đều nhiều hơn, mở rộng hơn, cụ thể hơn Hiến pháp trước, thể hiện sự kế thừa và phát triển trong điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Những nỗ lực không ngừng của Việt Nam trong nhiều năm qua, đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, quyền con người, quyền về bồi thường nhà nước đã nói lên thực tế đó. 1.3.2.2. Những quy định của pháp luật về TNBTCNN qua một số Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam Pháp luật về TNBTCNN chỉ thực sự phát triển từ khi Đảng ta quan tâm, chỉ đạo, chỉ được thể hiện một cách cụ thể từ khi ban hành Nghị định số 47/CP hướng dẫn cụ thể và để triển khai thực hiện có hiệu quả Điều 623, Điều 624 của BLDS năm 1995. Tiếp đến là việc ban hành Nghị quyết số 388, theo đó, khi người dân gặp oan sai vì một lý do đáng nghi ngờ nào đó mà bị cơ quan điều tra tạm giữ, tạm giam để điều tra một vụ án; hoặc bị kết án tù oan mà sau đó chứng minh được mình vô tội trong hoạt động tố tụng hình sự thì sẽ được nhà nước BTTH, đính chính những oan ức do người thi hành công vụ vô tình hay cố tình gây ra theo Nghị quyết 388. Bên cạnh đó, cơ quan tiến hành tố tụng đồng thời cũng phải BTTH gây ra cho người dân trong khi thi hành công vụ hoặc trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thuộc phạm vi được quy định tại Điều 623 và Điều 624 của BLDS; hoặc người dân tự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình theo tại Nghị định số 47. Mặc dù cùng quy định về trách nhiệm BTTH của CQNN do gây thiệt hại trong quá trình thi hành công vụ, tuy nhiên, Nghị định 47/CP và Nghị
  • 29. 23 quyết 388 là hai nhóm văn bản hoàn toàn độc lập, trong đó, Nghị định số 47/CP chủ yếu được áp dụng để điều chỉnh trách nhiệm BTTH của các cơ quan quản lý hành chính và thi hành án trong khi Nghị quyết số 388 được áp dụng để điều chỉnh trách nhiệm BTTH của các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan điều tra, truy tố và xét xử. 1.3.2.3. Pháp luật về TNBTCNN thông qua đạo luật riêng Có thể nói, “vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước Việt Nam đã manh nha hình thành ngay từ những ngày đầu tiên thành lập nước thông qua một số quy định cụ thể trong Hiến pháp” [34, tr. 15]. Tuy nhiên, phần lớn các quy định pháp luật về BTTH do người thi hành công vụ gây ra tại các văn bản nêu trên mới chỉ dừng ở việc quy định về những nguyên tắc mà chưa quy định cụ thể về phạm vi bồi thường và TNBTCNN. Hơn nữa, việc áp dụng các quy định trên thực tế giải quyết các vụ việc bồi thường còn có nhiều hạn chế, bất cập như: hình thức văn bản QPPL quy định về trách nhiệm BTTH do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm BTTH do người thi hành công vụ gây ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là TNBTCNN nói chung mà chỉ coi là TNBT của từng CQNN cụ thể; cơ quan có TNBT trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ. Do đó, việc giải quyết bồi thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt hại được bồi thường, mức bồi thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp luật quy định không thống nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; TNHT của công chức chưa được quy định rõ ràng. Luật TNBTCNN được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Đây là một đạo luật quan trọng, là cơ sở pháp lý để tổ chức, cá nhân thực hiện quyền yêu cầu bồi thường khi bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán
  • 30. 24 bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ [18, tr.1]. Có thể nói, Luật TNBTCNN được xây dựng dựa trên một trong những quan điểm chỉ đạo là kế thừa các quy định pháp luật còn phù hợp và từng bước pháp điển hoá các quy định pháp luật hiện hành về BTTH, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có thể vận dụng được phù hợp với điều kiện của nước ta đã là một quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng một cơ chế BTNN mang tính toàn diện, chứa đựng nhiều tham vọng. Bên cạnh việc ban hành Luật TNBTCNN, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật một cách hiệu quả trong các lĩnh vực thuộc phạm vi TNBTCNN cũng lần lượt được ra đời nhằm hướng dẫn chi tiết một số quy định của đạo luật này. 1.4. Pháp luật TNBTCNN hiện hành ở Việt Nam Luật TNBTCNN bao gồm 8 chương và 67 Điều điều chỉnh một cách toàn diện trong cả 03 lĩnh vực là quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án, trong đó, quy định chi tiết tại các điều, khoản về trình tự, thủ tục và quy định rõ về thời hạn giải quyết bồi thường tại cơ quan có TNBT bao gồm: việc thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, xác minh thiệt hại; thương lượng việc bồi thường, ra quyết định giải quyết bồi thường, chuyển giao quyết định giải quyết bồi thường cho người bị thiệt hại; và thủ tục thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án. Bên cạnh đó, Luật TNBTCNN cũng quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại. Việc Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn được thực thi nghiêm túc, hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và làm hạn chế những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của
  • 31. 25 Nhà nước [17, tr.1]. 1.4.1. Về đối tượng được bồi thường Đối tượng được Nhà nước bồi thường bao gồm các “cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần” [31, tr.1] thuộc các trường hợp đã được quy định trong Luật TNBTCNN trong cả 03 lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án do hành vi trái pháp luật của các cán bộ, công chức Nhà nước vì vô ý làm sai hay cố tình làm sai để trục lợi, thực hiện hành vi tư thù cá nhân hoặc vì vô trách nhiệm trong quá trình thực thi công vụ gây ra thiệt hại và hậu quả cho các cá nhân, tổ chức đó. Theo quy định này, có thể hiểu, các cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng được Nhà nước Việt Nam bồi thường bao gồm công dân Việt Nam, tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; cá nhân mang quốc tịch của quốc gia, vùng lãnh thổ khác, tổ chức nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; người không quốc tịch đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Các đối tượng này đều có thể trở thành đối tượng được bồi thường miễn là đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Luật TNBTCNN. Tuy nhiên, Luật TNBTCNN không quy định nguyên tắc có đi có lại trong việc thực hiện TNBTCNN mà một số quốc gia, vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Đài Loan…có quy định trong Luật về BTNN của họ, theo đó, một quốc gia chỉ bồi thường cho công dân mang quốc tịch của một quốc gia, vùng lãnh thổ khác nếu pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ mà công dân đó mang quốc tịch có quy định về TNBTCNN đối với người nước ngoài trong điều kiện tương tự. Tuy nhiên, để thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước ta đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức đang sống và làm việc trên đất nước Việt Nam nên Luật TNBTCNN của Việt Nam không quy định nguyên tắc này. 1.4.2. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường
  • 32. 26 Việc xác định phạm vi TNBTCNN bảo đảm được quy định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn ban hành đạo luật riêng về BTNN, phù hợp với Hiến pháp năm 1992 và BLDS năm 2005 đã ghi nhận một nguyên tắc rất cơ bản, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm BTTH do cán bộ, công chức của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ. Do đó, để bảo đảm tính khả thi của Luật TNBTCNN, phạm vi TNBTCNN được xác định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội; khả năng của ngân sách nhà nước; năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức và bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, lợi ích của Nhà nước, đồng thời, cũng bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công quyền, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Trong 03 lĩnh vực được Nhà nước điều chỉnh và bảo vệ, thì phạm vi TNBTCNN được giới hạn đối với một số hành vi do cán bộ, công chức làm trái pháp luật trong khi thi hành những nhiệm vụ cụ thể trong từng lĩnh vực như sau: 1.4.2.1. Phạm vi bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính Phạm vi bồi thường trong lĩnh vực này được liệt kê đối với 11 nhóm hành vi mà nếu gây ra thiệt hại thì Nhà nước có TNBT. Đây là những hành vi có ảnh hưởng lớn đến các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do thân thể, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sở hữu... do đó cần được Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt, bằng cách cam kết sẽ bồi thường nếu các hành vi này của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. Các hành vi đó được quy định cụ thể trong Luật TNBTCNN và hướng dẫn chi tiết tại Điều 3 TTLT số 19 bao gồm hành vi: ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm
  • 33. 27 hành chính; áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khác; áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh; cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép; áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất; áp dụng thủ tục hải quan; giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ; và không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện [44, tr.6]. Như vậy, thiệt hại do các hành vi khác của cán bộ, công chức gây ra nếu làm trái quy định của pháp luật mà không được liệt kê tại các nhóm hành vi trên thì không được Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên, để thể hiện sự tôn trọng quyền con người, quyền công dân, quyền của người bị thiệt hại do hành vi công quyền gây ra của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, pháp luật về BTNN đã quy định thêm một hành vi Nhà nước có TNBT đối với thiệt hại gây ra “các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định” [44, tr.6]. Tuy nhiên, việc quy định về trường hợp khác trong lĩnh vực quản lý hành chính ngoài phạm vi TNBTCNN được
  • 34. 28 quy định trong luật hiện nay chưa được văn bản nào hướng dẫn chi tiết về các trường hợp được bồi thường, do đó, gây khó khăn trong việc vận dụng các quy định của pháp luật về TNBTCNN đối với nhóm hành vi này. 1.4.2.2. Phạm vi TNBTCNN trong hoạt động tố tụng Đối với hoạt động TTHS và TTDS, pháp luật về BTNN cũng đã liệt kê các trường hợp mà Nhà nước có TNBT liên quan trực tiếp đến các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền không bị tra tấn, nhục hình và được đối xử nhân đạo; quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện, độc đoán; quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng; quyền sống, tránh mọi hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra khi xâm phạm quyền sống… là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước trong việc nhận trách nhiệm về mình và bồi thường những thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra khi thi hành công vụ. Theo đó, các cá nhân, tổ chức trong phạm vi được Nhà nước bồi thường bao gồm: người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì
  • 35. 29 được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành; Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 thì được bồi thường. Vấn đề phạm vi BTTH trong TTDS, TTHC cũng được ghi nhận trong pháp luật về BTNN mà trong đó, đã quy định cụ thể 4 trường hợp được Nhà nước bồi thường là: hành vi tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức; ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án. 1.4.2.3. Phạm vi TNBTCNN trong hoạt động thi hành án Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, pháp luật về BTNN có quy định tại
  • 36. 30 Điều 38 Luật TNBTCN và cụ thể hóa tại Điều 6 TTLT số 24 đối với các hành vi trái pháp luật gây ra bởi cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ liên quan trực tiếp đến các nhóm quyền bao gồm quyền về tài sản, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tư nhân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác, quyền thừa kế… và Nhà nước có TNBT nếu có thiệt hại gây ra do 8 nhóm hành vi của người thi hành công vụ, bao gồm: việc ra hoặc cố ý không ra các quyết định thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về thi hành án; áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; cưỡng chế thi hành án; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án; hoãn thi hành án; tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; tiếp tục thi hành án. Đồng thời, tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành các quyết định đó, được quy định cụ thể tại Điều 6 TTLT số 24 là việc Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên và những người thi hành công vụ khác có hành vi trái pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên và những người thi hành công vụ khác cố ý không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án theo quy định của pháp luật. Đối với lĩnh vực thi hành án hình sự, là một lĩnh vực tương đối nhạy cảm và phức tạp, các quy định của pháp luật về BTNN chỉ dừng lại ở mức quy định mà không kiểm chứng được trên thực tế áp dụng. Trong đó, Nhà nước có TNBT do 4 nhóm hành vi của người thi hành công vụ gây ra được quy định tại Điều 39 của Luật và được bổ sung chi tiết tại Điều 3 TTLT số 11 đối với 7 nhóm thuộc phạm vi được Nhà nước bồi thường bao gồm nhóm bị hành vi: ra quyết định thi hành án tử hình đối với người có đủ điều kiện quy định tại Điều 35 của BLHS, bao gồm: phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đã được Chủ tịch nước quyết định ân giảm hình phạt tử hình, người
  • 37. 31 chưa thành niên; giam người quá thời hạn phải thi hành án phạt tù theo bản án, quyết định của Toà án; không thực hiện quyết định hoãn thi hành án của Tòa án đối với người bị kết án hình phạt tù; không thực hiện quyết định tạm đình chỉ thi hành án của Tòa án đối với người bị kết án hình phạt tù; không thực hiện quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của Tòa án đối với người đang chấp hành hình phạt tù; không thực hiện các quyết định đặc xá của Chủ tịch nước đối với người bị kết án phạt tù được đặc xá; không thực hiện quyết định đại xá của Quốc hội đối với người bị kết án được ân xá. 1.4.2.4. Đối tượng không thuộc phạm vi TNBTCNN Bên cạnh những trường hợp thuộc phạm vi TNBTCNN trong cả 03 lĩnh vực được liệt kê cụ thể, chi tiết đối với từng hành vi trong pháp luật về BTNN ở Việt Nam thì bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng có giới hạn những đối tượng không thuộc phạm vi TNBTCNN, cụ thể là: Thứ nhất, những đối tượng không được Nhà nước bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, là trường hợp: người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm; người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án hoặc Toà án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 26 của Luật này; người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng vụ án đã được đình chỉ do người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm; người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy
  • 38. 32 phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ hai, là Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại; người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc; do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết. Trường hợp người thi hành công vụ và người bị thiệt hại cùng có lỗi thì Nhà nước chỉ bồi thường một phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người thi hành công vụ. Việc xác định thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người thi hành công vụ trong hoạt động quản lý hành chính được thực hiện theo quy định tại Điều 308 và Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định tại khoản 1 TTLT số 08. Để không bỏ sót các thiệt hại gây ra cho người dân, hoặc bồi thường nhầm những khoản không phải là thiệt hại thì “Khi xác định thiệt hại để bồi thường, cần tham khảo Nghị quyết 03 ngày 7/8/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao” [47, tr.95]. Thứ ba, là những đối tượng thuộc trường hợp bị gây ra thiệt hại do Nhà nước có vi phạm pháp luật trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế; đối tượng thuộc trường hợp bị gây ra thiệt hại do tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng, vận hành của Nhà nước; đối tượng thuộc trường hợp bị gây ra thiệt hại do việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật sai của Nhà nước; những trường hợp bị gây ra thiệt hại không do hoạt động công vụ. Có thể nhận thấy rằng việc quy định về phạm vi TNBTCNN tại Luật TNBTCNN so với các văn bản quy định về TNBTCNN trước đây cho thấy phạm vi TNBTCNN tương đối rộng, bao phủ hầu hết các hoạt động của Nhà nước trên cả 03 lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tuy rằng
  • 39. 33 việc điều chỉnh phạm vi TNBTCNN chưa được toàn diện và đầy đủ, chưa giải quyết được hoàn toàn và triệt để những sai phạm trong mọi mặt của đời sống xã hội, tuy nhiên, việc Nhà nước ban hành một cơ chế bồi thường quy định rõ từng loại trường hợp nếu có sai phạm gây ra thiệt hại sẽ được Nhà nước bồi thường đã thể hiện một ý chí, một tư tưởng tiến bộ của Nhà nước ta. Ý chí đó thể hiện ở tư duy Nhà nước dám chịu trách nhiệm về mình, và giải quyết những thiệt hại mà mình gây ra thông qua việc bồi thường, quyền con người đã phần nào được bảo vệ trong 03 lĩnh vực của đời sống nói trên. Đây là một bước tiến lớn của Đảng và Nhà nước ra khi ban hành Luật TNBTCNN và mong muốn Luật sẽ từng bước đi vào cuộc sống. 1.4.3. Về quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại trong việc yêu cầu bồi thường Quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại được pháp luật quy định tương đối cụ thể và rõ ràng, trong đó, thể hiện ở chỗ Nhà nước quy định rằng người dân nếu bị thiệt hại là có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường. Điều này thể hiện sự bình đẳng của nhân dân trước pháp luật và Nhà nước. Tại khoản 1 Điều 4 Luật TNBTCNN quy định: Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này [44, tr.2]. Thể hiện quan hệ TNBTCNN được xác định là quan hệ dân sự đặc thù, vì vậy, khác với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường, Luật TNBTCNN không quy định cho người bị thiệt hại được quyền làm đơn yêu cầu Nhà nước bồi thường ngay sau khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã bị vi
  • 40. 34 phạm mà quyền đó chỉ phát sinh khi có văn bản của CQNN có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc có bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường. Việc quy định như vậy là thể hiện rõ một trong những nguyên tắc xuyên suốt của Luật TNBTCNN là phải bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước, tức là Luật TNBTCNN được ban hành là nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị người thi hành công vụ gây thiệt hại nhưng đồng thời cũng phải bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công quyền. Như vậy, nếu quy định quyền yêu cầu bồi thường phát sinh ngay từ thời điểm người bị thiệt hại cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm thì sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự hoạt động của các cơ quan nhà nước. 1.4.4. Căn cứ xác định TNBTCNN Để xác định TNBTCNN, pháp luật về BTNN ở Việt Nam quy định rất rõ về căn cứ mà người bị thiệt hại phải chứng minh với CQNN khi cho rằng cơ quan đó đã gây ra thiệt hại cho mình, cụ thể, căn cứ đó được quy định cụ thể đối với các lĩnh vực hoạt động khác nhau trong quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án và tố tụng hình sự. Theo đó, căn cứ để xác định TNBTCNN trong các lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án (khoản 1 Điều 6 của Luật) được quy định cụ thể bao gồm 03 căn cứ là: phải có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, phải có thiệt hại thực tế xảy ra và phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Riêng trong hoạt động tố tụng hình sự, pháp luật quy định cụ thể việc người bị thiệt hại phải có đủ căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường là bản án, quyết định của CQNN có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định thuộc phạm vi TNBT quy
  • 41. 35 định tại Điều 26 Luật TNBTCNN và có thiệt hại thực tế xảy ra. Ở đây, văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ được xác định cụ thể đối với loại văn bản hợp lệ, bao gồm: Quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật; Kết luận nội dung tố cáo của cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Một điểm đáng lưu ý là mặc dù không quy định trực tiếp lỗi là một trong các căn cứ để xác định TNBTCNN, tuy nhiên, pháp luật về BTNN trong đạo luật riêng đã gián tiếp quy định về căn cứ này thông qua việc quy định một số trường hợp không làm phát sinh TNBTCNN, cụ thể là theo khoản 3 Điều 6 thì Nhà nước không có TNBT đối với các thiệt hại xảy ra nếu thiệt hại đó là do lỗi của người bị thiệt hại; hoặc người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc; hoặc thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết. 1.4.5. Trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường Theo tinh thần của việc ban hành một đạo luật riêng về BTNN trong đó, tạo một cơ chế thuận lợi và thông thoáng nhất cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường, bảo vệ quyền con người một cách toàn diện trong việc thực hiện quyền và bảo vệ lợi ích của mình liên quan đến tài sản bị thiệt hại và tinh thần, danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm hại. Do đó, Luật TNBTCNN đã quy định một thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tương đối toàn diện, bắt đầu từ việc thỏa thuận trực tiếp giữa người bị thiệt hại và cơ quan có TNBT đến việc cơ quan có TNBT và người bị thiệt hại không thực hiện đúng quy định của pháp luật về BTNN hoặc người bị thiệt hại không đồng ý với thỏa thuận chung, thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc bồi
  • 42. 36 thường cho mình theo thủ tục TTDS tại Tòa án. 1.4.5.1. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường Pháp luật về BTNN quy định người bị thiệt hại phải thực hiện việc yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại giải quyết bồi thường trước khi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết. Quy định này không chỉ giúp cho người bị thiệt hại và cơ quan có TNBT có thể hiểu nhau hơn mà còn để cơ quan có TNBT có cơ hội chuộc lại những sai phạm đã gây ra, thể hiện tính chịu trách nhiệm của mình và tự bảo vệ lợi ích của Nhà nước trước người bị thiệt hại. Mặt khác, thủ tục này nhằm bảo vệ người bị thiệt hại trong việc cùng cơ quan có TNBT xác định đúng thiệt hại đã gây ra, thỏa thuận mức bồi thường giữa hai bên. Về cơ bản, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có TNBT diễn ra như sau: Bước một, sau khi nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, người bị thiệt hại sẽ gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có TNBT kèm theo văn bản này và giấy tờ, tài liệu có liên quan đến yêu cầu bồi thường theo quy định tại Điều 16 Luật TNBTCNN về hồ sơ yêu cầu bồi thường. Nếu cơ quan có TNBT không thụ lý hoặc không hướng dẫn việc gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối với hồ sơ yêu cầu bồi thường đã hợp lệ; hoặc quá thời hạn thụ lý là 05 ngày làm việc mà cơ quan có TNBT không hướng dẫn người bị thiệt hại bổ sung hồ sơ theo quy định thì người bị thiệt hại có quyền khiếu nại việc thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường quy định tại Điều 8 TTLT số 06. Bước hai, cơ quan có TNBT phải kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ yêu cầu bồi thường, nếu xác định yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì phải thụ lý trong thời hạn 5 ngày làm việc; trường hợp thấy không thuộc thẩm quyền của mình thì có trách nhiệm hướng dẫn người bị thiệt hại gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường
  • 43. 37 Bước ba, ngay sau khi thụ lý đơn yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại, Thủ trưởng cơ quan có TNBT phải ra quyết định cử người đại diện giải quyết việc bồi thường theo đúng quy định về tiêu chuẩn và điều kiện về cử người đại diện quy định tại Điều 7, Điều 8 Nghị định số 16, đó là, người đại diện phải hội tụ đủ các điều kiện là cán bộ lãnh đạo cấp phòng trở lên hoặc tương đương; có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực phát sinh trách nhiệm bồi thường và không phải là người liên quan của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại hoặc của người bị thiệt hại. Nếu người đại diện được cử không đủ điều kiện theo quy định hoặc cơ quan có TNBT không cử người đại diện thì người bị thiệt hại có quyền khiếu nại việc cử người đại diện thực hiện việc giải quyết bồi thường quy định tại Điều 9 TTLT số 06. Bước bốn, sau khi thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại, trong thời hạn luật định là 20 ngày kể từ ngày cơ quan có TNBT thụ lý đơn thì cơ quan đó phải tiến hành “xác minh thiệt hại căn cứ vào tài liệu, chứng cứ gửi kèm đơn yêu cầu của người bị thiệt hại cũng như đối chiếu với những thiệt hại thực tế xảy ra đối với thiệt hại về vật chất và thiệt hại về sức khỏe để làm căn cứ xác định mức bồi thường” [44, tr.9]. Trong giai đoạn này, nếu người bị thiệt hại không đồng ý với kết quả định giá, giám định về tài sản và sức khỏe mà cơ quan có TNBT xác minh thì người bị thiệt hại có thể tự chi trả để được định giá, giám định lại nếu cơ quan có TNBT đồng ý. Đặc biệt, pháp luật về bồi thường còn quy định, trường hợp việc định giá, giám định lại của người bị thiệt hại là có căn cứ thì cơ quan có TNBT phải chi trả cho việc định giá, giám định đó. Nếu không, người bị thiệt hại có quyền khiếu nại về việc này quy định tại Điều 10 TTLT số 06. Bước năm, trong thời hạn 10 ngày kể từ khi kết thúc việc xác minh thiệt hại, cơ quan có TNBT phải tiến hành việc thương lượng với người bị thiệt hại. Đây đươc coi là một thủ tục bắt buộc tại cơ quan có TNBT trước khi ra quyết