1. Khoa Chẩn đoán hình ảnh
ĐT : 8.285 589 – 8. 253531 (xin 285 – 281)
Fax : (04) 8 248 308
I. Lịch sử phát triển
- Năm 1954 hoà bình lập lại ở Việt Nam, thủ đô Hà Nội được giải phóng, bệnh viện Phủ
Doãn (nay là bệnh viện Hữu nghị Việt Đức) trong đó có khoa X quang được tiếp quản.
Bác sỹ Hoàng Sử là chủ nhiệm khoa đầu tiên, lúc đó cả khoa chỉ có 2 máy X quang cũ
của Pháp, chỉ tiến hành chẩn đoán với những kỹ thuật thông thường như : chiếu phổi,
chụp xương chân tay, cột sống, chụp bụng, chụp hệ tiết niệu,...
Năm 1956 Chính phủ CHDC Đức giúp đỡ trang bị, nâng cấp bệnh viện lần đầu tiên, có 1
số chuyên gia Đức sang cùng làm. Khoa được trang bị thêm máy X quang TUR D500 và
TUR D1000 của CHDC Đức.
Năm 1971, đơn vị Xquang mạch máu và can thiệp mới bắt đầu đi vào hoạt động. Đây là
đơn vị đầu tiên trong cả nước áp dụng kỹ thuật chụp Xquang mạch máu vào công tác
khám, chữa bệnh cho người dân Việt Nam, sau này còn song song phát triển thành đơn vị
can thiệp mạch máu với mũi nhọn trong cấp cứu và điều trị các bệnh mất máu nặng và
bảo tồn tạng mà không phải phẫu thuật. Ngoài ra, từ đây còn đào tạo ra những thế hệ thầy
thuốc Xquang can thiệp mạch cho các bệnh viện trong cả nước.
Năm 1974 Chính phủ CHDC Đức giúp đỡ cải tạo nâng cấp khoa Xquang lần II, trang bị
thêm 2 máy X quang tăng sáng truyền hìnhTUR D700 và TUR D1000.
Từ năm 1971 đến năm 1983, đây có thể coi là giai đoạn sơ khai khi cả nước có chiến
tranh và còn ở thời kỳ bao cấp, khi đó thiếu thốn nhiều về phương tiện máy móc, vật tư,
dụng cụ và con người làm chuyên môn, đặc biệt là thiếu về thông tin cũng như quan hệ
quốc tế. Ngược lại, yêu cầu chẩn đoán và điều trị cho các bệnh nhân có bệnh về mạch
máu (chấn thương và bệnh lý) cũng như chuẩn bị cho kế hoạch ghép tạng của bệnh viện
Việt Đức nên không thể không phát triển kỹ thuật Xquang mạch máu.
Từ những tài liệu được Giáo sư Tôn Thất Tùng cung cấp (có được sau những chuyến đi
hội nghị ở châu Âu) cùng với tinh thần tích cực của các thầy thuốc Xquang (bác sĩ Hoàng
Xương, bác sĩ Nguyễn Thường Xuân, bác sĩ Nguyễn Đình Tuấn, kỹ thuật viên Đinh
Mạnh Huy, kỹ thuật viên Nguyễn Trung Linh…), các kỹ thuật chụp động mạch chọc kim
trực tiếp được thực hiện thành công: Chụp động mạch não qua chọc kim động mạch
cảnh, chụp động mạch chủ bụng bằng chọc kim qua thắt lưng, chụp động mạch theo
phương pháp Dos Santos, chi dưới qua chọc kim vào động mạch đùi ngang nếp bẹn…
Chụp hệ tĩnh mạch lách, cửa qua chọc kim vào lách, chụp hệ tĩnh mạch chi dưới bằng
chọc kim vào tĩnh mạch mu chân… cũng đồng thời được thực hiện. Khi đó các kỹ thuật
này đều được thực hiện trong buống tối, dưới màn tăng sáng truyền hình, chụp phim đẩy
tay từng hình một. Công việc khó khăn và vất vả mà bây giờ nhìn lại khó ai mà tin nổi lại
thành công đến như vậy.
2. Năm 1971, đơn vị điện quang mạch máu (với tên gọi quen thuộc là “tổ mạch”) được
thành lập, ban đầu có 2 bác sĩ (Hoàng Xương, Nguyễn Đình Tuấn), đến năm 1983 có
thêm thế hệ thứ 2 gồm bác sĩ Dư Đức Thiện, bác sĩ Phạm Minh Thông và từ năm 2007
hoàn thiện thành đơn vị điện quang can thiệp mạch máu với đội ngũ đông đảo, được bổ
sung thêm bác sĩ Lê Thanh Dũng, bác sĩ Nguyễn Đình Minh, bác sĩ Vũ Hoài Linh, bác sĩ
Nguyễn Mậu Định, bác sĩ Nguyễn Duy Hùng cùng các kỹ thuật viên Nguyễn Trung Linh,
Lâm Mai Hoa, Vũ Ngọc Mến, Nguyễn Cao Cường… Công việc chuyên môn gồm điện
quang mạch máu quy ước và điện quang mạch máu can thiệp với thế mạnh là nút mạch
cầm máu trong chảy máu cấp tính ở các tạng như phổi, gan, thận, tử cung, khung chậu...,
đặt stent đường mật dẫn lưu mật từ gan xuống ruột, bắc cầu cửa-chủ (TIPS)…
Từ năm 1983 đến năm 1986, khoa chẩn đoán hình ảnh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu và
hoàn thiện các kỹ thuật xquang có chuẩn bị: chụp UIV, chụp dạ dày, thực quản, đại tràng
đối quang kép, chụp lưu thông ruột non, chụp đường rò tiêu hóa, tiết niệu, xương khớp,
chụp tủy sống, chụp cắt lớp… với những người đi tiên phong gồm bác sĩ Vũ Long, bác sĩ
Hoàng Kỷ, bác sĩ Nguyễn Duy Huề, bác sĩ Phạm Minh Thông, bác sĩ Trần Công Hoan,
bác sĩ Dư Đức Thiện
Năm 1989 trang bị máy siêu âm đầu tiên Kontron của Pháp, từ đó bắt đầu tiến hành khám
và chẩn đoán siêu âm. Đến nay, với 2 máy siêu âm cấp cứu, 5 máy siêu âm khám bệnh và
1 máy siêu âm trong can thiệp, việc thăm khám siêu âm tổng quát và chuyên sâu về mạch
máu đã và đang là thế mạnh của khoa.
Năm 1992 : Bộ phận nội soi tiêu hoá chẩn đoán và can thiệp được sáp nhập vào khoa
chẩn đoán hình ảnh (nay đã tách thành bộ phận riêng)
Năm 1995 được Nhà nước trang bị máy chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc (CT-Scanner)
prospeedS của hãng GE Mỹ, bắt đầu tiến hành chẩn đoán CT-Scanner thường quy và cấp
cứu.
Từ năm 1995 đến năm 1997, trực tiếp tham gia chụp mạch máu chuẩn bị cho 6 bệnh nhân
ghép thận đầu tiên ở bệnh viện quân y 103 (PGS Nguyễn Đình Tuấn, TS Dư Đức Thiện,
KTV Nguyễn Trung Linh).
Từ năm 1971 đến nay, là đơn vị đầu tiên phát triển và hoàn thiện kỹ thuật nút động mạch
phế quản và các động mạch thành ngực có vòng nối với động mạch phế quản để điều trị
ho ra máu do giãn phế quản, do di chứng lao và vết thương phổi với những bác sĩ tiên
phong: BS Hoàng Xương, Nguyễn Đình Tuấn, Dư Đức Thiện, Nguyễn Trọng Sơn…
Từ năm 2000 đến nay, sinh thiết dưới siêu âm và dưới CT được phát triển với đội ngũ
đông đảo các BS: Lê Thanh Dũng, Nguyễn Đình Minh, Nguyễn Lan Hương, Vũ Hoài
Linh… và các KTV Lâm Mai Hoa, Bùi Anh Hoàng…
Các kỹ thuật cao như cộng hưởng từ, cắt lớp đa dãy phát triển đồng đều từ năm 2005.
3. Hiện nay khoa đã được trang bị đầy đủ từ máy X quang quy ước (đã được số hóa toàn
bộ), siêu âm màu, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, chụp mạch số hóa, PET/CT
và được Bộ Y Tế quyết định chuyển thành Trung Tâm Chẩn Đoán Hình ảnh từ tháng 12
năm 2008.
II. Ban lãnh đạo
Các thế hệ lãnh đạo khoa
Các thế hệ trưởng khoa tiền nhiệm Trưởng khoa đương nhiệm
1. Giáo sư. Bác sỹ. Hoàng Sử
1. PGS.TS. Nguyễn Duy Huề
2. Bác sĩ. Nguyễn Văn Hanh
3. Phó giáo sư.Bs. Vũ Long
4. PGS.TSKH. Nguyễn Đình Tuấn
Các thế hệ phó trưởng khoa
Phó trưởng khoa
1. PGS.BS. Vũ Long
1. TS. Dư Đức Thiện
2. PGS.TSKH Nguyễn Đình Tuấn
2. Vũ Hải Thanh
3. PGS.TS. Nguyễn Duy Huề