LỜI KHAI THỊ CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
Phật giáo là nền giáo dục chí thiện viên mãn của Phật Đà đối với chúng sinh chín pháp giới. Nội dung của tất cả Kinh điển mà Phật đã thuyết trong 49 năm là nói rõ chân tướng của vũ trụ, nhân sinh. “Nhân sinh” chính là bản thân mình. “Vũ trụ” chính là môi trường sống của chúng ta. “Giác” gọi là Phật, Bồ Tát. “Bất Giác” gọi là phàm phu. Tu hành là đem những cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chúng ta đối với vũ trụ, nhân sinh sửa lại cho đúng.
• Cương lĩnh tu hành của Phật giáo là Giác – Chánh – Tịnh. Giác là không mê. Chánh là không tà. Tịnh là không nhiễm.
• Và nương theo tam học Giới – Định – Tuệ để mong đạt đến mục tiêu đó.
• Cơ sở của tu học là Tam Phước.
• Đối xử với người nương theo Lục Hòa. Xử thế tu Lục Độ.
• Tuân theo nguyện Phổ Hiền quy tâm Tịnh Độ thì việc giáo hóa của Phật mới hoàn tất vậy.
(Trích từ bài giảng “Chuyển khổ đau thành an vui” của Pháp sư Tịnh Không do cư sĩ Viên Đạt và cư sĩ Vọng Tây cẩn dịch)
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Lý luận và sự thật của việc siêu độ
1.
2.
3. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
3
LỜI KHAI THỊ CỦA PHÁP SƢ TỊNH KHÔNG
Phật giáo là nền giáo dục chí thiện viên mãn của Phật Đà đối với chúng
sinh chín pháp giới. Nội dung của tất cả Kinh điển mà Phật đã thuyết
trong 49 năm là nói rõ chân tướng của vũ trụ, nhân sinh. “Nhân sinh”
chính là bản thân mình. “Vũ trụ” chính là môi trường sống của chúng
ta. “Giác” gọi là Phật, Bồ Tát. “Bất Giác” gọi là phàm phu. Tu hành là
đem những cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chúng
ta đối với vũ trụ, nhân sinh sửa lại cho đúng.
Cương lĩnh tu hành của Phật giáo là Giác – Chánh – Tịnh. Giác là
không mê. Chánh là không tà. Tịnh là không nhiễm.
Và nương theo tam học Giới – Định – Tuệ để mong đạt đến mục tiêu
đó.
Cơ sở của tu học là Tam Phước.
Đối xử với người nương theo Lục Hòa. Xử thế tu Lục Độ.
Tuân theo nguyện Phổ Hiền quy tâm Tịnh Độ thì việc giáo hóa của
Phật mới hoàn tất vậy.
(Trích từ bài giảng “Chuyển khổ đau thành an vui” của Pháp sư Tịnh Không
do cư sĩ Viên Đạt và cư sĩ Vọng Tây cẩn dịch)
Email: vongtaycusi@gmail.com
4. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
4
Tháng bảy âm lịch là tháng cô hồn. Rất nhiều quỷ quái trong âm gian địa
phủ đều xuất hiện ở nhân gian. Cũng giống như trong quỹ đạo âm gian
đang lúc nghỉ phép vậy, quỷ quái đều đi ra ngoài nghỉ phép. Vì vậy ngay
trong tháng này, có nhiều cấm kỵ đặc biệt, việc Phật sự siêu độ cũng rất
bận rộn.
Có một bạn đồng tu đến hỏi tôi: “Việc siêu độ rốt cuộc có hiệu quả hay
không? Việc siêu độ có nhất định cần phải do người xuất gia thực hiện
hay không?” Đây là vấn đề của xã hội, cũng là vấn đề trong Phật pháp.
Việc này cần được giải thích rõ ràng thì mới không khiến cho đại chúng
mê tín.
Nhà Phật có phương pháp và lý luận của việc siêu độ rất hợp tình, hợp lý
và hợp pháp. Thế nhưng cách thức siêu độ quy mô lớn này lại không
thường thấy ở trong Phật giáo nguyên thủy. Ngay trong Kinh điển Đại
Thừa Trung Quốc phiên dịch, việc này được ghi chép rõ ràng nhất ở
“Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh”. Kinh này đã giảng nói những lý
luận, phương pháp rất rõ ràng. Chúng ta xem trong quyển Kinh liền thấy
nữ Bà La Môn, nữ Quang Mục đều là những người trẻ tuổi rất hiếu thảo.
Cha mẹ của họ do thiếu tri thức đã tạo ra rất nhiều nghiệp tội. Trong
Kinh Phật nói: Tạo những hậu quả nghiệp tội nghiêm trọng này nhất
định là đọa vào ba đường ác. Những lý luận và sự thật này, ở những lần
giảng trước chúng tôi đã từng nói qua với mọi người rồi. Chúng ta nhất
định phải biết, hoàn cảnh của sáu cõi mười pháp giới những hiện tượng
này do đâu mà phát sinh ra. Chúng ta nhất định phải thấu hiểu một cách
tường tận. Tường tận chính là “nhìn thấu” mà trong nhà Phật thường
nói. Nhìn thấu chính là đem chân tướng sự thật thấy đến tận gốc. Nhìn
thấu suốt rồi thì gọi là khám phá.
5. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
5
Phật nói với chúng ta: Mười pháp giới là cảnh giới hư huyễn, do vọng
tưởng phân biệt chấp trước của chúng sinh mà biến hiện ra, cũng giống
như trong mộng vậy. Cảnh giới trong mộng tuy là không phải chân thật,
không phải thật có, nhưng không thể nói nó không có. Tình trạng sáu cõi
cũng là như vậy. Sáu cõi là trong vọng tưởng, phân biệt, lại cộng thêm
chấp trước nghiêm trọng cho nên liền biến ra hiện tượng sáu cõi luân
hồi. Hay nói cách khác, nếu như chúng ta không có vọng tưởng, phân
biệt chấp trước thì không những không có Lục Đạo, mà mười pháp giới
cũng không có. Vì vậy Phật nói: Những hiện tượng này “như mộng
huyễn bào ảnh”. Mà những hư ảo này chỉ tồn tại trong một khoảng thời
gian không lâu. Đức Phật lại nêu ra một ví dụ: “Như sương cũng như
điện”. “Sương” là giọt sương tan biến khi mặt trời xuất hiện, nói rõ thời
gian tồn tại của nó không dài. “Điện” là tia chớp, thời gian tồn tại càng
ngắn hơn.
Chính là trong “Kinh Bát Nhã”, Phật đem chân tướng sự thật này nói rất
rõ ràng tường tận, một lời này làm rõ. Vì thế, lý luận và phương pháp
siêu độ đều không rời khỏi nguyên lý, nguyên tắc này. Cho nên gọi là tất
cả nghiệp tội đều do chấp trước nghiêm trọng. Trong sáu cõi lại xuất
hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng
cảm nhận sự đau khổ vẫn dường như là thật. Ví như người trong mộng
thấy mộng, mộng là giả, trong mộng nếu gặp hổ muốn ăn thịt, thì người
nằm mộng cũng sẽ khiếp vía toát cả mồ hôi. Khi tỉnh mộng, trong tâm
vẫn còn sợ hãi. Có thể thấy được, tuy là cảnh giới hư ảo nhưng cảm thọ
lại giống như thật. Chúng sinh trong ác đạo phải thọ những khổ đau này.
Trong Kinh điển có ghi chép: A La Hán là người đắc đạo, không phải
phàm phu. Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện đã làm trong
quá khứ, thường quên hết sạch, rất hay quên. Nhưng A La Hán có thể
nhớ được hành vi tạo tác trong năm trăm (500) kiếp quá khứ, cho đến
6. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
6
những việc khổ vui đã nhận chịu ngay trong năm trăm (500) đời đã từng
đọa địa ngục. Đức Phật giảng kinh nói pháp có nhắc đến hoàn cảnh
trong địa ngục, mọi người ngồi bên dưới nghe giảng, tâm còn run sợ,
còn cảm thấy rất là khủng khiếp, thậm chí toàn thân còn rướm máu. Sợ
hãi đến mức độ như vậy. Việc này trên Kinh điển Phật nói với chúng ta,
tuyệt không phải là lời giả dối. Phật dạy người không vọng ngữ, chính
mình nhất định không có một câu vọng ngữ, mỗi câu đều là nói chân
tướng sự thật.
7. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
7
NGHIỆP NHÂN TRONG MƢỜI PHÁP GIỚI
Do đó mà biết, ba đường ác đích thực vô cùng đáng sợ, rất là thê thảm.
Người tạo ác nghiệp thì sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác là địa ngục,
ngã quỷ, súc sinh. Không phải Diêm La Vương bắt bạn đi, không liên
can gì đến họ, cũng không phải Phật Bồ Tát trừng phạt bạn. Phật Bồ Tát
đại từ đại bi, tuyệt đối không thể trừng phạt một người ác. Điểm này rất
khó được, thế mà tại sao bạn lại tự chạy vào đường ác? Phật nói với
chúng ta là “tự làm tự chịu”. Bạn tạo loại nghiệp này thì tự nhiên sẽ cảm
được quả báo. Vì thế, loại nhân quả nghiệp báo này đương nhiên là vô
cùng phức tạp. Phật lại nói với chúng ta: Phật có khả năng giảng rõ ràng,
nhưng chúng ta không có khả năng tiếp thu. Tại sao vậy? Lý quá sâu,
chúng ta rất khó thể hội. Sự phức tạp rồi, nếu đem những việc phức tạp
này giảng một cách rõ ràng minh bạch thì cần thời gian rất dài mà chúng
ta không có tuổi thọ dài đến như vậy. Cho nên Phật dạy chúng ta chọn
lấy phương pháp tinh giản nhất, chọn lấy phương pháp quy nạp. Vì thế,
Phật dạy chúng ta nghiệp nhân trong mười pháp giới. Phật quy nạp nhân
tố quan trọng nhất, từng bậc từng bậc từ thấp mà giảng lên cao.
- Nghiệp nhân của địa ngục là sân hận. Tâm sân cảm địa ngục. Người
mang tâm sân hận nặng, người tâm sân hận mãnh liệt thì tự nhiên biến
hiện ra cảnh giới địa ngục. Trong sân hận chắc chắn sinh đố kị nghiêm
trọng, thì thủ đoạn sẽ rất tàn nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng, chiêu
cảm quả báo địa ngục.
- Nghiệp nhân của đƣờng ngạ quỷ là san tham. Tham mà không chán,
hưởng thụ chiếm hữu, giành giật, đối với danh vọng lợi dưỡng, năm dục
sáu trần thì bất chấp thủ đoạn. Tâm tham biến thành ngạ quỷ. “Bủn” là
bủn xỉn. Bạn đã có được rồi nhưng quyết định không chịu xả ra, nhất
8. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
8
định không chịu cho người khác. Đây là bỏn xẻn. Do đó san tham là
nghiệp nhân của ngạ quỷ.
- Nghiệp nhân của súc sinh là ngu si. Ngu si là không có năng lực phân
biệt chân vọng, không có năng lực phân biệt chánh tà, thậm chí đến thị
phi, thiện ác, lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Người ngu si thường hay đem
tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp xem thành tà pháp. Đây chính là
thuộc về ngu si. Ngu si là không có trí tuệ, không có năng lực phân biệt.
Nghiệp nhân của đường súc sinh, tự nhiên họ liền sẽ rơi vào đường súc
sinh.
Vì thế, ba đường ác, sáu cõi luân hồi là cảm thọ từ những việc làm của
chính mình, không phải do sức mạnh nào đó đang chi phối, đang an bài
hay đang trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiên của nghiệp lực. Cách nói
này mới là hợp tình hợp lý.
- Nghiệp nhân của cõi ngƣời là luân thường. Trong Phật pháp gọi là
“Ngũ Giới”: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không
vọng ngữ, không uống rượu. Nhà Nho Trung Quốc còn gọi là “Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” tương đồng với nội dung Ngũ Giới của nhà Phật.
Con người ngay trong một đời, mọi sinh hoạt, lời nói, việc làm đều tuân
thủ nguyên tắc này thì mới có thể giữ được thân người ở trong Lục Đạo.
Hoàn toàn không có ngẫu nhiên.
- Cõi trời: Phước báo của cõi trời cao hơn so với cõi người, do đó điều
kiện đương nhiên cũng cao hơn so với cõi người một cấp. Cho nên muốn
đến cõi trời phải tu Mười Thiện. Tư tưởng hành trì phải tương ưng với
điều kiện Mười Thiện bao gồm:
9. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
9
Thân: 1. Không sát sinh
2. Không trộm cắp
3. Không dâm dục
Miệng: 4. Không nói dối
5. Không thêu dệt. Thêu dệt là lời nói bóng bảy,
hoặc có ý, hoặc vô ý đều là tổn hại xã hội.
6. Không hai chiều. Hai chiều là khiêu khích, thị phi.
7. Không nói lời ác. Lời ác là lời thô tục, thô bạo,
làm người nghe thấy rất khó chịu.
Ý: 8. Không tham
9. Không sân
10. Không si.
Đây gọi là Mười Nghiệp Thiện. Tất cả pháp thiện cũng đều từ trong
mười điều thiện này mà sinh ra. Cho nên, người có thể tu Mười Thiện
Nghiệp, đồng thời có thể giữ Tứ Vô Lượng Tâm, đây là điều kiện sanh
thiên. Tứ Vô Lượng Tâm là Từ - Bi - Hỷ - Xả bao gồm: Từ Vô Lượng,
Bi Vô Lượng, Hỷ Vô Lượng, và Xả Vô Lượng. Tứ Vô Lượng Tâm, tu
Thập Thiện Nghiệp mới có thể sanh thiên.
- Cõi A Tu La: Tu Ngũ Giới Mười Thiện nhưng không có Tứ Vô Lượng
Tâm, quả báo của họ biến thành A Tu La. Vì họ có Ngũ Giới Thập
Thiện cho nên phước báo của họ rất lớn. Vì họ không có Tứ Vô Lượng
Tâm, cho nên họ hưởng phước thì mê hoặc, điên đảo. Trong Kinh Phật
10. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
10
nói với chúng ta: A Tu La không đoạn được Tham - Sân - Si. Dùng tâm
Tham - Sân - Si tu Mười Nghiệp Thiện, tu Ngũ Giới, họ có phước báu
lớn của trời người nhưng lại không có đức của trời người. Vì thế, giới A
Tu La nhìn chung mà nói phước báo rất lớn, tính cách hung bạo, háo
thắng, đố kỵ. Ở trong nghiệp nhân này, chúng ta lấy một ví dụ, hiện
tượng này rất phổ biến trong nhà Phật. Chẳng hạn, người mang tâm háo
thắng rất mạnh khi đến thắp hương ở pháp hội, họ nhất định muốn thắp
cây hương đầu tiên, không bằng lòng đứng sau người khác. Mọi việc
nhất định đều giành trước người khác. Họ có tu thiện không? Có, tu
thiện họ cũng tu tích công đức nhưng lại háo thắng. Quả báo này luôn
luôn rơi vào đường A Tu La.
Đức Phật dạy chúng ta tu tâm thanh tịnh. Bồ Tát đạo tu tâm khiêm hạ,
khiêm tốn, nhường nhịn. Chúng ta xem thấy ở trong “Kinh Hoa
Nghiêm” thấy được 53 vị Đồng Tham, 53 vị Pháp Thân Đại Sĩ đều là
Phật Bồ Tát. Thái độ đối nhân xử thế tiếp vật của họ rất khiêm nhường,
rất tôn kính đối với người khác. Họ hạ thấp chính mình, nâng cao người
khác, không một chút ý niệm ngạo mạn, không háo thắng, không ngạo
mạn. Đây là Phật đạo. Học Phật đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức.
Ngạo mạn háo thắng nếu không thể sửa được thì kết quả biến thành A
Tu La.
Đây là nghiệp nhân của sáu cõi. Hướng lên trên là Thanh Văn tu Tứ Đế,
“khổ tập diệt đạo”, Duyên Giác tu “thập nhị nhân duyên”, Bồ Tát tu “lục
độ”, Phật tu “bình đẳng”. Thanh tịnh bình đẳng là Phật đạo. Đây là Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đem nghiệp nhân phức tạp của mười pháp giới
qui nạp lại thành trọng điểm dạy cho chúng ta, giúp mọi người hiểu rõ
được nguyên nhân của quả báo. Đây là thường thức phổ thông của việc
học Phật. Chúng ta không thể không hiểu, không thể không biết rõ.
11. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
11
CÔNG ĐỨC SIÊU ĐỘ MẸ
ĐƢỢC NÊU TRONG KINH ĐỊA TẠNG
Đối với khởi tâm động niệm của chúng ta, tự mình hiểu được sẽ tương
ưng với đường nào. Loại tâm này, loại hành vi này của chúng ta kết quả
tương lai sẽ như thế nào, chẳng phải đã rất rõ ràng, minh bạch lắm sao!
Không hiểu đạo lý này, không biết chân tướng sự thật, làm càn làm
quấy, tạo ác nghiệp đọa vào ác đạo. Phiền phức này lớn rồi! Họ có được
con hiền cháu thảo thì rất tốt. Xã hội hiện nay người hiếu thảo với cha
mẹ thì không nhiều.
Trong “Kinh Địa Tạng”, chúng ta thấy được nữ Quang Mục, nữ Bà La
Môn là những hiếu tử chân thật. Xem thấy mẫu thân tạo tác tội nghiệp,
rơi vào ác đạo, họ toàn tâm toàn lực nghĩ cách cứu giúp mẹ, chân thật là
“thành tức linh”. Họ có tâm chân thành liền cảm động Phật Bồ Tát đến
giúp đỡ họ. Phật Bồ Tát dạy cho họ phương pháp.
Các vị cần hiểu rõ: Phật Bồ Tát cũng không thể cứu giúp, các Ngài có
thể dạy cho bạn phương pháp lý luận cứu giúp để bạn tự đi làm. Chúng
ta tỉ mỉ để quan sát ở trong Kinh xem họ được dạy phương pháp gì.
Chúng ta hiểu được phương pháp cứu độ chúng sinh là vô lượng vô
biên, trong đó niệm Phật là phương pháp hữu hiệu nhất.
Công đức siêu độ mẹ của Nữ Bà La Môn
Nữ Bà La Môn được dạy phương pháp niệm Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai. Tuy không niệm Phật A Di Đà, nhưng niệm Giác Hoa
Định Tự Tại Vương Như Lai cũng như niệm Phật. Hiếu nữ này muốn
cứu khổ nạn của mẹ, cô biết mẹ mình bị đọa vào địa ngục. Sinh tiền, mẹ
cô tạo ra ác nghiệp. Cô cũng thường khuyên nhủ nhưng mẹ cô không
12. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
12
chịu tin, không thể tiếp nhận, cho nên bà mới gặp quả báo địa ngục. Phật
dạy cô niệm Phật, cô dụng công niệm Phật bằng tâm cứu mẹ rất khẩn
thiết. Cô nỗ lực liều mạng mà niệm, niệm đến một ngày một đêm thì cô
được định. Ở trong pháp môn niệm Phật của chúng ta mà nói, cô niệm
đến “nhất tâm bất loạn”.
“Nhất tâm bất loạn” thuộc về sự “nhất tâm bất loạn”, đó không phải là
công phu rất cao nhưng đích thực là có công phu, niệm đến “nhất tâm
bất loạn”. Các vị phải biết cô không phải là phàm phu. Tâm của phàm
phu là tán loạn. Niệm đến “nhất tâm bất loạn” tương đương với A La
Hán của Tiểu Thừa. Công phu này không dễ, rất khó đạt được. “Địa
Tạng Kinh” là Kinh Đại Thừa. Pháp môn của cô học là pháp môn Đại
Thừa. Hay nói cách khác, cô không phải là A La Hán nhưng công phu
đoạn chứng của cô tương đương với A La Hán, mà công đức tu tích của
cô vượt lên trên A La Hán. Cô là Bồ Tát. Cho nên cảnh giới trong định
liền hiện ra, cô nhìn thấy địa ngục.
Trong địa ngục, quỷ vương gác cửa thấy cô đến liền cung kính, kính
chào lễ phép hỏi cô: “Bồ Tát, Ngài đến đây có việc gì?”. Được “nhất tâm
bất loạn” thì là Bồ Tát, từ phàm phu cô liền trở thành Bồ Tát. Quỷ
vương gọi cô là Bồ Tát. Cô liền hỏi quỷ vương: “Mẹ tôi lúc tại thế tạo ra
vô số nghiệp tội, nhất định rơi vào địa ngục. Tôi xin hỏi ông, mẹ tôi hiện
tại ở nơi nào?”. Quỷ vương chắp tay kính cẩn nói rằng: “Chúc mừng cô!
Quả thực mẹ của cô ở trong địa ngục, nhưng ba hôm trước bởi vì cô
phát nguyện siêu độ cho bà nên ba hôm trước bà ấy đã thoát khỏi địa
ngục và được sinh lên cõi trời rồi”.
Mẹ cô được siêu độ như vậy, đây là sự thực. Cô tuyệt nhiên không mời
pháp sư đến tụng kinh, bái sám mà tự thân niệm Phật, niệm đến một
ngày một đêm, niệm đến “nhất tâm bất loạn”, rồi dùng công đức này hồi
13. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
13
hướng. Mẹ của cô liền thoát khỏi địa ngục mà sanh đến Đao Lợi Thiên.
Đây là đạo lý gì vậy? Chúng ta nhất định phải rõ ràng. Một người tu
hành chứng quả không dễ. Tại sao nữ Bà La Môn chỉ trong một ngày
một đêm có thể niệm đến “nhất tâm bất loạn”? Mọi người chúng ta thử
nghĩ xem, đó là công lao của mẹ cô. Nếu mẹ cô không đọa vào địa ngục,
không bị những khổ nạn, thì cô niệm Phật sẽ không có tâm khẩn thiết
đến thế, tuy niệm Phật nhưng cũng không thể đạt đến cảnh giới này.
Ngày nay, chúng ta niệm Phật đã nhiều năm mà tại sao ngay cả công
phu thành khối cũng không thể đạt được, đừng nói chi đến “nhất tâm bất
loạn”? Đó chính là do chúng ta không có áp lực. Chỉ khi người thân yêu
của mình rơi vào A Tỳ địa ngục, chịu những khổ nạn, chúng ta toàn tâm
toàn lực muốn cứu giúp họ. Đức Phật dạy cho chúng ta phương pháp
này, chúng ta toàn tâm toàn lực tu tập thì tu thành.
Vì vậy nữ Bà La Môn niệm Phật niệm đến “nhất tâm bất loạn” là nhờ
mẹ của cô đã làm tăng thượng duyên cho cô. Nếu bà không bị đọa địa
ngục thì cô nhất định sẽ không có thành tựu này. Vậy nguồn gốc sâu xa
là mẹ cô đã giúp cô, cô cũng giúp lại mẹ cô. Khi cô trở thành Bồ Tát rồi,
quỷ thần cũng đối đãi đặc biệt với mẹ của cô. Đây chính là trên Kinh
nói: “Bảy phần công đức, mình được sáu phần”. Chính mình hồi hướng
cho thân bằng quyến thuộc của mình, họ được một phần. Một phần vinh
dự này của họ từ đâu mà có? Con gái đã làm Bồ Tát. Bà là mẹ của Bồ
Tát, cho nên những quỷ thần đối với bà đặc biệt cung kính xem trọng,
không thể đối đãi như đối với những tội nhân thông thường. Vì vậy, ở
trong địa ngục, bà được mời lên trời hưởng phước. Đôi bên đều có công
đức, đây mới là chân lý. Chúng ta nghĩ xem, đó là hợp tình hợp lý,
không phải là giả.
14. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
14
Cho nên các vị nhất định cần hiểu rõ: Bạn muốn siêu độ cho thân
bằng quyến thuộc của bạn, chính bạn nhất định phải chăm chỉ tu
hành, tích công lũy đức. Bạn thật có tâm siêu độ thì phải thật tâm
mà tu hành. Bạn tu hành có thành tựu thì họ mới đƣợc độ. Bạn tu
hành không có thành tựu, họ cũng không nhận đƣợc phƣớc.
Thí dụ, bạn ở thế gian, bạn muốn để cho cha mẹ của mình, thân bằng
quyến thuộc của mình ở trong xã hội được tất cả mọi người tôn kính, thì
bạn nhất định cần phải thành tựu học vấn của mình, thành tựu đức hạnh
của mình khiến ngoài xã hội vừa nghe liền biết cha mẹ của người này,
quyến thuộc của người này thì mọi người đối với họ đặc biệt tôn trọng,
đặc biệt quan tâm, đặc biệt chiếu cố. Đây chính là gia trì. Đây chính là
cảm ứng tự nhiên. Đạo lý ở ngay chỗ này, đây chân thật là giúp đỡ họ,
cứu giúp họ. Đạo lý này mọi người rất dễ hiểu. Khi hiểu rõ đạo lý này
rồi thì bạn có thể liên tưởng đến nguyên lý, nguyên tắc trong “Kinh Địa
Tạng” đã nói. Bạn sẽ chợt hiểu ra, biết được siêu độ xác thực là có công
đức, xác thực là có thể giúp đỡ vong giả đã tạo tác nghiệp tội.
Công đức siêu độ mẹ của nữ Quang Mục
Câu chuyện về nữ Quang Mục có chút khác biệt, công phu tu hành của
cô thì kém một chút, không thù thắng như nữ Bà La Môn. Cô cũng niệm
Phật, cũng là trong thời gian rất ngắn cô niệm Phật được công phu thành
khối. Vì sao biết được? Bởi vì cảnh giới của nữ Bà La Môn là cảnh giới
trong định. Còn cảnh giới của nữ Quang Mục là cảnh giới trong mộng.
Cảnh giới trong định thù thắng hơn cảnh giới trong mộng rất nhiều. Nữ
Quang Mục có được cảnh giới trong mộng cũng được xem là có thành
tựu. Nếu chiếu theo pháp môn niệm Phật bây giờ của chúng ta mà nói,
công phu của nữ Quang Mục là công phu thành khối, còn công phu của
nữ Bà La Môn là sự “nhất tâm bất loạn”.
15. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
15
Bạn chính mình tu trì chưa có công phu chân thật. Công phu chân thật
này là từ nơi bà con quyến thuộc đọa lạc ở ác đạo, bạn hết lòng muốn
cứu người thân nên mới liều mạng dụng công tu học. Thành tựu của
chúng ta cũng chính là thành tựu của họ. Bạn không có thành tựu thì họ
cũng không có thành tựu. Đây là nguyên tắc nhất định phải hiểu. Đây là
ở trong Kinh điển, Phật giảng nói sự thật và nguyên lý siêu độ cho chúng
ta nghe một cách rõ ràng, tường tận, thông suốt, thấu đáo.
16. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
16
CÔNG ĐỨC SIÊU ĐỘ
TRONG TỰ TRUYỆN “CẢNH TRẦN HỒI ỨC LỤC”
Sau đó chúng ta lại nghĩ, thời đại gần đây đã phát sinh những việc này.
Lão pháp sư Đàm Hư trong tự truyện mang tên “Cảnh trần hồi ức lục”
của ông có một đoạn nói về việc siêu độ. Quyển sách này do đệ tử của
ông là Đại Quang pháp sư ghi chép lại, và được lưu thông rất phổ biến ở
Đài Loan. Vào lúc đó Đàm lão vẫn chưa xuất gia, ông xuất gia rất muộn,
hơn 40 tuổi. Nhưng trước khi xuất gia thì ông đã học Phật và rất dụng
công. Trước lúc xuất gia, khi còn ở Thiên Tân, ông cùng một nhóm gồm
mấy vị trí đồng đạo hợp cùng nhau nghiên cứu, cùng học “Kinh Lăng
Nghiêm” suốt tám (8) năm lạnh giá.
Trong số các bạn của ông có một vị họ Lưu cùng hợp tác mở tiệm thuốc
Bắc. Người bạn này của ông cũng trải qua tám (8) năm học “Kinh Lăng
Nghiêm”, cũng rất tâm đắc, lĩnh ngộ đối với “Kinh Lăng Nghiêm” và có
một chút công phu. Tuy sự công phu của vị họ Lưu còn kém quá xa so
với nữ Bà La Môn và nữ Quang Mục nhưng chỉ một chút công phu như
vậy mà ông cũng có được hiệu quả.
Một buổi trưa nọ, tiệm thuốc vắng khách, buôn bán ế ẩm, không có
người đến mua thuốc nên ông Lưu ngủ gục ở trên quầy. Trong lúc đang
ngủ gục, ông Lưu thấy một giấc mộng nhưng giấc mộng này rất rõ ràng.
Ông mộng thấy có hai người đi đến. Hai người này vốn trước đây là oan
gia trái chủ của ông. Hai người này thiếu tiền của ông, họ thiếu nợ ông,
và ông tìm đến họ đòi nợ, buộc họ phải trả nợ. Hai người này vì không
có khả năng trả nợ nên treo cổ tự tử. Sau đó, vì việc này mà ông Lưu
thường cảm thấy rất khó chịu. Nếu ông không tìm họ đòi nợ, thì hai
người này sẽ không treo cổ. Cho nên ông thường cảm thấy hối tiếc và ăn
năn về điều này. Bây giờ nằm mộng gặp lại họ, ông biết rõ hai người
17. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
17
này treo cổ chết rồi nên ông rất sợ bị họ đến để gây phiền phức. Tuy
nhiên hai người này vẻ mặt rất hiền, không giống kiểu muốn đến hại
ông. Cho nên ông hỏi họ: “Các người đến làm gì?” Hai người này liền
nói: “Chúng tôi đến muốn xin ông siêu độ”. Nghe đến đó, tâm ông Lưu
liền được an, không lo sợ bị gây phiền phức, bị báo thù. Ông lại hỏi tiếp:
“Vậy phải siêu độ thế nào cho các người?”. Họ nói: “Chỉ cần ông đồng ý
là được rồi”. Ông Lưu gật đầu: “Được, tôi đồng ý”. Lập tức hai linh hồn
này đạp vào đầu gối ông và đạp vào vai ông rồi được sanh lên trời.
Sau khi hai người này đi không được bao lâu, lại có hai người nữa đến.
Hai người này chính là vợ và con của ông đã qua đời. Họ cũng đến quỳ
xuống trước mặt ông cầu xin ông siêu độ. Ông liền hỏi: “Làm thế nào để
siêu độ?”. Cũng giống như lần trước, ông bằng lòng và cũng thấy hai
hồn ma này đạp lên đầu gối, đạp vai ông mà sanh thiên.
Sự việc được ghi chép trong “Cảnh trần hồi ức lục” đã nói rõ: Siêu độ
cần phải do chính bạn có công phu tu học. Bạn không có công phu, bạn
dựa vào cái gì để siêu độ cho người khác? Công phu của ông Lưu chính
là tám (8) năm băng giá học “Kinh Lăng Nghiêm”. Mọi người có công
phu này, có đạo lực này thì có thể siêu độ cho thân bằng quyến thuộc, có
thể siêu độ những người hữu duyên. Nếu bạn không có công phu này thì
không được.
18. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
18
NGUỒN GỐC HÌNH THỨC SIÊU ĐỘ QUY MÔ LỚN
Chúng ta có thể đem những câu chuyện trong “Cảnh trần hồi ức lục”
cùng “Kinh Địa Tạng” hợp lại xem, đối với chân tướng sự thật này thì
chúng ta càng khẳng định: Việc Phật sự siêu độ qui mô lớn trong nhà
Phật thời hiện đại không tồn tại vào thời trước. Thời gian đầu học Phật,
tôi cũng có nghi vấn đối với vấn đề này. Tôi đã từng đem vấn đề này
thưa hỏi với pháp sư Đạo An.
Năm xưa, tôi có mối quan hệ rất tốt với pháp sư Đạo An. Pháp sư Đạo
An thành lập một đại duyên Phật học giảng tòa ở Đài Bắc, mời tôi đảm
nhiệm Tổng chủ giảng. Chúng tôi liên lạc qua lại không ít năm. Mới đầu
chúng tôi ở Tòng Sơn tự, sau đó rời đến cạnh Thiện Đạo tự, ở tầng trên
của đại giảng đường hội Phật giáo. Mỗi chủ nhật chúng tôi lên lớp một
lần. Khi đó học sinh rất đông, có khoảng hơn 800 người, khu Bắc Bộ ở
miền Bắc từ Cơ Long, ở miền Nam từ Tân Trúc. Đây là một việc hưng
thịnh của Hội Phật giáo. Pháp sư Đạo An là người phụ trách, là Chủ tịch
của giảng tòa. Tôi ở đó đảm nhiệm việc giảng dạy. Họ cho tôi danh
nghĩa là Tổng chủ giảng. Vào lúc đó, còn có pháp sư Ấn Hải, pháp sư
Trí Dụ, chúng tôi mấy người cùng phụ trách dạy học.
Tôi đã thỉnh giáo với lão pháp sư Đạo An: “Việc siêu độ từ đâu mà ra
vậy?”. Ngài suy nghĩ một lúc rồi nói, Ngài nói đại khái căn gốc của việc
siêu độ là từ thời vua Đường Minh Hoàng. Thời loạn An Sử, sau khi
Quách Tử Nghĩa bình định động loạn, triều đình ở mỗi một chiến trường
lớn kiến lập một tự miếu gọi là Khai Nguyên tự. Vì được xây dựng vào
niên hiệu Khai Nguyên nên gọi là Khai Nguyên tự. Xây dựng tự miếu
này mục đích chính là truy điệu quân dân tử nạn. Cho nên pháp hội siêu
độ đó có ý nghĩa cũng giống như lễ truy điệu hiện nay của chúng ta, mời
một số Cao tăng Đại đức tụng kinh, bái sám, hồi hướng. Truy điệu là
19. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
19
mang ý nghĩa kỷ niệm, do quốc gia đề xướng. Sau này dân gian dần dần
cũng làm việc này, cũng mời Pháp sư, Đại đức tụng kinh, bái sám siêu
độ tổ tiên. Có thể là do diễn biến này mà truyền lại.
Do đây mà biết, trước năm Khai Nguyên không có việc này, ghi chép về
việc này rất ít. Khai Nguyên về sau, Pháp hội siêu độ đích thực phát
triển nhưng đến nay đã hoàn toàn biến chất rồi. Vì sao nói là biến chất
rồi? Trước đây, siêu độ là việc làm phụ của tự viện, mỗi một năm làm
không quá một, hai lần, chủ yếu là tụng kinh thuyết pháp, dẫn chúng tu
hành. Cho nên chùa miếu gọi là đạo tràng. Phật giáo ở thế gian là độ
người chứ không độ quỷ, là độ người sống chứ không độ người chết.
Điều này chúng ta nhất định phải hiểu rõ ràng, hiểu tường tận.
20. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
20
PHƢƠNG THỨC TU HỌC XƢA VÀ NAY
Cho nên trước đây trong tự viện, trong Tòng Lâm Ấn Độ nhìn chung
hoạt động hai thời giảng kinh, hai thời tu hành.
- Đơn vị thời gian của Ấn Độ xƣa khác với hiện nay. Người Ấn Độ
xưa chia một ngày đêm thành sáu (6) thời khắc: Ngày ba thời, đêm ba
thời. Ba thời của ban ngày gọi là sơ nhật, trung nhật, hậu nhật. Ba
thời của ban đêm gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ.
- Đơn vị thời gian của Trung Quốc xƣa là mười hai (12) thời: Tý,
Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Đơn vị
thời gian của Trung Quốc xưa ngắn hơn so với Ấn Độ xưa.
- Đơn vị thời gian hiện tại, chúng ta đang áp dụng đơn vị thời gian
của Tây phương. Người Tây phương phân chia đơn vị thời gian trong
một ngày càng ngắn hơn: Một ngày đêm phân ra thành hai mươi bốn
(24) tiếng. Chúng ta gọi đó là “giờ tiểu thời”, người phương Tây
không nói “tiểu thời”. Tại sao chúng ta gọi là “giờ”? “Giờ” nhỏ hơn
“thời”.
Như vậy, hai tiếng đồng hồ của phương Tây là một thời khắc của Trung
Quốc xưa. Hai thời khắc của Trung Quốc xưa mới là một thời khắc của
Ấn Độ xưa. Vậy thì bạn liền biết, thời xưa, tự viện Tòng Lâm giảng kinh
lên lớp hai (2) thời, tương đương tám (8) tiếng đồng hồ hiện nay.
Tự viện là trường học. Trong tự viện đều là thường trụ, người xuất gia
thường trú và cư sĩ thường trú. Thời đó, các cư sĩ vào chùa miếu ghi
danh nghe Kinh. Ghi danh nghe Kinh chính là bạn muốn nghe một bộ
Kinh này. Thời gian giảng một bộ Kinh tương đối dài: Một bộ Kinh nhỏ
21. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
21
cần giảng khoảng từ một đến hai tuần. Thông thường một bộ Kinh cần
giảng từ ba tháng đến nửa năm. Nếu giảng một bộ Kinh lớn như “Kinh
Hoa Nghiêm”, một ngày giảng tám (8) tiếng thì thời gian giảng là một
năm. Bạn muốn học bộ Kinh này, nghe bộ Kinh này, bạn nhất định phải
đến ở trong tự viện một năm. Cho nên ghi danh nghe Kinh chính là báo
danh. Sau khi được đồng ý phê chuẩn thì bạn có thể ở lại một năm trong
tự viện.
Ở trong tự viện, người tại gia đương nhiên cũng cúng dường chút ít phí
dụng sinh hoạt, đồng thời làm một số công việc của thường trụ như quét
nhà, dọn dẹp vệ sinh theo phân công công việc. Bạn ở đó an tâm mà tu
học. Cho nên đó là trường học, thực sự là đạo tràng.
Một ngày ngoài tám tiếng nghe giảng, nghiên cứu, thảo luận, còn phải tu
hành. Có rất nhiều phương pháp tu hành nhưng không ngoài hai phương
pháp lớn là niệm Phật và tham Thiền, vì thế mà có Thiền đường và niệm
Phật đường. Ở trong Thiền đường dạy bạn phải ngồi Thiền, sớm tối ở đó
ngồi Thiền, đại khái khoảng tám (8) tiếng. Bạn không vào Thiền đường
tham Thiền thì bạn đến niệm Phật đường để niệm Phật, cũng là tám (8)
giờ đồng hồ. Các vị thử nghĩ xem, một ngày có tám (8) tiếng học thuật
và giảng giải, thực hành tám (8) giờ đồng hồ, còn lại tám (8) giờ đồng
hồ dành cho bản thân nghỉ ngơi, sinh hoạt thường nhật.
Đạo tràng huân tu, con người không vọng tưởng, không có thời gian để
vọng tưởng, không có thời gian sinh phiền não cho nên hiệu quả nổi bật.
Sau ba (3) tháng ở đạo tràng như vậy, khí chất con người thay đổi. Tại
sao vậy? Không có thời gian khởi vọng tưởng, không có thời gian khởi
phiền não. Không nghiên cứu, thảo luận, nghe Kinh thì lão thật niệm
Phật hoặc ở Thiền đường tịnh tọa thì có thể đạt được hiệu quả.
22. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
22
Nhìn chung, hiện nay, đạo tràng tự viện không còn nữa. Giải môn không
có, rất ít giảng kinh, công phu cũng không có, nghe nói nhiều nhất là
một năm làm một thiền thất, hoặc một Phật thất. Người ta lấy việc siêu
độ người chết làm chính, hoàn toàn điên đảo. Tự viện trước đây là độ
người sống, bây giờ Phật giáo độ người chết. Trước đây Phật giáo là
giáo dục, bây giờ biến thành tôn giáo. Hiện tượng này phát sinh như thế
nào? Làm sao diễn biến thành như vậy? Chúng ta cần phải biết, cần phải
hiểu rõ, sau đó chúng ta chính mình phải rõ ràng ở trong Phật môn cần
phải học cái gì.
Chúng ta tiếp nhận giáo dục của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trước mắt
chúng ta cần cải thiện cuộc sống của chính mình và nâng cao cảnh giới
của chính mình trong tương lai. Việc này các nhà khoa học nói rằng,
chúng ta cần đột phá thời không. Mười pháp giới chính là mười thời
không khác nhau. Bây giờ chúng ta nói vĩ độ không giống nhau: Ba (3)
độ không gian, bốn (4) độ không gian, năm (5) độ không gian…Khoa
học gia đã chứng thực, tối thiểu có mười một độ (11) độ không gian
đang tồn tại. Cách nói đó cũng giống như mười pháp giới của nhà Phật
nói. Mười pháp giới là mười loại thời không khác nhau. Đức Phật dạy
chúng ta đột phá, đột phá sáu cõi, đột phá mười pháp giới, chúng ta mới
có thể chứng được Nhất Chân Pháp Giới. Việc này chúng ta học Phật
phải nên biết.
23. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
23
VIỆC SIÊU ĐỘ QUY MÔ LỚN CÓ HIỆU QUẢ KHÔNG?
Vậy việc siêu độ quy mô lớn có hiệu quả hay không? Không thể nói
không có hiệu quả, quan trọng nhất là ở người chủ pháp hay người chủ
trì siêu độ này. Nếu họ có tu, có chứng thì sức mạnh rất rõ ràng, giống
như Lương Võ Đế trong “Lương Hoàng Sám” vậy. Lương Võ Đế ngày
xưa rất yêu quí một phi tử. Người này đã tạo tác nghiệp tội, bị đọa vào
ác đạo. Lương Võ Đế là đại hộ pháp của Phật môn, mời Bảo Trí Công
đến chủ trì pháp hội siêu độ. Về sau sự việc này được ghi chép lại gọi là
“Lương Hoàng Sám”. Trong văn tự “Lương Hoàng Sám” ghi chép rất rõ
ràng: Bảo Trí Công chính là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Ngài
siêu độ phi tử của Lương Võ Đế từ ác đạo đến trời Đao Lợi. Việc như
vậy, chúng ta ở trong truyện ký đã xem thấy rất nhiều. Vì vậy, người chủ
pháp đàn cần có tu, có chứng.
Thời đại ngày nay, người có tu, có chứng không còn nữa. Cho nên cả
đời tôi không dám làm Phật sự siêu độ. Tôi không có năng lực này,
không có đức năng này. Quán trưởng của chúng ta rất xem trọng đối với
việc tôi cũng không phản đối. Ngày trước quán trưởng Hàn Anh chúng
tôi có một đạo tràng. Chúng ta thành tâm thành ý mà làm, dựa vào chân
thành mà làm thì có thể cảm ứng.
Cho nên lúc trước ở thư viện, mỗi năm có ba (3) lần pháp hội siêu độ.
Chúng ta bình thường là giảng kinh niệm Phật, mặc dù không đạt được
tiêu chuẩn như thời xưa, không làm được đến tám (8) giờ giảng kinh,
tám (8) giờ niệm Phật như thời xưa nhưng chúng ta bây giờ mỗi ngày
giảng kinh 1,5 giờ đồng hồ. Nội bộ đồng tu cũng có một, hai giờ nghiên
cứu thảo luận, miễn cưỡng cũng giống thời xưa một chút. Chúng tôi
luôn yêu cầu niệm Phật không gián đoạn.
24. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
24
Mỗi năm đến kỳ Thanh minh, Trung nguyên, Đông chí, chúng tôi tổ
chức ba (3) lần pháp hội tế tổ, cúng tế tổ tiên. Chúng tôi cúng tế tổ tiên
không cần bạn đến đây viết bài vị. Bài vị mà chúng tôi viết sẵn là bài vị
tổ tiên trăm họ, tất cả đều bình đẳng. Vì vậy, bài vị chúng tôi cúng là bài
vị tổ tiên trăm họ, một mực bình đẳng. Chúng tôi làm pháp bình đẳng,
không phân biệt bài vị lớn bao nhiêu tiền, bài vị nhỏ bao nhiêu tiền. Bạn
muốn cúng tiền thì tùy hỷ, hoàn toàn không miễn cưỡng, cũng không có
quy định nào. Pháp hội chúng tôi hoàn toàn không thu phí cúng dường
bài vị, một xu cũng không thu, một phân tiền cũng không lấy. Mỗi năm
chúng tôi làm ba lần pháp hội.
Nhưng gần đây, vì xã hội động loạn, người chết quá nhiều. Mỗi tháng
chúng tôi làm “Tam thời hệ niệm” một lần, thành tâm thành ý siêu độ
cho tất cả oan hồn, người chết trong tháng. Đây là những việc Phật sự
phụ thêm của đạo tràng chúng tôi. Hy vọng các vị hiểu được lý luận và
sự thật của việc siêu độ. Làm thì tốt hơn là không làm, chỉ cần tận tâm
tận lực, thành tâm khẩn thiết nhất định sẽ có cảm ứng.
25. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
25
Nguyện cả thảy chúng sinh
Đều tín niệm Di Đà
Đồng cầu sanh về nƣớc Cực Lạc
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm cõi nƣớc Phật
Trên đền bốn ơn nặng
Dƣới cứu khổ ba đƣờng
Nếu có ngƣời nghe thấy
Đều phát tâm Bồ Đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh về nƣớc Cực Lạc
Nam Mô A Di Đà Phật