SlideShare a Scribd company logo
1 of 16
BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 1
1. VỊ TRÍ CỦA BỘ SÁT PHÁ THAM
Tất cả mọi Chính Tinh, cách xác định vị trí trên Thiên Bàn của một Lá Số đều phụ thuộc vào vị trí của Sao Tử Vi. Qua 4
bài nói riêng về 4 sao trong Bộ Tử Phủ Vũ Tướng ta đã thấy chỉ có 12 cấu trúc của 14 Sao chính trong bộ môn Tử Vi. Do
sự đối xứng qua trục Dần Thân chỉ còn 6 Mẫu điển hình cho nhiều mẫu người khác nhau, nếu muốn chi tiết hóa – một
cách tương đối . Sáu mẫu đó là : Tử Vi Độc Thủ, Tử Phủ, Tử Tướng, Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham.
Trong 14 sao chính đó, chỉ có bộ ba Sát Phá Tham là có cấu trúc chặt chẽ do Định Nghĩa. Nên trong bài này , thay vì chỉ
nói về Vị Trí của bộ ba (triplet) Sát Phá Tham, và để khỏi nhắc lại trong các bài kế tiếp, soạn giả xin nhắc lại- hệ thống
hoá và giải thích tại sao có vị trí : Đồng Cung, Tam Hợp, Nhị Hợp, Chính Chiếu và Nhị Phá. Để khi xét một Lá Số của
một người, nhờ cấu trúc cơ bản đó (từng bộ đôi, bộ ba, bộ 4…) trong các chùm sao ta mới biết rõ Bản Chất và Vận Mệnh
từng người qua lá số đó. Chứ chỉ xét riêng rẽ từng sao trong một cung Mệnh hay Cung Thân chẳng hạn, ta chỉ nhìn thấy
vài hiện tượng nổi bật của người đó trong vài giai đoạn về cuộc đời mà thôi.
1) Công thức tìm Sao TỬ VI :
Mười bốn (14) Sao chính trong Tử Vi đều phụ thuộc vào vị trí của Sao Tử Vi. Trước hết là nhắc lại công thức để tìm vị trí
của sao Tử Vi (để cho những Qúy Vị độc giả nào chưa đọc các bài trước): để giản dị hóa ta gọi cung Dần là số 1 (đồng
nghĩa với tháng giêng), cung Mão là số 2 (tháng 2)… cho đến cung Sửu là số 12. Trên Thiên Bàn tất cả có 12 cung ứng
với 12 tuổi, do đó chu kỳ T của vị trí là T=12. Vì mỗi tháng âm lịch có tối đa 30 ngày nên :
Cung Dần còn mang số 13, 25 (vị trí của cung Dần x=1+k12 hay 1 (modulo12).
Cung Mão còn mang số 14, 26 hay x=2 (mod 12).
Cung Thìn x=3 (mod 12) … Cung Sửu x=0 (mod 12).
Vị trí của sao Tử Vi được định bởi Công Thức sau:
k=N+ (1+ec) n
c
N là ngày sinh : 1 ≤ N≤ 30.
c chỉ số cục : Thủy Nhị Cục c=2, Môc Tam Cục c=3, Kim Tứ Cục c=4, Thổ Ngũ Cục c=5, Hỏa Lục Cục c=6.
n là số nguyên thêm vào bao giờ cũng nhỏ hơn c : 0≤ n≤5 để thực hiện Phép Chia Đúng.
Có 2 trường hợp :
a) N là bội số của c thì n=e=0.
b) N không là bội số của c :
– Nếu n lẻ (1, 3, 5) thì e=-1
– Nếu n chẵn (2,4) thì e=+1
14 Sao chính chia làm 2 vòng : Vòng Tử Vi có 6 sao và vòng Thiên Phủ có 8 sao đi ngược chiều nhau vì lý do đó có bộ
đôi (trùng nhau của 2 sao của 2 vòng để tạo thành một Cặp).
*Các sao thuộc Vòng Tử Vi: Liêm Trinh (L= k+4 hay k – 8), Thiên Đồng (Đ = k +7 hay k- 5), Vũ Khúc (V = k+8 hay k –
4), Thái Dương (D = k +9 hay k -3), Thiên Cơ (C =k+11 hay k – 1).
*Vị trí của các Sao thuộc vòng Thiên Phủ
Gọi k là vị trí của Sao Tử Vi, h là vị trí của Sao Thiên Phủ bao giờ ta cũng có Công Thức :
k + h = 2 (modulo 12)
Lưu ý : k=1 (mod 12, cung Dần – đồng nghiã với tháng Giêng), k=2 (mod 12, cung Mão), cung Thìn k= 3 (mod 12),…
cung Sửu k =12 (còn có thể coi như có vị trí 0).
Từ Công thức trên Ta có thể tìm vị trí của 2 Sao Tử Vi và Thiên Phủ đồng cung. Thật vậy khi k = h ta có : 2k =2h =12
suy ra k=h =1 (mod 6) chứng tỏ 2 Sao Tử Vi và Thiên Phủ chỉ đồng cung tại 2 cung Dần (k = 1, 13, 25) và cung Thân (k
= 7, 19).
Các sao thuộc Vòng Thiên Phủ : Thái Âm (Â = h+1), Tham Lang (t =h+2), Cự Môn (C = h+3), Thiên Tướng (T = h+4),
Thiên Lương (L =h+ 5), Thất Sát (s = h+6), Phá quân (p =h+ 10).
Do vị trí 14 Sao Chính từ Định Nghiã ta thấy các Sao tạo thành Bộ 4, Bộ 3, Bộ 2 như sau :
a) Tam Hợp chỉ xảy ra khi 3 sao ở cùng chung 1 vòng và có vị trí của các số hạng của 1 Cấp Số Cộng có công sai bằng 4 như :
Bộ ba Tử Vũ Liêm (k, k+4, k+8) ; Bộ ba Sát Phá Tham (t=h+2, s=h+6, p = h+10). Nên nhớ chỉ có 2 Bộ ba (Tam Hợp) này
cố định ở trên bất cứ Lá Số nào. Còn bộ (4, 5, 6) chỉ xảy ra khi hai Bộ nói trên có 2 sao trùng nhau (đồng cung).
b) Chính Chiếu cố định (luôn luôn xảy ra) chỉ xảy ra khi 2 sao ở cùng 1 vòng (vị trí của 2 số hạng của 1 cấp số cộng có công sai
bằng 6) như Thiên Phủ và Thất Sát ; Thiên Tướng và Phá Quân. Còn chính chiếu « tạm thời » chỉ xảy ra khi 2 sao đã trùng nhau ở
1 cung thì sẽ chính chiếu ở vị trí cung thẳng góc (thí dụ: Tử Vi và Thiên Phủ đồng cung tại Dần Thân thì sẽ chính chiếu tại Tị Hợi).
c) Nhị Hợp : định bởi công thức x+y = 11 (mod 12) như Thiên Phủ với Thái Dương ; Vũ Khúc với Thái Âm ; Tham Lang với
Thiên Đồng ; Phá Quân với Thiên Cơ.
d) Nhị Phá: định bởi công thức: x + y = 5 (mod 12) như Tử Vi với Cự Môn, Thiên Tướng với Thiên Cơ,Thái Dương với Thất Sát.
e) Đồng Cung để tạo thành bộ đôi khi 1 trong sao của 2 vòng Tử Vi và Thiên Phủ trùng nhau. Dùng công thức của cặp Tử Phủ : k
+ h = 2 (mod 12) ta đã suy ra những cặp sau :
Tử Phủ, Vũ Tướng, Cự Nhật, Đồng Lương đồng cung tại Dần Thân.
Tử Tham, Dương Lương, Cự Cơ đồng cung tại Mão Dậu.
Tử Tướng, Liêm Phủ, Cơ Lương đồng cung tại Thìn Tuất.
Tử Sát, Liêm Tham, Vũ Phá đồng cung tại Tị Hợi.
Liêm Tướng, Vũ Phủ, Đồng Âm đồng cung tại Tý Ngọ.
Tử Phá, Nhật Nguyệt, Liêm Sát, Vũ Tham, Cự Đồng đồng cung tại Sửu Mùi.
f) Bộ 4 (bộ 5, 6) xảy ra khi bộ ba (tam hợp) hay đồng cung của 2 vòng gặp nhau như ta đã thấy : Bộ Tử Phủ Vũ Tướng (Liêm), Sát
Phá Tham Tử Vũ Liêm, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cơ Cự Đồng Âm Lương. Thuật ngữ thông dụng ở đây ta chỉ xét đến : Tử Phủ
Vũ Tướng cách, Sát Phá Tham cách,Cơ Nguyệt Đồng Lương cách. Riêng bài này ta chỉ chú trọng đến 3 sao Thất Sát, Phá Quân và
Tham Lang.
Tóm lại ta có bảng sau về vị trí của bộ Sát Phá Tham với các sao chính khác như sau :
Đồng
cung Nhị Hợp Nhị Phá
Chính
chiếu
Tham
Lang
Tử Vũ
Liêm
Thiên
Đồng Æ Æ
Thất Sát
Tử Vũ
Liêm Æ
Thái
Dương Thiên Phủ
Phá Quân
Tử Vũ
Liêm Thiên Cơ Æ
Thiên
Tướng
II) Đắc Hãm của Bộ Sát Phá Tham
1) Vị trí đắc hãm theo Định Nghĩa
Dựa theo Cổ Thư mà mọi sách Tử Vi lưu hành hiện tại với một sao chính tại 1 cung có các giá trị định lượng theo danh từ
sau : Miếu Địa (đắc 1), Vượng Địa (đắc 2), Đắc Địa (đắc 3), Bình Hòa (trung bình) và Hãm Địa (không đắc = xấu). Đối
với bộ Sát Phá Tham ta có Bảng giá trị sau :
Miếu Địa Vượng Địa Đắc Địa Hãm Địa
Tham Lang Sửu Mùi Thìn Tuất Dần Thân
Tị Hợi Tý
Ngọ Mão Dậu
Thất Sát DầnThân Tý Ngọ Tị Hợi Sửu Mùi Mão Dậu Thìn Tuất
Phá Quân Tý Ngọ Sửu Mùi Thìn Tuất
Mão Dậu Dần
Thân Tị Hợi
Người mới học Tử Vi khi đã thông suốt Ngũ Hành đều có những lúc thắc mắc về sự đắc hãm các sao ở các vị trí sau : thí
dụ Thất Sát(Dương Kim) tại cung Ngọ (hỏa) – hỏa khắc nhập kim – mà Sát lại miếu địa nghĩa là coi như tốt nhất ; trong
khi đó tại Thìn (Dương Thổ) – thổ sinh nhập kim – mà Sát lại hãm địa !. Có nhiều sách cho Sát là Hỏa đới Kim, giả sử là
hỏa có đắc tại Ngọ thì sao Sát cũng đắc tại Thân (kim) mà hỏa khắc kim, kể cả Sát cũng đắc tại Dần (Dương Mộc) trong
khi kim khắc mộc. Trường hợp với sao Tham Lang (Thủy đới Mộc) cũng vậy – là sao Thủy – lại hãm địa tại Tý, Hợi đều
là 2 cung Thủy ? – kể cả Tị, Ngọ (hỏa). Do đó vị trí đắc hãm, nếu để ý riêng từng sao một – nhiều khi ta đến sự nghịch lý
; điều này không tránh được. Ngay cả đến bộ môn Toán là môn học thuần lý mà thường cũng có sự nghịch lý, đôi khi phải
dùng Công Lý (hay Tiên Đề) để tiến tới. Nhưng nếu ta để ý đến Cấu Trúc toàn bộ của Bộ Sao và giá trị tương đối về đắc
hãm ta có thể thấy sự Dung Hòa (một cách tương đối) các mâu thuẫn của các sách Tử Vi đã lưu hành. Sau đây là phần áp
dụng Đại số Boole (Algèbre de Boole – Boolean Algebra) về sự đắc hãm cho bộ Sát Phá Tham.
2) Vị trí đắc hãm theo quan niệm Boole
Nếu chỉ giới hạn Giá Trị Đắc Địa (Miếu, Vượng, Đắc) vào một giá trị Đắc và Hãm (không đắc) thì Bộ ba Sát Phá Tham,
theo Đại Số Boole chỉ có 8 giá trị : đó là phép ánh xạ hay phép áp (application, mapping) từ tập hợp E={ Sát, Phá, Tham
} vào tập hợp F ={ đắc, hãm } với card E=3 và card F = 2. Số giá trị đó là 2 lũy thừa 3 =8, ta có bảng giá trị của hàm số
Boole f(Sát, Phá, Tham) như sau : để giản di hóa, ta đặt Thất Sát =a, Phá Quân =b, Tham Lang =c, đắc =1 và hãm=0.
a b c f(a,b,c)
1 1 1 1
1 1 0 1
1 0 1 1
1 0 0 0
0 1 1 1
0 1 0 0
0 0 1 0
0 0 0 0
Với giả thiết bộ ba Sát Phá Tham chỉ đắc, nếu hai trong ba đắc địa, còn các trường hợp khác đều hãm. Nói khác đi, hàm
số f (a, b, c) có giá trị cho ra từ : f(a,b, c) = ab V ac V bc = sup (ab,ac,bc)
Cài giá trị này vào thế Tam Hợp ta thấy:
Tam Hợp S P T f
Thân Tý Thìn 1 1 1 Đ
Dậu Sửu Tị 1 1 0 Đ
Tuất Dần Ngọ 1 0 1 Đ
Hợi Mão Mùi 1 0 0 H
Tý Thìn Thân 0 1 1 Đ
Sửu Tị Dậu 0 1 0 H
Dần Ngọ Tuất 0 0 1 H
Mão Mùi Hợi 0 0 0 H
Thìn Thân Tý 1 1 1 Đ
Tị Dậu Sửu 1 1 0 Đ
Ngọ Tuất Dần 1 0 1 Đ
Mùi Hợi Mão 1 0 0 H
Ta thấy ngay bộ Sát Phá Tham hãm ở thế Tam Hợp (Hợi Mão Mùi) và cũng dễ hiểu tại sao cùng một thế Tam Hợp (Dần
Ngọ Tuất) bộ Sát Phá Tham lúc đắc địa lúc hãm địa.
Do đó khi xét về một sao nhiều khi thấy đắc địa mà cuộc đời không khá; trong khi Mệnh Thân có sao chính phù Mệnh
hãm địa mà cuộc đời lại khá. Dĩ nhiên là phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác; song phần lớn là cần phải do chiêm nghiệm
trong tinh thần xác suất thống kê với Không Gian Mẫu phải lớn (nghĩa là qua rất nhiều lá số) mới thấy cấu trúc tòan bộ có
tác động qua lại để thấy được bản chất có ảnh hưởng đến người mang lá số đó. Cũng như Phú của Cổ Nhân – nhiều câu
rất đúng, rất có giá trị, nhưng cũng có nhiều câu cần phải xét lại; có khi lại sai từ căn bản ở vị trí sao, có khi chỉ nghiệm
đúng với 1 vài lá số – song đã vội kết luận thành nguyên tắc.
Cũng nên nhớ rằng Khoa Tử Vi không phải là một khoa học thuần lý; tuy cách phối trí của các sao chính do một Nguyên
Tắc định sẵn có tính tuần hoàn nên có thể đặt thành Công Thức như công thức Toán với các yếu tố năm tháng ngày giờ để
lập nên một Lá Số. Từ quy luật đó ai cũng có thể làm ra 1 Lá Số giống nhau – đưa vào máy tính lại càng nhanh hơn –
nhưng cách Luận Giải thì lại khác hẳn. Cho nên ta thấy rằng có những nguyên tắc chỉ đúng với một vài lá số ở 1 thời điểm
mà lại sai ở các lá số khác. Nguyên tắc nào cũng phải dựa vào 2 yếu tố chính là Thời, Vị thì độ chính xác mới hy vọng có
xác suất cao.
III BẢN CHẤT CỦA BỘ SÁT PHÁ THAM
1) Sát Phá Tham có phải là VÕ CÁCH không?
Người viết bắt đầu làm quen với bộ môn Tử Vi từ thủa 16t khi còn là học sinh Trung Học Nguyễn Trãi Hanoi (1952),
người giúp tôi làm quen với bộ môn này là một ông Đồ nho thất thời, người cùng làng (Yên Mô – Ninh Bình), cùng tản
cư ra Hanoi- do ông thân sinh mời đến nhà để làm Tử Vi cho mọi người trong Đại Gia Đình. Mỗi lúc rảnh rỗi, sau khi học
bài xong- một già một trẻ – ngồi đối ẩm – các danh từ Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Đào
Hồng Hỉ, Không Kiếp, Kình Đà, Hình Kị? lặp lại nhiều lần trên mỗi Lá Số đánh mạnh vào óc tò mò nên ham tìm hiểu.
Hồi đó rất phục ông này – chỉ bấm trên ngón tay- một phút – đọc ra vanh vách từng sao – nào cát tinh, nào hung tinh, chính
tinh, bàng tinh, phụ tinh? rồi viết ngay trên giấy không cần có 1 Tư Liệu nào trước mặt. Ông này thông thạo cả 3 chữ Hán,
Nôm và Quốc Ngữ; nhưng lời giải đoán thì viết trên Tập Sách bằng chữ quốc ngữ. Về Phú thì ông ta thuộc lầu lầu vô kể
như các nho Sinh thuộc các câu Khổng Tử viết.Mỗi khi nhìn Lá Số nào mà Mệnh có Sát Phá Tham hoặc có Hung Tinh
đắc cách, là ông ta phán ngay: cậu này hay anh này sẽ phát võ. Hồi đó sách nói về Tử Vi hầu như không có (nếu có cũng
không thấy bày bán trên các Hiệu Sách ở Hanoi lúc bấy giờ).
Khi di cư vào Nam 1954, những năm kế tiếp sau đó; các nhà Xuất Bản mọc lên như nấm; các sách về Tử Vi đương nhiên
cũng được phát hành rầm rộ- mới đầu phải kể cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang năm 1956, một
cuốn viết kỹ càng từ Định Nghiã đến Tính Chất các sao, phép Lập Thành Lá Số và luận đoán – chính cuốn này đã làm nền
tảng căn bản cho bộ sách Tử Vi Hàm Số và Tử Vi Tổng Hợp của Soạn Giả Nguyễn Phát Lộc sau đó (1972). Ngoài ra,
cuốn Tử Vi Áo Bí của Việt Viêm Tử chỉ là sách dạy cách lấy lá số Tử Vi bằng cách bấm đốt ngón tay theo lối Ông Đồ
như đã kể trên rườm rà, nếu dùng Toán Học chỉ cần một công thức nhỏ dùng lối đối xứng trên các trục của Thiên Bàn thì
an sao nhanh hơn không cần phải dùng nhiều trang giấy với hình vẽ lớn của bàn tay chiếm trọn 1 trang cùng những bài thơ
tuy dài dòng – nhưng cũng dễ nhớ. Dù trước đó cuốn Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu phát hành từ lâu (viết từ
năm 1934) cũng giản dị – nhưng ít phổ biến. Bộ Tử Vi Đẩu Số của Kiến Trúc Sư Nguyễn Mạnh Bảo nặng về từ chương,
dịch nguyên văn từ sách Tàu không có gì phát kiến mới, phải đợi cụ Thiên Lương cho ra đời cuốn Tử Vi Nghiệm Lý
(1974) với nhiều Phát Kiến mới lạ, kiểm chứng trên nhiều Lá Số của các Danh Nhân.
Sau khi đi Tù Cộng Sản về năm 1978, tôi có hân hạnh được Cụ Thiên Lương tiếp kiến nhiều lần; được Cụ cho xem nhiều
bài nghiên cứu sau này gửi sang Hoa Kỳ cho người con Út vượt biên in thành cuốn Tử Vi Nghiệm LýToàn Thư (1984).
Đối với Tôi những phát kiến của học phái Thiên Lương có nhiều mới lạ, quan niệm rộng rãi – giúp ích rất nhiều cho những
người nghiên cứu bộ môn này.Thập Niên 70, phong trào Tử Vi nở rộ, nhiều thành phần tham dự có cả 1 Tuần Báo Khoa
Học Huyền Bí đăng tải nhiều Phát Kiến và Quan Niệm mới về các Bộ Sao; những Kinh Nghiệm của nhiều người trong
quá trình nghiên cứu Tử Vi; nổi bật nhất, vẫn là những bài của Cụ Thiên Lương và những người theo Học Phái Thiên
Lương. Phong trào Tử Vi lan vào giới trẻ – đa số là học sinh, sinh viên tìm nghiên cứu- thịnh hành nhất là năm 70 -74 các
sách báo viết về môn này rất nhiều, đương nhiên cũng có rất nhiều tác giả, mỗi người một môn phái – dù Tử Vi phát xuất
từ Trung Hoa do Hi Di Trần Đoàn sáng tạo. Phần lớn sách dịch theo lối cổ – ít có phát kiến mới – sách nào cũng cho Sát
Phá Tham là võ cách.
Những năm trước 1963 có dịp theo may ông bạn nhà binh thăm các thầy bói Kim, Canh, Minh Lộc, Ích…đa số những ông
này khi gặp lá số mà Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham đều khẳng định là Phát Võ. Các ông Thày này chuyên chú nhiều đến
Hung Sát Tinh (thời lọan có khác !) dựa vào các câu Phú cổ như:
Tham Hỏa Thìn Tuất danh trấn chư bang.
Tham Linh tinh thủ, tướng tướng chi danh.
Sát, Hình hội Long Thần định giáng.
Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ nhất sinh tước lộc vinh xương.
Nào là
Phá Quân Tý Ngọ gia quan tiến lộc.
Kiếp Không đắc địa phát dã như lôi.
Nhiều khi còn cố ghép các sao để thành bộ như:
Binh Hình Tướng Ấn hay Long Hổ Kình Quyền.
Đọc lên nghe kêu lắm, để tán thưởng cho những sao sẽ Phát về Võ. Cuộc đảo chánh 1-11-1963 các ông thầy Minh Lộc,
Canh, Kim có ảnh hưởng rất lớn đến biến cố này – phần lớn các sĩ quan trẻ kể cả cấp Tướng đều tin tưởng một cách mù
quáng vào các lời đoán bốc thơm mà hành động, nhất là các vụ binh biến sau đó. Người viết đã từng được một ông Đại Tá
(sau lên Tướng) dẫn đi xem thầy Minh Lộc vài lần; lần nào cũng có nhiều sĩ quan thân cận đi tháp tùng để nghe luận đoán
– phần nhiều các Thày bốc thơm về các Lá Số có bộ Sát Phá Tham và Hung Tinh đắc địa. Chính vì điểm đó CIA đã lợi
dụng các ông thầy Tử Vi để hướng dẫn biến cố theo điều họ muốn. Đây chỉ là một nhận xét trung thực trên các dữ kiện có
thực của một giai đoạn lịch sử, không có tính cách phê phán một ai, chỉ có mục đích chứng minh là các ông thầy Tử Vi có
ảnh hưởng rất lớn đến những cuộc Chính Biến từ năm 1963 và những năm sau đó. Và cũng để chứng minh tính chất của
bộ Sát Phá Tham mà từ ngàn xưa, ngay các sách cổ, những lá số nào Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham cũng đều cho là Võ
cách. Điều này không phải là không đúng – mà cũng không sai. Vì phần lớn Lá Số thành công trong Võ Nghiệp đều có bộ
Sát Phá Tham tại Mệnh Thân. Nhưng Mệnh Thân có bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật vẫn đi lính như thường –
đôi người còn Phát Võ hay như Tây Sở Bá Vương Hạng Võ có Thiên Cơ tại Mệnh, Thân Cự Nhật vẫn nổi danh tài cử
đỉnh, vạn nhân địch (Hạng Võ tuổi Đinh Mão sinh ngày 12 tháng 8, giờ Mão). Song có một điều chắc chắn là những người
nào mà Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham đắc cách hội Hung Sát tinh đắc địa thành công rất nhanh chóng trong Binh Nghiệp
vào các Chu Kỳ hợp Mệnh. Trong nhà binh thường là Cấp Chỉ Huy trực tiếp chiến đấu như Tiểu Đoàn Trưởng, Trung
Đoàn Trưởng, Sư Đoàn Trưởng. Trái lại dù ở nhà binh, Mệnh Thân không có bộ Sát Phá Tham thì chỉ giữ những vai trò
Tham Mưu, Tiếp Vận, Quân Nhu, nếu có lên lon mau là nhờ ở Chu Kỳ có bộ Sát Phá Tham hay Hung Sát Tinh đắc cách.
Hết chu kỳ đó cuộc đời lại vào ngã rẽ ít sóng gió hơn.
Tóm lại, ta có thể kết luận rằng những người nào mà Lá Số có bộ Sát Phá Tham với Hung Tinh đắc cách đóng tại Mệnh
Thân là những người dễ thành công trong binh nghiệp; ngoài năng khiếu trên còn dễ thành công trong môi trường Chính
Trị, Kinh Doanh, Thương Mãi, Kỹ Thuật. Đó là mẫu người Hiếu Động có phản ứng nhanh, can đảm nhưng liều lĩnh- gặp
thời lên rất nhanh nhưng xuống cũng rất mau.
Những năm trong trại tù CS, tôi đã có dịp xem số Tử Vi cho hàng ngàn Sĩ Quan cấp úy lẫn cấp tá, đã thấy rằng những
người nào lá số mà Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham thường là những cấp chỉ huy như Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn
Trưởng ở những binh chủng Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù, dĩ nhiên có cả Bộ Binh, còn
những người không có bộ ba này thường ở các ngành Chiến Tranh Chính Trị, Quân Nhu, Quân Vận, Tiếp Vận ... Mỗi khi
xem số cho một người nào tôi thường phối kiểm các thời điểm vận hạn trên các biến cố đã qua, nhất là các lá số có bộ Sát
Phá Tham của các Sĩ Quan Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân nắm các đơn vị trực tiếp chiến đấu – thường lên
lon rất mau – còn những người ở đơn vị không trực tiếp chiến đấu, tuy cùng một cấp bậc xuất thân cùng một Quân Trường
ở khóa đàn anh, cách nhau vài khóa – có khi cả chục khóa; đương nhiên lá số không có bộ Sát Phá Tham. Vào thời điểm
mà Lá Số có bộ Sát Phá Tham ngộ Hung Sát tinh thì thường bị thương nặng, phối hợp với chỉ tay thì thấy có đường đứt
quãng – nặng thì trên Sinh Đạo, nhẹ thì trên Tâm Đạo hay Trí Đạo. Phần lớn độ chính xác khá cao. Tôi cũng có dịp xem
Tử Vi cho khoảng vài chục Bác Sĩ Quân Y cũng là sĩ quan tù cộng sản; thấy rằng những ông nào Mệnh Thân có bộ Cơ
Nguyệt Đồng Lương thêm Trung Tinh đắc cách (tuy đi lính) nhưng mở phòng mạch Tư ở ngoài thường đông khách kiếm
nhiều tiền và rất có tiếng, hơn hẳn các ông Bác sĩ nào mà Lá số không có bộ sao này. Cũng có ông có bộ Sát phá Tham
đắc cách – quả lên lon rất mau, tuy ở khóa đàn em mà ngang lon với các ông ở khóa đàn anh- hành nghề giải phẫu cũng
rất nổi tiếng.
2) Mẫu người Sát Phá Tham.
Như đã trình bày trong phần vị trí của 14 Chính Tinh, chỉ có bộ Sát Phá Tham trong chùm sao Thiên Phủ là có cấu trúc
chặt chẽ, có ảnh hưởng tác động qua lại. Ba sao này luôn luôn ở vị trí Tam Hợp đứng trên đỉnh của một Tam Giác với thứ
tự : Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang theo chiều thuận trên Lá Số (chiều của kim đồng hồ).
Khi các sao của bộ ba này không gặp sao của bộ ba (Tử Vũ Liêm) thì vị trí của bộ ba này như sau:
Mệnh Quan Lộc Tài Bạch
Thất Sát Phá Quân Tham Lang
Phá Quân Tham Lang Thất Sát
Tham Lang Thất Sát Phá Quân
Đó là trường hợp bộ Sát Phá Tham thuần chất.
Trường hợp một trong ba sao Sát, Phá, Tham gặp các sao của bộ ba (Tử Vũ Liêm) thì vị trí được xếp đặt như sau:
Mệnh Quan Lộc Tài Bạch
Tử Vi Thất Sát
Liêm Trinh Phá
Quân
Vũ Khúc Tham
Lang
Tử Vi Phá
Quân
Liêm Trinh Tham
Lang
Vũ Khúc Thất
Sát
Tử Vi Tham
Lang
Liêm Trinh Thất
Sát
Vũ Khúc Phá
Quân
Đó là trường hợp bộ Sát Phá Tham biến chất.
Tùy theo vai trò ngũ hành+ hàng Can của Bản Mệnh và giờ sinh (vị trí của THÂN); ảnh hưởng các sao Tử Vi, Vũ Khúc,
Liêm Trinh tác động lên bộ ba này – để từ đó ta suy ra bản chất thay đổi so với trường hợp trên.
BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 2
A) Sát Phá Tham thuần chất
Trong phần này ta sẽ xét tính chất riêng của từng Sao một – trong các Sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang của bộ Ba (Sát
Phá Tham) khi đứng riêng một mình tại Cung Mệnh (thuật ngữ cũ gọi là độc thủ tại Mệnh) hay tại Cung THÂN (khác với
cung Thân cố định có hành Kim trên Thiên Bàn của mọi Lá Số) .
Bản tính chung của bộ Sát Phá Tham là hiếu động, hành động cực kỳ nhanh chóng, can đảm, liều lĩnh, gan góc, nóng
nảy dễ thành công trong môi sinh động, nhưng cũng dễ thất bại – lên mau xuống nhanh – giữ được lâu hay mau còn tùy
thuộc vào cung THÂN (chỉ về qúa trình Họat Động của đương số bắt đầu từ Trung Vận) + hành của Sao có ở vị trí đắc địa
(hay hãm địa ?) có tương hợp Ngũ Hành với bản Mệnh ? Song tính liều lĩnh của Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang khác hẳn
nhau ở tính gan dạ nên mức độ thành công trong Cuộc Đời, sự sống lâu hay chết yểu, tình trạng lâu bền hay chia ly trong
đời sống lứa đôi cũng khác nhau, nếu đi sâu vào chi tiết từng sao một với sự kết hợp với các sao Chính (bộ Tử Phủ Vũ
Tướng, Liêm) cùng các trung tinh và Hung Sát tinh khác.
Riêng từng Sao một của Bộ Ba này – sao nào cũng vậy – được rải đều trên 12 cung của Lá Số nên có 6 vị trí Độc Thủ
(thực ra – nếu xét qua sự đối xứng của Trục Dần – Thân thì coi như chỉ có 3 vị trí khác nhau) và cũng vậy với 6 vị trí đi
kèm với các Chính Tinh khác (bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm).
I) Hình Ảnh của THẤT SÁT
1) Thất Sát Triều đẩu
Mệnh có sao Thất Sát độc thủ tại Dần hay Thân thì được gọi là Thất Sát Triều Đẩu (nằm trong mẫu Tử Phủ của 14 sao
chính). Đó là vị trí của Bộ Ba (Sát Phá Tham) cả 3 sao đều đắc cách. Thất Sát là Nam Đẩu tinh thuộc Kim đới Hỏa. Nếu
Mệnh đóng tại Dần thì cung Quan Lộc có Phá Quân (Thủy) cư Ngọ (Hỏa), tuy không đắc cách bằng Phá Quân cư Tý
(Thủy) khi Thất Sát độc thủ tại cung Thân (Kim), song hơn ở bộ Nhật Nguyệt tịnh minh (Thái Dương ở Tỵ và Thái Âm ở
Dậu) ; cung Tài Bạch có Tham Lang độc thủ tại Tuất và tại Thìn khi Thất Sát ở Thân. Tại Dần thì lợi cho Mạng Hỏa với
Tuổi Giáp (Dần Ngọ Tuất) + Cục Hỏa nếu vắng Hung Sát Tinh vừa được trùng phùng 3 vòng Lộc Tồn, Thái Tuế và Tràng
Sinh – với tuổi Đinh, Kỷ + Cục Hỏa thì cũng được hưởng lợi 2 trong 3 vòng nói trên. Đóng tại Thân (kim) thì tốt cho
người mạng Kim, mạng Thủy ; nếu là tuổi Canh (Thân, Tý, Thìn) và Cục Thủy hay Cục Thổ thì được trùng phùng 3 vòng
Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh, song lại mất ưu thế ở hành của Mệnh: Canh Thân hành Mộc, Canh Tý hành Thổ, Canh
Thìn tuy hành Kim nhưng bị Tuần tại Mệnh.
Thất Sát triều đẩu – nếu hình tướng phương phi, nở nang vuông vức, mắt lộ hay mắt âm dương là người nhiều mưu lược,
dũng mãnh, đó là bậc anh hùng tài trí hơn người, thường hiển đạt về võ nghiệp dễ khuất phục mọi người, song Sự Nghiệp
không bền, ngay cả tuổi Thọ. Vua Quang Trung tuổi Nhâm Thân (1752 DL) sinh ngày 05 tháng 05, giờ Tuất (Thân cư Tài
Bạch có Tham Lang nhập Miếu gặp Hỏa Linh). Mệnh Kiếm Phong Kim với Thất Sát đóng tại Thân, Cục Thổ. Bộ Sát Phá
Tham đắc cách trùng phùng với 2 vòng Thái Tuế và Tràng Sinh ; bộ Nhật Nguyệt tuy hãm song ngộ Tuần, Triệt nên đắc
cách. Đó là hình ảnh đẹp nhất của Thất Sát triều đẩu. Mệnh Kim mẫu người anh hùng tốc chiến tốc thắng, sự nghiệp vẻ
vang lừng lẫy, song Mệnh yểu (Kình, Linh Hỏa chiếu Mệnh Thân, Vua mất khi tiểu vận gặp Hạn Thái Bạch 40t+Không
Kiếp, Thiên Hình).
Thất Sát triều đẩu – nếu sinh giờ Tý, Ngọ (Mệnh Thân đồng cung), giờ Dần, Thân (THÂN cư Quan Lộc) , giờ Thìn, Tuất
(THÂN cư Tài Bạch) đều hưởng được bộ Sát Phá Tham thuần chất đắc cách; nếu vắng bóng Hung Sát Tinh và được nhiều
Trung Tinh đắc cách đi vào Binh Nghiệp, Kinh Doanh hay Kỹ Nghệ rất thành công, kể cả ngành Y (bác sĩ giải phẫu) hay
Nha Sĩ. Nếu vướng Hung Sát Tinh vẫn lên mau nhưng cuộc đời thăng trầm và không bền. Sinh giờ Mão Dậu (THÂN cư
Thiên Di có Tử Phủ : ra ngoài được nhiều người giúp sức và trọng vọng) ; sinh giờ Sửu, Mùi (THÂN cư Phúc Đức gặp
Vũ Khúc (Vũ Tham đắc cách : nhờ phúc ấm của Dòng Họ, xuất thân từ dòng Họ danh vọng – nhiều thuận lợi nhờ Môi
Trường để từ đó dễ vươn lên) ; sinh giờ Tỵ, Hợi (THÂN cư Phối có Liêm Tướng : nhờ vợ hay chồng tài ba giúp sức ở vai
trò Cộng Nghiệp).
Các tuổi khác có cách Thất Sát triều đẩu tuy không trùng phùng vòng Lộc Tồn như Giáp, Đinh, Kỷ cho Thất Sát tại Dần
hay Canh, Qúy cho Thất Sát tại Thân, song nếu hội nhiều Trung Tinh như Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa,
Quang Qúy, Khoa Quyền Lộc …vẫn là những người thành công – đặc biệt trong Binh Nghiệp, Chính Trị Kinh Doanh hay
Kỹ Thuật. Tuy nhiên đối với Nữ Mệnh dù rất thông minh, khí cao, trí lớn không thua gì Nam giới, nhưng đời sống lứa đôi
ít khi toàn vẹn, nhất là khi gặp nhiều Hung Sát tinh tại Mệnh Thân cũng không tránh được nhiều thăng trầm về Tình Cảm.
2) Thất Sát Ngưỡng Đẩu
Thất Sát độc thủ tại Tý hay Ngọ thì được gọi là Thất Sát Ngưỡng Đẩu, so với trường hợp trên, bộ ba (Sát Phá Tham) tuy
không đắc cách bằng, nhưng hơn hẳn các trường hợp còn lại. Nên Phú đã có câu : Thất Sát Dần Thân, Tý, Ngọ, nhất sinh
tước lộc, vinh xương hay Thất Sát Tý Ngọ phùng Tả Hữu – Văn Khúc gia chi cách tối thanh.
Thất Sát đắc cách ở 2 vị trí này vì được cặp Vũ Phủ trực chiếu. Tại Ngọ tốt hơn tại Tý vì bộ Tử Phủ Vũ Tướng đắc vị
hơn, bộ Nhật Nguyệt như nhau, vì đồng tranh tại Sửu Mùi : sáng hay tối tùy theo giờ sinh hay Môi Sinh và hành của Mệnh
(như vậy Mệnh Thủy thì ảnh hưởng nhiều của Thái Âm, Mệnh Hỏa cho Thái Dương). Đó là cách nhìn khái quát, vì còn
tùy thuộc ở vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn và vòng Tràng Sinh cùng các Trung Tinh và Hung Sát Tinh + Hình Tướng và
Chỉ Tay. Kể cả khi xét về giờ sinh (vì phụ thuộc vào cung THÂN tại Mệnh hay Quan, Tài, Phúc, Di hay Phối).
Dù không được nhiều sao tốt ở Mệnh, nhưng cách Thất Sát Ngưỡng Đẩu được cộng nghiệp bởi Tam Giác (Phúc Đức, Phu
Thê, Thiên Di) với bộ Tử Phủ Vũ Tướng đắc vị. Nhất là – nếu Hình Tướng cao lớn, Ngũ Quan đầy đặn không khuyết hãm,
hai Bàn Tay ngoài 3 chỉ chính (Sinh Đạo, Trí Đạo, Tâm Đạo) ngay ngắn không đứt gẫy lại có thêm 2 chỉ May Mắn và
Danh Vọng + Mệnh Hỏa, Cục Hỏa với tuổi Giáp, Đinh, Kỷ – nếu Thất Sát ở Ngọ, Mệnh Kim và Cục Thủy hay Thổ với
tuổi Canh, Qúy – nếu Thất Sát đóng tại Tý : đều là mẫu người thành công có Danh Vọng như Thất Sát Triều Đẩu.
Trái lại nếu Thất Sát tại Ngọ với các tuổi Bính, Mậu sinh tháng 10, giờ (Tỵ, Mùi), nếu Hình Tướng thấp bé, Ngũ Quan
khuyết hãm chắc chắn hay mắc tai họa khủng khiếp về xe cộ, dao, súng – mạng Mộc càng dễ bị hơn !. Đó chính là cách
« Mã Đầu đối Kiếm = Gươm treo Cổ Ngựa » như Phú đã có Câu : Sát Kình tại Ngọ, Mã đầu đối Kiếm, tương giao Sát diệu
ư Bính Mậu – nhân Mệnh nan to. Riêng tuổi Giáp Kỷ có cách này lại không sao – nhờ Lộc Tồn và nếu được thêm nhiều
Trung Tinh đắc cách khác, lại có Sự Nghiệp lừng lẫy; các tuổi khác thì mức độ ít hơn, song nếu thành công về mặt Tiền
Bạc, đến Chu Kỳ xấu, khi Tiểu Vận gặp Hạn (Tam Tai, La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch) cũng khó tránh nổi tai họa.
Phú có Câu : « Sát cư Ly Khảm, Nam Nhân Thê hiền đa hội ; mạc ngộ Kiếp Riêu, ố phụ ái cô thân, Nữ Mệnh ai oan trái –
hồng nhan nan tự chủ ». Đó là nói đến cách Thất Sát cư Ngọ (Ly thuộc Hỏa chỉ cung Ngọ) và cư Tý (Khảm thuộc Thủy
chỉ cung Tý). Mệnh có Thất Sát độc thủ thì cung Thê có Tử Vi Thiên Tướng hội Vũ Phủ – nếu nhiều Trung Tinh đắc cách
thì đàn ông lấy được vợ hiền (vượng Phu ích Tử), đàn bà gặp chồng danh giá. Song với Nữ Mệnh – nếu gặp Kiếp, Riêu
hội hợp thì mặt Tình Cảm long đong nhiều oan trái, nếu thêm Cô Qủa lại thích ở Độc Thân.
Cụ Phan Thanh Giản sinh năm Bính Thìn (1796) giờ Tỵ ngày 12 tháng 10 đậu Tiến Sĩ độc nhất của Miền Nam năm 29
tuổi – là người của Lịch Sử trải qua 3 đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức : Mệnh có Thất Sát Ngưỡng đẩu tại Ngọ
+ Kình Dương (Mã đầu đối Kiếm)+Thiên Hình, Địa Không, Tang Môn – THÂN cư Thê tại Thìn có Tử Tướng hội Đà La,
Địa Kiếp + Triệt. Vì buộc phải giao Ba Tỉnh Miền Tây (Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên) do Tướng Pháp là La Grandière
đưa Tối Hậu Thư ngày 20/6/1867 nên Kinh Lược Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử « để tạ tội bất trung với Vua »
ngày 3/8/1867.
3) Thất Sát Thìn Tuất
Đóng tại cung Thìn hay Tuất thì Thất Sát độc thủ : trường hợp này Thất Sát hãm địa; (cách phối trí 14 sao chính thuộc mẫu
Tử Vi Độc Thủ « Tử Vi đóng tại Ngọ hay Tý ») ; riêng Thất Sát tại Thìn thì Cung Phúc Đức được Tử Vi cư Ngọ hội Liêm
Phủ Vũ Tướng đắc cách hơn trường hợp Tử Vi cư Tý (Thất Sát cư Tuất), lại thêm cung Phối (Phu Thê) được Vũ Tướng
(người phối ngẫu tài giỏi giúp sức). Do đó nếu Mệnh có Thất Sát hãm – không được nhiều Trung Tinh hội hợp, cuộc đời
tuy có thăng trầm, nhưng Phúc Đức đẹp, do đó nhờ Phúc Đức của Tổ Tiên dòng Họ – ăn hiền ở lành – mà có thể tránh
được tai họa khi vận số gặp Năm Xung Tháng Hạn.
Trường hợp Mệnh (hay THÂN) có Thất Sát tại Thìn hay Tuất lại hội hợp nhiều Hung Sát Tinh (Kình Đà, Linh Hỏa, Không
Kiếp, Hình, Kị …) thêm Hình Tướng khuyết hãm, hành của chính tinh khắc bản Mệnh (mạng Mộc hay Hỏa), chắc chắn
cuộc đời gặp nhiều tai nạn (có khi yểu Mệnh : Phú đã có câu Thất Sát lâm THÂN chung thị yểu), nếu ở binh nghiệp rất dễ
tử thương. Song nếu hành các nghề liên quan đến dao kéo, kim chích (mổ xẻ, giải phẫu..) xử dụng cho người thì lực tác
động của Hung Sát Tinh vào đương số có thể giảm nhẹ
Với các tuổi Bính, Tân hay các tuổi thuộc con nhà Giáp Ngọ (như Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, …, Qúy Mão), nếu Mệnh
(hay THÂN) đóng tại Thìn ; hay đối với các tuổi thuộc con nhà Giáp Tý (như Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, …, Qúy Dậu)
– nếu Mệnh đóng tại Tuất có Thất Sát – nhờ Triệt hay Tuần làm giảm độ hãm của Thất Sát và Hung Sát Tinh nếu có, thì
mức độ xấu cũng giảm nhẹ rất nhiều.
Thất Sát hãm địa dễ bị yểu Mệnh (trường hợp Nhan Hồi do câu Phú : « Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà, Nhan Hồi yểu
chiết »), nếu không thì bản chất cũng hung bạo, gian quyệt, ưa đại ngôn, rất liều lĩnh gan dạ, không biết sợ là gì (hình ảnh
của Bạo Hổ băng Hà). Vì liều lĩnh gan dạ nên dễ hiểm nguy (thường những kẻ chết đuối, phần lớn, hay ỷ y tưởng mình
bơi lội giỏi). Nếu Hình Tướng bé nhỏ, Ngũ Quan khuyết hãm, chỉ tay có vấn đề – muốn tránh tai nạn – cần phải sửa đổi
Tâm Tính – khi đi vào Chu Kỳ xấu (Đại Vận 10 năm) phải thận trọng đề phòng khi Tiểu Vận đi vào các Hạn (Năm Tuổi,
Tam Tai, La Hầu, Kế Đô hay Thái Bạch). Nếu gặp Thời lên mau thì phải lưu ý đến tuổi Thọ. Cải Số phần lớn là do Mình
tự tạo (tu Tâm) – cũng giống như người lái xe, lái tàu cần phải biết Thời Tiết, chặng đường nào trên đường đi có rào cản
hay Hầm Hố !
1. II)Hình Ảnh của PHÁ QUÂN
Phá Quân đóng tại Mệnh nếu đắc địa thân hình đẫy đà, cao vừa tầm, da hồng hào mặt đầy đặn, mắt lộ, hầu lộ, lông mày
thưa (trái lại khi hãm địa thân hình thấp, bé nhỏ). Phá đắc địa (Miếu, Vượng) là người thông minh, hiếu thắng, tự đắc, kiêu
kỳ, có thủ đọan, có tài thao lược, can đảm, dũng mãnh, ưa họat động, thích giang hồ – yếu điểm ưa nịnh hót (dám chết cho
người Tri Kỷ) hao tán Phu Thê : dễ chia ly trong Tình Cảm. Khi đắc địa lại được nhiều Sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp tất
được hưởng Phú Qúy đến tột bậc, thường hiển đạt về Võ Nghiệp, có uy quyền hiển hách. Trái lại khi Hãm Địa gặp nhiều
Sao mờ ám (Hung Sát Tinh + Bại Tinh) : suốt cuộc Đời khốn cùng cô đơn, phiêu bạt – đôi khi gặp bệnh tật khó chữa hay
thường mắc những tai nạn khủng khiếp, dễ mắc vào vòng lao lý – không yểu tử cũng bị chết một cách thê thảm
Cũng giống như Sao Thất Sát, Phá Quân độc thủ ở 6 cung (Tý – Ngọ, Dần – Thân, Thìn – Tuất) và đi cặp với 1 trong các
Sao của bộ (Tử Phủ Vũ Tướng Liêm : Tử Phá tại Sửu – Mùi ; Vũ Phá tại Tỵ – Hợi ; Liêm Phá tại Mão Dậu ; không thể
đồng Cung với Phủ hay Tướng vì cùng nằm trên cùng 1 Vòng Sao mà Thiên Phủ là đại diện) trong 6 cung còn lại.
1) Phá Quân Tý Ngọ
Đóng Tý (Thủy) Phá Quân (Thủy) đắc cách hơn khi đóng tại Ngọ (Hỏa) được bộ ba (Sát Phá Tham) cả 3 đều đắc cách
(Thất Sát triều đẩu, Tham Lang Thìn Tuất) lại được hỗ trợ thêm Bộ Tử Phủ Vũ Tướng cũng đắc cách. Cách phối trí 14
Sao chính nằm trong Mẫu Tử Phủ.
Mệnh đóng tại Tý hay Ngọ với Phá Quân độc thủ thì Quan Lộc được Tham Lang miếu địa tại Thìn hay Tuất, Tài Bạch
được Thất Sát triều đẩu ; Cung Phúc Đức được Tử Phủ ở Dần hay Thân ; cung Thiên Di với Liêm Tướng đắc địa ở Ngọ
hay Tý ; cung Phối (Thê hay Phu) có Vũ Khúc đắc cách ở Tuất hay Thìn. Do đó sinh giờ nào thì Cuộc Đời vẫn đẹp với
điều kiện gặp nhiều Trung Tinh đắc cách, xa lánh Hung Sát Tinh !
Phú đã có câu : « Phá Quân Tý Ngọ, gia quan tiến lộc » để nói về sự Hiển đạt, uy quyền hiển hách, nhất là về Võ
Nghiệp của Phá Quân đóng tại Mệnh ở Tý, Ngọ hợp Mệnh (đặc biệt tốt cho Mệnh Thủy hay Mộc – các Mệnh khác có khi
khổ vì Phá Quân hay Thiên Tướng) và cộng hưởng với nhiều vòng sao tốt ; đồng thời cũng có câu : « Phá Quân Khảm,
Ly, cô thân độc ảnh » để nói về sự hao tán Phu Thê của Sao này.
Đọc Truyện Kiều khi Nguyễn Du tả Từ Hải : « Râu Hùm, Hàm Én, Mày Ngài. Vai ngang tấc rộng, thân mười thước cao
» hay « Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ! ». Tuy nhiên bị chết đứng khi « bó thân về với Triều Đình » vì chót nghe lời
Thúy Kiều dụ dỗ (hảo ngọt, ưa nịnh) : đó là Hình Ảnh của Phá Quân cư Tý !
Đọc truyện Tam Quốc Chí ta đã thấy Hình Ảnh của Quan Vân Trường trung tín và đầy nghĩa khí nhưng cũng kiêu kỳ,
khinh thường địch thủ : Ông tuổi Mậu Ngọ (Thiên Thượng Hỏa : Lửa trên Trời) sinh giờ Ngọ ngày 13 tháng 5. Mệnh
THÂN đồng cung tại Tý có Phá Quân độc thủ ở thế Tuế Phá (có tinh thần Cách Mạng, ưa kình chống) gặp Tuần +Triệt
(nên thăng trầm). Tuy Phá Quân (Thủy) không phù Mệnh Hỏa + Can Chi, nhưng Cung Thiên Di đóng ở Ngọ (Hỏa) với
Liêm Tướng (Tử Phủ Vũ Tướng cách + Tứ Linh « Long Phượng Hổ Cái » phù Mệnh Hỏa + Bộ Sát Phá Tham đắc cách
hội Kình Đà – nên sau khi kết nghĩa Vườn Đào, Ông cùng Lưu Bị, Trương Phi dấy nghĩa Cần Vương phò nhà Hán – sau
đó phò tá nghĩa huynh Lưu Huyền Đức khi lên ngôi Hán Trung Vương tại Tây Thục. Nghĩa Khí và Trung Tín của Phá
Quân cư Tý : Khi thất thủ Hạ Bì, vì kẹt có Nhị vị Phu Nhân của Huyền Đức mà phải tạm hàng Tào (quyền biến không Sĩ
Khí như Nho Sĩ của Khổng Học), nhưng ông đặt ra 3 điều kiện cho Tào Tháo phải thỏa mãn đầy đủ, nếu không ông chỉ có
cái chết để đền ơn Tri Kỷ với Lưu Bị ở Kết Nghĩa Vườn Đào. Sau này trên con đường nhỏ Hoa Dung ông đã tha chết cho
Tào Tháo để đền ơn sự việc mà kẻ địch đã đãi mình lúc trước – mặc dầu ông đã ký kết với Khổng Minh – nếu tha Tào phải
đền mạng ! Cũng vì tính qúa Kiêu coi thường đối thủ (là Lục Tốn ở Đông Ngô) đành mất mạng ở Mạch Thành (Sát Phá
Tham nhờ Kình Đà mà hiển đạt về Võ Nghiệp, nhưng cũng vì Kình Đà mà mất mạng : Đà ở Quan, Kình cư Ngọ ở Di : Mã
đầu đối Kiếm +Tuần Triệt tại Mệnh Thân + Mã Tang, Cung Tật Ách gặp Hỏa Tinh, Riêu Y Hình kị chiếu, Đại Vận gặp
Kiếp Không).
Bản Chất của Phá Quân cư Tý có thể dùng Lời nói đầy thủ đọan và xác thực nhất của Tào Tháo trước mặt các thuộc hạ lúc
không thể giữ được Quan Vân Trường đành để ông đi kiếm Huyền Đức : « Người như Vân Trường, tiền tài bất động kỳ
– tâm, tước lộc cũng không thể đổi ý thay lòng, không quên Chúa cũ, đi ở phân minh ; qủa là một Đại Trượng Phu đời
nay ».
– Đại Tướng Đỗ Cao Trí tuổi Kỷ Tỵ (20/11/ 1929) Đại Lâm Mộc – Mệnh cư Tý có Phá Quân độc thủ là 1 Danh
Tướng của Miền Nam, chết vì tai nạn máy bay ngày 23/2/1971(cung Tật Ách có Kình) khi gặp hạn Kế Đô 43t + Tam Tai
+ Kình Đà.
– Tổng Thống Ngô Đình Diệm tuổi Canh Tý (3/1/ 1901) Bích Thượng Thổ – Mệnh + Triệt có Phá Quân cư Ngọ
(Hỏa), người Sáng Lập Chế Độ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, bị giết chết bởi thủ hạ tin dùng, ngày 2/11/1963 khi vận
số có tiểu hạn vào Tật Ách, lưu Thái Tuế vào Phối đều chiếu vào Nô Bộc gặp Hạn La Hầu + Tam Tai + Kình Đà.
– Nhà Cách Mạng Phan Chu Trinh (uy vũ bất khuất) tuổi Nhâm Thân 1872 (ngày 3 tháng 8, giờ Dậu) Mệnh Phá
Quân cư Tý + Kình ; THÂN cư Thiên Di có Liêm Tướng suốt cuộc đời tranh đấu cho Sự Giải Phóng Dân Tộc dưới ách
Đô Hộ của Thực Dân Pháp – chết năm Bính Dần 1926 khi đi vào Hạn La Hầu 55t – năm Thiên khắc Địa xung+ Kình Đà
Hình, Không Kiếp.
2) Phá Quân Thìn Tuất
Khi Mệnh có Phá Quân độc thủ đóng tại Thìn hay Tuất (vòng sao của 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Tướng), thì cung Quan
Lộc có Tham Lang tại Thân hay Dần ; cung Tài Bạch có Thất Sát Triều đẩu tại Tý hay Ngọ ; cung Phúc Đức có Vũ Phủ
đắc cách tại Ngọ hay Tý ; cung Thiên Di có Tử Tướng tại Tuất hay Thìn ; cung Phối có Liêm Trinh tại Dần hay Thân ;
cung Nhị Hợp (Nô Bộc) có Cự Cơ đắc cách tại Dậu Mão. Phá Quân thuộc Thủy đóng tại Thìn hay Tuất đều thuộc Thổ –
mà Thổ khắc nhập Thủy – tuy nhiên theo định nghĩa Phá Quân lại đắc địa ở vị trí này .Nếu xét về Bộ ba (Sát Phá Tham)
ở vị trí này thì ta thấy Quan Lộc qúa yếu khi Tham Lang hãm địa độc thủ (hành động vị kỷ, tham lợi, bất kể thân sơ, đôi
khi bất nhân, hành động tiểu nhân nếu gặp Không, Kiếp). Nếu vắng bóng Trung Tinh đắc cách lại hội nhiều Hung Sát Tinh
tại Mệnh (lại sinh giờ Dần Thân với Mệnh Mộc hay Thủy) thì Câu Phú của Cổ Nhân : « Trai bất nhân Phá Quân Thìn
Tuất-Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân » cũng có ảnh hưởng nhiều khi Lá Số ở trong trường hợp này
Tuy nhiên nếu tuổi Giáp (Dần Ngọ Tuất) sinh giờ Sửu Mùi hay giờ Tỵ Hợi được hưởng 2 vòng Thái Tuế và Lộc Tồn –
nhờ ảnh hưởng của Phúc Đức hay nhờ sự Cộng Nghiệp với người hôn phối – thời Tiền Vận tuy thăng trầm nhưng từ Trung
Vận cuộc đời thay đổi hẳn – kể cả tính tình và hành động, không bị người Đời ngộ nhận như giai đọan trước đó. Tuổi
Đinh, Kỷ với Thổ Mệnh cũng được tương tự như trên ít nhiều. Trường hợp sinh giờ Mão Dậu với Mệnh Thổ hay Kim nhờ
môi sinh (được Qúy Nhân giúp sức cùng Nô Bộc tốt hỗ trợ) – cuộc Đời cũng thay đổi bất ngờ từ Trung Vận.
Trái lại với tuổi Bính Mậu mạng Thủy Mệnh đóng tại Tuất sinh giờ Tí Ngọ- lại ở Thế Tuế Phá – nếu không có Trung Tinh
đắc cách như Hóa Khoa hóa giải thì bản chất của Phá Quân hãm địa : ương ngạnh, hiếu thắng, hung bạo, nham hiểm, bất
nhân – thường mắc nhiều tai ách – không thể tránh khỏi – nếu không ly tổ bôn ba.
3) Phá Quân Dần Thân
Mệnh đóng tại Dần hay Thân với Phá Quân độc thủ (vòng sao của 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Vi độc thủ ở Ngọ hay Tý)
thì cung Quan Lộc có Tham Lang hãm tại Tý hay Ngọ ; cung Tài Bạch có Thất Sát hãm tại Tuất hay Thìn – nhờ cung Phúc
Đức có Liêm Phủ đắc cách ; cung Thiên Di có Vũ Tướng đắc cách ; cung Phối với Tử Vi cư Ngọ + bộ Nhật Nguyệt tịnh
minh khi Phá Quân tại Thân hơn cách Tử Vi cư Tý +bộ Nhật Nguyệt hãm khi Phá Quân đóng tại Dần. Bộ ba (Sát Phá
Tham) không đắc cách ở vị trí này – nếu vắng bóng Trung Tinh đắc cách, hội hợp nhiều Hung Sát tinh, lại sinh giờ (Tí,
Ngọ), (Dần Thân), (Thìn, Tuất) – không được cộng hưởng 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh thì cuộc Đời cũng
chịu ảnh hưởng nhiều với các Câu Phú :
– Phá Quân nhất diệu tính nan minh (Phá Quân hãm độc thủ là người không sáng suốt, phá tán không suy xét).
– Phá Quân Hỏa Linh , bôn ba lao toái (Phá Quân không hợp với Hỏa Linh như Tham Lang, cho nên nếu gặp là người
bôn ba khổ cực).
– Phá, Sát phùng Hỏa Hao, mạc ngộ Việt, Hình lão hạn qui thân họa nghiệp lai (Cung Mệnh có Phá độc thủ gặp Hỏa
Hao hội hợp, thêm Thiên Hình khó thóat được những tai nạn khủng khiếp !).
Nếu sinh giờ (Sửu, Mùi) nhờ THÂN cư Phúc Đức của dòng Họ, sinh giờ (Mão, Dậu) nhờ THÂN cư Thiên Di, sinh giờ
(Tỵ, Hợi) nhờ THÂN cư Phối với tam hợp của Bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc cách – dù Tiền Vận có lao đao, vất vả
nhưng từ Trung Vận nhờ ảnh hưởng của Dòng Họ, Môi Sinh và sự cộng nghiệp với người thân trong Gia đình cuộc Đời
trở nên sáng sủa và an nhàn hơn trước với điều kiện có quyết tâm và nghị lực để thay đổi (tu tâm dưỡng tính để vươn lên
từ nghịch cảnh) .
III) Hình ảnh của Tham Lang
Cũng như 2 sao Thất Sát và Phá Quân, Tham Lang có 6 vị trí đứng một mình tại (Dần – Thân, Thìn – Tuất, Tý – Ngọ)
và 6 vị trí đứng cặp thành bộ đôi với các sao khác thuộc bộ (Tử Vũ Liêm : Tử Tham ở Mão -Dậu ; Vũ Tham ở Sửu – Mùi ;
Liêm Tham tại Tỵ – Hợi).
Tham Lang là sao thuộc Bắc Đẩu Tinh – Âm Thủy đới Mộc – Miếu Địa (Sửu, Mùi), Vượng Địa (Thìn, Tuất), Đắc Địa
(Dần Thân), Hãm Địa (Tỵ Hợi, Tý Ngọ, Mão Dậu) là Hung Tinh, Dâm Tinh chủ về Uy Quyền, Họa Phúc. Nếu đắc địa
gặp nhiều sao sáng sủa hội hợp ; với Hình Tướng cao lớn, đẫy đà, mặt đầy đặn vuông vức (tam đình cân xứng, ngũ quan
không khuyết hãm+bàn tay các chỉ rõ ràng không bị đứt quãng) là người tài giỏi thao lược, thường hiển đạt vềVõ Nghiệp
hay Kinh Doanh, Kỹ Nghệ, được hưởng Phú Qúy đến tột bực, có uy danh lừng lẫy và phúc – thọ song toàn. Tuy thông
minh, trung hậu nhưng hiếu thắng và tự đắc, lòng tham dục không bờ bến – mưu tính tòan việc đại sự – nhưng chỉ chuyên
cần siêng năng lúc đầu – sau lười biếng, chán nản và bỏ dở vì thích lui tới chỗ đông người ồn ào, thích ăn ngon mặc đẹp,
chơi bời thỏa thích.
Tham Lang hãm địa (Tý – Ngọ, Dần –Thân) với hình tướng nhỏ bé, khuyết hãm là người gian hiểm, nhiều dục vọng, tuy
cũng có óc kinh doanh nhưng không qủa quyết và bền chí – hội nhiều Hung Sát Tinh : tính dâm dật, chơi bời hoang đãng,
đi vào vận xấu dễ bị tai nạn hay bệnh tật khó chữa (thường ở bộ Tiêu Hóa hay Sinh Dục), đôi khi yểu tử.
Tuy nằm trong Bộ (Sát Phá Tham) hiếu động, nhưng Tham Lang không can đảm như Thất Sát (liều lĩnh – không biết sợ
là gì : hình ảnh của Bạo Hổ băng Hà) hay Phá Quân (ngang tàng, khí phách, đầu đội Trời chân đạp đất hiên ngang). Tham
Lang khi độc thủ (hãm địa) bản tính nhút nhát, không quyết đóan, lười biếng ham chơi nên dễ bị lôi cuốn vào sa ngả, nhất
là ở tuổi vị thành niên (bụi đời, hút sách) khi vận số rơi vào Năm Xung Tháng Hạn (Năm Tuổi – Tam Tai, La Hầu, Kế Đô,
Thái Bạch). Tham Lang hãm địa đi vào vận bần cùng chỉ dám đi ăn trộm vặt – trong khi Phá Quân không thèm ăn trộm
vặt mà lập đảng đi ăn cướp – ngang tàng dũng mạnh – coi Trời bằng vung
1) Tham Lang Thìn, Tuất
Mệnh đóng tại Thìn hay Tuất có Tham Lang độc thủ (vòng của 14 sao chính trên Thiên Bàn phối trí theo dạng thuộc Mẫu
Tử Phủ đóng tại Thân hay Dần), cung Quan Lộc có Thất Sát triều đẩu, cung Tài Bạch có Phá Quân đắc cách tại Tý hay
Ngọ. Trong trường hợp này Bộ Ba (Sát Phá Tham) đều đắc cách được cộng hưởng với Bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm cũng
ở vị trí đắc địa : cung Phúc Đức có Liêm Tướng, cung Thiên Di có Vũ Khúc độc thủ, cung Phối được Tử Phủ hỗ trợ. Sinh
giờ nào thì cung THÂN cũng ở vị trí đẹp : tuổi Giáp (Dần Ngọ Tuất) với Tham Lang tại Tuất + Hỏa Cục được hưởng cả
3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh + bộ Nhật Nguyệt tịnh minh ; tuổi Canh (Thân Tý Thìn) với Tham Lang tại Thìn
+ Cục Thổ hay Thủy cũng vậy, tuy bộ Nhật Nguyệt không được sáng sủa (Thái Dương ở Hợi, Thái Âm ở Mão – tuy nhiên
đối với tuổi Nhâm Thân được Tuần Triệt giải vây, hay ở trường hợp thay đổi Môi Sinh – bộ đôi Nhật Nguyệt này lại trở
nên đắc cách). Với tuổi Đinh, Kỷ, Qúy cũng được hưởng nhờ Phúc Đức. Ở vị trí này với Hình Tướng + Chỉ Tay đẹp – về
Tuổi Thọ, Phú có câu : « Tham Lang nhập Miếu thọ nguyên thời »
Về Công Danh Tham Lang với Hỏa Linh – với Binh Nghiệp là Danh Tướng. Với tài thao lược, tổ chức giỏi, có uy quyền
– hợp với Vũ Khúc (dễ làm giàu) đi vào ngành Chính Trị, Kinh Doanh, Kỹ Nghệ rất thành công, giàu có, quyền cao chức
trọng, được nhiều người lui tới thần phục nên Phú đã có những câu :
– Tham, Linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh.
– Tham Lang, Hỏa Tinh cư Miếu Vượng, danh chấn chư bang.
– Tham Lang ngộ Hỏa Linh, Tứ Mộ cung, hào – phú gia tư, hầu bá chi qúy.
2) Tham Lang Dần Thân
Mệnh đóng tại Dần hay Thân có Tham Lang độc thủ (vòng của 14 sao chính cách phối trí theo Mẫu Tử Tướng đóng tại
Thìn hay Tuất), thì cung Quan Lộc có Thất Sát triều đẩu tại Ngọ hay Tý ; cung Tài Bạch có Phá Quân tại Tuất hay Thìn
(ở vị trí này Phá Quân tuy đắc địa – nhưng Phá Quân là sao hao tán khó giữ được tiền bạc, nếu lại gặp Kiếp Không « sinh
giờ Sửu, Mùi, Tỵ Hợi » thì mặt Tài Chính vất vả dù Quan Lộc rất đẹp). Tuy bộ ba (Sát Phá Tham) không đẹp bằng cách
Tham Lang Thìn Tuất nhưng cộng nghiệp với cung Phúc Đức có Tử Tướng ở Thìn – Tuất; cung Phối được Vũ Phủ đắc
cách ở Tý – Ngọ ; cung Tử Tức với Thiên Đồng đắc cách thì cuộc Đời tuy thăng trầm ở Tiền Vận (dù gặp Hung Sát tinh)
– Hậu Vận vẫn được an nhàn
Độc thủ tại Dần Tham Lang tuy không Miếu Địa như Câu Phú : « Tham Lang nhập Miếu thọ nguyên thời » , nhưng với
trường hợp của Ông Bành Tổ « sống lâu » nhờ Tham Lang có Mệnh tại Dần gia cát tọa Tràng Sinh. Với tuổi Giáp + Cục
Hỏa Mệnh tại Dần có Tham Lang độc thủ vắng Hung Sát tinh cũng được Phúc Thọ.
Trường hợp vắng bóng trung tinh đắc cách – hội nhiều Hung Sát tinh – với Hình Tướng phá cách thì đàn ông có cách này
là quân trộm cướp, gian sảo, đàn bà là hạng dâm- dật, buôn son bán phấn, cuộc đời lang bạt, hoang đàng – dễ mang họa
vào thân như Phú đã có những câu :
« –Tham Lang hội Sát vô cát Diệu, đồ tể chi nhân ; – Tham Lang gia Sát đồng cung, Nữ thâu- hương, Nam thử -
thiết ; Tham Lang Đà La tại Dần cung, phong lưu thái trượng ».
3) Tham Lang Tí Ngọ
Mệnh đóng tại Tý hay Ngọ có Tham Lang độc thủ (vòng của 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Vi độc thủ tại Ngọ hay Tý),
Quan Lộc có Thất Sát hãm ở Thìn hay Tuất, Tài Bạch có Phá Quân hãm tại Thân hay Dần – trong trường hợp này Bộ Ba
(Sát Phá Tham) hãm địa. Nhờ Thiên Di có Tử Vi độc thủ tại Ngọ hay Tý ; Cung Phúc Đức có cặp Vũ Tướng đắc cách tại
Dần hay Thân ; Cung Phối (Phu Thê) có Liêm Phủ đắc cách tại Tuất hay Thìn. Sinh giờ Mão Dậu nhờ THÂN cư Thiên
Di ; sinh giờ Sửu Mùi nhờ THÂN cư Phúc Đức ; sinh giờ Tỵ Hợi nhờ THÂN cư Phối – bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc
cách ở Tam Giác (Phúc Di Phối) nên dù Tiền Vận có lao đao, thăng trầm từ Trung Vận đến Hậu Vận cuộc Đời cũng trở
nên an nhàn và thanh thản hơn trước. Nếu sinh vào có giờ (Tý – Ngọ, Dần –Thân, Thìn – Tuất) – nếu không được các
vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Tràng Sinh hỗ trợ với Hình Tướng + Chỉ Tay khuyết hãm thêm Tam Giác (Mệnh Quan Tài)
nhiều Hung Sát tinh vây hãm thì cuộc Đời (dù Nam hay Nữ) cũng chung thân cùng khốn cô đơn, lang thang phiêu bạt,
thường gặp nhiều bệnh tật khó chữa (tiêu hóa, sinh dục) hay mắc phải tai nạn khủng khiếp, chân tay vướng vào vòng lao
lý khi vận số đi vào Năm Xung Tháng Hạn (nếu biết trước cãi số thì mức độ rủi ro được giảm bớt nhiều hơn). Nên Phú đã
có những câu: «Tham Lang hãm địa tác trứ nhân (vô dụng); Tham Lang ngộ Dương Đà cư Hợi Tý, danh vi phiếm thủy
đào hoa (chơi bời, hoang đàng như Hoa trôi trên dòng nước); Tham tọa Thủy Cung, giáp biên Tứ Sát, bần khổ chung thân»
Song Mệnh đóng tại Tý hay Ngọ có Tham độc thủ nhưng ngộ Triệt hay Tuần (như Tuổi Mậu Qúy hay Ất Canh – các
tuổi con nhà Giáp Dần hay Giáp Thân) thay vì nham hiểm, độc ác hay lăng lòan dâm đãng (nếu ngộ Đào Hồng) lại là
người nhân hậu, lương thiện, thẳng thắn, đoan chính và đứng mực như Phú đã có câu: «Tham Đào tại nhàn cung, Nữ
Mệnh độc phụ chi nhân, ngộ Tuần, Triệt tâm tình thư thái» hay «Tham cư Tý thử thiết vô nghi, ngộ Tuần, Triệt phản vi
đoan chính (Tham cư Tý tại Mệnh: trộm cắp, du đãng, bất nhân bất nghĩa; nhưng gặp Tuần Triệt lại là người lương thiện,
thẳng thắn, đứng mực)».
BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 3
B) Sát Phá Tham biến chất
I) Hình Ảnh của THẤT SÁT
Khi không ở vị trí độc thủ tại (Dần – Thân ; Thìn – Tuất ; Tý – Ngọ) thì Thất Sát thường đi cặp với Tử Vi tại Tỵ – Hợi gọi
tắt là Tử Sát ; với Vũ Khúc tại Mão – Dậu gọi tắt là Vũ Sát ; với Liêm Trinh tại Mùi – Sửu gọi tắt là Liêm Sát – ảnh
hưởng của Thất Sát phụ thuộc nhiều với các sao đồng cung và tam hợp, kể cả chính chiếu.
1) Tử Sát
Bài này đã nói trong phần Tử Vi thủ Mệnh – ảnh hưởng của Tử Vi bao trùm – không như Phá Quân thuộc Thủy hay Tham
Lang thuộc Thủy đới Mộc gặp Tử Vi thuộc Thổ khắc cả Thủy lẫn Mộc nên cặp Tử Sát được ăn ý, thuận chiều không như
2 cặp Tử Phá và Tử Tham. Cặp Tử Sát dù gặp nhiều Hung Sát tinh – nhờ ảnh hưởng của Tử Vi – Thất Sát không nổi
lọan hay a dua với bầy Hung Sát Tinh. Là sao thừa hành của Tử Vi nên mẫu người Tử Sát – dù sinh giờ nào – trong hòan
cảnh nào (dù thất thế) vai trò trưởng thượng và tư cách của Tử Vi vẫn còn chút hào quang .Mệnh có Tử Sát thì Quan Lộc
với Liêm Phá, Tài Bạch với Vũ Tham, Thiên Di với Thiên Phủ (giao tiếp với những người khá giả và quyền thế), Phúc
Đức với cách Phủ Tướng triều viên (xuất thân từ dòng Họ khá giả – được nâng đỡ từ nhỏ với Phụ Mẫu : Nhật Nguyệt
chiếu hư không), cung Phối với Thiên Tướng (người bạn Đời có tư cách vững vàng). Do đó dù cuộc Đời có thăng trầm
ở Tiền Vận (khi vận số đi vào Đại Tiểu Vận xấu) – nếu sinh giờ Sửu Mùi, Mão Dậu, Tỵ Hợi từ Trung Vận vẫn vươn được
lên nhờ Tam Hợp (Phúc, Di, Phối) hỗ trợ.
2) Vũ Sát
Bài này đã nói một cách tổng qúat trong phần Vũ Khúc thủ Mệnh. Vũ Khúc và Thất Sát đều là 2 sao có cùng Hành Kim
nên ảnh hưởng tính chất của 2 sao cùng tác động nhiều đến bản chất của người mang lá số đó (nhất là mạng Kim và mạng
Thủy). Mệnh Vũ Sát (cách phối trí 14 Sao chính theo Mẫu Tử Phá) thì Quan Lộc bao giờ cũng có cặp Tử Phá, Tài Bạch
có Liêm Tham ; Cung Di có Thiên Phủ ; Cung Phúc Đức và Cung Phối được hỗ trợ bởi Cách Phủ Tướng triều viên. Đóng
tại Mão lợi hơn tại Dậu vì bộ Nhật Nguyệt tịnh minh. Mệnh Vũ Sát tại Mão với tuổi Ất (Hợi Mão Mùi)+Cục Mộc được
hưởng cả 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh. Cũng vậy với tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu)+Cục Kim khi Mệnh Vũ Sát đóng
tại Dậu.
Để có Hình Ảnh chi tiết hơn về Mệnh Vũ Sát ta có thể xét qua Lá Số của Tào Tháo thời Tam Quốc : tuổi Ất Mùi (155
DL) sinh ngày 6 tháng 12 giờ Tuất chết năm Kỷ Hợi (219 : khi đi vào Hạn La Hầu 64t). Mệnh tại Mão có Vũ Sát + Lộc
Tồn, Tả Hữu ; Quan Lộc đóng tại Mùi với Tử Phá, Hóa Khoa+Triệt ; THÂN cư Tài Bạch với Liêm Tham, Tướng Ấn +
Long Phượng Hổ Cái. Được hưởng 2 vòng Thái Tuế và Lộc Tồn, kể cả 3 yếu tố Thiên Địa Nhân : Tham vọng chính trị –
nhiều may mắn (Lộc Tồn) đôi khi cứng rắn và tàn nhẫn (Sát+Kiếp tại Mệnh, Phá +Không tại Quan) ; khi ở đỉnh cao quyền
lực không dám hạ bệ Vua vì nghĩ Quan Lộc có Tử Phá, Hóa Khoa nhưng ngộ TRIỆT (đứng sau thì uy quyền hơn lại được
tiếng thơm ! mà không bị Triệt quấy rầy). Có biệt tài tổ chức (Vũ Sát) lại được Tả Hữu+Cung Nô Bộc (tốt phù Mệnh : Cự
Môn cư Tý, Nhật chiếu hư không – Quân Sư giỏi). Với quan niệm thời Tam Quốc người viết Sử đánh giá là gian hùng –
nhưng với Quan Niệm của Thời nay đó là nhân vật Chính Trị kiệt xuất.
3) Liêm Sát
Đóng tại Sửu – Mùi, Thất Sát bao giờ cũng đồng cung với Liêm Trinh gọi tắt là Liêm Sát – cách phối trí 14 chính tinh
thuộc mẫu Tử Tham . Liêm Trinh là sao Âm Hỏa thuộc Bắc Đẩu tinh – chủ về quan lộc và hình ngục, tính tình nóng nảy
thẳng thắn và liêm khiết – đi cặp với Thất Sát (Dương Kim – chủ về uy vũ, sát phạt thuộc Nam Đẩu tinh) – tuy đóng cùng
Sửu Mùi đều đắc địa nhưng nếu gặp Hình, Kình Đà thường gây tai họa khủng khiếp. Mệnh Liêm Sát thì cung Quan Lộc
Vũ Phá (công việc không bền, nhất là tuổi Ất, Canh và các tuổi thuộc vòng Giáp Tý và Giáp Thân) ; Tài Bạch với Tử
Tham (khó giữ dù được hương hỏa để lại – cuối đời cũng suy kém). Nhờ Tam Giác (Phúc Đức, Thiên Di, Phối) đựơc cách
Phủ Tướng Triều Viên + Trung Tinh đắc cách, vắng bóng Hung Sát Tinh lại sinh giờ Sửu Mùi, Mão Dậu, Tỵ Hợi – dù
Tiền Vận có lao đao – ảnh hưởng của Dòng Họ, cộng nghiệp với người Bạn Đời, ra ngòai thường gặp Qúy Nhân giúp đỡ
thì Hậu Vận cũng không đến nỗi nào !
Nếu không hợp Mệnh gặp nhiều Hung Sát Tinh đi vào Tiểu Vận cùng Đại Vận xấu – nếu trùng phùng (năm tuổi, Tam Tai,
La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch) thì các Câu Phú :
Liêm Trinh, Tứ Sát, tao hình- lục (bị bắt bớ giam cầm hay bị ám sát).
Thất Sát, Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi (chết giữa nơi đường sá hoặc tai nạn xe cộ) có thể ứng nghiệm !
II) Hình Ảnh của PHÁ QUÂN
Khi không độc thủ tại 2 Tam Hợp (Dần, Ngọ, Tuất) và (Thân, Tý, Thìn) thì Phá Quân đứng cặp với một trong 3 Sao (Tử
Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh) tại Sửu, Mùi với Tử Vi gọi tắt là Tử Phá, tại Mão, Dậu với Liêm Trinh – gọi tắt là Liêm Phá ;
tại Tỵ, Hợi với Vũ Khúc gọi tắt là Vũ Phá – ảnh hưởng của Phá Quân phụ thuộc nhiều với các sao đồng cung hay Tam
Hợp, kể cả chính chiếu.
1) Tử Phá (xem lại bài Tử Phá trong mục Tử Vi thủ Mệnh)
Khác với Thất Sát (Kim đới Hỏa) vì tương hợp với hành Thổ của Tử Vi – cặp Tử Sát phần lớn ăn ý với nhau (không đối
chọi nhau) – Tử Vi thuộc hành Thổ, Phá Quân thuộc Thủy mà Thổ khắc nhập Thủy – vai trò Tử Vi lấn át Phá Quân (trường
hợp sinh giờ Tý Ngọ với Mệnh có hành Thổ, Kim hay Hỏa), trái lại ảnh hưởng Phá Quân mạnh hơn (Thủy tuy bị Thổ khắc
chế – nhưng ở trường hợp tương thừa :chất Thủy nhiều hơn – Thổ ít không khắc chế nổi Thủy – trường hợp Mệnh Thủy
hay Mộc) vai trò Tử Vi chỉ là vỏ bọc. Phá Quân điều khiển nổi bộ Không Kiếp (nhưng nếu Không Kiếp hãm địa – nếu ít
trung tinh hóa giải bản chất của Phá Quân bị ảnh hưởng nhiều của Không Kiếp trở nên hung hãn – hành động nhiều khi
mờ ám, thực dụng không còn giang hồ, nghĩa hiệp, cứu khổn, phò nguy như khi Phá đắc địa – lúc đó Hình Ảnh của Tử Vi
lu mờ – ít còn tính cách chính nhân, quân tử, nghĩa hiệp, độ lượng bao dung và Trưởng Thượng. Gặp cặp Kình Đà hay
Hỏa Linh – Phá Quân nhiều khi cũng không điều khiển nổi Khi vào Đại Tiểu Vận xấu (Tam Tai, La Hầu, Kế Đô, Thái
Bạch) lại gặp bầy Hung Sát Tinh thì bản chất « Tiểu Nhân » của Phá Quân rõ nét
Tuy nhiên còn tùy thuộc vào cách Hành Xử (ảnh hưởng của Cung THÂN) : sinh giờ Dần Thân cách hành xử nghiêng
nặng với Liêm Tham ; sinh giờ Thìn Tuất thì ảnh hưởng thêm của Vũ Sát. Với giờ sinh Sửu Mùi, Mão, Dậu hay Tỵ Hợi
ảnh hưởng của Phủ Tướng triều viên cách đã tác động nhiều cho bản chất của Tử Phá giảm nhẹ khi đi vào Trung Vận kể
cả Hậu Vận của Cuộc Đời.
2) Vũ Phá (xem lại phần Vũ Phá trong bài Vũ Khúc thủ Mệnh)
Đi cặp với Vũ Khúc ở 2 cung Tỵ và Hợi thì Mệnh có Vũ Phá (cách phối trí của 14 Chính Tinh thuộc Mẫu Tử Tham);
cung Quan Lộc có Tử Tham ; cung Tài Bạch với Liêm Sát ; Cung Phúc Đức có Thiên Phủ ; Cung Thiên Di Vô Chính Diệu
(được Phủ Tướng Triều Viên cách) ;Cung Phối (Phu hay Thê) giống như Cung Thiên Di. Vũ Sát tuy là 2 sao có hành
tương hợp (Kim sinh Thủy) nhưng về Bản Chất thì hòan tòan trái ngược. Đóng tại Tỵ với tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu) sinh giờ
(Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất)+ Cục Kim thì được hưởng trọn 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh với Hình Tướng
đẹp + Chỉ Tay rõ nét không bị đứt quãng thì cuộc Đời không Phú cũng Qúy nếu biết linh động thay đổi Tư Duy cùng điều
hành vấn đề Tiền Bạc nhịp nhàng khi đi vào Vận ít thuận lợi. Sinh Giờ (Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi) dù thủa thiếu thời
có chút thăng trầm vì Môi Sinh biến động nhưng từ Trung Vận đến hậu Vận nhờ ảnh hưởng Cộng Nghiệp do Dòng Họ
(THÂN cư Phúc), do tiếp xúc được nhiều Qúy Nhân hỗ trợ khi đi khỏi nơi sinh trưởng (THÂN cư Di) ; hay do người Bạn
Đời có Số Tốt hỗ trợ (THÂN cư Phu hay Thê)- cuộc Đời vẫn vươn lên tốt đẹp. Cũng như vậy với Tuổi Ất (Hợi Mão
Mùi)+Cục Mộc sinh giờ (Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất) khi Mệnh có Vũ Phá đóng tại Hợi.
Trường hợp các tuổi khác dù không được hỗ trợ đủ của 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh – nhưng vắng bóng
Hung Sát Tinh, được nhiều Trung Tinh đắc cách hội hợp thì cuộc Đời vẫn vươn lên tốt đẹp – nhất là ở Môi Trường mà
nền Công Nghiệp phát triển như Âu Mỹ.
3) Liêm Phá
Phá Quân đóng cặp với Liêm Trinh tại 2 cung Mão và Dậu gọi tắt là Liêm Phá ; cách phối trí của 14 Chính Tinh thuộc Mẫu
Tử Sát . Mệnh có Liêm Phá thì cung Quan Lộc có cặp Vũ Tham ; cung Tài Bạch với Tử Sát ; Cung Phúc Đức với Thiên
Phủ độc thủ ; Cung Thiên Di với Thiên Tướng cũng độc thủ ; cung Phối (Phu hay Thê) vô chính diệu với Phủ Tướng triều
viên hội chiếu; nhị hợp được Cơ Lương đắc cách tại Tuất hay Thìn.
Liêm Trinh thuộc Bắc Đẩu Tinh – âm Hỏa – chủ về Quan Lộc và Hình Ngục – Miếu tại Thìn, Tuất – Vượng Địa tại Tý,
Ngọ, Dần, Thân – Đắc Địa tại Sửu, Mùi – Hãm Địa tại Tỵ, Hợi, Mão Dậu. Phá Quân thuộc Thủy (khắc nhập Hỏa) đóng
tại Mão, Dậu cũng Hãm Địa. Hành của cặp Liêm Phá vừa khắc nhau – ngay cả về tính tình : Liêm Trinh đắc địa (Miếu
hay Vượng) bản chất liêm khiết thẳng thắn, can đảm dũng mãnh, nhưng nghiêm nghị, nóng nảy được hưởng giàu sanh và
sống lâu (đi cặp với bộ Tử Phủ Vũ Tướng – với Nữ Nhân là cách Vượng Phu Ích Tử) tuy nhiên – dù đắc địa lại gặp nhiều
sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát Tinh, Hình Kị thì cuộc đời cũng không được xứng ý tọai lòng vì công danh trắc trở,
tiền bạc khó kiếm – nếu hãm địa lại là người khắc nghiệt, thâm hiểm – tuy có óc kinh doanh, khéo tay, thường chuyên về
kỹ nghệ thủ công – nhưng cuộc đời vất vả gặp Hung Sát Tinh chung thân cùng khốn cô đơn, dễ gặp rủi ro, tật bệnh – đôi
khi vướng vào vòng lao lý (với Nữ Nhân thường ty tiện ác độc, khắc chồng hại con, cuộc đời cùng khốn cô đơn phải lang
thang phiêu bạt – đôi khi gặp tai nạn thảm khốc, chết một cách thê thảm). Với Phá Quân hãm địa cuộc đời cũng tương tự
(lại thêm tính cách của Phá Quân là Hao Tán vừa Tiền Bạc lẫn Tình Cảm). Do đó Phú đã có những Câu :
– Phá Kình Mão Dậu nhi phùng Phụ Bật, khởi ngụy Hòang Sào (đó là trường hợp Cung Mệnh tại an tại Mão, Dậu có Liêm
Phá, Kình đồng cung « tuổi Giáp, Canh » gặp Phụ Bật hội hợp là người độc ác, đa sát, làm lọan Thiên Hạ như Hòang Sào
đời Đường).
– Liêm Phá tại Mão Dậu gia Sát công tư vô diện Quan Nhân (nói về Mệnh Liêm Phá tại Mão Dậu gặp nhiều Hung Sát
Tinh hội hợp khó mưu cầu công danh. Với cách này nên chuyên về Kỹ Nghệ hay Doanh Thương thì hơn)
– Liêm Phá Mão Dậu mạc ngộ Kiếp Kình tu phòng hình ngục (Mệnh Liêm Phá tại Mão Dậu gặp Kiếp Kình hội hợp, nên
suốt đời phải đề phòng tù tội).
– Liêm Trinh, Phá Quân, Hỏa Tinh cư hãm địa, tự ải, đầu hà (Mệnh Liêm Phá gặp Hỏa đồng cung dễ bị tự vẫn (thuốc
độc hay thắt cổ) hay đâm đầu xuống sông).
– Liêm- Trinh, Tứ Sát tao hình ngục (Cung Mệnh có Liêm tọa thủ gặp Kình Đà, Hỏa Linh hội hợp dễ bị bắt bớ giam cầm
– cũng dễ bị ám sát).
Tuy nhiên nếu Mệnh đóng tại Mão với Liêm Phá nếu thuộc Tuổi Ất (Hợi Mão Mùi) sinh giờ (Tí, Ngọ, Dần, Thân, Thìn,
Tuất)+ Mộc Cục ; Mệnh đóng tại Dậu với Liêm Phá, nếu thuộc Tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu)+ Kim Cục vắng bóng Hung Sát
Tinh lại được nhiều Trung Tinh đắc cách thì Cuộc Đời vẫn Phú Qúy như thường – chỉ cần thận trọng khi Tiểu Vận đi vào
Năm Xung Tháng Hạn. Trường hợp sinh giờ (Sửu Mùi, Mão Dậu, Tỵ Hợi) nhờ Cung THÂN với cách Phủ Tướng Triều
Viên cuộc Đời về Hậu Vận nhờ cộng nghiệp bởi Phúc Đức dòng Họ ; hỗ trợ bởi Môi Sinh tốt hay được người Hôn Phối
có Số May Mắn yểm trợ – dù gặp Tiểu Vận hay Đại Vận đi vào Thời Điểm ít thuận lợi Cuộc Đời vẫn lướt qua khó khăn
trở ngại dễ dàng
BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 4
B)Sát Phá Tham biến chất
III) Hình Ảnh của THAM LANG
Giống như 2 Sao Thất Sát và Phá Quân ; Tham Lang khi không độc thủ tại 6 cung (Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn) thường
đi cặp với 1 trong 3 sao của bộ Tử Vũ Liêm.
Đồng cung với Tử Vi tại Mão Dậu gọi tắt là Tử Tham ; với Vũ Khúc tại Sửu Mùi – gọi tắt là Vũ Tham (nằm trong Mẫu Tử
Sát) ; với Liêm Trinh tại Tỵ, Hợi gọi tắt là Liêm Tham (nằm trong Mẫu Tử Phá) ảnh hưởng của Tham Lang phụ thuộc
nhiều với các Sao đồng cung hay Tam Hợp chiếu – kể cả chính chiếu.
1) Tử Tham (xem lại phần Tử Tham trong bài Tử Vi thủ Mệnh).
Giống như cặp Tử Phá, cặp Tử Tham không những đối chọi nhau về Hành (Tử Vi thuộc Thổ khắc nhập Thủy của Tham
Lang – trường hợp Thổ vượng ; trường hợp Thủy nhiều hơn Thổ vai trò Tham Lang át chế Tử Vi khi Thủy vượng) còn
đối chọi nhau về Bản Chất. Nếu Mệnh có Tử Tham tại Mão, Dậu thì Quan Lộc với Liêm Sát tại Mùi, Sửu (tuy đắc địa
nhưng Công Danh thăng trầm không bền); Tài Bạch với Vũ Phá tại Hợi, Tỵ (tiền vào tay mặt ra tay trái) ; Cung Phúc Đức
với Thiên Tướng độc thủ tại Tỵ, Hợi ; Cung Phối (Phu hay Thê) với Thiên Phủ độc thủ tại Sửu, Mùi ; Cung Thiên Di vô
chính diệu nhưng được hỗ trợ bởi Phủ Tướng triều viên. Nhị hợp tại Tật Ách có Thiên Đồng (bản chất Phật tính, nhân hậu,
hiền hòa làm dịu bớt tính hung hăng, nhiều dục vọng cùng dục tính của Tham Lang). Hành Sinh giờ (Tý, Ngọ, Dần, Thân,
Thìn, Tuất) thì ảnh hưởng của Bộ Sát Phá Tham lên Bản Chất và Động trong cuộc Đời rất rõ nét – tuy không mạnh như
Trường Hợp bộ (Sát Phá Tham) khi độc thủ – vì đôi khi được kiềm chế bởi bộ (Tử Vũ Liêm). Sinh các giờ còn lại (Sửu,
Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi) thì ảnh hưởng của Bộ Phủ Tướng Triều Viên trong Tam Giác (Phúc, Di, Phối) có ảnh hưởng –
phần lớn tốt – trong Hành Động kể từ Trung Vận.
Như đã nói kỹ về Bản Chất của Mệnh Tử Tham (trong bài Tử Vi thủ Mệnh) phần lớn người có cách này Tâm Trạng yiếm
thế như Phú đã có Câu :
– Tử Vi cư Mão Dậu, Kiếp Không đa vi thoát tục chi Tăng (Cung Mệnh đóng tại Mão, Dậu có Tử Tham gặp Kiếp
Không hội hợp là người Tu Hành. Những người có cách này phần nhiều muốn xuất thế).
– Tham cư Đoài Chấn, thoát tục vi Tăng, Kỵ, Kiếp lai xâm, trần hoàn đa trái (Cung Mệnh an tại Dậu « Đoài », Mão
« Chấn » có Tham tọa thủ là người thoát tục, tu hành. Nhưng trong trường hợp này nếu Tham gặp Kỵ, Kiếp hội hợp, chắc
chắn sẽ phá giới, trở lại làm người thường, vì còn nặng nợ trần – hoàn).
Lấy Hình Ảnh 2 Lá Số Mẫu cách Tử Tham sau đây để chứng minh « cách Thóat Tục vi Tăng » :
a) Thiền Sư đắc đạo Tuệ Trung Thượng Sĩ đời Trần – sư phụ của Vua Trần Nhân Tôn – là Hưng Ninh Vương Trần Quốc
TUNG anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (sinh năm Mậu Tý 1228 giờ Ngọ ngày 30 tháng Chạp).
Lá Số của Thiền Sư được Huệ Túc Phu Nhân, người sống cùng thời với Hưng Ninh Vương – không những là Thím của
Ngài , lại còn là Sư Phụ của Ngài về Khoa Tử Vi phê trong Lá Số như sau : Kinh Vân Tử Tham Mão Dậu đa vi thoát tục
chi Tăng. Ngô Kim Nhật kiến Tuệ Trung chi Số : Tử Tham ư Dậu ngộ Quyền Đào, tuấn nhã chi Lang. Tả Hữu hợp chiếu
thị tất đa tài, đa năng. Đãn hiềm Tử Tham cư Dậu ngộ Thiên Không, Hóa Kị tất thóat tục chi Tăng.
Huệ Túc Phu Nhân là con gái út của Hoàng Bính đậu Tiến Sĩ làm Thị Độc Học Sĩ (chức Quan đọc Sách và giảng Sách cho
Vua nghe) thời Tống. Khi bị quân Nguyên chiếm – đem Đại Gia Đình hơn 3000 người xin vào Đại Việt làm cư dân được
Vua Trần Thái Tông cho Lập Nghiệp vùng Yên Bang. Hòang Bính là người đem Môn Tử Vi của Hi Di Trần Đòan truyền
vào Việt Nam.
b) Hòa Thượng Thích Trí Quang là 1 Hòa Thượng Phật Giáo, ông đóng 1 vai trò khá quan trọng trong Chế Độ Cộng Hòa
Miền Nam từ 1963- 1967
Theo Cụ Thiên Lương, tác giả Cuốn Tử Vi Nghiệm Lý thì HT Thích Trí Quang sinh giờ Mão ngày 24 tháng 11 năm Quý
Hợi (Dl : 31/12/1923)
Mệnh Tử Tham ở Dậu có Hóa Kị với Quan Lộc Liêm Sát, Kình, Linh, Tang ngộ Tuần+Triệt, Tài Bạch với Vũ Phá+Phá
Hư ; THÂN cư Thiên Di được Phủ Tướng Triều Viên cách hội Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái).
Sau đây là Lời Bàn của Cụ Thiên Lương :
Mệnh Quý Hợi đóng ở Dậu có Tử -Tham là số của người yếm thế kể cả hình thức Sao đến Vị Trí của Mệnh đóng. Nhưng
chính bộ Tử – Tham không phải là nòng cốt của người Mệnh này ! phải tính tới bộ Vũ – Phá ở Tỵ. Tử Vi ở đây chính ra
là vì Sao chỉ huy Mệnh nhưng bị Tham Lang làm lung lạc, mà chính Tham Lang này cũng không đủ sức để phá cách Tử
Vi nên tuổi Quý Hợi phải mệt mỏi vì Tham Lang, bộ Sao này vì thế thành ra nửa trắng nửa đen khiến bộ Vũ – Phá đủ tư
thế cướp quyền chỉ huy mạng này. Phải nói hành động của người này chính là Vũ – Phá.
Người này tu chỉ là hình thức khoác áo Tử Tham để mà tranh đấu riêng tư cho mình, cho bè phái mình, cho tư tưởng tham
vọng mình rất quyết liệt. Tam Hóa Liên Châu ở Mệnh (Hóa Kỵ giáp Khoa Quyền ở Dậu) có nghĩa là người này đã ôm một
mối hận oán hờn chứa chấp một mưu cơ thâm trầm thầm kín, quấy phá bằng hành động có khi cũng không được đẹp đẽ,
được nổi danh (Toái Quân lưỡng Phá) bằng lối kích thích người ta (Điếu Khách), THÂN vô chính Diệu ở Mão đắc Tràng
Sinh (Thủy) hành động ở trên cương vị Từ Thiện, nhân hậu có tính cách Chính Nghĩa, nhưng suy tư tính toán ghê gớm là
cái vị trí đó của tuổi Qúy Hợi. Trong Tam Hợp cục của THÂN (hành động) Thiên Tướng, Kình – Lực, Thái Tuế, Hình,
Riêu càng hành động bao nhiêu – càng nghiệp quả bấy nhiêu, mặc dầu lấy cái Thế Chính Nghĩa mà dựa.
Khách quan mà nói, ông là người có nghị lực, nghị lực vào hạng khá dễ thành công (Quang Qúy) phải dựa vào thế ngoài
phụ giúp, chứ ông không tài tổ chức (Mã thiếu Tả Hữu). Nếu ông được đà thắng nước thì lại hay ẩu, đó là tính cách của
Vũ Phá. Vì thiếu bộ Âm Dương nên ông kém sáng suốt.
Được liệt vào hàng Giáo Phẩm cao cấp như ai (Thiên Phúc, Quí Nhân, Phong–Cáo, Đường Phù) đối với ông chỉ là hư
danh cho đến Tử Tham ông coi chỉ là chiếc áo khóac bề ngòai. Thâm tâm Vũ Phá, Hóa Kị một uẩn khúc khó ai biết nổi
người bí mật này. Có thế mới chọi lại được người trong bóng tối của Đệ Nhất Cộng Hòa Ngô Đình Nhu.
Năm 1963 đương số tranh đấu được thành công, tiếng tăm lừng lẫy là năm 40 tuổi ở trong Đại Vận 33-42 ở Ngọ gặp Thái
Dương đắc Hỏa Tinh. Tuy vậy có biết đâu chỉ là quân bài bị lợi dụng trong cái thế sinh xuất tính theo thời gian của tuổi
Quý Hợi đáo Ngọ Cung, ở trong còn nhiều Quỷ Kế (Cô Qủa, Phục Binh, Không Kiếp). Lúc này đang ở trong Đại Vận 43-
52 ở Thế khắc nhập thân bại danh liệt, nhất là từ năm 1966 đương số bước qua Đại Vận mới này 43t, họat động ráo riết,
tưởng sự thành công cũng dễ dàng như mấy năm trước, nhưng có lẽ gặp người đối đầu là Thổ Mệnh lại là lúc hưng thời.
Ông đành xẹp luôn cho đến nay, một đôi lúc cũng cố phát pháo mở cờ ra quân bởi không thời thôi cũng đành nằm co êm
hơi lặng tiếng.
Bài này Cụ Thiên Lương viết trong cuốn Tử Vi Nghiệm Lý xuất bản tại Saigon năm 1974.
Lời Bàn thêm : Mệnh Tử Tham đóng tại Dậu (Kim) với tuổi Quý Hợi mạng Thủy với cả 3 yếu tố Can Chi và Nạp Âm
đều là hành Thủy nên Yếu Tố Địa Lợi được Kim sinh Thủy. Với Thế Mộc của Tuổi (Hợi Mão Mùi) hành Mộc chỉ hợp với
THÂN + Cung Phúc Đức đẹp – mà không hợp với Yếu Tố Thiên Thời khi Mệnh đóng ở Thế Kim(+Phá Hư : bất mãn,
yếm thế, ưa làm cách mạng). Yếu Tố Nhân Hòa (ảnh hưởng của Bộ Sao) thì Tử Vi thuộc Thổ khắc Bản Mệnh (+Mộc Cục)
nên bộ Sát Phá Tham hãm được hỗ trợ thêm của Vũ Khúc (Kim) tung hòanh cùng với Hung Sát Tinh. Với Quan Lộc Liêm
Sát ngộ cả Tuần lẫn Triệt – dù có thành công – nhưng không bền (2, 3 năm là cùng – kể cả các lá số khi cung Mệnh+ Tuần
Triệt). Khi đi vào Đại Vận 33-42 tại Tử Tức (vì đi Tu nên ảnh hưởng của Đại Vận tác động nhiều ở cung Nô Bộc với Cự
Nhật +Thanh Long Lưu Hà, Quyền, Địa Kiếp) : ảnh hưởng của Phật Tử+Cố Vấn tác động vào đương số – lại gặp Tiểu
Vận Qúy Mão 1963 vào Mệnh (Tử Vũ Liêm Sát Phá Tham+Mã Khốc Khách)+lưu Thái Tuế tại THÂN cư Thiên Di ở Mão
(Phủ Tướng Triều Viên + Long Phượng Hổ Cái + Trung Tinh đắc cách) được thành công chớp nhoáng « hung tinh Địa
Kiếp » dù Mệnh có Hóa Kị+Đại Vận ngộ Địa Kiếp : vẫn thóat được hiểm nguy nhờ Ngọai Cuộc trợ giúp. Trong lời bàn
của Cụ Thiên Lương : Lúc này đang ở Đại Vận 43 -52 ở cái thế khắc nhập …gặp người đối đầu là Thổ Mệnh lại lúc hưng
thời : ý của Cụ nói đến Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ cùng Phụ Tá là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan cả 2 đều Tuổi Canh
Ngọ 1930 mạng Thổ khắc nhập Thủy : Lá Số của Tướng Kỳ Mệnh Thái Dương cư Ngọ + Triệt, với Quan Lộc Cự Môn +
Tuần : nên phất lên năm Ngọ nhưng không bền vì Mệnh ngộ Triệt. Chết năm Tân Mão 2011 khi Tiểu Vận gặp Hạn La
Hầu 82t+Kình Đà.
2) Vũ Tham (xem lại phần Vũ Tham trong bài Bản Chất của Vũ Khúc).
Khi đóng ở Sửu Mùi thì Tham Lang đồng cung với Vũ Khúc – gọi tắt là Vũ Tham (cách phối trí của 14 Sao chính nằm
trong Mẫu Tử Sát) nghĩa là nếu cung Mệnh Vũ Tham tại Sửu, Mùi thì cung Quan Lộc với Tử Sát tại Tỵ, Hợi ; cung Tài
Bạch có Liêm Phá. Tam Giác (Phúc Di Phối) được hỗ trợ bởi cách Phủ Tướng triều viên nên khi THÂN cư Di (sinh giờ
Mão Dậu), THÂN cư Phu hay Thê (sinh giờ Tỵ Hợi), THÂN cư Phúc (sinh giờ Sửu Mùi) thì ảnh hưởng của Bộ Sát Phá
Tham giảm nhẹ trong cách Hành Xử từ Trung Vận. Sau đây là các câu Phú của Tiền nhân nói về cách này :
– Tham Vũ tiền bần nhi hậu phú (Cung Mệnh an tại Sửu Mùi có Tham Vũ tọa thủ đồng cung, nên lúc thiếu thời vất vả,
nghèo túng, phải từ ngòai 30 tuổi trở đi mới khá giả và càng về già lại càng giàu có). Câu Phú này có lẽ chỉ đúng khi Mệnh
có Hung Sát Tinh và sinh giờ (Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi) khá lên nhờ cung THÂN đẹp.
– Tham Vũ đồng hành , vãn cảnh biên di thần phục (Cung Mệnh an tại Sửu Mùi có Tham Vũ tọa thủ đồng cung , về
già có uy quyền , được nhiều người lui tới thần phục).
– Tham Vũ Mộ trung cư Tam Thập tổng phát phúc (giống như câu đầu).
– Tham, Vũ Thân cung vi hạ cách (Cung THÂN an tại Tứ Mộ có Tham tọa thủ, có Vũ tọa thủ hay có Tham Vũ tọa thủ
đồng cung là hạ cách, nên suốt đời vất vả và không thể quý hiển) Câu Phú này phải xét lại khi Vũ Tham đồng cung và cần
nhiều tố khác (hành của Mệnh và giờ sinh) cũng như Câu Phú sau :
– Tham Lang , Vũ Khúc đồng thủ THÂN ; vô Cát Mệnh , phản bất tường (Cung Mệnh an tại Sửu Mùi, có Tham Vũ tọa
thủ đồng cung mà cung Mệnh lại không sáng sủa tốt đẹp , nên rất mờ ám xấu xa. Có cách này , thật là lao khổ trọn đời.
3) Liêm Tham
Khi Tham Lang đóng tại Mệnh ở Cung Tỵ hay Hợi thì đồng cung với Liêm Trinh nên gọi tắt là Liêm Tham (cách phối trí
14 sao chính thuộc Mẫu Tử Phá). Nếu Mệnh có Liêm Tham thì cung Quan Lộc với Vũ Sát tại Dậu hay Mão ; cung Tài
Bạch với Tử Phá tại Sửu hay Mùi ; cung Thiên Di vô chính diệu giáp Nhật hay Nguyệt ; Cung Phối « Phu Thê » được
Thiên Phủ độc thủ + Thiên Tướng chiếu « Phủ Tướng triều viên cách » ; cung Phúc Đức với Thiên Tướng độc thủ + Thiên
Phủ chiếu « Phủ Tướng triều viên cách ». Liêm Trinh thuộc Hỏa tính liêm khiết, nóng nảy chủ về Quan Lộc và Hình Ngục
– Tham Lang thuộc Thủy đới Mộc tính le phè, ưa sắc dục « dâm tinh » vừa Phúc Tinh vừa Hung Tinh – cả 2 đều hãm địa
tại Tỵ, Hợi. Hành và Bản chất đều khác nhau nên tùy thuộc vào Hành của Mệnh và Giờ Sinh : Nếu sinh giờ (Tý, Ngọ,
Dần, Thân, Thìn, Tuất) không có Hung Sát Tinh với tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu)+Cục Kim khi Mệnh đóng tại Tỵ hay Tuổi Ất
(Hợi Mão Mùi)+ Cục Mộc với Mệnh đóng tại Hợi được hưởng cả 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh với Hình
Tướng + Chỉ Tay đẹp đẽ : không Phú cũng Qúy. Trường hợp các tuổi khác với hành khắc Mệnh + nhiều Hung Sát Tinh –
cuộc đời tuy no đủ nhưng dễ rủi ro về tật bệnh, hình ngục khi vận số đi vào Năm xung Tháng Hạn « trường hợp Mệnh có
Tuần hay Triệt thì độ số rủi ro có thể giảm bớt ». Nếu sinh các giờ (Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ , Hợi) cuộc đời thủa thiếu
thời tuy vất vả , nhưng về Trung Vận và Hậu Vận nhờ Phúc Ấm Tổ Tiên dòng Họ (THÂN cư Phúc) ; được giúp đỡ của
Qúy Nhân khi thay đổi Môi Sinh (THÂN cư Di) ; được hỗ trợ hay cộng nghiệp với Người Bạn Đời Số Tốt (THÂN cư
Phối) cuộc Đời trở nên giàu có và no ấm – đôi khi cũng nổi danh trong Môi Sinh. Liêm Tham hãm địa tại Tỵ, Hợi gặp
nhiều sao mờ ám đồng cung cuộc đời lao khổ, tình cảm khó thuận hòa (khắc Phu Thê), hay mắc tai nạn hay bị bắt bớ giam
cầm hoặc hay bị bệnh tật (tiêu hóa, sinh dục) – nếu được Hóa Kỵ hay Tuần Triệt thì độ số cũng giảm bớt về rủi ro cũng
như tật bệnh. Sau đây là các câu Phú của Cổ Nhân nói về Liêm Tham :
– Liêm Trinh, Sát Tinh cư Tỵ Hợi, lưu –đãng thiên – nhai (Cung Mệnh an tại Tỵ Hợi có Liêm tọa thủ, gặp nhiều
Sát Tinh hội hợp , nên suốt đời phải lang thang phiêu bạt).
– Liêm Trinh, Tứ Sát , tao hình ngục (Cung Mệnh có Liêm tọa thủ, gặp Kình Đà Hỏa Linh hội hợp nên hay bị bắt
bớ giam cầm, và cũng có thể bị ám sát).
– Tù ngộ Kình Đà Hỏa Linh hữu già – tỏa, thất cốc chi ưu (Cung Mệnh có Liêm tọa thủ gặp Kình Đà Hỏa Linh
hội hợp nên hay mắc tù tội và thường bị đói khát khổ sở).
– Liêm Trinh, Bạch Hổ đồng cung, hình ngục nan đào (Cung Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ gặp Hổ đồng cung hay
xung chiếu , thật khó tránh được gông cùm xiềng xích.
– Tham Lang hãm địa tác trứ nhân (Cung Mệnh có Tham Lang hãm địa là người vô dụng bỏ đi).
– Tham Lang Tỵ Hợi , bất vi đồ – thị, diệc tao hình (Cung Mệnh an tại Tỵ Hợi có Tham tọa thủ , nếu không làm
đồ tể, hàng thịt, tất hay bị bắt bớ giam cầm, rất khổ sở).
– Tham Lang, Liêm Trinh đồng độ, Nam đa đãng, Nữ đa dâm (Cung Mệnh có Liêm Tham tọa thủ đồng cung , rất
mờ ám xấu xa. Đàn Ông có cách này hay chơi bời lang thang nay đây mai đó. Đàn Bà có cách này rất dâm dật.
– Tham, Liêm Càn thượng vân vô phong, Tuyệt, Linh ưu nhập , vi nhân bần khổ, nãi phùng Dương -Nhận, Kiếp,
Không, Hư, Mã chung thân phi yểu tắc cô bần (Cung Mệnh an tại Hợi « Càn » có Tham tọa thủ đồng cung với Sát Tinh
rất mờ ám xấu xa ; vì Liêm Tham ở đây bị khắc hãm giống như Mây đứng không gặp Gió. Trong trường hợp nếu Liêm
Tham gặp Tuyệt, Linh : là người nghèo khổ ; trường hợp Liêm Tham gặp Kình, Kiếp, Không, Hư, Mã hội hợp thật là suốt
đời cùng khốn ; không yểu tử cũng cô đơn, bần hàn).
– Tham ngộ Dương, Đà cư Hợi, Tý, danh vi phiếm – thủy đào hoa (Mệnh có Tham Lang đóng tại Hợi hay Tý gặp
Kình hay Đà đồng cung , nên rất mờ ám xấu xa. Tham ở đây ví như hoa đào nổi trôi trên dòng nước. Có cách này là người
chơi bời, hoang đàng, thường lang thang nay đây mai đó).
– Tham Lang tại Thủy Cung, giáp biên Tứ Sát, bần khổ chung thân (Cung Mệnh an tại Hợi, Tý « đó là 2 cung
Thủy » có Tham tọa thủ giáp Tứ Sát, thật suốt đời nghèo khổ).
– Tham Lang Hợi, Tý, hạnh phùng Quyền, Vượng, biến hư thành thực, ư Giáp, Kỷ tuế, phú danh viên mãn (Cung
Mệnh có Tham toạ thủ tại Hợi, Tý gặp Quyền, Vượng hội hợp, biến hư thành thực, chuyển xấu thành tốt. Tuổi Giáp Kỷ
có cách này được hưởng giàu sang trọn vẹn).

More Related Content

What's hot

Những kẻ xuất chúng - Malcom Gladwell
Những kẻ xuất chúng - Malcom GladwellNhững kẻ xuất chúng - Malcom Gladwell
Những kẻ xuất chúng - Malcom Gladwelltoanc2tb
 
The diversity problems in the film industry
The diversity problems in the film industryThe diversity problems in the film industry
The diversity problems in the film industryMatthew Huff
 
Bahan ajar luas permukaan kubus
Bahan ajar luas permukaan kubusBahan ajar luas permukaan kubus
Bahan ajar luas permukaan kubusIndah Pe
 
Clock partners clock buddies
Clock partners clock buddiesClock partners clock buddies
Clock partners clock buddiesJennifer Evans
 
Khám thai
Khám thaiKhám thai
Khám thaiSoM
 
Child Growth and Development Theories
Child Growth and Development TheoriesChild Growth and Development Theories
Child Growth and Development TheoriesEmily Beans
 

What's hot (9)

Những kẻ xuất chúng - Malcom Gladwell
Những kẻ xuất chúng - Malcom GladwellNhững kẻ xuất chúng - Malcom Gladwell
Những kẻ xuất chúng - Malcom Gladwell
 
Early Childhood Development And Child Psychology
Early Childhood Development And Child PsychologyEarly Childhood Development And Child Psychology
Early Childhood Development And Child Psychology
 
Notasi ilmiah
Notasi ilmiahNotasi ilmiah
Notasi ilmiah
 
The diversity problems in the film industry
The diversity problems in the film industryThe diversity problems in the film industry
The diversity problems in the film industry
 
Bahan ajar luas permukaan kubus
Bahan ajar luas permukaan kubusBahan ajar luas permukaan kubus
Bahan ajar luas permukaan kubus
 
Clock partners clock buddies
Clock partners clock buddiesClock partners clock buddies
Clock partners clock buddies
 
Bai 05
Bai 05Bai 05
Bai 05
 
Khám thai
Khám thaiKhám thai
Khám thai
 
Child Growth and Development Theories
Child Growth and Development TheoriesChild Growth and Development Theories
Child Growth and Development Theories
 

Similar to Sat pha tham

Dich Hoc Khai Quat Phan2
Dich Hoc Khai Quat  Phan2Dich Hoc Khai Quat  Phan2
Dich Hoc Khai Quat Phan2Ngo Hung Long
 
Lịch 28 chòm sao
Lịch 28 chòm saoLịch 28 chòm sao
Lịch 28 chòm saoPham Long
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Bản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giải
Bản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giảiBản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giải
Bản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giảiLich Ngay TOT
 
y nghia cua nhung con so
y nghia cua nhung con soy nghia cua nhung con so
y nghia cua nhung con soRồng Ma Cà
 
Cung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdf
Cung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdfCung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdf
Cung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdfXem Số Mệnh
 
Tử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp Ngọ
Tử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp NgọTử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp Ngọ
Tử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp NgọGoogle
 
Tu vi 2014 nam giap ngo
Tu vi 2014 nam giap ngoTu vi 2014 nam giap ngo
Tu vi 2014 nam giap ngoTuyen Hoang
 

Similar to Sat pha tham (10)

Dich Hoc Khai Quat Phan2
Dich Hoc Khai Quat  Phan2Dich Hoc Khai Quat  Phan2
Dich Hoc Khai Quat Phan2
 
Lịch 28 chòm sao
Lịch 28 chòm saoLịch 28 chòm sao
Lịch 28 chòm sao
 
43.tu vi nghiem ly tinh dien
43.tu vi nghiem ly tinh dien43.tu vi nghiem ly tinh dien
43.tu vi nghiem ly tinh dien
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Co nguyet dong luong
Co nguyet dong luongCo nguyet dong luong
Co nguyet dong luong
 
Bản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giải
Bản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giảiBản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giải
Bản đồ sao trong chiêm tinh: Cấu trúc và cách lý giải
 
y nghia cua nhung con so
y nghia cua nhung con soy nghia cua nhung con so
y nghia cua nhung con so
 
Cung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdf
Cung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdfCung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdf
Cung hoàng đạo là gì! Ý nghĩa các chòm sao trong 12 cung hoàng đạo.pdf
 
Tử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp Ngọ
Tử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp NgọTử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp Ngọ
Tử vi 12 con giáp năm 2014 - Giáp Ngọ
 
Tu vi 2014 nam giap ngo
Tu vi 2014 nam giap ngoTu vi 2014 nam giap ngo
Tu vi 2014 nam giap ngo
 

Sat pha tham

  • 1. BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 1 1. VỊ TRÍ CỦA BỘ SÁT PHÁ THAM Tất cả mọi Chính Tinh, cách xác định vị trí trên Thiên Bàn của một Lá Số đều phụ thuộc vào vị trí của Sao Tử Vi. Qua 4 bài nói riêng về 4 sao trong Bộ Tử Phủ Vũ Tướng ta đã thấy chỉ có 12 cấu trúc của 14 Sao chính trong bộ môn Tử Vi. Do sự đối xứng qua trục Dần Thân chỉ còn 6 Mẫu điển hình cho nhiều mẫu người khác nhau, nếu muốn chi tiết hóa – một cách tương đối . Sáu mẫu đó là : Tử Vi Độc Thủ, Tử Phủ, Tử Tướng, Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham. Trong 14 sao chính đó, chỉ có bộ ba Sát Phá Tham là có cấu trúc chặt chẽ do Định Nghĩa. Nên trong bài này , thay vì chỉ nói về Vị Trí của bộ ba (triplet) Sát Phá Tham, và để khỏi nhắc lại trong các bài kế tiếp, soạn giả xin nhắc lại- hệ thống hoá và giải thích tại sao có vị trí : Đồng Cung, Tam Hợp, Nhị Hợp, Chính Chiếu và Nhị Phá. Để khi xét một Lá Số của một người, nhờ cấu trúc cơ bản đó (từng bộ đôi, bộ ba, bộ 4…) trong các chùm sao ta mới biết rõ Bản Chất và Vận Mệnh từng người qua lá số đó. Chứ chỉ xét riêng rẽ từng sao trong một cung Mệnh hay Cung Thân chẳng hạn, ta chỉ nhìn thấy vài hiện tượng nổi bật của người đó trong vài giai đoạn về cuộc đời mà thôi. 1) Công thức tìm Sao TỬ VI : Mười bốn (14) Sao chính trong Tử Vi đều phụ thuộc vào vị trí của Sao Tử Vi. Trước hết là nhắc lại công thức để tìm vị trí của sao Tử Vi (để cho những Qúy Vị độc giả nào chưa đọc các bài trước): để giản dị hóa ta gọi cung Dần là số 1 (đồng nghĩa với tháng giêng), cung Mão là số 2 (tháng 2)… cho đến cung Sửu là số 12. Trên Thiên Bàn tất cả có 12 cung ứng với 12 tuổi, do đó chu kỳ T của vị trí là T=12. Vì mỗi tháng âm lịch có tối đa 30 ngày nên : Cung Dần còn mang số 13, 25 (vị trí của cung Dần x=1+k12 hay 1 (modulo12). Cung Mão còn mang số 14, 26 hay x=2 (mod 12). Cung Thìn x=3 (mod 12) … Cung Sửu x=0 (mod 12). Vị trí của sao Tử Vi được định bởi Công Thức sau: k=N+ (1+ec) n c N là ngày sinh : 1 ≤ N≤ 30. c chỉ số cục : Thủy Nhị Cục c=2, Môc Tam Cục c=3, Kim Tứ Cục c=4, Thổ Ngũ Cục c=5, Hỏa Lục Cục c=6. n là số nguyên thêm vào bao giờ cũng nhỏ hơn c : 0≤ n≤5 để thực hiện Phép Chia Đúng. Có 2 trường hợp : a) N là bội số của c thì n=e=0. b) N không là bội số của c : – Nếu n lẻ (1, 3, 5) thì e=-1 – Nếu n chẵn (2,4) thì e=+1 14 Sao chính chia làm 2 vòng : Vòng Tử Vi có 6 sao và vòng Thiên Phủ có 8 sao đi ngược chiều nhau vì lý do đó có bộ đôi (trùng nhau của 2 sao của 2 vòng để tạo thành một Cặp). *Các sao thuộc Vòng Tử Vi: Liêm Trinh (L= k+4 hay k – 8), Thiên Đồng (Đ = k +7 hay k- 5), Vũ Khúc (V = k+8 hay k – 4), Thái Dương (D = k +9 hay k -3), Thiên Cơ (C =k+11 hay k – 1). *Vị trí của các Sao thuộc vòng Thiên Phủ Gọi k là vị trí của Sao Tử Vi, h là vị trí của Sao Thiên Phủ bao giờ ta cũng có Công Thức : k + h = 2 (modulo 12) Lưu ý : k=1 (mod 12, cung Dần – đồng nghiã với tháng Giêng), k=2 (mod 12, cung Mão), cung Thìn k= 3 (mod 12),… cung Sửu k =12 (còn có thể coi như có vị trí 0). Từ Công thức trên Ta có thể tìm vị trí của 2 Sao Tử Vi và Thiên Phủ đồng cung. Thật vậy khi k = h ta có : 2k =2h =12 suy ra k=h =1 (mod 6) chứng tỏ 2 Sao Tử Vi và Thiên Phủ chỉ đồng cung tại 2 cung Dần (k = 1, 13, 25) và cung Thân (k = 7, 19). Các sao thuộc Vòng Thiên Phủ : Thái Âm (Â = h+1), Tham Lang (t =h+2), Cự Môn (C = h+3), Thiên Tướng (T = h+4), Thiên Lương (L =h+ 5), Thất Sát (s = h+6), Phá quân (p =h+ 10). Do vị trí 14 Sao Chính từ Định Nghiã ta thấy các Sao tạo thành Bộ 4, Bộ 3, Bộ 2 như sau : a) Tam Hợp chỉ xảy ra khi 3 sao ở cùng chung 1 vòng và có vị trí của các số hạng của 1 Cấp Số Cộng có công sai bằng 4 như : Bộ ba Tử Vũ Liêm (k, k+4, k+8) ; Bộ ba Sát Phá Tham (t=h+2, s=h+6, p = h+10). Nên nhớ chỉ có 2 Bộ ba (Tam Hợp) này cố định ở trên bất cứ Lá Số nào. Còn bộ (4, 5, 6) chỉ xảy ra khi hai Bộ nói trên có 2 sao trùng nhau (đồng cung). b) Chính Chiếu cố định (luôn luôn xảy ra) chỉ xảy ra khi 2 sao ở cùng 1 vòng (vị trí của 2 số hạng của 1 cấp số cộng có công sai bằng 6) như Thiên Phủ và Thất Sát ; Thiên Tướng và Phá Quân. Còn chính chiếu « tạm thời » chỉ xảy ra khi 2 sao đã trùng nhau ở 1 cung thì sẽ chính chiếu ở vị trí cung thẳng góc (thí dụ: Tử Vi và Thiên Phủ đồng cung tại Dần Thân thì sẽ chính chiếu tại Tị Hợi). c) Nhị Hợp : định bởi công thức x+y = 11 (mod 12) như Thiên Phủ với Thái Dương ; Vũ Khúc với Thái Âm ; Tham Lang với Thiên Đồng ; Phá Quân với Thiên Cơ.
  • 2. d) Nhị Phá: định bởi công thức: x + y = 5 (mod 12) như Tử Vi với Cự Môn, Thiên Tướng với Thiên Cơ,Thái Dương với Thất Sát. e) Đồng Cung để tạo thành bộ đôi khi 1 trong sao của 2 vòng Tử Vi và Thiên Phủ trùng nhau. Dùng công thức của cặp Tử Phủ : k + h = 2 (mod 12) ta đã suy ra những cặp sau : Tử Phủ, Vũ Tướng, Cự Nhật, Đồng Lương đồng cung tại Dần Thân. Tử Tham, Dương Lương, Cự Cơ đồng cung tại Mão Dậu. Tử Tướng, Liêm Phủ, Cơ Lương đồng cung tại Thìn Tuất. Tử Sát, Liêm Tham, Vũ Phá đồng cung tại Tị Hợi. Liêm Tướng, Vũ Phủ, Đồng Âm đồng cung tại Tý Ngọ. Tử Phá, Nhật Nguyệt, Liêm Sát, Vũ Tham, Cự Đồng đồng cung tại Sửu Mùi. f) Bộ 4 (bộ 5, 6) xảy ra khi bộ ba (tam hợp) hay đồng cung của 2 vòng gặp nhau như ta đã thấy : Bộ Tử Phủ Vũ Tướng (Liêm), Sát Phá Tham Tử Vũ Liêm, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cơ Cự Đồng Âm Lương. Thuật ngữ thông dụng ở đây ta chỉ xét đến : Tử Phủ Vũ Tướng cách, Sát Phá Tham cách,Cơ Nguyệt Đồng Lương cách. Riêng bài này ta chỉ chú trọng đến 3 sao Thất Sát, Phá Quân và Tham Lang. Tóm lại ta có bảng sau về vị trí của bộ Sát Phá Tham với các sao chính khác như sau : Đồng cung Nhị Hợp Nhị Phá Chính chiếu Tham Lang Tử Vũ Liêm Thiên Đồng Æ Æ Thất Sát Tử Vũ Liêm Æ Thái Dương Thiên Phủ Phá Quân Tử Vũ Liêm Thiên Cơ Æ Thiên Tướng II) Đắc Hãm của Bộ Sát Phá Tham 1) Vị trí đắc hãm theo Định Nghĩa Dựa theo Cổ Thư mà mọi sách Tử Vi lưu hành hiện tại với một sao chính tại 1 cung có các giá trị định lượng theo danh từ sau : Miếu Địa (đắc 1), Vượng Địa (đắc 2), Đắc Địa (đắc 3), Bình Hòa (trung bình) và Hãm Địa (không đắc = xấu). Đối với bộ Sát Phá Tham ta có Bảng giá trị sau : Miếu Địa Vượng Địa Đắc Địa Hãm Địa Tham Lang Sửu Mùi Thìn Tuất Dần Thân Tị Hợi Tý Ngọ Mão Dậu Thất Sát DầnThân Tý Ngọ Tị Hợi Sửu Mùi Mão Dậu Thìn Tuất Phá Quân Tý Ngọ Sửu Mùi Thìn Tuất Mão Dậu Dần Thân Tị Hợi Người mới học Tử Vi khi đã thông suốt Ngũ Hành đều có những lúc thắc mắc về sự đắc hãm các sao ở các vị trí sau : thí dụ Thất Sát(Dương Kim) tại cung Ngọ (hỏa) – hỏa khắc nhập kim – mà Sát lại miếu địa nghĩa là coi như tốt nhất ; trong khi đó tại Thìn (Dương Thổ) – thổ sinh nhập kim – mà Sát lại hãm địa !. Có nhiều sách cho Sát là Hỏa đới Kim, giả sử là hỏa có đắc tại Ngọ thì sao Sát cũng đắc tại Thân (kim) mà hỏa khắc kim, kể cả Sát cũng đắc tại Dần (Dương Mộc) trong khi kim khắc mộc. Trường hợp với sao Tham Lang (Thủy đới Mộc) cũng vậy – là sao Thủy – lại hãm địa tại Tý, Hợi đều là 2 cung Thủy ? – kể cả Tị, Ngọ (hỏa). Do đó vị trí đắc hãm, nếu để ý riêng từng sao một – nhiều khi ta đến sự nghịch lý ; điều này không tránh được. Ngay cả đến bộ môn Toán là môn học thuần lý mà thường cũng có sự nghịch lý, đôi khi phải dùng Công Lý (hay Tiên Đề) để tiến tới. Nhưng nếu ta để ý đến Cấu Trúc toàn bộ của Bộ Sao và giá trị tương đối về đắc hãm ta có thể thấy sự Dung Hòa (một cách tương đối) các mâu thuẫn của các sách Tử Vi đã lưu hành. Sau đây là phần áp dụng Đại số Boole (Algèbre de Boole – Boolean Algebra) về sự đắc hãm cho bộ Sát Phá Tham. 2) Vị trí đắc hãm theo quan niệm Boole Nếu chỉ giới hạn Giá Trị Đắc Địa (Miếu, Vượng, Đắc) vào một giá trị Đắc và Hãm (không đắc) thì Bộ ba Sát Phá Tham, theo Đại Số Boole chỉ có 8 giá trị : đó là phép ánh xạ hay phép áp (application, mapping) từ tập hợp E={ Sát, Phá, Tham
  • 3. } vào tập hợp F ={ đắc, hãm } với card E=3 và card F = 2. Số giá trị đó là 2 lũy thừa 3 =8, ta có bảng giá trị của hàm số Boole f(Sát, Phá, Tham) như sau : để giản di hóa, ta đặt Thất Sát =a, Phá Quân =b, Tham Lang =c, đắc =1 và hãm=0. a b c f(a,b,c) 1 1 1 1 1 1 0 1 1 0 1 1 1 0 0 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 Với giả thiết bộ ba Sát Phá Tham chỉ đắc, nếu hai trong ba đắc địa, còn các trường hợp khác đều hãm. Nói khác đi, hàm số f (a, b, c) có giá trị cho ra từ : f(a,b, c) = ab V ac V bc = sup (ab,ac,bc) Cài giá trị này vào thế Tam Hợp ta thấy: Tam Hợp S P T f Thân Tý Thìn 1 1 1 Đ Dậu Sửu Tị 1 1 0 Đ Tuất Dần Ngọ 1 0 1 Đ Hợi Mão Mùi 1 0 0 H Tý Thìn Thân 0 1 1 Đ Sửu Tị Dậu 0 1 0 H Dần Ngọ Tuất 0 0 1 H Mão Mùi Hợi 0 0 0 H Thìn Thân Tý 1 1 1 Đ Tị Dậu Sửu 1 1 0 Đ Ngọ Tuất Dần 1 0 1 Đ Mùi Hợi Mão 1 0 0 H Ta thấy ngay bộ Sát Phá Tham hãm ở thế Tam Hợp (Hợi Mão Mùi) và cũng dễ hiểu tại sao cùng một thế Tam Hợp (Dần Ngọ Tuất) bộ Sát Phá Tham lúc đắc địa lúc hãm địa. Do đó khi xét về một sao nhiều khi thấy đắc địa mà cuộc đời không khá; trong khi Mệnh Thân có sao chính phù Mệnh hãm địa mà cuộc đời lại khá. Dĩ nhiên là phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác; song phần lớn là cần phải do chiêm nghiệm trong tinh thần xác suất thống kê với Không Gian Mẫu phải lớn (nghĩa là qua rất nhiều lá số) mới thấy cấu trúc tòan bộ có tác động qua lại để thấy được bản chất có ảnh hưởng đến người mang lá số đó. Cũng như Phú của Cổ Nhân – nhiều câu rất đúng, rất có giá trị, nhưng cũng có nhiều câu cần phải xét lại; có khi lại sai từ căn bản ở vị trí sao, có khi chỉ nghiệm đúng với 1 vài lá số – song đã vội kết luận thành nguyên tắc. Cũng nên nhớ rằng Khoa Tử Vi không phải là một khoa học thuần lý; tuy cách phối trí của các sao chính do một Nguyên Tắc định sẵn có tính tuần hoàn nên có thể đặt thành Công Thức như công thức Toán với các yếu tố năm tháng ngày giờ để lập nên một Lá Số. Từ quy luật đó ai cũng có thể làm ra 1 Lá Số giống nhau – đưa vào máy tính lại càng nhanh hơn – nhưng cách Luận Giải thì lại khác hẳn. Cho nên ta thấy rằng có những nguyên tắc chỉ đúng với một vài lá số ở 1 thời điểm mà lại sai ở các lá số khác. Nguyên tắc nào cũng phải dựa vào 2 yếu tố chính là Thời, Vị thì độ chính xác mới hy vọng có xác suất cao.
  • 4. III BẢN CHẤT CỦA BỘ SÁT PHÁ THAM 1) Sát Phá Tham có phải là VÕ CÁCH không? Người viết bắt đầu làm quen với bộ môn Tử Vi từ thủa 16t khi còn là học sinh Trung Học Nguyễn Trãi Hanoi (1952), người giúp tôi làm quen với bộ môn này là một ông Đồ nho thất thời, người cùng làng (Yên Mô – Ninh Bình), cùng tản cư ra Hanoi- do ông thân sinh mời đến nhà để làm Tử Vi cho mọi người trong Đại Gia Đình. Mỗi lúc rảnh rỗi, sau khi học bài xong- một già một trẻ – ngồi đối ẩm – các danh từ Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Đào Hồng Hỉ, Không Kiếp, Kình Đà, Hình Kị? lặp lại nhiều lần trên mỗi Lá Số đánh mạnh vào óc tò mò nên ham tìm hiểu. Hồi đó rất phục ông này – chỉ bấm trên ngón tay- một phút – đọc ra vanh vách từng sao – nào cát tinh, nào hung tinh, chính tinh, bàng tinh, phụ tinh? rồi viết ngay trên giấy không cần có 1 Tư Liệu nào trước mặt. Ông này thông thạo cả 3 chữ Hán, Nôm và Quốc Ngữ; nhưng lời giải đoán thì viết trên Tập Sách bằng chữ quốc ngữ. Về Phú thì ông ta thuộc lầu lầu vô kể như các nho Sinh thuộc các câu Khổng Tử viết.Mỗi khi nhìn Lá Số nào mà Mệnh có Sát Phá Tham hoặc có Hung Tinh đắc cách, là ông ta phán ngay: cậu này hay anh này sẽ phát võ. Hồi đó sách nói về Tử Vi hầu như không có (nếu có cũng không thấy bày bán trên các Hiệu Sách ở Hanoi lúc bấy giờ). Khi di cư vào Nam 1954, những năm kế tiếp sau đó; các nhà Xuất Bản mọc lên như nấm; các sách về Tử Vi đương nhiên cũng được phát hành rầm rộ- mới đầu phải kể cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang năm 1956, một cuốn viết kỹ càng từ Định Nghiã đến Tính Chất các sao, phép Lập Thành Lá Số và luận đoán – chính cuốn này đã làm nền tảng căn bản cho bộ sách Tử Vi Hàm Số và Tử Vi Tổng Hợp của Soạn Giả Nguyễn Phát Lộc sau đó (1972). Ngoài ra, cuốn Tử Vi Áo Bí của Việt Viêm Tử chỉ là sách dạy cách lấy lá số Tử Vi bằng cách bấm đốt ngón tay theo lối Ông Đồ như đã kể trên rườm rà, nếu dùng Toán Học chỉ cần một công thức nhỏ dùng lối đối xứng trên các trục của Thiên Bàn thì an sao nhanh hơn không cần phải dùng nhiều trang giấy với hình vẽ lớn của bàn tay chiếm trọn 1 trang cùng những bài thơ tuy dài dòng – nhưng cũng dễ nhớ. Dù trước đó cuốn Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu phát hành từ lâu (viết từ năm 1934) cũng giản dị – nhưng ít phổ biến. Bộ Tử Vi Đẩu Số của Kiến Trúc Sư Nguyễn Mạnh Bảo nặng về từ chương, dịch nguyên văn từ sách Tàu không có gì phát kiến mới, phải đợi cụ Thiên Lương cho ra đời cuốn Tử Vi Nghiệm Lý (1974) với nhiều Phát Kiến mới lạ, kiểm chứng trên nhiều Lá Số của các Danh Nhân. Sau khi đi Tù Cộng Sản về năm 1978, tôi có hân hạnh được Cụ Thiên Lương tiếp kiến nhiều lần; được Cụ cho xem nhiều bài nghiên cứu sau này gửi sang Hoa Kỳ cho người con Út vượt biên in thành cuốn Tử Vi Nghiệm LýToàn Thư (1984). Đối với Tôi những phát kiến của học phái Thiên Lương có nhiều mới lạ, quan niệm rộng rãi – giúp ích rất nhiều cho những người nghiên cứu bộ môn này.Thập Niên 70, phong trào Tử Vi nở rộ, nhiều thành phần tham dự có cả 1 Tuần Báo Khoa Học Huyền Bí đăng tải nhiều Phát Kiến và Quan Niệm mới về các Bộ Sao; những Kinh Nghiệm của nhiều người trong quá trình nghiên cứu Tử Vi; nổi bật nhất, vẫn là những bài của Cụ Thiên Lương và những người theo Học Phái Thiên Lương. Phong trào Tử Vi lan vào giới trẻ – đa số là học sinh, sinh viên tìm nghiên cứu- thịnh hành nhất là năm 70 -74 các sách báo viết về môn này rất nhiều, đương nhiên cũng có rất nhiều tác giả, mỗi người một môn phái – dù Tử Vi phát xuất từ Trung Hoa do Hi Di Trần Đoàn sáng tạo. Phần lớn sách dịch theo lối cổ – ít có phát kiến mới – sách nào cũng cho Sát Phá Tham là võ cách. Những năm trước 1963 có dịp theo may ông bạn nhà binh thăm các thầy bói Kim, Canh, Minh Lộc, Ích…đa số những ông này khi gặp lá số mà Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham đều khẳng định là Phát Võ. Các ông Thày này chuyên chú nhiều đến Hung Sát Tinh (thời lọan có khác !) dựa vào các câu Phú cổ như: Tham Hỏa Thìn Tuất danh trấn chư bang. Tham Linh tinh thủ, tướng tướng chi danh. Sát, Hình hội Long Thần định giáng. Thất Sát Dần Thân Tý Ngọ nhất sinh tước lộc vinh xương. Nào là Phá Quân Tý Ngọ gia quan tiến lộc. Kiếp Không đắc địa phát dã như lôi. Nhiều khi còn cố ghép các sao để thành bộ như: Binh Hình Tướng Ấn hay Long Hổ Kình Quyền. Đọc lên nghe kêu lắm, để tán thưởng cho những sao sẽ Phát về Võ. Cuộc đảo chánh 1-11-1963 các ông thầy Minh Lộc, Canh, Kim có ảnh hưởng rất lớn đến biến cố này – phần lớn các sĩ quan trẻ kể cả cấp Tướng đều tin tưởng một cách mù quáng vào các lời đoán bốc thơm mà hành động, nhất là các vụ binh biến sau đó. Người viết đã từng được một ông Đại Tá (sau lên Tướng) dẫn đi xem thầy Minh Lộc vài lần; lần nào cũng có nhiều sĩ quan thân cận đi tháp tùng để nghe luận đoán – phần nhiều các Thày bốc thơm về các Lá Số có bộ Sát Phá Tham và Hung Tinh đắc địa. Chính vì điểm đó CIA đã lợi dụng các ông thầy Tử Vi để hướng dẫn biến cố theo điều họ muốn. Đây chỉ là một nhận xét trung thực trên các dữ kiện có thực của một giai đoạn lịch sử, không có tính cách phê phán một ai, chỉ có mục đích chứng minh là các ông thầy Tử Vi có ảnh hưởng rất lớn đến những cuộc Chính Biến từ năm 1963 và những năm sau đó. Và cũng để chứng minh tính chất của
  • 5. bộ Sát Phá Tham mà từ ngàn xưa, ngay các sách cổ, những lá số nào Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham cũng đều cho là Võ cách. Điều này không phải là không đúng – mà cũng không sai. Vì phần lớn Lá Số thành công trong Võ Nghiệp đều có bộ Sát Phá Tham tại Mệnh Thân. Nhưng Mệnh Thân có bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật vẫn đi lính như thường – đôi người còn Phát Võ hay như Tây Sở Bá Vương Hạng Võ có Thiên Cơ tại Mệnh, Thân Cự Nhật vẫn nổi danh tài cử đỉnh, vạn nhân địch (Hạng Võ tuổi Đinh Mão sinh ngày 12 tháng 8, giờ Mão). Song có một điều chắc chắn là những người nào mà Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham đắc cách hội Hung Sát tinh đắc địa thành công rất nhanh chóng trong Binh Nghiệp vào các Chu Kỳ hợp Mệnh. Trong nhà binh thường là Cấp Chỉ Huy trực tiếp chiến đấu như Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng, Sư Đoàn Trưởng. Trái lại dù ở nhà binh, Mệnh Thân không có bộ Sát Phá Tham thì chỉ giữ những vai trò Tham Mưu, Tiếp Vận, Quân Nhu, nếu có lên lon mau là nhờ ở Chu Kỳ có bộ Sát Phá Tham hay Hung Sát Tinh đắc cách. Hết chu kỳ đó cuộc đời lại vào ngã rẽ ít sóng gió hơn. Tóm lại, ta có thể kết luận rằng những người nào mà Lá Số có bộ Sát Phá Tham với Hung Tinh đắc cách đóng tại Mệnh Thân là những người dễ thành công trong binh nghiệp; ngoài năng khiếu trên còn dễ thành công trong môi trường Chính Trị, Kinh Doanh, Thương Mãi, Kỹ Thuật. Đó là mẫu người Hiếu Động có phản ứng nhanh, can đảm nhưng liều lĩnh- gặp thời lên rất nhanh nhưng xuống cũng rất mau. Những năm trong trại tù CS, tôi đã có dịp xem số Tử Vi cho hàng ngàn Sĩ Quan cấp úy lẫn cấp tá, đã thấy rằng những người nào lá số mà Mệnh Thân có bộ Sát Phá Tham thường là những cấp chỉ huy như Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng ở những binh chủng Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Biệt Kích Dù, dĩ nhiên có cả Bộ Binh, còn những người không có bộ ba này thường ở các ngành Chiến Tranh Chính Trị, Quân Nhu, Quân Vận, Tiếp Vận ... Mỗi khi xem số cho một người nào tôi thường phối kiểm các thời điểm vận hạn trên các biến cố đã qua, nhất là các lá số có bộ Sát Phá Tham của các Sĩ Quan Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân nắm các đơn vị trực tiếp chiến đấu – thường lên lon rất mau – còn những người ở đơn vị không trực tiếp chiến đấu, tuy cùng một cấp bậc xuất thân cùng một Quân Trường ở khóa đàn anh, cách nhau vài khóa – có khi cả chục khóa; đương nhiên lá số không có bộ Sát Phá Tham. Vào thời điểm mà Lá Số có bộ Sát Phá Tham ngộ Hung Sát tinh thì thường bị thương nặng, phối hợp với chỉ tay thì thấy có đường đứt quãng – nặng thì trên Sinh Đạo, nhẹ thì trên Tâm Đạo hay Trí Đạo. Phần lớn độ chính xác khá cao. Tôi cũng có dịp xem Tử Vi cho khoảng vài chục Bác Sĩ Quân Y cũng là sĩ quan tù cộng sản; thấy rằng những ông nào Mệnh Thân có bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương thêm Trung Tinh đắc cách (tuy đi lính) nhưng mở phòng mạch Tư ở ngoài thường đông khách kiếm nhiều tiền và rất có tiếng, hơn hẳn các ông Bác sĩ nào mà Lá số không có bộ sao này. Cũng có ông có bộ Sát phá Tham đắc cách – quả lên lon rất mau, tuy ở khóa đàn em mà ngang lon với các ông ở khóa đàn anh- hành nghề giải phẫu cũng rất nổi tiếng. 2) Mẫu người Sát Phá Tham. Như đã trình bày trong phần vị trí của 14 Chính Tinh, chỉ có bộ Sát Phá Tham trong chùm sao Thiên Phủ là có cấu trúc chặt chẽ, có ảnh hưởng tác động qua lại. Ba sao này luôn luôn ở vị trí Tam Hợp đứng trên đỉnh của một Tam Giác với thứ tự : Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang theo chiều thuận trên Lá Số (chiều của kim đồng hồ). Khi các sao của bộ ba này không gặp sao của bộ ba (Tử Vũ Liêm) thì vị trí của bộ ba này như sau: Mệnh Quan Lộc Tài Bạch Thất Sát Phá Quân Tham Lang Phá Quân Tham Lang Thất Sát Tham Lang Thất Sát Phá Quân Đó là trường hợp bộ Sát Phá Tham thuần chất. Trường hợp một trong ba sao Sát, Phá, Tham gặp các sao của bộ ba (Tử Vũ Liêm) thì vị trí được xếp đặt như sau: Mệnh Quan Lộc Tài Bạch Tử Vi Thất Sát Liêm Trinh Phá Quân Vũ Khúc Tham Lang Tử Vi Phá Quân Liêm Trinh Tham Lang Vũ Khúc Thất Sát Tử Vi Tham Lang Liêm Trinh Thất Sát Vũ Khúc Phá Quân Đó là trường hợp bộ Sát Phá Tham biến chất. Tùy theo vai trò ngũ hành+ hàng Can của Bản Mệnh và giờ sinh (vị trí của THÂN); ảnh hưởng các sao Tử Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh tác động lên bộ ba này – để từ đó ta suy ra bản chất thay đổi so với trường hợp trên.
  • 6. BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 2 A) Sát Phá Tham thuần chất Trong phần này ta sẽ xét tính chất riêng của từng Sao một – trong các Sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang của bộ Ba (Sát Phá Tham) khi đứng riêng một mình tại Cung Mệnh (thuật ngữ cũ gọi là độc thủ tại Mệnh) hay tại Cung THÂN (khác với cung Thân cố định có hành Kim trên Thiên Bàn của mọi Lá Số) . Bản tính chung của bộ Sát Phá Tham là hiếu động, hành động cực kỳ nhanh chóng, can đảm, liều lĩnh, gan góc, nóng nảy dễ thành công trong môi sinh động, nhưng cũng dễ thất bại – lên mau xuống nhanh – giữ được lâu hay mau còn tùy thuộc vào cung THÂN (chỉ về qúa trình Họat Động của đương số bắt đầu từ Trung Vận) + hành của Sao có ở vị trí đắc địa (hay hãm địa ?) có tương hợp Ngũ Hành với bản Mệnh ? Song tính liều lĩnh của Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang khác hẳn nhau ở tính gan dạ nên mức độ thành công trong Cuộc Đời, sự sống lâu hay chết yểu, tình trạng lâu bền hay chia ly trong đời sống lứa đôi cũng khác nhau, nếu đi sâu vào chi tiết từng sao một với sự kết hợp với các sao Chính (bộ Tử Phủ Vũ Tướng, Liêm) cùng các trung tinh và Hung Sát tinh khác. Riêng từng Sao một của Bộ Ba này – sao nào cũng vậy – được rải đều trên 12 cung của Lá Số nên có 6 vị trí Độc Thủ (thực ra – nếu xét qua sự đối xứng của Trục Dần – Thân thì coi như chỉ có 3 vị trí khác nhau) và cũng vậy với 6 vị trí đi kèm với các Chính Tinh khác (bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm). I) Hình Ảnh của THẤT SÁT 1) Thất Sát Triều đẩu Mệnh có sao Thất Sát độc thủ tại Dần hay Thân thì được gọi là Thất Sát Triều Đẩu (nằm trong mẫu Tử Phủ của 14 sao chính). Đó là vị trí của Bộ Ba (Sát Phá Tham) cả 3 sao đều đắc cách. Thất Sát là Nam Đẩu tinh thuộc Kim đới Hỏa. Nếu Mệnh đóng tại Dần thì cung Quan Lộc có Phá Quân (Thủy) cư Ngọ (Hỏa), tuy không đắc cách bằng Phá Quân cư Tý (Thủy) khi Thất Sát độc thủ tại cung Thân (Kim), song hơn ở bộ Nhật Nguyệt tịnh minh (Thái Dương ở Tỵ và Thái Âm ở Dậu) ; cung Tài Bạch có Tham Lang độc thủ tại Tuất và tại Thìn khi Thất Sát ở Thân. Tại Dần thì lợi cho Mạng Hỏa với Tuổi Giáp (Dần Ngọ Tuất) + Cục Hỏa nếu vắng Hung Sát Tinh vừa được trùng phùng 3 vòng Lộc Tồn, Thái Tuế và Tràng Sinh – với tuổi Đinh, Kỷ + Cục Hỏa thì cũng được hưởng lợi 2 trong 3 vòng nói trên. Đóng tại Thân (kim) thì tốt cho người mạng Kim, mạng Thủy ; nếu là tuổi Canh (Thân, Tý, Thìn) và Cục Thủy hay Cục Thổ thì được trùng phùng 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh, song lại mất ưu thế ở hành của Mệnh: Canh Thân hành Mộc, Canh Tý hành Thổ, Canh Thìn tuy hành Kim nhưng bị Tuần tại Mệnh. Thất Sát triều đẩu – nếu hình tướng phương phi, nở nang vuông vức, mắt lộ hay mắt âm dương là người nhiều mưu lược, dũng mãnh, đó là bậc anh hùng tài trí hơn người, thường hiển đạt về võ nghiệp dễ khuất phục mọi người, song Sự Nghiệp không bền, ngay cả tuổi Thọ. Vua Quang Trung tuổi Nhâm Thân (1752 DL) sinh ngày 05 tháng 05, giờ Tuất (Thân cư Tài Bạch có Tham Lang nhập Miếu gặp Hỏa Linh). Mệnh Kiếm Phong Kim với Thất Sát đóng tại Thân, Cục Thổ. Bộ Sát Phá Tham đắc cách trùng phùng với 2 vòng Thái Tuế và Tràng Sinh ; bộ Nhật Nguyệt tuy hãm song ngộ Tuần, Triệt nên đắc cách. Đó là hình ảnh đẹp nhất của Thất Sát triều đẩu. Mệnh Kim mẫu người anh hùng tốc chiến tốc thắng, sự nghiệp vẻ vang lừng lẫy, song Mệnh yểu (Kình, Linh Hỏa chiếu Mệnh Thân, Vua mất khi tiểu vận gặp Hạn Thái Bạch 40t+Không Kiếp, Thiên Hình). Thất Sát triều đẩu – nếu sinh giờ Tý, Ngọ (Mệnh Thân đồng cung), giờ Dần, Thân (THÂN cư Quan Lộc) , giờ Thìn, Tuất (THÂN cư Tài Bạch) đều hưởng được bộ Sát Phá Tham thuần chất đắc cách; nếu vắng bóng Hung Sát Tinh và được nhiều Trung Tinh đắc cách đi vào Binh Nghiệp, Kinh Doanh hay Kỹ Nghệ rất thành công, kể cả ngành Y (bác sĩ giải phẫu) hay Nha Sĩ. Nếu vướng Hung Sát Tinh vẫn lên mau nhưng cuộc đời thăng trầm và không bền. Sinh giờ Mão Dậu (THÂN cư Thiên Di có Tử Phủ : ra ngoài được nhiều người giúp sức và trọng vọng) ; sinh giờ Sửu, Mùi (THÂN cư Phúc Đức gặp Vũ Khúc (Vũ Tham đắc cách : nhờ phúc ấm của Dòng Họ, xuất thân từ dòng Họ danh vọng – nhiều thuận lợi nhờ Môi Trường để từ đó dễ vươn lên) ; sinh giờ Tỵ, Hợi (THÂN cư Phối có Liêm Tướng : nhờ vợ hay chồng tài ba giúp sức ở vai trò Cộng Nghiệp). Các tuổi khác có cách Thất Sát triều đẩu tuy không trùng phùng vòng Lộc Tồn như Giáp, Đinh, Kỷ cho Thất Sát tại Dần hay Canh, Qúy cho Thất Sát tại Thân, song nếu hội nhiều Trung Tinh như Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa, Quang Qúy, Khoa Quyền Lộc …vẫn là những người thành công – đặc biệt trong Binh Nghiệp, Chính Trị Kinh Doanh hay Kỹ Thuật. Tuy nhiên đối với Nữ Mệnh dù rất thông minh, khí cao, trí lớn không thua gì Nam giới, nhưng đời sống lứa đôi ít khi toàn vẹn, nhất là khi gặp nhiều Hung Sát tinh tại Mệnh Thân cũng không tránh được nhiều thăng trầm về Tình Cảm. 2) Thất Sát Ngưỡng Đẩu Thất Sát độc thủ tại Tý hay Ngọ thì được gọi là Thất Sát Ngưỡng Đẩu, so với trường hợp trên, bộ ba (Sát Phá Tham) tuy không đắc cách bằng, nhưng hơn hẳn các trường hợp còn lại. Nên Phú đã có câu : Thất Sát Dần Thân, Tý, Ngọ, nhất sinh tước lộc, vinh xương hay Thất Sát Tý Ngọ phùng Tả Hữu – Văn Khúc gia chi cách tối thanh. Thất Sát đắc cách ở 2 vị trí này vì được cặp Vũ Phủ trực chiếu. Tại Ngọ tốt hơn tại Tý vì bộ Tử Phủ Vũ Tướng đắc vị hơn, bộ Nhật Nguyệt như nhau, vì đồng tranh tại Sửu Mùi : sáng hay tối tùy theo giờ sinh hay Môi Sinh và hành của Mệnh
  • 7. (như vậy Mệnh Thủy thì ảnh hưởng nhiều của Thái Âm, Mệnh Hỏa cho Thái Dương). Đó là cách nhìn khái quát, vì còn tùy thuộc ở vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn và vòng Tràng Sinh cùng các Trung Tinh và Hung Sát Tinh + Hình Tướng và Chỉ Tay. Kể cả khi xét về giờ sinh (vì phụ thuộc vào cung THÂN tại Mệnh hay Quan, Tài, Phúc, Di hay Phối). Dù không được nhiều sao tốt ở Mệnh, nhưng cách Thất Sát Ngưỡng Đẩu được cộng nghiệp bởi Tam Giác (Phúc Đức, Phu Thê, Thiên Di) với bộ Tử Phủ Vũ Tướng đắc vị. Nhất là – nếu Hình Tướng cao lớn, Ngũ Quan đầy đặn không khuyết hãm, hai Bàn Tay ngoài 3 chỉ chính (Sinh Đạo, Trí Đạo, Tâm Đạo) ngay ngắn không đứt gẫy lại có thêm 2 chỉ May Mắn và Danh Vọng + Mệnh Hỏa, Cục Hỏa với tuổi Giáp, Đinh, Kỷ – nếu Thất Sát ở Ngọ, Mệnh Kim và Cục Thủy hay Thổ với tuổi Canh, Qúy – nếu Thất Sát đóng tại Tý : đều là mẫu người thành công có Danh Vọng như Thất Sát Triều Đẩu. Trái lại nếu Thất Sát tại Ngọ với các tuổi Bính, Mậu sinh tháng 10, giờ (Tỵ, Mùi), nếu Hình Tướng thấp bé, Ngũ Quan khuyết hãm chắc chắn hay mắc tai họa khủng khiếp về xe cộ, dao, súng – mạng Mộc càng dễ bị hơn !. Đó chính là cách « Mã Đầu đối Kiếm = Gươm treo Cổ Ngựa » như Phú đã có Câu : Sát Kình tại Ngọ, Mã đầu đối Kiếm, tương giao Sát diệu ư Bính Mậu – nhân Mệnh nan to. Riêng tuổi Giáp Kỷ có cách này lại không sao – nhờ Lộc Tồn và nếu được thêm nhiều Trung Tinh đắc cách khác, lại có Sự Nghiệp lừng lẫy; các tuổi khác thì mức độ ít hơn, song nếu thành công về mặt Tiền Bạc, đến Chu Kỳ xấu, khi Tiểu Vận gặp Hạn (Tam Tai, La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch) cũng khó tránh nổi tai họa. Phú có Câu : « Sát cư Ly Khảm, Nam Nhân Thê hiền đa hội ; mạc ngộ Kiếp Riêu, ố phụ ái cô thân, Nữ Mệnh ai oan trái – hồng nhan nan tự chủ ». Đó là nói đến cách Thất Sát cư Ngọ (Ly thuộc Hỏa chỉ cung Ngọ) và cư Tý (Khảm thuộc Thủy chỉ cung Tý). Mệnh có Thất Sát độc thủ thì cung Thê có Tử Vi Thiên Tướng hội Vũ Phủ – nếu nhiều Trung Tinh đắc cách thì đàn ông lấy được vợ hiền (vượng Phu ích Tử), đàn bà gặp chồng danh giá. Song với Nữ Mệnh – nếu gặp Kiếp, Riêu hội hợp thì mặt Tình Cảm long đong nhiều oan trái, nếu thêm Cô Qủa lại thích ở Độc Thân. Cụ Phan Thanh Giản sinh năm Bính Thìn (1796) giờ Tỵ ngày 12 tháng 10 đậu Tiến Sĩ độc nhất của Miền Nam năm 29 tuổi – là người của Lịch Sử trải qua 3 đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức : Mệnh có Thất Sát Ngưỡng đẩu tại Ngọ + Kình Dương (Mã đầu đối Kiếm)+Thiên Hình, Địa Không, Tang Môn – THÂN cư Thê tại Thìn có Tử Tướng hội Đà La, Địa Kiếp + Triệt. Vì buộc phải giao Ba Tỉnh Miền Tây (Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên) do Tướng Pháp là La Grandière đưa Tối Hậu Thư ngày 20/6/1867 nên Kinh Lược Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử « để tạ tội bất trung với Vua » ngày 3/8/1867. 3) Thất Sát Thìn Tuất Đóng tại cung Thìn hay Tuất thì Thất Sát độc thủ : trường hợp này Thất Sát hãm địa; (cách phối trí 14 sao chính thuộc mẫu Tử Vi Độc Thủ « Tử Vi đóng tại Ngọ hay Tý ») ; riêng Thất Sát tại Thìn thì Cung Phúc Đức được Tử Vi cư Ngọ hội Liêm Phủ Vũ Tướng đắc cách hơn trường hợp Tử Vi cư Tý (Thất Sát cư Tuất), lại thêm cung Phối (Phu Thê) được Vũ Tướng (người phối ngẫu tài giỏi giúp sức). Do đó nếu Mệnh có Thất Sát hãm – không được nhiều Trung Tinh hội hợp, cuộc đời tuy có thăng trầm, nhưng Phúc Đức đẹp, do đó nhờ Phúc Đức của Tổ Tiên dòng Họ – ăn hiền ở lành – mà có thể tránh được tai họa khi vận số gặp Năm Xung Tháng Hạn. Trường hợp Mệnh (hay THÂN) có Thất Sát tại Thìn hay Tuất lại hội hợp nhiều Hung Sát Tinh (Kình Đà, Linh Hỏa, Không Kiếp, Hình, Kị …) thêm Hình Tướng khuyết hãm, hành của chính tinh khắc bản Mệnh (mạng Mộc hay Hỏa), chắc chắn cuộc đời gặp nhiều tai nạn (có khi yểu Mệnh : Phú đã có câu Thất Sát lâm THÂN chung thị yểu), nếu ở binh nghiệp rất dễ tử thương. Song nếu hành các nghề liên quan đến dao kéo, kim chích (mổ xẻ, giải phẫu..) xử dụng cho người thì lực tác động của Hung Sát Tinh vào đương số có thể giảm nhẹ Với các tuổi Bính, Tân hay các tuổi thuộc con nhà Giáp Ngọ (như Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, …, Qúy Mão), nếu Mệnh (hay THÂN) đóng tại Thìn ; hay đối với các tuổi thuộc con nhà Giáp Tý (như Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, …, Qúy Dậu) – nếu Mệnh đóng tại Tuất có Thất Sát – nhờ Triệt hay Tuần làm giảm độ hãm của Thất Sát và Hung Sát Tinh nếu có, thì mức độ xấu cũng giảm nhẹ rất nhiều. Thất Sát hãm địa dễ bị yểu Mệnh (trường hợp Nhan Hồi do câu Phú : « Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà, Nhan Hồi yểu chiết »), nếu không thì bản chất cũng hung bạo, gian quyệt, ưa đại ngôn, rất liều lĩnh gan dạ, không biết sợ là gì (hình ảnh của Bạo Hổ băng Hà). Vì liều lĩnh gan dạ nên dễ hiểm nguy (thường những kẻ chết đuối, phần lớn, hay ỷ y tưởng mình bơi lội giỏi). Nếu Hình Tướng bé nhỏ, Ngũ Quan khuyết hãm, chỉ tay có vấn đề – muốn tránh tai nạn – cần phải sửa đổi Tâm Tính – khi đi vào Chu Kỳ xấu (Đại Vận 10 năm) phải thận trọng đề phòng khi Tiểu Vận đi vào các Hạn (Năm Tuổi, Tam Tai, La Hầu, Kế Đô hay Thái Bạch). Nếu gặp Thời lên mau thì phải lưu ý đến tuổi Thọ. Cải Số phần lớn là do Mình tự tạo (tu Tâm) – cũng giống như người lái xe, lái tàu cần phải biết Thời Tiết, chặng đường nào trên đường đi có rào cản hay Hầm Hố ! 1. II)Hình Ảnh của PHÁ QUÂN Phá Quân đóng tại Mệnh nếu đắc địa thân hình đẫy đà, cao vừa tầm, da hồng hào mặt đầy đặn, mắt lộ, hầu lộ, lông mày thưa (trái lại khi hãm địa thân hình thấp, bé nhỏ). Phá đắc địa (Miếu, Vượng) là người thông minh, hiếu thắng, tự đắc, kiêu kỳ, có thủ đọan, có tài thao lược, can đảm, dũng mãnh, ưa họat động, thích giang hồ – yếu điểm ưa nịnh hót (dám chết cho người Tri Kỷ) hao tán Phu Thê : dễ chia ly trong Tình Cảm. Khi đắc địa lại được nhiều Sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp tất được hưởng Phú Qúy đến tột bậc, thường hiển đạt về Võ Nghiệp, có uy quyền hiển hách. Trái lại khi Hãm Địa gặp nhiều
  • 8. Sao mờ ám (Hung Sát Tinh + Bại Tinh) : suốt cuộc Đời khốn cùng cô đơn, phiêu bạt – đôi khi gặp bệnh tật khó chữa hay thường mắc những tai nạn khủng khiếp, dễ mắc vào vòng lao lý – không yểu tử cũng bị chết một cách thê thảm Cũng giống như Sao Thất Sát, Phá Quân độc thủ ở 6 cung (Tý – Ngọ, Dần – Thân, Thìn – Tuất) và đi cặp với 1 trong các Sao của bộ (Tử Phủ Vũ Tướng Liêm : Tử Phá tại Sửu – Mùi ; Vũ Phá tại Tỵ – Hợi ; Liêm Phá tại Mão Dậu ; không thể đồng Cung với Phủ hay Tướng vì cùng nằm trên cùng 1 Vòng Sao mà Thiên Phủ là đại diện) trong 6 cung còn lại. 1) Phá Quân Tý Ngọ Đóng Tý (Thủy) Phá Quân (Thủy) đắc cách hơn khi đóng tại Ngọ (Hỏa) được bộ ba (Sát Phá Tham) cả 3 đều đắc cách (Thất Sát triều đẩu, Tham Lang Thìn Tuất) lại được hỗ trợ thêm Bộ Tử Phủ Vũ Tướng cũng đắc cách. Cách phối trí 14 Sao chính nằm trong Mẫu Tử Phủ. Mệnh đóng tại Tý hay Ngọ với Phá Quân độc thủ thì Quan Lộc được Tham Lang miếu địa tại Thìn hay Tuất, Tài Bạch được Thất Sát triều đẩu ; Cung Phúc Đức được Tử Phủ ở Dần hay Thân ; cung Thiên Di với Liêm Tướng đắc địa ở Ngọ hay Tý ; cung Phối (Thê hay Phu) có Vũ Khúc đắc cách ở Tuất hay Thìn. Do đó sinh giờ nào thì Cuộc Đời vẫn đẹp với điều kiện gặp nhiều Trung Tinh đắc cách, xa lánh Hung Sát Tinh ! Phú đã có câu : « Phá Quân Tý Ngọ, gia quan tiến lộc » để nói về sự Hiển đạt, uy quyền hiển hách, nhất là về Võ Nghiệp của Phá Quân đóng tại Mệnh ở Tý, Ngọ hợp Mệnh (đặc biệt tốt cho Mệnh Thủy hay Mộc – các Mệnh khác có khi khổ vì Phá Quân hay Thiên Tướng) và cộng hưởng với nhiều vòng sao tốt ; đồng thời cũng có câu : « Phá Quân Khảm, Ly, cô thân độc ảnh » để nói về sự hao tán Phu Thê của Sao này. Đọc Truyện Kiều khi Nguyễn Du tả Từ Hải : « Râu Hùm, Hàm Én, Mày Ngài. Vai ngang tấc rộng, thân mười thước cao » hay « Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ! ». Tuy nhiên bị chết đứng khi « bó thân về với Triều Đình » vì chót nghe lời Thúy Kiều dụ dỗ (hảo ngọt, ưa nịnh) : đó là Hình Ảnh của Phá Quân cư Tý ! Đọc truyện Tam Quốc Chí ta đã thấy Hình Ảnh của Quan Vân Trường trung tín và đầy nghĩa khí nhưng cũng kiêu kỳ, khinh thường địch thủ : Ông tuổi Mậu Ngọ (Thiên Thượng Hỏa : Lửa trên Trời) sinh giờ Ngọ ngày 13 tháng 5. Mệnh THÂN đồng cung tại Tý có Phá Quân độc thủ ở thế Tuế Phá (có tinh thần Cách Mạng, ưa kình chống) gặp Tuần +Triệt (nên thăng trầm). Tuy Phá Quân (Thủy) không phù Mệnh Hỏa + Can Chi, nhưng Cung Thiên Di đóng ở Ngọ (Hỏa) với Liêm Tướng (Tử Phủ Vũ Tướng cách + Tứ Linh « Long Phượng Hổ Cái » phù Mệnh Hỏa + Bộ Sát Phá Tham đắc cách hội Kình Đà – nên sau khi kết nghĩa Vườn Đào, Ông cùng Lưu Bị, Trương Phi dấy nghĩa Cần Vương phò nhà Hán – sau đó phò tá nghĩa huynh Lưu Huyền Đức khi lên ngôi Hán Trung Vương tại Tây Thục. Nghĩa Khí và Trung Tín của Phá Quân cư Tý : Khi thất thủ Hạ Bì, vì kẹt có Nhị vị Phu Nhân của Huyền Đức mà phải tạm hàng Tào (quyền biến không Sĩ Khí như Nho Sĩ của Khổng Học), nhưng ông đặt ra 3 điều kiện cho Tào Tháo phải thỏa mãn đầy đủ, nếu không ông chỉ có cái chết để đền ơn Tri Kỷ với Lưu Bị ở Kết Nghĩa Vườn Đào. Sau này trên con đường nhỏ Hoa Dung ông đã tha chết cho Tào Tháo để đền ơn sự việc mà kẻ địch đã đãi mình lúc trước – mặc dầu ông đã ký kết với Khổng Minh – nếu tha Tào phải đền mạng ! Cũng vì tính qúa Kiêu coi thường đối thủ (là Lục Tốn ở Đông Ngô) đành mất mạng ở Mạch Thành (Sát Phá Tham nhờ Kình Đà mà hiển đạt về Võ Nghiệp, nhưng cũng vì Kình Đà mà mất mạng : Đà ở Quan, Kình cư Ngọ ở Di : Mã đầu đối Kiếm +Tuần Triệt tại Mệnh Thân + Mã Tang, Cung Tật Ách gặp Hỏa Tinh, Riêu Y Hình kị chiếu, Đại Vận gặp Kiếp Không). Bản Chất của Phá Quân cư Tý có thể dùng Lời nói đầy thủ đọan và xác thực nhất của Tào Tháo trước mặt các thuộc hạ lúc không thể giữ được Quan Vân Trường đành để ông đi kiếm Huyền Đức : « Người như Vân Trường, tiền tài bất động kỳ – tâm, tước lộc cũng không thể đổi ý thay lòng, không quên Chúa cũ, đi ở phân minh ; qủa là một Đại Trượng Phu đời nay ». – Đại Tướng Đỗ Cao Trí tuổi Kỷ Tỵ (20/11/ 1929) Đại Lâm Mộc – Mệnh cư Tý có Phá Quân độc thủ là 1 Danh Tướng của Miền Nam, chết vì tai nạn máy bay ngày 23/2/1971(cung Tật Ách có Kình) khi gặp hạn Kế Đô 43t + Tam Tai + Kình Đà. – Tổng Thống Ngô Đình Diệm tuổi Canh Tý (3/1/ 1901) Bích Thượng Thổ – Mệnh + Triệt có Phá Quân cư Ngọ (Hỏa), người Sáng Lập Chế Độ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, bị giết chết bởi thủ hạ tin dùng, ngày 2/11/1963 khi vận số có tiểu hạn vào Tật Ách, lưu Thái Tuế vào Phối đều chiếu vào Nô Bộc gặp Hạn La Hầu + Tam Tai + Kình Đà. – Nhà Cách Mạng Phan Chu Trinh (uy vũ bất khuất) tuổi Nhâm Thân 1872 (ngày 3 tháng 8, giờ Dậu) Mệnh Phá Quân cư Tý + Kình ; THÂN cư Thiên Di có Liêm Tướng suốt cuộc đời tranh đấu cho Sự Giải Phóng Dân Tộc dưới ách Đô Hộ của Thực Dân Pháp – chết năm Bính Dần 1926 khi đi vào Hạn La Hầu 55t – năm Thiên khắc Địa xung+ Kình Đà Hình, Không Kiếp. 2) Phá Quân Thìn Tuất Khi Mệnh có Phá Quân độc thủ đóng tại Thìn hay Tuất (vòng sao của 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Tướng), thì cung Quan Lộc có Tham Lang tại Thân hay Dần ; cung Tài Bạch có Thất Sát Triều đẩu tại Tý hay Ngọ ; cung Phúc Đức có Vũ Phủ đắc cách tại Ngọ hay Tý ; cung Thiên Di có Tử Tướng tại Tuất hay Thìn ; cung Phối có Liêm Trinh tại Dần hay Thân ; cung Nhị Hợp (Nô Bộc) có Cự Cơ đắc cách tại Dậu Mão. Phá Quân thuộc Thủy đóng tại Thìn hay Tuất đều thuộc Thổ – mà Thổ khắc nhập Thủy – tuy nhiên theo định nghĩa Phá Quân lại đắc địa ở vị trí này .Nếu xét về Bộ ba (Sát Phá Tham)
  • 9. ở vị trí này thì ta thấy Quan Lộc qúa yếu khi Tham Lang hãm địa độc thủ (hành động vị kỷ, tham lợi, bất kể thân sơ, đôi khi bất nhân, hành động tiểu nhân nếu gặp Không, Kiếp). Nếu vắng bóng Trung Tinh đắc cách lại hội nhiều Hung Sát Tinh tại Mệnh (lại sinh giờ Dần Thân với Mệnh Mộc hay Thủy) thì Câu Phú của Cổ Nhân : « Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất-Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân » cũng có ảnh hưởng nhiều khi Lá Số ở trong trường hợp này Tuy nhiên nếu tuổi Giáp (Dần Ngọ Tuất) sinh giờ Sửu Mùi hay giờ Tỵ Hợi được hưởng 2 vòng Thái Tuế và Lộc Tồn – nhờ ảnh hưởng của Phúc Đức hay nhờ sự Cộng Nghiệp với người hôn phối – thời Tiền Vận tuy thăng trầm nhưng từ Trung Vận cuộc đời thay đổi hẳn – kể cả tính tình và hành động, không bị người Đời ngộ nhận như giai đọan trước đó. Tuổi Đinh, Kỷ với Thổ Mệnh cũng được tương tự như trên ít nhiều. Trường hợp sinh giờ Mão Dậu với Mệnh Thổ hay Kim nhờ môi sinh (được Qúy Nhân giúp sức cùng Nô Bộc tốt hỗ trợ) – cuộc Đời cũng thay đổi bất ngờ từ Trung Vận. Trái lại với tuổi Bính Mậu mạng Thủy Mệnh đóng tại Tuất sinh giờ Tí Ngọ- lại ở Thế Tuế Phá – nếu không có Trung Tinh đắc cách như Hóa Khoa hóa giải thì bản chất của Phá Quân hãm địa : ương ngạnh, hiếu thắng, hung bạo, nham hiểm, bất nhân – thường mắc nhiều tai ách – không thể tránh khỏi – nếu không ly tổ bôn ba. 3) Phá Quân Dần Thân Mệnh đóng tại Dần hay Thân với Phá Quân độc thủ (vòng sao của 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Vi độc thủ ở Ngọ hay Tý) thì cung Quan Lộc có Tham Lang hãm tại Tý hay Ngọ ; cung Tài Bạch có Thất Sát hãm tại Tuất hay Thìn – nhờ cung Phúc Đức có Liêm Phủ đắc cách ; cung Thiên Di có Vũ Tướng đắc cách ; cung Phối với Tử Vi cư Ngọ + bộ Nhật Nguyệt tịnh minh khi Phá Quân tại Thân hơn cách Tử Vi cư Tý +bộ Nhật Nguyệt hãm khi Phá Quân đóng tại Dần. Bộ ba (Sát Phá Tham) không đắc cách ở vị trí này – nếu vắng bóng Trung Tinh đắc cách, hội hợp nhiều Hung Sát tinh, lại sinh giờ (Tí, Ngọ), (Dần Thân), (Thìn, Tuất) – không được cộng hưởng 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh thì cuộc Đời cũng chịu ảnh hưởng nhiều với các Câu Phú : – Phá Quân nhất diệu tính nan minh (Phá Quân hãm độc thủ là người không sáng suốt, phá tán không suy xét). – Phá Quân Hỏa Linh , bôn ba lao toái (Phá Quân không hợp với Hỏa Linh như Tham Lang, cho nên nếu gặp là người bôn ba khổ cực). – Phá, Sát phùng Hỏa Hao, mạc ngộ Việt, Hình lão hạn qui thân họa nghiệp lai (Cung Mệnh có Phá độc thủ gặp Hỏa Hao hội hợp, thêm Thiên Hình khó thóat được những tai nạn khủng khiếp !). Nếu sinh giờ (Sửu, Mùi) nhờ THÂN cư Phúc Đức của dòng Họ, sinh giờ (Mão, Dậu) nhờ THÂN cư Thiên Di, sinh giờ (Tỵ, Hợi) nhờ THÂN cư Phối với tam hợp của Bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc cách – dù Tiền Vận có lao đao, vất vả nhưng từ Trung Vận nhờ ảnh hưởng của Dòng Họ, Môi Sinh và sự cộng nghiệp với người thân trong Gia đình cuộc Đời trở nên sáng sủa và an nhàn hơn trước với điều kiện có quyết tâm và nghị lực để thay đổi (tu tâm dưỡng tính để vươn lên từ nghịch cảnh) . III) Hình ảnh của Tham Lang Cũng như 2 sao Thất Sát và Phá Quân, Tham Lang có 6 vị trí đứng một mình tại (Dần – Thân, Thìn – Tuất, Tý – Ngọ) và 6 vị trí đứng cặp thành bộ đôi với các sao khác thuộc bộ (Tử Vũ Liêm : Tử Tham ở Mão -Dậu ; Vũ Tham ở Sửu – Mùi ; Liêm Tham tại Tỵ – Hợi). Tham Lang là sao thuộc Bắc Đẩu Tinh – Âm Thủy đới Mộc – Miếu Địa (Sửu, Mùi), Vượng Địa (Thìn, Tuất), Đắc Địa (Dần Thân), Hãm Địa (Tỵ Hợi, Tý Ngọ, Mão Dậu) là Hung Tinh, Dâm Tinh chủ về Uy Quyền, Họa Phúc. Nếu đắc địa gặp nhiều sao sáng sủa hội hợp ; với Hình Tướng cao lớn, đẫy đà, mặt đầy đặn vuông vức (tam đình cân xứng, ngũ quan không khuyết hãm+bàn tay các chỉ rõ ràng không bị đứt quãng) là người tài giỏi thao lược, thường hiển đạt vềVõ Nghiệp hay Kinh Doanh, Kỹ Nghệ, được hưởng Phú Qúy đến tột bực, có uy danh lừng lẫy và phúc – thọ song toàn. Tuy thông minh, trung hậu nhưng hiếu thắng và tự đắc, lòng tham dục không bờ bến – mưu tính tòan việc đại sự – nhưng chỉ chuyên cần siêng năng lúc đầu – sau lười biếng, chán nản và bỏ dở vì thích lui tới chỗ đông người ồn ào, thích ăn ngon mặc đẹp, chơi bời thỏa thích. Tham Lang hãm địa (Tý – Ngọ, Dần –Thân) với hình tướng nhỏ bé, khuyết hãm là người gian hiểm, nhiều dục vọng, tuy cũng có óc kinh doanh nhưng không qủa quyết và bền chí – hội nhiều Hung Sát Tinh : tính dâm dật, chơi bời hoang đãng, đi vào vận xấu dễ bị tai nạn hay bệnh tật khó chữa (thường ở bộ Tiêu Hóa hay Sinh Dục), đôi khi yểu tử. Tuy nằm trong Bộ (Sát Phá Tham) hiếu động, nhưng Tham Lang không can đảm như Thất Sát (liều lĩnh – không biết sợ là gì : hình ảnh của Bạo Hổ băng Hà) hay Phá Quân (ngang tàng, khí phách, đầu đội Trời chân đạp đất hiên ngang). Tham Lang khi độc thủ (hãm địa) bản tính nhút nhát, không quyết đóan, lười biếng ham chơi nên dễ bị lôi cuốn vào sa ngả, nhất là ở tuổi vị thành niên (bụi đời, hút sách) khi vận số rơi vào Năm Xung Tháng Hạn (Năm Tuổi – Tam Tai, La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch). Tham Lang hãm địa đi vào vận bần cùng chỉ dám đi ăn trộm vặt – trong khi Phá Quân không thèm ăn trộm vặt mà lập đảng đi ăn cướp – ngang tàng dũng mạnh – coi Trời bằng vung 1) Tham Lang Thìn, Tuất Mệnh đóng tại Thìn hay Tuất có Tham Lang độc thủ (vòng của 14 sao chính trên Thiên Bàn phối trí theo dạng thuộc Mẫu Tử Phủ đóng tại Thân hay Dần), cung Quan Lộc có Thất Sát triều đẩu, cung Tài Bạch có Phá Quân đắc cách tại Tý hay Ngọ. Trong trường hợp này Bộ Ba (Sát Phá Tham) đều đắc cách được cộng hưởng với Bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm cũng
  • 10. ở vị trí đắc địa : cung Phúc Đức có Liêm Tướng, cung Thiên Di có Vũ Khúc độc thủ, cung Phối được Tử Phủ hỗ trợ. Sinh giờ nào thì cung THÂN cũng ở vị trí đẹp : tuổi Giáp (Dần Ngọ Tuất) với Tham Lang tại Tuất + Hỏa Cục được hưởng cả 3 Vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh + bộ Nhật Nguyệt tịnh minh ; tuổi Canh (Thân Tý Thìn) với Tham Lang tại Thìn + Cục Thổ hay Thủy cũng vậy, tuy bộ Nhật Nguyệt không được sáng sủa (Thái Dương ở Hợi, Thái Âm ở Mão – tuy nhiên đối với tuổi Nhâm Thân được Tuần Triệt giải vây, hay ở trường hợp thay đổi Môi Sinh – bộ đôi Nhật Nguyệt này lại trở nên đắc cách). Với tuổi Đinh, Kỷ, Qúy cũng được hưởng nhờ Phúc Đức. Ở vị trí này với Hình Tướng + Chỉ Tay đẹp – về Tuổi Thọ, Phú có câu : « Tham Lang nhập Miếu thọ nguyên thời » Về Công Danh Tham Lang với Hỏa Linh – với Binh Nghiệp là Danh Tướng. Với tài thao lược, tổ chức giỏi, có uy quyền – hợp với Vũ Khúc (dễ làm giàu) đi vào ngành Chính Trị, Kinh Doanh, Kỹ Nghệ rất thành công, giàu có, quyền cao chức trọng, được nhiều người lui tới thần phục nên Phú đã có những câu : – Tham, Linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh. – Tham Lang, Hỏa Tinh cư Miếu Vượng, danh chấn chư bang. – Tham Lang ngộ Hỏa Linh, Tứ Mộ cung, hào – phú gia tư, hầu bá chi qúy. 2) Tham Lang Dần Thân Mệnh đóng tại Dần hay Thân có Tham Lang độc thủ (vòng của 14 sao chính cách phối trí theo Mẫu Tử Tướng đóng tại Thìn hay Tuất), thì cung Quan Lộc có Thất Sát triều đẩu tại Ngọ hay Tý ; cung Tài Bạch có Phá Quân tại Tuất hay Thìn (ở vị trí này Phá Quân tuy đắc địa – nhưng Phá Quân là sao hao tán khó giữ được tiền bạc, nếu lại gặp Kiếp Không « sinh giờ Sửu, Mùi, Tỵ Hợi » thì mặt Tài Chính vất vả dù Quan Lộc rất đẹp). Tuy bộ ba (Sát Phá Tham) không đẹp bằng cách Tham Lang Thìn Tuất nhưng cộng nghiệp với cung Phúc Đức có Tử Tướng ở Thìn – Tuất; cung Phối được Vũ Phủ đắc cách ở Tý – Ngọ ; cung Tử Tức với Thiên Đồng đắc cách thì cuộc Đời tuy thăng trầm ở Tiền Vận (dù gặp Hung Sát tinh) – Hậu Vận vẫn được an nhàn Độc thủ tại Dần Tham Lang tuy không Miếu Địa như Câu Phú : « Tham Lang nhập Miếu thọ nguyên thời » , nhưng với trường hợp của Ông Bành Tổ « sống lâu » nhờ Tham Lang có Mệnh tại Dần gia cát tọa Tràng Sinh. Với tuổi Giáp + Cục Hỏa Mệnh tại Dần có Tham Lang độc thủ vắng Hung Sát tinh cũng được Phúc Thọ. Trường hợp vắng bóng trung tinh đắc cách – hội nhiều Hung Sát tinh – với Hình Tướng phá cách thì đàn ông có cách này là quân trộm cướp, gian sảo, đàn bà là hạng dâm- dật, buôn son bán phấn, cuộc đời lang bạt, hoang đàng – dễ mang họa vào thân như Phú đã có những câu : « –Tham Lang hội Sát vô cát Diệu, đồ tể chi nhân ; – Tham Lang gia Sát đồng cung, Nữ thâu- hương, Nam thử - thiết ; Tham Lang Đà La tại Dần cung, phong lưu thái trượng ». 3) Tham Lang Tí Ngọ Mệnh đóng tại Tý hay Ngọ có Tham Lang độc thủ (vòng của 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Vi độc thủ tại Ngọ hay Tý), Quan Lộc có Thất Sát hãm ở Thìn hay Tuất, Tài Bạch có Phá Quân hãm tại Thân hay Dần – trong trường hợp này Bộ Ba (Sát Phá Tham) hãm địa. Nhờ Thiên Di có Tử Vi độc thủ tại Ngọ hay Tý ; Cung Phúc Đức có cặp Vũ Tướng đắc cách tại Dần hay Thân ; Cung Phối (Phu Thê) có Liêm Phủ đắc cách tại Tuất hay Thìn. Sinh giờ Mão Dậu nhờ THÂN cư Thiên Di ; sinh giờ Sửu Mùi nhờ THÂN cư Phúc Đức ; sinh giờ Tỵ Hợi nhờ THÂN cư Phối – bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc cách ở Tam Giác (Phúc Di Phối) nên dù Tiền Vận có lao đao, thăng trầm từ Trung Vận đến Hậu Vận cuộc Đời cũng trở nên an nhàn và thanh thản hơn trước. Nếu sinh vào có giờ (Tý – Ngọ, Dần –Thân, Thìn – Tuất) – nếu không được các vòng Thái Tuế, Lộc Tồn, Tràng Sinh hỗ trợ với Hình Tướng + Chỉ Tay khuyết hãm thêm Tam Giác (Mệnh Quan Tài) nhiều Hung Sát tinh vây hãm thì cuộc Đời (dù Nam hay Nữ) cũng chung thân cùng khốn cô đơn, lang thang phiêu bạt, thường gặp nhiều bệnh tật khó chữa (tiêu hóa, sinh dục) hay mắc phải tai nạn khủng khiếp, chân tay vướng vào vòng lao lý khi vận số đi vào Năm Xung Tháng Hạn (nếu biết trước cãi số thì mức độ rủi ro được giảm bớt nhiều hơn). Nên Phú đã có những câu: «Tham Lang hãm địa tác trứ nhân (vô dụng); Tham Lang ngộ Dương Đà cư Hợi Tý, danh vi phiếm thủy đào hoa (chơi bời, hoang đàng như Hoa trôi trên dòng nước); Tham tọa Thủy Cung, giáp biên Tứ Sát, bần khổ chung thân» Song Mệnh đóng tại Tý hay Ngọ có Tham độc thủ nhưng ngộ Triệt hay Tuần (như Tuổi Mậu Qúy hay Ất Canh – các tuổi con nhà Giáp Dần hay Giáp Thân) thay vì nham hiểm, độc ác hay lăng lòan dâm đãng (nếu ngộ Đào Hồng) lại là người nhân hậu, lương thiện, thẳng thắn, đoan chính và đứng mực như Phú đã có câu: «Tham Đào tại nhàn cung, Nữ Mệnh độc phụ chi nhân, ngộ Tuần, Triệt tâm tình thư thái» hay «Tham cư Tý thử thiết vô nghi, ngộ Tuần, Triệt phản vi đoan chính (Tham cư Tý tại Mệnh: trộm cắp, du đãng, bất nhân bất nghĩa; nhưng gặp Tuần Triệt lại là người lương thiện, thẳng thắn, đứng mực)».
  • 11. BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 3 B) Sát Phá Tham biến chất I) Hình Ảnh của THẤT SÁT Khi không ở vị trí độc thủ tại (Dần – Thân ; Thìn – Tuất ; Tý – Ngọ) thì Thất Sát thường đi cặp với Tử Vi tại Tỵ – Hợi gọi tắt là Tử Sát ; với Vũ Khúc tại Mão – Dậu gọi tắt là Vũ Sát ; với Liêm Trinh tại Mùi – Sửu gọi tắt là Liêm Sát – ảnh hưởng của Thất Sát phụ thuộc nhiều với các sao đồng cung và tam hợp, kể cả chính chiếu. 1) Tử Sát Bài này đã nói trong phần Tử Vi thủ Mệnh – ảnh hưởng của Tử Vi bao trùm – không như Phá Quân thuộc Thủy hay Tham Lang thuộc Thủy đới Mộc gặp Tử Vi thuộc Thổ khắc cả Thủy lẫn Mộc nên cặp Tử Sát được ăn ý, thuận chiều không như 2 cặp Tử Phá và Tử Tham. Cặp Tử Sát dù gặp nhiều Hung Sát tinh – nhờ ảnh hưởng của Tử Vi – Thất Sát không nổi lọan hay a dua với bầy Hung Sát Tinh. Là sao thừa hành của Tử Vi nên mẫu người Tử Sát – dù sinh giờ nào – trong hòan cảnh nào (dù thất thế) vai trò trưởng thượng và tư cách của Tử Vi vẫn còn chút hào quang .Mệnh có Tử Sát thì Quan Lộc với Liêm Phá, Tài Bạch với Vũ Tham, Thiên Di với Thiên Phủ (giao tiếp với những người khá giả và quyền thế), Phúc Đức với cách Phủ Tướng triều viên (xuất thân từ dòng Họ khá giả – được nâng đỡ từ nhỏ với Phụ Mẫu : Nhật Nguyệt chiếu hư không), cung Phối với Thiên Tướng (người bạn Đời có tư cách vững vàng). Do đó dù cuộc Đời có thăng trầm ở Tiền Vận (khi vận số đi vào Đại Tiểu Vận xấu) – nếu sinh giờ Sửu Mùi, Mão Dậu, Tỵ Hợi từ Trung Vận vẫn vươn được lên nhờ Tam Hợp (Phúc, Di, Phối) hỗ trợ. 2) Vũ Sát Bài này đã nói một cách tổng qúat trong phần Vũ Khúc thủ Mệnh. Vũ Khúc và Thất Sát đều là 2 sao có cùng Hành Kim nên ảnh hưởng tính chất của 2 sao cùng tác động nhiều đến bản chất của người mang lá số đó (nhất là mạng Kim và mạng Thủy). Mệnh Vũ Sát (cách phối trí 14 Sao chính theo Mẫu Tử Phá) thì Quan Lộc bao giờ cũng có cặp Tử Phá, Tài Bạch có Liêm Tham ; Cung Di có Thiên Phủ ; Cung Phúc Đức và Cung Phối được hỗ trợ bởi Cách Phủ Tướng triều viên. Đóng tại Mão lợi hơn tại Dậu vì bộ Nhật Nguyệt tịnh minh. Mệnh Vũ Sát tại Mão với tuổi Ất (Hợi Mão Mùi)+Cục Mộc được hưởng cả 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh. Cũng vậy với tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu)+Cục Kim khi Mệnh Vũ Sát đóng tại Dậu. Để có Hình Ảnh chi tiết hơn về Mệnh Vũ Sát ta có thể xét qua Lá Số của Tào Tháo thời Tam Quốc : tuổi Ất Mùi (155 DL) sinh ngày 6 tháng 12 giờ Tuất chết năm Kỷ Hợi (219 : khi đi vào Hạn La Hầu 64t). Mệnh tại Mão có Vũ Sát + Lộc Tồn, Tả Hữu ; Quan Lộc đóng tại Mùi với Tử Phá, Hóa Khoa+Triệt ; THÂN cư Tài Bạch với Liêm Tham, Tướng Ấn + Long Phượng Hổ Cái. Được hưởng 2 vòng Thái Tuế và Lộc Tồn, kể cả 3 yếu tố Thiên Địa Nhân : Tham vọng chính trị – nhiều may mắn (Lộc Tồn) đôi khi cứng rắn và tàn nhẫn (Sát+Kiếp tại Mệnh, Phá +Không tại Quan) ; khi ở đỉnh cao quyền lực không dám hạ bệ Vua vì nghĩ Quan Lộc có Tử Phá, Hóa Khoa nhưng ngộ TRIỆT (đứng sau thì uy quyền hơn lại được tiếng thơm ! mà không bị Triệt quấy rầy). Có biệt tài tổ chức (Vũ Sát) lại được Tả Hữu+Cung Nô Bộc (tốt phù Mệnh : Cự Môn cư Tý, Nhật chiếu hư không – Quân Sư giỏi). Với quan niệm thời Tam Quốc người viết Sử đánh giá là gian hùng – nhưng với Quan Niệm của Thời nay đó là nhân vật Chính Trị kiệt xuất. 3) Liêm Sát Đóng tại Sửu – Mùi, Thất Sát bao giờ cũng đồng cung với Liêm Trinh gọi tắt là Liêm Sát – cách phối trí 14 chính tinh thuộc mẫu Tử Tham . Liêm Trinh là sao Âm Hỏa thuộc Bắc Đẩu tinh – chủ về quan lộc và hình ngục, tính tình nóng nảy thẳng thắn và liêm khiết – đi cặp với Thất Sát (Dương Kim – chủ về uy vũ, sát phạt thuộc Nam Đẩu tinh) – tuy đóng cùng Sửu Mùi đều đắc địa nhưng nếu gặp Hình, Kình Đà thường gây tai họa khủng khiếp. Mệnh Liêm Sát thì cung Quan Lộc Vũ Phá (công việc không bền, nhất là tuổi Ất, Canh và các tuổi thuộc vòng Giáp Tý và Giáp Thân) ; Tài Bạch với Tử Tham (khó giữ dù được hương hỏa để lại – cuối đời cũng suy kém). Nhờ Tam Giác (Phúc Đức, Thiên Di, Phối) đựơc cách Phủ Tướng Triều Viên + Trung Tinh đắc cách, vắng bóng Hung Sát Tinh lại sinh giờ Sửu Mùi, Mão Dậu, Tỵ Hợi – dù Tiền Vận có lao đao – ảnh hưởng của Dòng Họ, cộng nghiệp với người Bạn Đời, ra ngòai thường gặp Qúy Nhân giúp đỡ thì Hậu Vận cũng không đến nỗi nào ! Nếu không hợp Mệnh gặp nhiều Hung Sát Tinh đi vào Tiểu Vận cùng Đại Vận xấu – nếu trùng phùng (năm tuổi, Tam Tai, La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch) thì các Câu Phú : Liêm Trinh, Tứ Sát, tao hình- lục (bị bắt bớ giam cầm hay bị ám sát). Thất Sát, Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi (chết giữa nơi đường sá hoặc tai nạn xe cộ) có thể ứng nghiệm ! II) Hình Ảnh của PHÁ QUÂN Khi không độc thủ tại 2 Tam Hợp (Dần, Ngọ, Tuất) và (Thân, Tý, Thìn) thì Phá Quân đứng cặp với một trong 3 Sao (Tử Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh) tại Sửu, Mùi với Tử Vi gọi tắt là Tử Phá, tại Mão, Dậu với Liêm Trinh – gọi tắt là Liêm Phá ; tại Tỵ, Hợi với Vũ Khúc gọi tắt là Vũ Phá – ảnh hưởng của Phá Quân phụ thuộc nhiều với các sao đồng cung hay Tam Hợp, kể cả chính chiếu. 1) Tử Phá (xem lại bài Tử Phá trong mục Tử Vi thủ Mệnh)
  • 12. Khác với Thất Sát (Kim đới Hỏa) vì tương hợp với hành Thổ của Tử Vi – cặp Tử Sát phần lớn ăn ý với nhau (không đối chọi nhau) – Tử Vi thuộc hành Thổ, Phá Quân thuộc Thủy mà Thổ khắc nhập Thủy – vai trò Tử Vi lấn át Phá Quân (trường hợp sinh giờ Tý Ngọ với Mệnh có hành Thổ, Kim hay Hỏa), trái lại ảnh hưởng Phá Quân mạnh hơn (Thủy tuy bị Thổ khắc chế – nhưng ở trường hợp tương thừa :chất Thủy nhiều hơn – Thổ ít không khắc chế nổi Thủy – trường hợp Mệnh Thủy hay Mộc) vai trò Tử Vi chỉ là vỏ bọc. Phá Quân điều khiển nổi bộ Không Kiếp (nhưng nếu Không Kiếp hãm địa – nếu ít trung tinh hóa giải bản chất của Phá Quân bị ảnh hưởng nhiều của Không Kiếp trở nên hung hãn – hành động nhiều khi mờ ám, thực dụng không còn giang hồ, nghĩa hiệp, cứu khổn, phò nguy như khi Phá đắc địa – lúc đó Hình Ảnh của Tử Vi lu mờ – ít còn tính cách chính nhân, quân tử, nghĩa hiệp, độ lượng bao dung và Trưởng Thượng. Gặp cặp Kình Đà hay Hỏa Linh – Phá Quân nhiều khi cũng không điều khiển nổi Khi vào Đại Tiểu Vận xấu (Tam Tai, La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch) lại gặp bầy Hung Sát Tinh thì bản chất « Tiểu Nhân » của Phá Quân rõ nét Tuy nhiên còn tùy thuộc vào cách Hành Xử (ảnh hưởng của Cung THÂN) : sinh giờ Dần Thân cách hành xử nghiêng nặng với Liêm Tham ; sinh giờ Thìn Tuất thì ảnh hưởng thêm của Vũ Sát. Với giờ sinh Sửu Mùi, Mão, Dậu hay Tỵ Hợi ảnh hưởng của Phủ Tướng triều viên cách đã tác động nhiều cho bản chất của Tử Phá giảm nhẹ khi đi vào Trung Vận kể cả Hậu Vận của Cuộc Đời. 2) Vũ Phá (xem lại phần Vũ Phá trong bài Vũ Khúc thủ Mệnh) Đi cặp với Vũ Khúc ở 2 cung Tỵ và Hợi thì Mệnh có Vũ Phá (cách phối trí của 14 Chính Tinh thuộc Mẫu Tử Tham); cung Quan Lộc có Tử Tham ; cung Tài Bạch với Liêm Sát ; Cung Phúc Đức có Thiên Phủ ; Cung Thiên Di Vô Chính Diệu (được Phủ Tướng Triều Viên cách) ;Cung Phối (Phu hay Thê) giống như Cung Thiên Di. Vũ Sát tuy là 2 sao có hành tương hợp (Kim sinh Thủy) nhưng về Bản Chất thì hòan tòan trái ngược. Đóng tại Tỵ với tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu) sinh giờ (Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất)+ Cục Kim thì được hưởng trọn 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh với Hình Tướng đẹp + Chỉ Tay rõ nét không bị đứt quãng thì cuộc Đời không Phú cũng Qúy nếu biết linh động thay đổi Tư Duy cùng điều hành vấn đề Tiền Bạc nhịp nhàng khi đi vào Vận ít thuận lợi. Sinh Giờ (Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi) dù thủa thiếu thời có chút thăng trầm vì Môi Sinh biến động nhưng từ Trung Vận đến hậu Vận nhờ ảnh hưởng Cộng Nghiệp do Dòng Họ (THÂN cư Phúc), do tiếp xúc được nhiều Qúy Nhân hỗ trợ khi đi khỏi nơi sinh trưởng (THÂN cư Di) ; hay do người Bạn Đời có Số Tốt hỗ trợ (THÂN cư Phu hay Thê)- cuộc Đời vẫn vươn lên tốt đẹp. Cũng như vậy với Tuổi Ất (Hợi Mão Mùi)+Cục Mộc sinh giờ (Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất) khi Mệnh có Vũ Phá đóng tại Hợi. Trường hợp các tuổi khác dù không được hỗ trợ đủ của 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh – nhưng vắng bóng Hung Sát Tinh, được nhiều Trung Tinh đắc cách hội hợp thì cuộc Đời vẫn vươn lên tốt đẹp – nhất là ở Môi Trường mà nền Công Nghiệp phát triển như Âu Mỹ. 3) Liêm Phá Phá Quân đóng cặp với Liêm Trinh tại 2 cung Mão và Dậu gọi tắt là Liêm Phá ; cách phối trí của 14 Chính Tinh thuộc Mẫu Tử Sát . Mệnh có Liêm Phá thì cung Quan Lộc có cặp Vũ Tham ; cung Tài Bạch với Tử Sát ; Cung Phúc Đức với Thiên Phủ độc thủ ; Cung Thiên Di với Thiên Tướng cũng độc thủ ; cung Phối (Phu hay Thê) vô chính diệu với Phủ Tướng triều viên hội chiếu; nhị hợp được Cơ Lương đắc cách tại Tuất hay Thìn. Liêm Trinh thuộc Bắc Đẩu Tinh – âm Hỏa – chủ về Quan Lộc và Hình Ngục – Miếu tại Thìn, Tuất – Vượng Địa tại Tý, Ngọ, Dần, Thân – Đắc Địa tại Sửu, Mùi – Hãm Địa tại Tỵ, Hợi, Mão Dậu. Phá Quân thuộc Thủy (khắc nhập Hỏa) đóng tại Mão, Dậu cũng Hãm Địa. Hành của cặp Liêm Phá vừa khắc nhau – ngay cả về tính tình : Liêm Trinh đắc địa (Miếu hay Vượng) bản chất liêm khiết thẳng thắn, can đảm dũng mãnh, nhưng nghiêm nghị, nóng nảy được hưởng giàu sanh và sống lâu (đi cặp với bộ Tử Phủ Vũ Tướng – với Nữ Nhân là cách Vượng Phu Ích Tử) tuy nhiên – dù đắc địa lại gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát Tinh, Hình Kị thì cuộc đời cũng không được xứng ý tọai lòng vì công danh trắc trở, tiền bạc khó kiếm – nếu hãm địa lại là người khắc nghiệt, thâm hiểm – tuy có óc kinh doanh, khéo tay, thường chuyên về kỹ nghệ thủ công – nhưng cuộc đời vất vả gặp Hung Sát Tinh chung thân cùng khốn cô đơn, dễ gặp rủi ro, tật bệnh – đôi khi vướng vào vòng lao lý (với Nữ Nhân thường ty tiện ác độc, khắc chồng hại con, cuộc đời cùng khốn cô đơn phải lang thang phiêu bạt – đôi khi gặp tai nạn thảm khốc, chết một cách thê thảm). Với Phá Quân hãm địa cuộc đời cũng tương tự (lại thêm tính cách của Phá Quân là Hao Tán vừa Tiền Bạc lẫn Tình Cảm). Do đó Phú đã có những Câu : – Phá Kình Mão Dậu nhi phùng Phụ Bật, khởi ngụy Hòang Sào (đó là trường hợp Cung Mệnh tại an tại Mão, Dậu có Liêm Phá, Kình đồng cung « tuổi Giáp, Canh » gặp Phụ Bật hội hợp là người độc ác, đa sát, làm lọan Thiên Hạ như Hòang Sào đời Đường). – Liêm Phá tại Mão Dậu gia Sát công tư vô diện Quan Nhân (nói về Mệnh Liêm Phá tại Mão Dậu gặp nhiều Hung Sát Tinh hội hợp khó mưu cầu công danh. Với cách này nên chuyên về Kỹ Nghệ hay Doanh Thương thì hơn) – Liêm Phá Mão Dậu mạc ngộ Kiếp Kình tu phòng hình ngục (Mệnh Liêm Phá tại Mão Dậu gặp Kiếp Kình hội hợp, nên suốt đời phải đề phòng tù tội). – Liêm Trinh, Phá Quân, Hỏa Tinh cư hãm địa, tự ải, đầu hà (Mệnh Liêm Phá gặp Hỏa đồng cung dễ bị tự vẫn (thuốc độc hay thắt cổ) hay đâm đầu xuống sông).
  • 13. – Liêm- Trinh, Tứ Sát tao hình ngục (Cung Mệnh có Liêm tọa thủ gặp Kình Đà, Hỏa Linh hội hợp dễ bị bắt bớ giam cầm – cũng dễ bị ám sát). Tuy nhiên nếu Mệnh đóng tại Mão với Liêm Phá nếu thuộc Tuổi Ất (Hợi Mão Mùi) sinh giờ (Tí, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất)+ Mộc Cục ; Mệnh đóng tại Dậu với Liêm Phá, nếu thuộc Tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu)+ Kim Cục vắng bóng Hung Sát Tinh lại được nhiều Trung Tinh đắc cách thì Cuộc Đời vẫn Phú Qúy như thường – chỉ cần thận trọng khi Tiểu Vận đi vào Năm Xung Tháng Hạn. Trường hợp sinh giờ (Sửu Mùi, Mão Dậu, Tỵ Hợi) nhờ Cung THÂN với cách Phủ Tướng Triều Viên cuộc Đời về Hậu Vận nhờ cộng nghiệp bởi Phúc Đức dòng Họ ; hỗ trợ bởi Môi Sinh tốt hay được người Hôn Phối có Số May Mắn yểm trợ – dù gặp Tiểu Vận hay Đại Vận đi vào Thời Điểm ít thuận lợi Cuộc Đời vẫn lướt qua khó khăn trở ngại dễ dàng
  • 14. BẢN CHẤT CỦA SÁT PHÁ THAM -Mũi tên nhọn của những Dòng Sử Mệnh Phần 4 B)Sát Phá Tham biến chất III) Hình Ảnh của THAM LANG Giống như 2 Sao Thất Sát và Phá Quân ; Tham Lang khi không độc thủ tại 6 cung (Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn) thường đi cặp với 1 trong 3 sao của bộ Tử Vũ Liêm. Đồng cung với Tử Vi tại Mão Dậu gọi tắt là Tử Tham ; với Vũ Khúc tại Sửu Mùi – gọi tắt là Vũ Tham (nằm trong Mẫu Tử Sát) ; với Liêm Trinh tại Tỵ, Hợi gọi tắt là Liêm Tham (nằm trong Mẫu Tử Phá) ảnh hưởng của Tham Lang phụ thuộc nhiều với các Sao đồng cung hay Tam Hợp chiếu – kể cả chính chiếu. 1) Tử Tham (xem lại phần Tử Tham trong bài Tử Vi thủ Mệnh). Giống như cặp Tử Phá, cặp Tử Tham không những đối chọi nhau về Hành (Tử Vi thuộc Thổ khắc nhập Thủy của Tham Lang – trường hợp Thổ vượng ; trường hợp Thủy nhiều hơn Thổ vai trò Tham Lang át chế Tử Vi khi Thủy vượng) còn đối chọi nhau về Bản Chất. Nếu Mệnh có Tử Tham tại Mão, Dậu thì Quan Lộc với Liêm Sát tại Mùi, Sửu (tuy đắc địa nhưng Công Danh thăng trầm không bền); Tài Bạch với Vũ Phá tại Hợi, Tỵ (tiền vào tay mặt ra tay trái) ; Cung Phúc Đức với Thiên Tướng độc thủ tại Tỵ, Hợi ; Cung Phối (Phu hay Thê) với Thiên Phủ độc thủ tại Sửu, Mùi ; Cung Thiên Di vô chính diệu nhưng được hỗ trợ bởi Phủ Tướng triều viên. Nhị hợp tại Tật Ách có Thiên Đồng (bản chất Phật tính, nhân hậu, hiền hòa làm dịu bớt tính hung hăng, nhiều dục vọng cùng dục tính của Tham Lang). Hành Sinh giờ (Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất) thì ảnh hưởng của Bộ Sát Phá Tham lên Bản Chất và Động trong cuộc Đời rất rõ nét – tuy không mạnh như Trường Hợp bộ (Sát Phá Tham) khi độc thủ – vì đôi khi được kiềm chế bởi bộ (Tử Vũ Liêm). Sinh các giờ còn lại (Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi) thì ảnh hưởng của Bộ Phủ Tướng Triều Viên trong Tam Giác (Phúc, Di, Phối) có ảnh hưởng – phần lớn tốt – trong Hành Động kể từ Trung Vận. Như đã nói kỹ về Bản Chất của Mệnh Tử Tham (trong bài Tử Vi thủ Mệnh) phần lớn người có cách này Tâm Trạng yiếm thế như Phú đã có Câu : – Tử Vi cư Mão Dậu, Kiếp Không đa vi thoát tục chi Tăng (Cung Mệnh đóng tại Mão, Dậu có Tử Tham gặp Kiếp Không hội hợp là người Tu Hành. Những người có cách này phần nhiều muốn xuất thế). – Tham cư Đoài Chấn, thoát tục vi Tăng, Kỵ, Kiếp lai xâm, trần hoàn đa trái (Cung Mệnh an tại Dậu « Đoài », Mão « Chấn » có Tham tọa thủ là người thoát tục, tu hành. Nhưng trong trường hợp này nếu Tham gặp Kỵ, Kiếp hội hợp, chắc chắn sẽ phá giới, trở lại làm người thường, vì còn nặng nợ trần – hoàn). Lấy Hình Ảnh 2 Lá Số Mẫu cách Tử Tham sau đây để chứng minh « cách Thóat Tục vi Tăng » : a) Thiền Sư đắc đạo Tuệ Trung Thượng Sĩ đời Trần – sư phụ của Vua Trần Nhân Tôn – là Hưng Ninh Vương Trần Quốc TUNG anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (sinh năm Mậu Tý 1228 giờ Ngọ ngày 30 tháng Chạp). Lá Số của Thiền Sư được Huệ Túc Phu Nhân, người sống cùng thời với Hưng Ninh Vương – không những là Thím của Ngài , lại còn là Sư Phụ của Ngài về Khoa Tử Vi phê trong Lá Số như sau : Kinh Vân Tử Tham Mão Dậu đa vi thoát tục chi Tăng. Ngô Kim Nhật kiến Tuệ Trung chi Số : Tử Tham ư Dậu ngộ Quyền Đào, tuấn nhã chi Lang. Tả Hữu hợp chiếu thị tất đa tài, đa năng. Đãn hiềm Tử Tham cư Dậu ngộ Thiên Không, Hóa Kị tất thóat tục chi Tăng. Huệ Túc Phu Nhân là con gái út của Hoàng Bính đậu Tiến Sĩ làm Thị Độc Học Sĩ (chức Quan đọc Sách và giảng Sách cho Vua nghe) thời Tống. Khi bị quân Nguyên chiếm – đem Đại Gia Đình hơn 3000 người xin vào Đại Việt làm cư dân được Vua Trần Thái Tông cho Lập Nghiệp vùng Yên Bang. Hòang Bính là người đem Môn Tử Vi của Hi Di Trần Đòan truyền vào Việt Nam. b) Hòa Thượng Thích Trí Quang là 1 Hòa Thượng Phật Giáo, ông đóng 1 vai trò khá quan trọng trong Chế Độ Cộng Hòa Miền Nam từ 1963- 1967 Theo Cụ Thiên Lương, tác giả Cuốn Tử Vi Nghiệm Lý thì HT Thích Trí Quang sinh giờ Mão ngày 24 tháng 11 năm Quý Hợi (Dl : 31/12/1923) Mệnh Tử Tham ở Dậu có Hóa Kị với Quan Lộc Liêm Sát, Kình, Linh, Tang ngộ Tuần+Triệt, Tài Bạch với Vũ Phá+Phá Hư ; THÂN cư Thiên Di được Phủ Tướng Triều Viên cách hội Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái). Sau đây là Lời Bàn của Cụ Thiên Lương : Mệnh Quý Hợi đóng ở Dậu có Tử -Tham là số của người yếm thế kể cả hình thức Sao đến Vị Trí của Mệnh đóng. Nhưng chính bộ Tử – Tham không phải là nòng cốt của người Mệnh này ! phải tính tới bộ Vũ – Phá ở Tỵ. Tử Vi ở đây chính ra là vì Sao chỉ huy Mệnh nhưng bị Tham Lang làm lung lạc, mà chính Tham Lang này cũng không đủ sức để phá cách Tử Vi nên tuổi Quý Hợi phải mệt mỏi vì Tham Lang, bộ Sao này vì thế thành ra nửa trắng nửa đen khiến bộ Vũ – Phá đủ tư thế cướp quyền chỉ huy mạng này. Phải nói hành động của người này chính là Vũ – Phá. Người này tu chỉ là hình thức khoác áo Tử Tham để mà tranh đấu riêng tư cho mình, cho bè phái mình, cho tư tưởng tham vọng mình rất quyết liệt. Tam Hóa Liên Châu ở Mệnh (Hóa Kỵ giáp Khoa Quyền ở Dậu) có nghĩa là người này đã ôm một mối hận oán hờn chứa chấp một mưu cơ thâm trầm thầm kín, quấy phá bằng hành động có khi cũng không được đẹp đẽ,
  • 15. được nổi danh (Toái Quân lưỡng Phá) bằng lối kích thích người ta (Điếu Khách), THÂN vô chính Diệu ở Mão đắc Tràng Sinh (Thủy) hành động ở trên cương vị Từ Thiện, nhân hậu có tính cách Chính Nghĩa, nhưng suy tư tính toán ghê gớm là cái vị trí đó của tuổi Qúy Hợi. Trong Tam Hợp cục của THÂN (hành động) Thiên Tướng, Kình – Lực, Thái Tuế, Hình, Riêu càng hành động bao nhiêu – càng nghiệp quả bấy nhiêu, mặc dầu lấy cái Thế Chính Nghĩa mà dựa. Khách quan mà nói, ông là người có nghị lực, nghị lực vào hạng khá dễ thành công (Quang Qúy) phải dựa vào thế ngoài phụ giúp, chứ ông không tài tổ chức (Mã thiếu Tả Hữu). Nếu ông được đà thắng nước thì lại hay ẩu, đó là tính cách của Vũ Phá. Vì thiếu bộ Âm Dương nên ông kém sáng suốt. Được liệt vào hàng Giáo Phẩm cao cấp như ai (Thiên Phúc, Quí Nhân, Phong–Cáo, Đường Phù) đối với ông chỉ là hư danh cho đến Tử Tham ông coi chỉ là chiếc áo khóac bề ngòai. Thâm tâm Vũ Phá, Hóa Kị một uẩn khúc khó ai biết nổi người bí mật này. Có thế mới chọi lại được người trong bóng tối của Đệ Nhất Cộng Hòa Ngô Đình Nhu. Năm 1963 đương số tranh đấu được thành công, tiếng tăm lừng lẫy là năm 40 tuổi ở trong Đại Vận 33-42 ở Ngọ gặp Thái Dương đắc Hỏa Tinh. Tuy vậy có biết đâu chỉ là quân bài bị lợi dụng trong cái thế sinh xuất tính theo thời gian của tuổi Quý Hợi đáo Ngọ Cung, ở trong còn nhiều Quỷ Kế (Cô Qủa, Phục Binh, Không Kiếp). Lúc này đang ở trong Đại Vận 43- 52 ở Thế khắc nhập thân bại danh liệt, nhất là từ năm 1966 đương số bước qua Đại Vận mới này 43t, họat động ráo riết, tưởng sự thành công cũng dễ dàng như mấy năm trước, nhưng có lẽ gặp người đối đầu là Thổ Mệnh lại là lúc hưng thời. Ông đành xẹp luôn cho đến nay, một đôi lúc cũng cố phát pháo mở cờ ra quân bởi không thời thôi cũng đành nằm co êm hơi lặng tiếng. Bài này Cụ Thiên Lương viết trong cuốn Tử Vi Nghiệm Lý xuất bản tại Saigon năm 1974. Lời Bàn thêm : Mệnh Tử Tham đóng tại Dậu (Kim) với tuổi Quý Hợi mạng Thủy với cả 3 yếu tố Can Chi và Nạp Âm đều là hành Thủy nên Yếu Tố Địa Lợi được Kim sinh Thủy. Với Thế Mộc của Tuổi (Hợi Mão Mùi) hành Mộc chỉ hợp với THÂN + Cung Phúc Đức đẹp – mà không hợp với Yếu Tố Thiên Thời khi Mệnh đóng ở Thế Kim(+Phá Hư : bất mãn, yếm thế, ưa làm cách mạng). Yếu Tố Nhân Hòa (ảnh hưởng của Bộ Sao) thì Tử Vi thuộc Thổ khắc Bản Mệnh (+Mộc Cục) nên bộ Sát Phá Tham hãm được hỗ trợ thêm của Vũ Khúc (Kim) tung hòanh cùng với Hung Sát Tinh. Với Quan Lộc Liêm Sát ngộ cả Tuần lẫn Triệt – dù có thành công – nhưng không bền (2, 3 năm là cùng – kể cả các lá số khi cung Mệnh+ Tuần Triệt). Khi đi vào Đại Vận 33-42 tại Tử Tức (vì đi Tu nên ảnh hưởng của Đại Vận tác động nhiều ở cung Nô Bộc với Cự Nhật +Thanh Long Lưu Hà, Quyền, Địa Kiếp) : ảnh hưởng của Phật Tử+Cố Vấn tác động vào đương số – lại gặp Tiểu Vận Qúy Mão 1963 vào Mệnh (Tử Vũ Liêm Sát Phá Tham+Mã Khốc Khách)+lưu Thái Tuế tại THÂN cư Thiên Di ở Mão (Phủ Tướng Triều Viên + Long Phượng Hổ Cái + Trung Tinh đắc cách) được thành công chớp nhoáng « hung tinh Địa Kiếp » dù Mệnh có Hóa Kị+Đại Vận ngộ Địa Kiếp : vẫn thóat được hiểm nguy nhờ Ngọai Cuộc trợ giúp. Trong lời bàn của Cụ Thiên Lương : Lúc này đang ở Đại Vận 43 -52 ở cái thế khắc nhập …gặp người đối đầu là Thổ Mệnh lại lúc hưng thời : ý của Cụ nói đến Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ cùng Phụ Tá là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan cả 2 đều Tuổi Canh Ngọ 1930 mạng Thổ khắc nhập Thủy : Lá Số của Tướng Kỳ Mệnh Thái Dương cư Ngọ + Triệt, với Quan Lộc Cự Môn + Tuần : nên phất lên năm Ngọ nhưng không bền vì Mệnh ngộ Triệt. Chết năm Tân Mão 2011 khi Tiểu Vận gặp Hạn La Hầu 82t+Kình Đà. 2) Vũ Tham (xem lại phần Vũ Tham trong bài Bản Chất của Vũ Khúc). Khi đóng ở Sửu Mùi thì Tham Lang đồng cung với Vũ Khúc – gọi tắt là Vũ Tham (cách phối trí của 14 Sao chính nằm trong Mẫu Tử Sát) nghĩa là nếu cung Mệnh Vũ Tham tại Sửu, Mùi thì cung Quan Lộc với Tử Sát tại Tỵ, Hợi ; cung Tài Bạch có Liêm Phá. Tam Giác (Phúc Di Phối) được hỗ trợ bởi cách Phủ Tướng triều viên nên khi THÂN cư Di (sinh giờ Mão Dậu), THÂN cư Phu hay Thê (sinh giờ Tỵ Hợi), THÂN cư Phúc (sinh giờ Sửu Mùi) thì ảnh hưởng của Bộ Sát Phá Tham giảm nhẹ trong cách Hành Xử từ Trung Vận. Sau đây là các câu Phú của Tiền nhân nói về cách này : – Tham Vũ tiền bần nhi hậu phú (Cung Mệnh an tại Sửu Mùi có Tham Vũ tọa thủ đồng cung, nên lúc thiếu thời vất vả, nghèo túng, phải từ ngòai 30 tuổi trở đi mới khá giả và càng về già lại càng giàu có). Câu Phú này có lẽ chỉ đúng khi Mệnh có Hung Sát Tinh và sinh giờ (Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ, Hợi) khá lên nhờ cung THÂN đẹp. – Tham Vũ đồng hành , vãn cảnh biên di thần phục (Cung Mệnh an tại Sửu Mùi có Tham Vũ tọa thủ đồng cung , về già có uy quyền , được nhiều người lui tới thần phục). – Tham Vũ Mộ trung cư Tam Thập tổng phát phúc (giống như câu đầu). – Tham, Vũ Thân cung vi hạ cách (Cung THÂN an tại Tứ Mộ có Tham tọa thủ, có Vũ tọa thủ hay có Tham Vũ tọa thủ đồng cung là hạ cách, nên suốt đời vất vả và không thể quý hiển) Câu Phú này phải xét lại khi Vũ Tham đồng cung và cần nhiều tố khác (hành của Mệnh và giờ sinh) cũng như Câu Phú sau : – Tham Lang , Vũ Khúc đồng thủ THÂN ; vô Cát Mệnh , phản bất tường (Cung Mệnh an tại Sửu Mùi, có Tham Vũ tọa thủ đồng cung mà cung Mệnh lại không sáng sủa tốt đẹp , nên rất mờ ám xấu xa. Có cách này , thật là lao khổ trọn đời. 3) Liêm Tham Khi Tham Lang đóng tại Mệnh ở Cung Tỵ hay Hợi thì đồng cung với Liêm Trinh nên gọi tắt là Liêm Tham (cách phối trí 14 sao chính thuộc Mẫu Tử Phá). Nếu Mệnh có Liêm Tham thì cung Quan Lộc với Vũ Sát tại Dậu hay Mão ; cung Tài Bạch với Tử Phá tại Sửu hay Mùi ; cung Thiên Di vô chính diệu giáp Nhật hay Nguyệt ; Cung Phối « Phu Thê » được
  • 16. Thiên Phủ độc thủ + Thiên Tướng chiếu « Phủ Tướng triều viên cách » ; cung Phúc Đức với Thiên Tướng độc thủ + Thiên Phủ chiếu « Phủ Tướng triều viên cách ». Liêm Trinh thuộc Hỏa tính liêm khiết, nóng nảy chủ về Quan Lộc và Hình Ngục – Tham Lang thuộc Thủy đới Mộc tính le phè, ưa sắc dục « dâm tinh » vừa Phúc Tinh vừa Hung Tinh – cả 2 đều hãm địa tại Tỵ, Hợi. Hành và Bản chất đều khác nhau nên tùy thuộc vào Hành của Mệnh và Giờ Sinh : Nếu sinh giờ (Tý, Ngọ, Dần, Thân, Thìn, Tuất) không có Hung Sát Tinh với tuổi Tân (Tỵ Dậu Sửu)+Cục Kim khi Mệnh đóng tại Tỵ hay Tuổi Ất (Hợi Mão Mùi)+ Cục Mộc với Mệnh đóng tại Hợi được hưởng cả 3 vòng Thái Tuế, Lộc Tồn và Tràng Sinh với Hình Tướng + Chỉ Tay đẹp đẽ : không Phú cũng Qúy. Trường hợp các tuổi khác với hành khắc Mệnh + nhiều Hung Sát Tinh – cuộc đời tuy no đủ nhưng dễ rủi ro về tật bệnh, hình ngục khi vận số đi vào Năm xung Tháng Hạn « trường hợp Mệnh có Tuần hay Triệt thì độ số rủi ro có thể giảm bớt ». Nếu sinh các giờ (Sửu, Mùi, Mão, Dậu, Tỵ , Hợi) cuộc đời thủa thiếu thời tuy vất vả , nhưng về Trung Vận và Hậu Vận nhờ Phúc Ấm Tổ Tiên dòng Họ (THÂN cư Phúc) ; được giúp đỡ của Qúy Nhân khi thay đổi Môi Sinh (THÂN cư Di) ; được hỗ trợ hay cộng nghiệp với Người Bạn Đời Số Tốt (THÂN cư Phối) cuộc Đời trở nên giàu có và no ấm – đôi khi cũng nổi danh trong Môi Sinh. Liêm Tham hãm địa tại Tỵ, Hợi gặp nhiều sao mờ ám đồng cung cuộc đời lao khổ, tình cảm khó thuận hòa (khắc Phu Thê), hay mắc tai nạn hay bị bắt bớ giam cầm hoặc hay bị bệnh tật (tiêu hóa, sinh dục) – nếu được Hóa Kỵ hay Tuần Triệt thì độ số cũng giảm bớt về rủi ro cũng như tật bệnh. Sau đây là các câu Phú của Cổ Nhân nói về Liêm Tham : – Liêm Trinh, Sát Tinh cư Tỵ Hợi, lưu –đãng thiên – nhai (Cung Mệnh an tại Tỵ Hợi có Liêm tọa thủ, gặp nhiều Sát Tinh hội hợp , nên suốt đời phải lang thang phiêu bạt). – Liêm Trinh, Tứ Sát , tao hình ngục (Cung Mệnh có Liêm tọa thủ, gặp Kình Đà Hỏa Linh hội hợp nên hay bị bắt bớ giam cầm, và cũng có thể bị ám sát). – Tù ngộ Kình Đà Hỏa Linh hữu già – tỏa, thất cốc chi ưu (Cung Mệnh có Liêm tọa thủ gặp Kình Đà Hỏa Linh hội hợp nên hay mắc tù tội và thường bị đói khát khổ sở). – Liêm Trinh, Bạch Hổ đồng cung, hình ngục nan đào (Cung Mệnh có Liêm Trinh tọa thủ gặp Hổ đồng cung hay xung chiếu , thật khó tránh được gông cùm xiềng xích. – Tham Lang hãm địa tác trứ nhân (Cung Mệnh có Tham Lang hãm địa là người vô dụng bỏ đi). – Tham Lang Tỵ Hợi , bất vi đồ – thị, diệc tao hình (Cung Mệnh an tại Tỵ Hợi có Tham tọa thủ , nếu không làm đồ tể, hàng thịt, tất hay bị bắt bớ giam cầm, rất khổ sở). – Tham Lang, Liêm Trinh đồng độ, Nam đa đãng, Nữ đa dâm (Cung Mệnh có Liêm Tham tọa thủ đồng cung , rất mờ ám xấu xa. Đàn Ông có cách này hay chơi bời lang thang nay đây mai đó. Đàn Bà có cách này rất dâm dật. – Tham, Liêm Càn thượng vân vô phong, Tuyệt, Linh ưu nhập , vi nhân bần khổ, nãi phùng Dương -Nhận, Kiếp, Không, Hư, Mã chung thân phi yểu tắc cô bần (Cung Mệnh an tại Hợi « Càn » có Tham tọa thủ đồng cung với Sát Tinh rất mờ ám xấu xa ; vì Liêm Tham ở đây bị khắc hãm giống như Mây đứng không gặp Gió. Trong trường hợp nếu Liêm Tham gặp Tuyệt, Linh : là người nghèo khổ ; trường hợp Liêm Tham gặp Kình, Kiếp, Không, Hư, Mã hội hợp thật là suốt đời cùng khốn ; không yểu tử cũng cô đơn, bần hàn). – Tham ngộ Dương, Đà cư Hợi, Tý, danh vi phiếm – thủy đào hoa (Mệnh có Tham Lang đóng tại Hợi hay Tý gặp Kình hay Đà đồng cung , nên rất mờ ám xấu xa. Tham ở đây ví như hoa đào nổi trôi trên dòng nước. Có cách này là người chơi bời, hoang đàng, thường lang thang nay đây mai đó). – Tham Lang tại Thủy Cung, giáp biên Tứ Sát, bần khổ chung thân (Cung Mệnh an tại Hợi, Tý « đó là 2 cung Thủy » có Tham tọa thủ giáp Tứ Sát, thật suốt đời nghèo khổ). – Tham Lang Hợi, Tý, hạnh phùng Quyền, Vượng, biến hư thành thực, ư Giáp, Kỷ tuế, phú danh viên mãn (Cung Mệnh có Tham toạ thủ tại Hợi, Tý gặp Quyền, Vượng hội hợp, biến hư thành thực, chuyển xấu thành tốt. Tuổi Giáp Kỷ có cách này được hưởng giàu sang trọn vẹn).