SlideShare a Scribd company logo
1 of 1
Download to read offline
Để sản xuất lúa gạo, ruộng thời Yayoi nói chung qui mô tương đối nhỏ, phần lớn có chu 
vi mỗi cạnh chừng khoảng 1m. Thế nhưng, ta thấy ở nhiều nơi, họ đã biết cách thức sử 
dụng ruộng nước, khơi đường dẫn thủy thoát thủy đàng hoàng và lập được kế hoạch sản 
xuất. Không bảo là cách mệnh thì cũng khó dùng một kiểu nói khác. 
47 
Người Yayoi có biết chăn nuôi không? 
Vẫn theo F.Macé, khác với Âu Châu hay vùng Cận Đông và ngay cả với Trung Quốc, cách mạng tân 
thạch khí ở Nhật Bản không cho ta thấy chăn nuôi đi kèm với canh nông. Người ta không tìm ra dấu tích 
việc nuôi ngựa, heo, bò ở Nhật vào thời đại Yayoi. Những xương cốt bò, ngựa khai quật được ở các 
kaizuka thuộc thời đại Yayoi đều thuộc niên đại đến sau. Tuy rồi Nhật Bản cũng biết chăn nuôi đấy nhưng 
chưa bao giờ có thể mệnh danh nước Nhật là một quốc gia có truyền thống chăn nuôi. Việc thiến bò hoạn 
lợn để bảo đảm con giống tốt, chỉ bắt đầu ở Nhật vào thế kỷ 18. Riêng Okinawa có truyền thống nuôi lợn 
nhưng chuyện này chỉ xảy ra từ thế kỷ 14. Cả gà vịt và trứng cũng vậy, họ chỉ biết tới chúng vào thời hiện 
đại.. Cho đến mãi sau này, người Nhật chỉ ăn toàn thịt săn được. 
Trong khi xem xét một di chỉ như Tareyanagi, một di chỉ nổi tiếng ở tỉnh Aomori (bắc 
Nhật Bản) liên quan đến những nghiên cứu về cách làm ruộng nước thời Yayoi trung kỳ. 
Người ta tìm ra được ở đây 650 khoảnh ruộng vuông cỡ nhỏ, mỗi khoảnh có chiều 
ngang từ 3 đến 4 m. Cho đến nay, phần đông tin rằng vào thời Yayoi , người ta thường 
trồng lúa bằng cách “sạ” tức gieo trực tiếp (jikimaki) hạt giống vào ruộng. Thế nhưng 
theo những gì phát hiện được ở di chỉ Hyakkengawa thuộc tỉnh Okayama, hay ở di chỉ 
Nagahara thuộc Ôsaka và Uchizato Hyakuchô thuộc Kyôto thì khả năng cấy mạ trồng 
lúa (rice planting) không phải là không có. 
Nói về dụng cụ nông nghiệp thời ấy, để vỡ đất, đã có cày (suki, plow) và cuốc (kuwa, 
hoe), làm bằng gỗ tận mũi nhọn. Đến mùa thu hoạch, dao đá to bản (ishibôchô) được sử 
dụng để cắt gié lúa (từng cây một nên chưa có thể nói là gặt). Để tuốt vỏ, họ dùng cối 
gỗ (kiusu) và chày giã (tategine). Gạo thu thập được thì giữ trong kho đụn dựng trên sàn 
cao (takayuka-sôko) hay cất giấu trong kho đặt dưới hố (chozôketsu) và che phủ bên 
trên.

More Related Content

More from Viet Nam

Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen135
Nnt gt lich_sunb_quyen135Nnt gt lich_sunb_quyen135
Nnt gt lich_sunb_quyen135Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen132
Nnt gt lich_sunb_quyen132Nnt gt lich_sunb_quyen132
Nnt gt lich_sunb_quyen132Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen127
Nnt gt lich_sunb_quyen127Nnt gt lich_sunb_quyen127
Nnt gt lich_sunb_quyen127Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen126
Nnt gt lich_sunb_quyen126Nnt gt lich_sunb_quyen126
Nnt gt lich_sunb_quyen126Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen124
Nnt gt lich_sunb_quyen124Nnt gt lich_sunb_quyen124
Nnt gt lich_sunb_quyen124Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen122
Nnt gt lich_sunb_quyen122Nnt gt lich_sunb_quyen122
Nnt gt lich_sunb_quyen122Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen121
Nnt gt lich_sunb_quyen121Nnt gt lich_sunb_quyen121
Nnt gt lich_sunb_quyen121Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen120
Nnt gt lich_sunb_quyen120Nnt gt lich_sunb_quyen120
Nnt gt lich_sunb_quyen120Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen119
Nnt gt lich_sunb_quyen119Nnt gt lich_sunb_quyen119
Nnt gt lich_sunb_quyen119Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen118
Nnt gt lich_sunb_quyen118Nnt gt lich_sunb_quyen118
Nnt gt lich_sunb_quyen118Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen117
Nnt gt lich_sunb_quyen117Nnt gt lich_sunb_quyen117
Nnt gt lich_sunb_quyen117Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen116
Nnt gt lich_sunb_quyen116Nnt gt lich_sunb_quyen116
Nnt gt lich_sunb_quyen116Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen115
Nnt gt lich_sunb_quyen115Nnt gt lich_sunb_quyen115
Nnt gt lich_sunb_quyen115Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen114
Nnt gt lich_sunb_quyen114Nnt gt lich_sunb_quyen114
Nnt gt lich_sunb_quyen114Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen113
Nnt gt lich_sunb_quyen113Nnt gt lich_sunb_quyen113
Nnt gt lich_sunb_quyen113Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen111
Nnt gt lich_sunb_quyen111Nnt gt lich_sunb_quyen111
Nnt gt lich_sunb_quyen111Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen110
Nnt gt lich_sunb_quyen110Nnt gt lich_sunb_quyen110
Nnt gt lich_sunb_quyen110Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen108
Nnt gt lich_sunb_quyen108Nnt gt lich_sunb_quyen108
Nnt gt lich_sunb_quyen108Viet Nam
 
Nnt gt lich_sunb_quyen105
Nnt gt lich_sunb_quyen105Nnt gt lich_sunb_quyen105
Nnt gt lich_sunb_quyen105Viet Nam
 

More from Viet Nam (20)

Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137Nnt gt lich_sunb_quyen137
Nnt gt lich_sunb_quyen137
 
Nnt gt lich_sunb_quyen135
Nnt gt lich_sunb_quyen135Nnt gt lich_sunb_quyen135
Nnt gt lich_sunb_quyen135
 
Nnt gt lich_sunb_quyen132
Nnt gt lich_sunb_quyen132Nnt gt lich_sunb_quyen132
Nnt gt lich_sunb_quyen132
 
Nnt gt lich_sunb_quyen127
Nnt gt lich_sunb_quyen127Nnt gt lich_sunb_quyen127
Nnt gt lich_sunb_quyen127
 
Nnt gt lich_sunb_quyen126
Nnt gt lich_sunb_quyen126Nnt gt lich_sunb_quyen126
Nnt gt lich_sunb_quyen126
 
Nnt gt lich_sunb_quyen124
Nnt gt lich_sunb_quyen124Nnt gt lich_sunb_quyen124
Nnt gt lich_sunb_quyen124
 
Nnt gt lich_sunb_quyen122
Nnt gt lich_sunb_quyen122Nnt gt lich_sunb_quyen122
Nnt gt lich_sunb_quyen122
 
Nnt gt lich_sunb_quyen121
Nnt gt lich_sunb_quyen121Nnt gt lich_sunb_quyen121
Nnt gt lich_sunb_quyen121
 
Nnt gt lich_sunb_quyen120
Nnt gt lich_sunb_quyen120Nnt gt lich_sunb_quyen120
Nnt gt lich_sunb_quyen120
 
Nnt gt lich_sunb_quyen119
Nnt gt lich_sunb_quyen119Nnt gt lich_sunb_quyen119
Nnt gt lich_sunb_quyen119
 
Nnt gt lich_sunb_quyen118
Nnt gt lich_sunb_quyen118Nnt gt lich_sunb_quyen118
Nnt gt lich_sunb_quyen118
 
Nnt gt lich_sunb_quyen117
Nnt gt lich_sunb_quyen117Nnt gt lich_sunb_quyen117
Nnt gt lich_sunb_quyen117
 
Nnt gt lich_sunb_quyen116
Nnt gt lich_sunb_quyen116Nnt gt lich_sunb_quyen116
Nnt gt lich_sunb_quyen116
 
Nnt gt lich_sunb_quyen115
Nnt gt lich_sunb_quyen115Nnt gt lich_sunb_quyen115
Nnt gt lich_sunb_quyen115
 
Nnt gt lich_sunb_quyen114
Nnt gt lich_sunb_quyen114Nnt gt lich_sunb_quyen114
Nnt gt lich_sunb_quyen114
 
Nnt gt lich_sunb_quyen113
Nnt gt lich_sunb_quyen113Nnt gt lich_sunb_quyen113
Nnt gt lich_sunb_quyen113
 
Nnt gt lich_sunb_quyen111
Nnt gt lich_sunb_quyen111Nnt gt lich_sunb_quyen111
Nnt gt lich_sunb_quyen111
 
Nnt gt lich_sunb_quyen110
Nnt gt lich_sunb_quyen110Nnt gt lich_sunb_quyen110
Nnt gt lich_sunb_quyen110
 
Nnt gt lich_sunb_quyen108
Nnt gt lich_sunb_quyen108Nnt gt lich_sunb_quyen108
Nnt gt lich_sunb_quyen108
 
Nnt gt lich_sunb_quyen105
Nnt gt lich_sunb_quyen105Nnt gt lich_sunb_quyen105
Nnt gt lich_sunb_quyen105
 

Nnt gt lich_sunb_quyen147

  • 1. Để sản xuất lúa gạo, ruộng thời Yayoi nói chung qui mô tương đối nhỏ, phần lớn có chu vi mỗi cạnh chừng khoảng 1m. Thế nhưng, ta thấy ở nhiều nơi, họ đã biết cách thức sử dụng ruộng nước, khơi đường dẫn thủy thoát thủy đàng hoàng và lập được kế hoạch sản xuất. Không bảo là cách mệnh thì cũng khó dùng một kiểu nói khác. 47 Người Yayoi có biết chăn nuôi không? Vẫn theo F.Macé, khác với Âu Châu hay vùng Cận Đông và ngay cả với Trung Quốc, cách mạng tân thạch khí ở Nhật Bản không cho ta thấy chăn nuôi đi kèm với canh nông. Người ta không tìm ra dấu tích việc nuôi ngựa, heo, bò ở Nhật vào thời đại Yayoi. Những xương cốt bò, ngựa khai quật được ở các kaizuka thuộc thời đại Yayoi đều thuộc niên đại đến sau. Tuy rồi Nhật Bản cũng biết chăn nuôi đấy nhưng chưa bao giờ có thể mệnh danh nước Nhật là một quốc gia có truyền thống chăn nuôi. Việc thiến bò hoạn lợn để bảo đảm con giống tốt, chỉ bắt đầu ở Nhật vào thế kỷ 18. Riêng Okinawa có truyền thống nuôi lợn nhưng chuyện này chỉ xảy ra từ thế kỷ 14. Cả gà vịt và trứng cũng vậy, họ chỉ biết tới chúng vào thời hiện đại.. Cho đến mãi sau này, người Nhật chỉ ăn toàn thịt săn được. Trong khi xem xét một di chỉ như Tareyanagi, một di chỉ nổi tiếng ở tỉnh Aomori (bắc Nhật Bản) liên quan đến những nghiên cứu về cách làm ruộng nước thời Yayoi trung kỳ. Người ta tìm ra được ở đây 650 khoảnh ruộng vuông cỡ nhỏ, mỗi khoảnh có chiều ngang từ 3 đến 4 m. Cho đến nay, phần đông tin rằng vào thời Yayoi , người ta thường trồng lúa bằng cách “sạ” tức gieo trực tiếp (jikimaki) hạt giống vào ruộng. Thế nhưng theo những gì phát hiện được ở di chỉ Hyakkengawa thuộc tỉnh Okayama, hay ở di chỉ Nagahara thuộc Ôsaka và Uchizato Hyakuchô thuộc Kyôto thì khả năng cấy mạ trồng lúa (rice planting) không phải là không có. Nói về dụng cụ nông nghiệp thời ấy, để vỡ đất, đã có cày (suki, plow) và cuốc (kuwa, hoe), làm bằng gỗ tận mũi nhọn. Đến mùa thu hoạch, dao đá to bản (ishibôchô) được sử dụng để cắt gié lúa (từng cây một nên chưa có thể nói là gặt). Để tuốt vỏ, họ dùng cối gỗ (kiusu) và chày giã (tategine). Gạo thu thập được thì giữ trong kho đụn dựng trên sàn cao (takayuka-sôko) hay cất giấu trong kho đặt dưới hố (chozôketsu) và che phủ bên trên.