1. Mẫu thí nghiệm là một thanh thép non có hình dạng và kích thước theo mẫu quy định
(hình 3.9). Gọi l là phần chiều dài làm việc của mẫu. Đặt mẫu vào máy kéo rồi cho lực kéo
P tăng dần từ 0. Ta thấy chiều dài thanh tăng dần lên, chiều ngang thanh hẹp bớt cho đến
khi lực kéo P đạt trị số cực đại Pb thì một chỗ nào đó trên thanh bị thắt lại, sau đó kéo giảm
dần cho đến một trị số Pd và thanh bị đứt tại chỗ thắt. Tương quan giữa l và trị số của lực
kéo P được thể hiện bằng đồ thị (hình 3.10). Trong đó trục hoành biểu diễn trị số của l và
trục tung biểu diễn các trị số của lực kéo P.
Đồ thị đó gọi là biểu đồ kéo của vật liệu dẻo.
Đồ thị đó cho biết vật liệu khi chịu kéo đã qua 3 giai
đoạn chính:
a) Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn tỷ lệ.
Vì trong giai đoạn này vật liệu có tính chất đàn hồi
và tuân theo định luật Húc. Trên đồ thị giai đoạn này
biểu thị bằng đường thẳng OA. Lực lớn nhất trong giai
đoạn tỷ lệ là Ptl (P tỷ lệ). Gọi F0 là diện tích ban đầu của
mẫu thí nghiệm ta có:
σ
Pl
t
l t F
0
Ứng suất tl gọi là giới hạn tỷ lệ, thường giới hạn này
khó xác định.
Đối với thép số 3 thì ơtl = 200 MN/m2.
b) Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn chảy dẻo.
N
H×nh 3.11
b
ch
tl
O
Vì giai đoạn AB thường rất ngắn nên người ta bỏ qua không khảo sát, sau giai đoạn
này từ điểm B đồ thị bắt đầu có đoạn nằm ngang BC. Lúc này biến dạng của thanh tăng lên
rõ rệt nhưng lực không tăng. Ta gọi giai đoạn này là giai đoạn chảy dẻo. Lực bắt đầu làm
cho vật liệu chảy dẻo, ký hiệu Pch. Gọi ứng suất tương ứng với giai đoạn này là giới hạn
chảy:
σ P ch
Đối với thép số 3, ch = 240 MN/m2.
ch F
0
Đoạn nằm ngang trên đồ thị gọi là diện chảy dẻo.
c) Giai đoạn thứ 3: Giai đoạn củng cố.
Vật liệu tự củng cố để chống lại biến dạng. Khi lực đạt đến trị số cực đại Pb (Pbền)
thì có một chỗ nào đó trên mẫu thử bị thắt lại. Sau đó lực P giảm xuống dần nhưng biến
dạng vẫn tăng, cho đến lúc lực P giảm đến trị số Pđ (Pđứt) thì thanh bị đứt tại chỗ thắt.
Gọi giới hạn bền là b ta có: b =
b
0 F
.
Đối với thép số 3, b = 420 MN/m2
Khi ứng suất trong mẫu đạt đến trị số b ta xem như mẫu bị phá hỏng mặc dù thực
tế nó chưa bị phá hỏng.
Giới hạn tỷ lệ (tl), giới hạn chảy (ch), giới hạn bền (b) đặc trưng cho tính chất
chịu lực của vật liệu.
Ta thấy ứng suất pháp tính theo các công thức trên không phải là ứng suất thật phát
sinh trong mẫu thí nghiệm, vì diện tích mặt cắt thanh thay đổi liên tục suốt thời gian thí
nghiệm, nên ta gọi ứng suất này là ứng suất quy ước. Để biểu
diễn mối liên hệ ứng suất và biến dạng, ta có thể vẽ đồ thị - (hình 3.12); đồ thị này
không phụ thuộc vào kích thước mẫu và có dạng tương tự như đồ thị biểu diễn mối liên hệ
giữa P và l (hình 3.11).
Thật vậy, muốn có đồ thị - ta chỉ việc chia tung độ và hoành độ của đồ thị quan hệ P
và l cho F0 là l 0.