2. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 2
MỤC LỤC
Ngọc Hoàng Kinh.................................................................... 3
Thiện Ngôn Tỉnh Thế ........................................................... 4
Tựa ....................................................................................... 5
Ngọc Hoàng Kinh Bửu Huấn................................................ 7
Ngọc Hoàng Đại Đế Bửu Huấn .......................................... 10
Kinh Tụng........................................................................... 17
Từ Hàng Chơn Nhơn Tán Viết ........................................... 29
Ngọc Hoàng Kinh Diễn Nghĩa........................................... 36
Ngọc Hoàng Tâm Ấn............................................................. 52
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế............................................... 54
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế (Giải Thích)....................... 57
Bài Chúc Tụng Ngọc Hoàng Thượng Đế............................... 62
Phật Mẫu Chơn Kinh............................................................. 64
Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu ............................... 68
Bắc Đẩu Chơn Kinh............................................................... 71
Phật Nói Thất Tinh Chơn Ngôn Thần Chú ............................ 82
Các Kinh này sưu tầm từ sách từ xưa và trên mạng
Internet nếu có sai sót gì xin chư vị lượng thứ cho.
Nguyện cầu cho chúng sanh được an lành.
3. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 3
NGỌC HOÀNG KINH
======*********========
VÍA NGỌC HOÀNG
Tháng Giêng, ngày mồng 9
Tháng Mười Một, ngày mồng 6
VÍA KHỔNG THÁNH
Tháng Tám, ngày 27
Tháng Mười Một, ngày mồng 4
VÍA PHẬT TỒ
Tháng Tám, ngày mồng 2,4, và 12
VÍA THỔ THẦN
Tháng Giêng, ngày mồng 10
Tháng Hai, ngày mồng 2,10
Tháng Ba, ngày mồng 10
Tháng Tư, ngày mồng 10
Tháng Năm, ngày mồng 10
VÍA TÁO QUÂN
Tháng Tám, ngày mồng 3
Tháng Chạp, ngày 24
*****
4. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 4
THIỆN NGÔN TỈNH THẾ
***
Thuở thời Lục Triều, Đệ nhứt Phật Tổ Tây Lai là
ông Đạt Ma mới vào Trung Quốc, Ông Lương Võ
Đế hỏi rằng:
“Bạch sư. Tôi lập 72 cảnh Chùa, kính Phật, trọng
Tăng như vậy, chẳng biết có công đức hay không?”
Đạt Ma đáp: “Có CÔNG ĐỨC chi đâu, vì của lập
Chùa ấy là Bệ hạ hoành chim bạo liễm của bá tánh.
Bá tánh nghèo nàn than thở, vợ con đói lạnh kêu
vang, tôi e thêm oan nghiệp cho Bệ hạ, mần đổ mồ
hôi xót con mắt, đem ra mà thí cho lê dân thì mới
gọi là CÔNG ĐỨC cho”
Lương Võ Đế làm tôi nước Tề, giết Bửu Dung và
Bửu Quyện, hai vua, mà cướp lấy nước Tề cho mình,
sau phải bị phản thần là Hầu Cảnh nó làm ngặt khiến
nên chết đói tại Đài Thành, thật là nhơn quả hiện tiền
than van gì được.
Ấy là sự tích đời xưa đó.
5. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 5
TỰA
***
Kinh dịch có câu rằng: “Thiên Địa chi đại đức
viết sanh”.
Nghĩa là: “Trời đất có cái đức lớn hơn hết, là
đức hoá sanh muôn vật”.
Kinh thơ có câu rằng: “Duy Hoàng Thượng Đế
giáng trung du hạ dân”.
Nghĩa là: “Duy một mình Đức Thượng Đế cho
kẻ hạ dân, mỗi người một cái tánh Lành”.
Đời Thượng cổ và Trung cổ, thói thuần thục tốt,
ăn ở hiền lành, nên nhiều người hưởng đặng Phước
cả và sống lâu. Đến thời Ngũ qui sấp về sau đây, thói
hung tật xấu, ăn ở bạc ác, nên nhiều người mắc họa
to và chết yểu. Thánh, Thần, Tiên thấy bất nhẫn,
thường khi giáng bút mà khuyên răn. Nhưng chúng
dân quen nết cũ chẳng chừa, chư Thần phải cử ngay
trần tấu.
6. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 6
Đức Thượng Đế lúc tuần du Nam Bộ, lòng xót
xa không nỡ vội gia hình! Bèn phụ Cơ nơi Tây tỉnh
tả kinh nầy, trong ba phẩm đủ lời khuyên giải.
May thiên hạ kiên oai thích lịch, đổi lòng Ma mà
đem lại tánh Trời. Đặng hưởng toàn năm Phước trăm
Lành, cho khỏi nẻo ngàn Tai muôn Hoạ!
Kinh này quả thiệt là kinh Ngọc Hoàng, nào có
phải ai dám mạo, mình gọi là Ngọc Đế sao?
Khuyên cả thảy người đời, phải dùng tri thức mà
xét suy! Đừng để làm lỗi nữa, mà ngày sau ăn năn
không kịp!
MẠCH QUỐC THOẠI
7. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 7
NGỌC HOÀNG KINH BỬU HUẤN
DIỄN NGHĨA
*********
Lời Bửu Huấn này thuở niên hiện Hàm Phong
là vua triều Thanh bên Tàu, người mới khắc bản ra.
Nguyên khi có người sai Cơ thỉnh Tiên đặng, hỏi
việc hoạ hại phước xảy đến. Lúc ấy Đức Ngọc Đế
thấy thiên hạ nhiều người bạc ác, nên phụ Cơ giáng
bút đặng chỉ đường Tội, Phước mà cứu đời mạt kiếp
về sau. Lời Bửu Huấn này ví như chiếc thuyền lành
phổ độ người đời. Cuốn chơn kinh tiêu Tai, tăng
Phước, lại như cái Thang Linh, vượt Phàm vào
Thánh, cùng lời Pháp ngữ sai Thần, đuổi Ma.
Như người nào miệng thì đọc chữ kinh, sức làm
theo lời kinh; lâu ngày chắng mỏi, thì nhiều việc
lành, ít việc lỗi, khỏi sự oan oan tương báo thì tai
kiếp lần lần được hết.
Vả chăng ba phẩm Bửu Sám nầy lại nhơn trong
hai tỉnh Tây Thục và Quảng Tây, thường có một hai
tên dân thành tâm trì tụng lời kinh chú, đặng cầu thần
linh bảo hộ. Bởi lòng chí thành ấy cảm động nên vị
8. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 8
Hoằng Hoá Chơn Quân mới tâu cùng Đức Ngọc Đế,
xin phát kinh này xuống cỏi phàm. Trước truyền cho
dân Tây Thục, rồi truyền qua tỉnh Quảng Tây. Trong
cho chúng sanh sớm tối trì tụng, tiêu trì tội nghiệt,
sống được thêm Phước thọ, chết khỏi sa Địa ngục.
Như hay thường làm phải, thường chứa Âm Công
cho đặng một ngàn ba trăm điều lành, thì được vào
sổ Tiên mà khỏi luân hồi. Như kẻ nào không tin kinh
nầy linh nghiệm thì xin thử làm như vầy coi thử thì
biết. Dọn một căn nhà cho sạch, coi trong bổn này
mà viết bài vị Thần Tam Giáo:
Đức Ngọc Đế ở chánh giữa;
Đức Khổng Thánh ở bên tả;
Đức Phật Tổ ở bên hữu;
Còn bổn xứ Thổ Địa, Táo Thần biên ở hai bên.
電 西 玉 孔 本
府 方 皇 聖 方
神 佛 大 先 土
居 祖 帝 師 地
9. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 9
Biên rồi đem để bài vị Thần trên bàn, rồi dâng
hương, đăng, trà, quả và đồ chay đều đủ năm bàn,
bông tươi hai nhánh hoặc một mâm cũng được, cả
thảy việc chi đều cho thiệt sạch. Các người ở Đạo
Tràng đó phải mặc áo dài, bịch khăn đen, đốt đèn
dâng hương, quì ba lần lạy chín lạy. Rồi do từ Cử
Hương Chú tụng đi, đến câu: Đắc hưởng niên phong
thì thôi. Quì tụng 3 lần như vậy, thì từ Thiên, Thần,
Thánh, Tiên, Phật tức thời phụ cơ. Phải biểu Đồng
Tử rửa tay cho sạch mà phò Cơ. Như ai muốn hỏi
việc chi, tại trước bàn Thần, vái bẩm rõ ràng, thì
Thánh, Thần liền phê cho mà coi, những việc kiết
hung chẳng mải nào sái. Hỏi rồi lại tụng bài Thâu
Kinh Kệ, lạy 9 lạy mà đưa Thần về thiên cung. Thiệt
là linh nghiệm dị thường, viết kể khôn xiết. Quyển
kinh này kỉnh thờ trong nhà thì tà ma đều lánh hết.
*********
10. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 10
NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ
BỬU HUẤN
DIỄN NGHĨA
********
Đức Ngọc Hoàng Đại Đế Thiên Tôn nói: Ta vốn
đứng Huyền Khung Thượng Đế, Ngọc Hoàng Kim
Khuyết Thiên Tôn, thuở Trời Đất định ngôi trên
dưới, khí nhứt ngươn hoá cõi Hồng Quân. Nay nhơn
rút căn do mà nói, nói ra thời Đất động Trời kinh.
Ngọc Đế thiệt là ngôi thứ nhứt, buổi Hồng hoang sắp
đặt các Thần. Sắp đặt rồi, từ đó về sau Thiên Cung
mới tôn Ngài làm chủ. Trên thiên giái1
ba mươi sáu
cõi, các Tiên nào mà chẳng kính vưng. Dưới Địa Phủ
bảy mươi hai trùng, Thần nào chẳng tuân hiệu lịnh?
Trên Trời thì Tinh, Thần, Nhựt, Nguyệt, dưới Đất
thì Sông, Biển, Núi, Rừng. Trải xưa nay trị loạn
hưng suy, khắp bốn mùa Xuân, Đông, Thu, Hạ.
Hoặc là khi nắng mưa lạnh ấm, cùng những khi sấm
chớp gió mây. Nhơn vật cùng thảo mộc côn trùng,
ngư hà với phi cầm tẫu thú. Món món thảy Ngọc
1
Thiên Giái: ngày nay là Thiên Giới
11. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 11
Hoàng tạo hoá, loài loài đều Ngọc Đế cầm cân. Họ
Bàn Cổ chia ngôi về sau, Trời đất hởi mờ mờ mịch
mịch. Đương đời ấy ăn lông uống máu, nhơn dân
còn lững đững lờ đờ. Mới khiến ông Phục Hy ra đời,
dạy việc hôn nhơn giá thú. Rồi khiến ông Thần Nông
giáng thế, đặng dạy dân cấy gặt cày bừa. Sau khiến
ông Huỳnh Đế hạ trần, dạy dân vải bô áo mão. Đời
Nghiêu Thuấn văn minh thạnh trị, còn chín năm
nước lụt khỏa gò. Hạ Võ ra trị nước bái bờ. Cao Giao
mới dùng hình giúp trị. Hậu Tắc bèn gieo trăm thứ
lúa. Tư Đồ Khiết dạy việc Ngũ Luân.
Thuấn truyền hiền Hạ Võ lên ngôi, đuổi Hạ,
Kiệt, Thương, Thang nối trị. Châu Võ Vương giết
vua Thương Trụ, truyền đến đời Liệt Quốc, Đông
Châu. Bèn khiến Đức Khổng Thánh ra đời, Hiếu
kinh rồi mống hồng hoá ngọc. Dạy đệ tử Thi, Thơ,
Lễ, Nhạc, thiệt ngài như Mỏ gỗ, Chuông vàng. Trải
xưa nay tạo hoá vật chi, đều thảy do nơi Ngọc Đế.
Tuy đời gọi Trời là hình khí, thiệt là Ngài vận động
máy Thần. Thường cuối năm tra xét việc trần, nay
nhằm lúc tuần du hạ giái.
12. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 12
Cả bá vạn Chơn Tiên, Chơn Tể, phò Loan dư
Ngọc Đế nam tuần. Trông xa xa hắc khí ngút lên,
trong giây phút thiên hôn địa ám... Chư Thần mới
dưng lên một bổn, rằng Năm Châu thói ác rất nhiều,
Ngọc Đế liền hạ lịnh ngừng xe, riếu riếu xuống Trần
hoan coi thử. Đương lúc ấy Thần Cơ vận động viết
ra bài “Dưỡng tâm tánh văn”. Tánh mạng nguyên
Trời, Đất ban cho, khí Thái Cực Hổn Ngươn đùm
bọc. Kỳ thiệt thì Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, cùng ngũ
hành Bát Quái giao xen. Tuy là khí chia ra làm hai,
nhưng muôn vật qui căn nhứt bổn. Người người thảy
trong mình đầy đủ, tánh lương tri cùng tánh lương
năng. Trong gia đình con thảo cha lành, chốn Triều
nội tôi trung Vua nghĩa.
Cả thảy những Tử Thần Đệ hữu, cũng đều theo
chổ ấy suy tầm. Bỏ chổ ấy mà học chổ nào? Lìa chổ
ấy kinh luân đâu có? Mạnh Tử nói: Liều mình đúng
nghĩa. Khổng Thánh rằng: Giết mình nên nhơn.
Sánh Đạo nghĩa từ xưa đến nay, khí Hạo nhiên lấp
đầy Trời, Đất. Ấy vốn thiệt cửa Hiền, cõi Thánh, ấy
là nơi nhập Đạo tu thân. Kẻ hay thời vào Thánh vượt
Phàm, kẻ trái lẽ trầm luân Lục đạo. Sao gọi rằng
13. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 13
dưỡng tâm dưỡng tánh? Ràng ràng theo Đức Nghĩa
chẳng lìa. Lễ là Cửa mà Nghĩa là Đường, công thâm
mới đến nơi nguồn Đạo. Trên vương hầu dưới thì lê
thứ, cùng Sĩ, Nông, Công, Cỗ nhơn dân.
Nhưng quả hay dưỡng Tâm Tánh mình, thì
muôn việc đều như sở nguyện. Đế Vương thì Sơn
Hà cũng cố, Quan gia thì lộc vị liễn thăng. Kẻ sĩ
nhơn khoa mục có danh, người thảo giả nông ca đại
hữu. Làm thợ thì nhiều người đoái tưởng, buôn bán
thì vạn lợi bội kim. Cầu Tiên thì được chứng quả
Tiên, cầu Phật ắt rõ nhơn duyên Phật. Kẻ nam tử
thiên tường vân tập, người nữ nhơn bá phước liền
trăng.
Như người nào chẳng dưỡng Tâm Tánh, thì
Hung Tinh cả thảy đến cho. Bị quan phi khẩu thiệt
tai ương, con ác nghiệt phá tiêu gia sản. Hoặc thuỷ
hoả đao binh đạo tặc, cùng ôn hoàng tật bịnh chẳng
an. Gặp các đều chết dọc chết ngang, cùng là bị
Thiên lôi đã tử. Người lành để chổ lành an ở, kẻ dữ
đem chổ dữ đặng hành.
14. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 14
Dưỡng Tâm Tánh đặng tốt tột bực, vị thiên quan
vưng chiếu rước về. Một phen mà Danh liệt Tiên
bang, đồng đến chốn Thiên Cung chầu chực.
Hỏi người có đức nghiệp chi vậy? Rằng hay
giùm giúp với Trời. Vị Hoàng Thiên nào có tư thân,
vì minh đức nên Trời ủng hộ.
Còn Tâm Tánh mà hư tột bực, quỉ Vô thường
đem phiếu bắt liền. Xay nghiền, đâm huyết, nát thây
thi, gươm xẻ, đao bầm, tuông máu mỡ. Nấu đồng
chảy đổ vào lỗ miệng, cùng giá ngần tuyết lạnh
muôn trùng. Hành hạ cho trải khắp tam đồ, thật
muôn kiếp khó rồi hầm lửa. Vì một điểm trong Tâm
lành dữ, mà Thiên Đàng Địa Ngục chia đôi.
Xưa Trời khiến Hiếu Vương giáng bút, có ý
trong Đại Chúng răn lòng. Cùng Chư Tiên phê Tự
các Bài, cũng là muốn người đều chừa lỗi. Nhưng
nào thấy ai Tin ai Kỉnh? Khá thương thay phụ rảy
lời Thần. Chẳng đã nên mới giáng Trần, cặn kẻ dạy
một phen nầy nữa???
Điều thứ Nhứt : Trung quân báo quốc;
Điều thứ Hai : Hiếu dưỡng song thân;
15. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 15
Điều thứ Ba : Anh thuận, em nhường;
Điều thứ Tư : Chồng ơn vợ nghĩa;
Điều thứ Năm : Bạn thì tin thiệt.
Các người tua tạc dạ ghi lòng, chớ gọi rằng Trời
điếc - Đất câm, trong mù mịch thần linh soi xét. Ở
trên có Tam thay Bắc Đẩu, vọi vọi sai cả thảy vạn
dân. Trong nhà thì Tư Mạng Táo Quân, thân người
có Tam Thi Thần tại. Ngày Canh thân cùng ngày
Ngoạt hối(là 30), đồng lên mà tấu cáo Thiên Đình.
Những Nhơn gian thiện ác các đều tại Ngọc Đế trong
tay phân xử. Chớ gọi Trời mờ mờ chẳng thấy, mà
quên lời dạy dỗ nằng nằng. Hiệu Ngọc Hoàng Bửu
Huấn Kinh nầy, người người khá thuộc lâm vào dạ.
Trì tụng thì Tai tiêu Phước nhóm, chẳng vưng thì
hoạ hoạn liền sanh. Nếu chẳng tin trở lại khinh khi,
tức thì bị Thiên tru, Địa lục.
Vì chẳng sợ Thần linh hiển hích, lại chẳng kiên
Thích lịch lôi đình. Nên mới sai Hoả Long hạ Trần.
Ôn thần với Ôn binh nả tróc. Đại chúng nếu mê hoài
chẳng tỉnh, sai Ma Vương động việc binh đao. Trảm
phạt cho thây khắp đại đồng sát hại cho máu tuông
đầy rãnh. Đến chừng ấy ăn năn đã muộn! Đừng gọi
16. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 16
rằng Ngọc Đế vô tình. Phải trì Kinh kiến vận mới
trừ, lại khỏi việc tai tinh xảy đến. Khá chóng chóng
đồ thơ khắc bản, ngõ tỉnh hồn mấy kẻ hôn mê. Vậy
mới có công đức với người, giúp Trời, Đất muôn đời
bình tịnh.
**********
17. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 17
KINH TỤNG
(Lạy, quì tụng)
***
CỬ HƯƠNG CHÚ
Lư nội phần bửu hương, hương yên đạc thượng
thương.
Thượng thương Thần, Thánh giáng, giáng trạch tứ
trinh tường. (lạy)
TỊNH KHẦU CHÚ
Nhơn ngôn tùng khẩu xuất, xuất nạp tất đề phòng.
Đề phòng vô vọng thổ, thổ huế tụng kinh chương.
(lạy)
TỊNH TÂM CHÚ
Nhơn tâm vạn vật linh, linh vi vạn vật thiên.
Thiên thiện cải chư ác, ác niệm hoá vi yên. (lạy)
TỊNH THÂN CHÚ
Nhơn thân tại Hồng trần, Hồng trần trược khí huân.
Khí huân tu mộc dục, mộc dục đối cao chơn. (lạy)
18. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 18
THỈNH THỔ ĐỊA CHÚ
Công Tào Thổ Địa thần, thần hồn tối hiển linh.
Linh oai lai ủng hộ, ủng hộ tụng Hoàng Kinh. (lạy)
AN QUẦN CHƠN CHÚ
Quần chơn giai hạ giáng, giáng hạ hiện kim thân.
Kim thân lai bảo vệ, bảo vệ tụng Hoàng Kinh. (lạy)
Phục dĩ, cung phần chơn hương. Hương yên diêu
diêu thông Đế khuyết, kiền thành thượng khấu.
Khấu thỉnh nguy nguy chúng Thánh chơn. (lạy)
Kiêm hữu phàm thế: Việt Nam Quốc,....
Tỉnh/Thành phố... Quận/Huyện... Phường/Xã....Khu
phố/Ấp/Thôn.... Chúng sanh(họ và tên, cầu khấn
việc chi). Kiền tâm phúng tụng Hoàng Kinh.
Hương Hoa thỉnh2
Hương Hoa nghinh. Hương Hoa
thỉnh Thánh giá lai lâm. Trí tâm qui mạng lễ (lạy)
Huỳnh Kim Kim Khuyết, Bạch Ngọc Ngọc Kinh.
Huyền Khung Cao thượng Đế, Ngọc Hoàng Hựu
Tội Thiên Tôn. (lạy 9 lạy)
2
Như có trái cây mà không bông hoa thì đọc: “Di nghi thỉnh. Di nghi nghinh. Di nghi thỉnh thánh giá ...”. Dỉ hạ
mỗi vị Thánh hiệu đều thêm câu: “Trí tâm qui mạng lễ” và lạy một lạy. Có một vị 9 lạy, một vị 3 lạy, còn chỉ mấy
vị kia thì 1 lạy.
19. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 19
Khổng Thánh Tiên Sư, Văn Tuyên Thánh Vương
Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
Vô Thượng Diêu Trì Vương Mẫu, Tiêu Kiếp Cứu
Thế Đại Từ Tôn.
Tây Phương Phật Tổ, quảng độ Thập Phương; Từ
Bi Cứu Thế Thiên Tôn.
Thanh Vi Thiên Cung, Huỳnh Kim Kim Khuyết
nội; Ngươn Thỉ Vạn Pháp Thiên Tôn.
Thái Thượng Đạo Quân, Đạo Pháp di thâm; Tam
Thanh Ứng Hoá Thiên Tôn.
Linh Đàn Thánh Chúa. Kình Thiên Đảnh Địa; Linh
Oai Quảng Pháp Thiên Tôn.
Đông Nhạc Thái Sơn, kiêm Quảng Minh Thần;
Đông Hoàng Xá Tội Thiên Tôn.
Văn Xương Tự Lộc, Phụ Nhơn Khai Hoá; Tử
Đồng Giải Tội Thiên Tôn.
Cái Thiên Cổ Phật. Vô lượng Độ Nhơn; Chiêu
Minh Dực Hớn Thiên Tôn.
Tử Vi Ngươn Cực, Trung Thiên Tinh Chủ; Bá Ích
Tích Phước Thiên Tôn.
20. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 20
Trung Ương Thiên Quan, Đại Phạm Thiên Vương;
Thát Pháp Đại Pháp Thiên Tôn. (lạy 3 lạy)
Thông Minh Đại Tướng, Liên Hoa Hoá Thân; Bác
Tí Đa Pháp Thiên Tôn.
Càng Ngươn Động Thiên, Tiêu Tai Giải Tội; Thái
Ất Cứu Khổ Thiên Tôn.
Tiên Thiên Thánh Mẫu, Tiêu tai Giải Tội Thiên
Tôn.
Nam Hải Ngạn Thượng, Đại Từ Đại Bi, Cứu Khổ
Cứu Nạn; Từ Hàng Phổ Độ Thiên Tôn.
Tây Phương Già Lam, Di Đà Tôn Giả; Thanh Vi Hộ
Pháp Thiên Tôn.
Huyền Thiên Thượng Đế, Trị Thế Phước Thần;
Chơn Võ Đảng Ma Thiên Tôn.
Tam Ngươn Tam Phẩm, Tam Quan Đại Đế, Tứ
Phước Giải Ách thiên Tôn.
Nam Đẩu Lục Ty Tinh Quân, Bắc Đẩu Thất Viêng
Tinh Quân.
Đông Trù Tư Mạng Táo Phủ Thần Quân.
Bổn Phương Thổ Địa Phước Đức chánh Thần.
21. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 21
KHAI KINH KỆ
Nhứt trượng thử tín hương tam chú;
Phổ đồng cúng dường quần chơn. (lạy)
Hoàng Thiên Thượng Đế khai phương tiện;
Tiện ích đa đoan cửu tự kiến.
Kiến thử Hoàng Kinh tụng nhứt biến;
Biến thể khiên vưu giai đoạn niệm.
Niệm niệm bất tuyệt tuỳ sở kỳ;
Sở kỳ chưởng chưởng cu như nguyện.
Nguyện dỉ thử kinh kiền trì tụng;
Tụng độc phụng hành hưu yểm quyện.
22. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 22
NGỌC ĐẾ THIÊN TÔN
GIẢI TỘI TIÊU KHIÊN
Hoàng Kinh Nhứt Phẩm (lạy)
***
Đạo Ngôn Ngọc Đế Thiên Tôn, Thiên Tôn
phóng đại quang minh. Quang minh chiếu chư thế
giái, thế giái trược khí từng từng. Từng từng ác
nghiệt thâm trọng, thâm trọng như sơn nan vân. Nan
vân thử chư ác thế, ác thế tao cập khổ tân. Khổ tân
hoặc nhiễm tật bịnh, tật bịnh triền hại kỳ thân. Kỳ
thân hoặc ngộ tà suý, tà suý nhiễu hại bất ninh, bất
ninh, bất tịnh chư khỗ, chư khổ bất nhứt phân phân.
Phân phân quần lê đại chúng, đại chúng tuế thính
Hoàng Kinh. Hoàng Kinh truyền thuật hạ giái, hạ
giái giải tội khước ôn. Khước ôn tích phước khiển
quỉ, khiển quỉ tiêu khiên tần tần. Tần tần ác nghiệp
đương cải, cài ác tùng thiện phụng hành.
Nhơn sanh tại thế tội đa đoan. Ngọc Hoàng cáo
giái nhỉ nhứt phiên. Hoặc thị tiền sanh tội nghiệt
trọng, cố nhỉ kiêm sanh tật bịnh triền. Hoặc thị thiếu
niên hành ác sự, trí sữ trung niên họa vạn ban. Tùng
23. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 23
kiêm dĩ hậu sám hối. Sám hối tiền khiên Thiên Địa
hoang.
Phàm nhơn sanh, Hiếu vi tiên, Hiếu năng dủ
bịnh cách Thương thiên. Sám hối sanh bình bất hiếu
niệm, niệm niệm thường tồn hiếu thuận diên. Năng
tận Hiếu, sự châu tuyền; tự nhiên thanh kiết phước
miên miên. Miên miên họa suý tùng kiêm giải, giải
tội tiêu khiên Đệ nhứt thiên.
Đệ nhị kiên: Đệ huynh hoà, đệ huynh bất hoà
tội nghiệt đa! Sám hối đệ huynh bất hoà sự, sự sự
hàm hanh đắt tự như. Như thử sám hối Đệ tam kiện:
kiện kiện tai ách giai bất kiến. Đế tứ hườn tu mạt
phạm Dâm? Dâm ác thao thiên nộ Quỉ, Thần. Dâm
nghiệt cách tỉ sát nghiệt trọng, trùng trùng Quỉ suý
tất triền thân.
Hoặc tuyệt tự, hoặc trừ linh; tử tại âm ty thọ cực
hình. Thọ cực hình, biến phi cầm; vạn kiếp bất đắc
chuyển nhơn hình. Tùng kiên sám hối Dâm tự niệm,
sám hối dĩ hậu trừ ác danh. Nam tử thanh tâm hườn
quả dục, nữ tử hiếu thuận thủ tiết trinh.
24. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 24
Ngọc Đế tự nhiên khâm ngưỡng nể, vạn ban hoạ
suý bất lai lâm. Mạt tham Tửu, mạt tham tài? Nhẫn,
Khí, thời thường ký tại hoài?
Thoản hữu Tham, Sân, Si, Ái, Dục, nhứt thiết
sám hối mạt bồi hồi. Trí, Lễ, Nghĩa, trọng Liêm, Sĩ;
các an sanh lý thủ qui củ. Vô tát gian xảo táng lương
tâm, gian xảo hại nhơn chung hại kỷ. Thoản hữu khi
Thiên miệt lý niệm, niệm niệm sám hối thiên hựu
nễ. Kỉnh Thiên Địa, lễ Thần minh; thiết mạt oán
Thiên dữ vưu Nhơn. Xuy phong mạ vỏ thị đại tội.
Tham, Đố, Tật, Hận tội phỉ khinh. Thời thời tỉnh xác
tồn sám hối, bá bịnh tiêu trừ phước thọ tăng. Hàng
phương tiện, tích âm công; thời tồn thiện niệm cách
Thiên công. Thoản hữu tổn nhơn lợi kỷ niệm, tùng
kiêm, sám hối lạc vô cùng. Vạn ban tội quá nan sổ
thanh, tổng yếu thời thường khẩu vấn tâm. Thoản
nhược ư Tâm hữu quỉ giã, tư thời tức khắc tồn sám
hối. Hối tội tự nhiên vạn tội tiêu. Thử thị tiêu khiên
chơn diệu ngữ, ngữ nhĩ thế nhơn kiền tâm tụng, tụng
độc trí tâm qui mạng lễ. (lạy)
25. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 25
HUYỂN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG GIẢM TỘI TIÊU KHIÊN
ĐẠI THIÊN TÔN
(Niệm hiệu trên đó 3 lần, lạy 9 lạy).
THÁI ẤT CHƠN NHƠN TÁN VIẾT (lạy)
Hoàng Thiên Thượng Đế; trước thử Hoàng Kinh;
Tiêu tai giải tội; tích phước tần tần;
Nhơn năng tuân hành; Quỉ kỉnh, Thần khâm;
Tụng chi nhứt biến; an lạc hàm hanh;
Nhữ đẳng Đại chúng; tâm mộ thân thành;
Cửu cửu bất đải; danh liệt Tiên chơn.
26. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 26
NGỌC ĐẾ THIÊN TÔN
DIÊN THỌ TÍCH PHƯỚC
Hoàng Kinh Nhị Phẩm (lạy)
Tọa Lăng tiêu, huệ nhãn quang khán Đại chúng
môn. Đại chúng môn phước bạc mạng đoản vị hà
nhơn? Vị hà nhơn, Ngọc Đế phân phầu dữ nhĩ thính;
Dữ nhĩ thính, kiền tâm trì tụng thữ Hoàng Kinh.
Hoàng Kinh, diên thọ tích phước độ chúng sanh. Độ
chúng sanh, chuyên tâm trì tụng liệt Tiên chơn. Liệt
Tiên chơn, tiêu diêu khoái lạc hưởng trường xuân.
Hưởng trường xuân, phụng hành tuân thủ mạt nghi
tâm.
Nhơn sanh tại thế gian, hành Thiện tối vi tiên.
Thọ yểu cùng thông giai hữu định, chuyên tâm hành
thiện khả hồi thiên. Thiên tối hỷ hành thiện nhơn
hành thiện chi phương tại ư hành.
Thành tâm hiếu thân như Đại Thuấn, Thượng
thiên tự dử nhỉ diên linh, thành tâm thành ý kỉnh
Thương Thiên. Thương Thiên hựu nhỉ hưởng
khương niên. Thành tâm hoà lục huynh hoà đệ, hoà
khí dinh đình thọ toán diên. Thành năng thanh tâm
27. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 27
kiêm quả dục. Ngọc Hoàng dữ nhỉ thiêm thọ ngươn.
Thành năng kỉnh tích Thánh Hiền tự, tích tự thiên
vạn thọ tự miên. Thành năng nhẫn khẩu toàn vật
mạng, huỳnh cẩu thai bối tử tôn hiền.
Hiền nhơn ngữ, ngữ vạn thiên; Thiên ngôn cáo
giái dỉ tại Tiên. Tiên Thánh sanh kỳ kiêm sóc vọng,
hối lạp phu thê mạt cọng miêng. Hữu bát tiết, dử
phong lôi, kỉnh cẩn độc túc mạt hồ vi. Dưỡng tánh
thủ thân vật vọng tát, diên thọ chi phương tại thử
toàn.
Phước khả chiết, diệt khả tích; tích phước chi
phương nghi miển lực. Nghi miển lực, tích âm công,
âm công cao đại phước vô cùng. Vô cùng phước lộc
duyên hà đắc? Đế thính Hoàng Kinh nhĩ tự mặc.
Phước bất tại tài đa, tài đa bất thị phước. Phước
tại tử tôn hiền, tử tôn hiền thị phước. Hành phương
tiện. Thượng thương tứ nhỉ phước vô hạng, tích âm
công. Thượng thương tích nhỉ phước vô cùng.
Cải khắc bạc, phước lộc thao thao vô hạng lạc.
Giáo tử tôn, tử tôn hiền lương vạn bội kim. Yếu nhẩn
khí, nhẩn đắc khí lai vạn bội lợi. Tích ngủ cốc,
thượng thương tự nhiên thêm y lộc. Trí cần kiệm,
28. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 28
cần kiệm chi nhơn thiên cố quyến. Kỳ phước chi
phương tại thữ toàn, chiết phước chi điều nghi cẩn
giái.
Phàm xử thế, háo xa hoa; ám địa chiết phước tội
vô nhai. Đại tiểu đấu, bàng toán nhơn, tử tôn bại sản
loạn hồ hành. Hữu ngủ cốc, bất ái tích, định nhiên
thiểu y hựu khuyết thực. Phàm bá sự, chiếm tiện
nghi chung cửu ngật khuy họa huyền mi. Chiết
phước chi đoan nghi sám hối, tích phước chi phương
miễn lực vi. Vi nhơn tại thế năng y thữ, thữ thị Diên
niên tích phước kinh. Kinh công trạm tịch nghi tuân
thủ, tuân thủ bá thiện bá phước lâm. Tuân thủ thiên
thiện thiên trường tập, tuân thủ vạn thiện liệt Tiên
chơn. Kiền tâm trì tụng thử kinh giả, khể thủ trí tâm
qui mạng lễ. (lạy)
HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG DIÊN THỌ TÍCH PHƯỚC
ĐẠI THIÊN TÔN
(Niệm 3 lần, 9 lần lạy)
29. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 29
TỪ HÀNG CHƠN NHƠN TÁN VIẾT
(lạy)
Huyền Khung Thượng Đế phát từ bi;
Diên thọ tích phước ý thâm vi;
Thoãn nhược thế nhơn năng bội phục;
Tai tiêu bịnh giảm tại ư tư;
Tụng chi nhứt biến thiên trường tập;
Kiên trì bá biến thọ tề mi;
Tiêu diêu khoái lạc thăng Thiên giái;
Kiền thành trì tụng cẩn qui y.
30. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 30
NGỌC ĐẾ THIÊN TÔN
GIÁNG THẦN TRỤC QUỈ
Hoàng Kinh Tam Phẩm(lạy)
***
Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, lược tiết thử Hoàng
Kinh. Phần hương cao tụng niệm, Quần chơn tức
giáng lâm. Trí tâm qui mạng lễ, cửu khấu chúng
Quần chơn. (9 lạy)
Thanh Vi Thiên cung Khổng Thánh nhơn. Tụng
kinh hữu thỉnh giáng giai lâm. Nhứt thiết bất nhơn
tịnh bất tín. Vô lễ vô nghĩa chư tội danh. Đảng năng
tụng kinh tồn sám hối. Đại tứ Linh oai xá tội hình.
Tây Phương Phật tổ tăng thánh nhơn, từ bi phổ
cứu thập phương nhơn, nhứt thiết tham sân si ái dục,
bất kỉnh Tam Bửu chư tội hình. Đảng năng sám hối
tụng thử kinh. Đại phát từ bi ủng hộ chơn.
Thanh Vi Ngươn Thỉ Đại Thiên Tôn, Tiên Pháp
vô cùng độ chúng sanh. Chúng sanh sám hối trì kinh
giả, Đại tứ Linh oai vệ kỳ thân.
31. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 31
Tam Thanh Ứng Hóa Lý Lảo Quân, Đạo Pháp
di thâm hộ thương sanh, Thương sanh sám hối tụng
kinh giả, Đại Tứ Linh Oai vệ kỳ thân.
Âm Tào Đông Nhạc Đại Thiên Tôn, Chưởng
quản Âm Ty ngủ ngục hình, như hữu sám hối trì kinh
giả, diệt tội tiêu khiên vệ kỳ hồn.
Thanh Vi Quảng Pháp Đại Thiên Tôn, Pháp lực
vô biên hựu lê dân. Lê dân sám hối tụng kinh giả,
Thiên cung Tiên tịch chú Tiên danh.
Văn Xương Hiển Hoá Đại Thiên Tôn bảo hộ
quần Lê tụng Hoàng Kinh.
Chiêu Minh Dực Hớn Quan Đế Quân, Ủng hộ
quần Lê tụng Hoàng Kinh.
Nhĩ chư mạt thế phàm nhơn, cập vị lai nhứt thiết
chúng sanh; Đảng năng tồn tâm sám hối, phần
hương trì tụng thử kinh.
Đế khiển Phi Thiên Đại Thần, Thanh Vi Tứ Đại
Thiên Quân.
Hộ Pháp Di Đà Tôn Giả, tịnh cập ức vạn Tiên
chơn. Thiên Binh, Thiên Tướng hộ trạch. Lục Đinh,
Lục Giáp hộ thân.
32. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 32
Đảng tu thân hành tâm mộ, Vô đồ tụng đọc vân
vân.
Cánh hữu thiện nam, tín nữ hoặc tao tật bịnh
triền thân. Đảng năng trì tụng giải thuyết, tự hữu cứu
nạn Quan Âm. Tịnh cập Minh y Thánh chúa, từ bi
cứu khổ Chơn nhơn. Bảo hộ thân vô tật bịnh, tiêu tai
thoát nạn thanh bình.
Hoặc tao Quỉ suý triền hại, hoặc tao Mãnh thú
thời ôn. Đảng năng sám hối trì tụng. Đế khiển Hộ
Pháp Chơn Quân, Vạn Pháp Chơn Quân, Đại Pháp
Chơn Quân, Đa Pháp Chơn Quân, Quảng Pháp
Chơn Quân, Vệ Pháp Chơn Quân, Phụ Pháp Chơn
Quân, Tá Pháp Chơn Quân, Tịnh Cập Huyền Thiên
Thượng Đế, Đảng Ma Thiên Tôn, Tứ Đại Ngươn
Soái, Thập Đại Thiên Quân, khước trừ tà suý diệt
tích vong hình, hoạ hoạn tiêu diệt, đạo khí thường
tồn.
Hựu: hoặc hữu nhơn, hoặc ngộ quân trận, hoặc
ngộ oan gia.
Đãng nãng sám hối, tồn niệm thử Kinh. Tự Hữu
Tam Quan Đại Đế, Giải Ách Thiên Tôn, Thần Tiên
33. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 33
binh mã, kim tinh mãnh thú, vô yên số chúng,
Huỳnh Cân Lực Sĩ ủng hộ kỳ thân.
Hựu: Hữu mạt thế phàm nhơn, tao trị kiếp vận,
đạo tặc thủy hỏa. Đảng năng sám hối, trì tụng thử
kinh. Tự hữu Tứ Đại Thiên Vương, Bát Đại Kim
Cang thường lai ủng hộ, Hỏa tổ duy trì. Long Thần
bảo hựu.
Tôn kính, công đức bất khả tận số, quần chơn
bất khả cu thuật. Nhỉ đẳng đại chúng nhơn dân,
chuyên tâm trì tụng tuân hành. Tuân hành cửu cửu
bất đãi, tự nhiên Tiên tịch chú danh. Thiệt mạt nghi
tín tương báng, Khẩu tụng tâm vi bất tuân. Như hữu
vọng hành để hủy, định nhiên trảm thủ phân hình!
Phạt biến côn trùng thảo mộc, tử tôn khốt một trừ
căn.
Ngọc Đế truyền thử kinh, lao lực hựu lao tâm.
Nhỉ đẳng quần lê bối, kiền tâm đối thánh chơn. Trí
tâm qui mạng lễ. (lạy)
HUYỂN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG GIÁNG TRẦN KHỬ QUỈ
ĐẠI THIÊN TÔN(niệm 3 lần, lạy 9 lạy)
34. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 34
HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ TÁN VIẾT (lạy)
Hoàng Kinh công đức vô cùng;
Quần chơn phổ giáng thương khung;
Nhứt thiết yêu ma củng thủ;
Chư ban quỉ súy tiềm tung;
Van đạo tường quan phổ chiếu;
Thiên tằng ác nghiệt giai không;
Tai tại tinh thần thơ thái;
Thời thời độ lượng thung dung;
Danh liệt Tiên bang, Tiên tịch;
Hồn qui Thiên phủ, Thiên cung;
Thất tổ hàm đăng Cực lạc;
Cửu Huyền tận xuất Minh trung;
Vụ yếu chuyên tâm trì tụng;
Vô vi hủy bán sơ dung;
Đại chúng ban hành vật hốt;
Tự nhiên đắc hưởng niên phong.
35. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 35
(như tụng nữa thì trở lại đầu bài “Cử hương chú”,
nghỉ thì niệm bài “Thâu kinh kệ”)
THÂU KINH KỆ
Ngọc Hoàng Hựu Tội Đại Thiên Tôn,
Từ ưu nhứt thiết chư chúng sanh,
Nguyện dĩ thử kinh công đức nghĩa,
Ân cần giải quyết độ mê tân.
Tụng Kinh Dỉ Tất, khể thủ lễ tạ,
VÔ CỰC THÁNH CHÚNG THIÊN TÔN
(niệm 3 lần, lạy 9 lạy)
Hương hoa thỉnh, hương hoa tống, Thánh Thượng
Thiên Cung.
NGỌC HOÀNG KINH TẤT
*********
36. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 36
NGỌC HOÀNG KINH
DIỄN NGHĨA
***
CỬ HƯƠNG CHÚ
Trong lư đốt bửu hương, khói hương ngút trời xanh.
Trên trời Thần Thánh xuống, xuống cho những
phước lành.
TỊNH KHẨU CHÚ
Lời người nói ra miệng, nói ra phải giữ gìn. Giữ gìn
đừng nói quấy, súc miệng tụng Hoàng Kinh.
TỊNH TÂM CHÚ
Lòng người linh hơn vật, đừng cho muôn vật dời3
,
dời lành chừa các dữ, dữ tiêu hết mọi nơi.
TỊNH THÂN CHÚ
Thân người ở bụi hồng4
, bụi hồng trược khí xông.
Trược khí xông tắm gội, tắm gội sánh cao không.
3
Lòng người linh hơn vật, linh vạn vật do trời, Tính thiện trời xanh sẽ xóa tất cả các ác dữ, điều ác sẽ tiêu và yên
bình.(diễn giải).
4
Bụi hồng trần: nhiễm trược ở trần gian. Bản dịch nguyên gốc là “buội hồng”
37. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 37
THỈNH THỔ ĐỊA CHÚ
Công tào Thổ địa thần, thần ngài rất rất5
linh. Linh
oai xin ủng hộ, ủng hộ tụng Hoàng Kinh.
AN QUẦN CHƠN CHÚ
Quần chơn đều hạ giáng, giáng hạ hiện kim thân,
kim thân xin hộ vệ, hộ vệ tụng Hoàng Kinh.
Cúi mình cung kính đốt chơn hương, khói hương
ngút ngút thấu cửa trời. Thành tâm hết lòng6
xin bày
tỏ, cầu thỉnh các Thánh Thần trên cao.
Nay có kẻ phàm ở nước Việt nam, tỉnh/thành phố
…, quận/huyện…., phường xã…., ấp/khu phố…,
chúng sanh họ tên…. Xin cầu…. Thành tâm phúng
tụng Hoàng Kinh.
Hương hoa thỉnh, hương hoa nghinh; hương hoa
thỉnh Thánh giá lai lâm, trí tâm quy mạng lễ.
(Niệm mỗi vị Thánh hiệu đều thêm câu trên, đọc
trước hương hoa thỉnh…)
Thiên Tôn thập cửu vị;
5
Bản dịch nguyên gốc là “rất có linh”
6
Kiền thiền tất dạ xin bày tỏ[nguyên gốc bản dịch]
38. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 38
Tinh quân nhị vị;
Táo quân cập Thổ thần chi vị.
KHAI KINH KỆ
Dỡ kinh kệ ra mà tụng niệm, thảy nhờ vị tín hương
ba liều; dung lên cúng khắp thần tiên.
Đức Hoàng Thiên Thượng Đế mở đường phương
tiện, lợi ích nhiều mối lâu bèn thấy. Cuốn Hoàng
Kinh này tụng một lần, tội lỗi cả mình đều tiêu hết.
Thường thường chẳng dứt theo chổ cầu, chổ cầu chi
chi đều như nguyện. Nguyện theo kinh này cứ tụng
hoài, tụng hoài đừng nhàm mỏi.
NGỌC ĐẾ THIÊN TÔN
GIẢI TỘI TIÊU KHIÊN
Hoàng Kinh nhứt phẩm
***
Nói chuyện Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế Thiên
Tôn, phóng hào quang ra thiệt là sáng lắm. Soi khắp
cả và thế giái, thấy những trược khí từng từng, Từng
39. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 39
từng ác nghiệt sâu nặng, sâu nặng như núi khó rằng.
Khó rằng ấy là đời ác, đời ác gặp việc gian tân. Gian
tân hoặc nhiễm tật bịnh, tật bịnh ràng hại thửa mình.
Thửa mình hoặc gặp tà quỉ, tà quỉ nhiễu hại chẳng
an. Chẳng an chẳng lặn các khổ, các khổ nhiều việc
lăn xăn. Lăn xăn bầy dân đại chúng, đại chúng ráng
nghe kinh trời. Kinh Trời truyền cho hạ giái, hạ giái
giải tội trừ ôn. Trừ ôn thêm phước đuổi quĩ, đuổi quĩ
tiêu tội luôn luôn. Luôn luôn ác nghiệp phải cải, cải
dữ theo lành luôn làm.
Người sanh ở đời tội nhiều mối, Đức Ngọc Hoàng
dạy người một phen. Hoặc là đời trước tội nghiệt
nặng, nên khiến đời này tật bịnh hoài. Hoặc khi tuổi
trẻ làm sự ác, nên khiến nữa đời gặp họa nhiều. Từ
nầy về sau phải sám hối, sám hối chừa lỗi Trời Đất
mừng.
Phàm ở đời Hiếu làm trước; hiếu hay lành bịnh cảm
lòng Trời. Răng chừa bấy lâu lòng bất hiếu, hằng gìn
thảo thuận trọn cả đời. Hay trọn hiếu việc châu
tuyền, tự nhiên lành tốt phước liền liền. Liền liền tai
họa tự này giải, giải tội tiêu khiên đệ nhứt thiên.
40. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 40
Điều thứ hai Anh em hòa, Anh Em bất hòa tội nghiệt
đa, phải chừa những việc chẳng hòa thuận, thì đặng
hanh thông toại cả nhà. Rồi thời sám hối điều thứ ba,
cả thảy tai ách đều lánh xa. Điều thứ tư chớ là khá
phạm Dâm? Dâm ác nhẩy Trời Thần giận câm. Tội
dâm nặng sánh hơn tội sát, bao nhiêu quỉ súy buộc
theo mình.
Hoặc tuyệt tự, hoặc giết mình; đày xuống Âm ty
chịu cực hình. Chịu cực hình, biến phi cầm, muôn
kiếp chẳng đặng làm người. Từ ấy sám hối điều dâm
ác, ngày sau mới trừ cái ác danh. Trai như thanh tâm
ít dâm dục, gái mà hiếu thuận thủ tiết trinh.
Đức Ngọc Đế tự nhiên khâm ngưỡng nể, muôn loài
họa súy chẳng dám gần. Chớ tham Tửu, chớ tham
Tài? Lòng hằng giằn giận chớ hung hăng? Thoản có
Tham, Sân, Si, Ái, Dục, thảy đều sám hối chớ giùng
giằng. Biết Lễ, Nghĩa, Trọng, Liêm, Sỉ; đều giữ phép
tắc cần sanh Lý7
. Chớ sanh gian xảo mất lòng lành,
gian xảo hại người rồi hại mình. Như có lòng khi
Trời trái lẻ8
, mau mau sám hối Trời hộ mình. Kỉnh
7
Phải giữ phép và tuân thủ Lý.
8
Nếu có sự trái lẻ trời.
41. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 41
trời Đất, kiến quỉ thần9
; chớ nên hờn Trời với trách
người. Chửi gió mắng mưa là tội lớn. Tham lam
ghen ghét tội chẳng vừa...Thuở hằng xem xét mà
sám hối, trăm bịnh tiêu trừ, phước thọ thêm. Hành
phương tiện10
, tích âm công; hằng gìn lòng thành
cảm Thiên công. Như có lòng tổn nhơn lợi kỷ11
, từ
này sám hối vui khôn cùng. Muôn điều tội lỗi kể
khôn xiết, thảy phải thường thường hỏi lại Tâm
mình, Tâm mình có điều chi hổ(thẹn), tức thì sám
hối mà răn chừa. Chừa lỗi tự nhiên muôn tội tiêu, ấy
là lời nhiệm tiêu khiên đó. Bảo các người đời tụng
cho kiền, tụng đọc trí tâm qui mạng lễ.
HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG GIẢM TỘI TIÊU KHIÊN
ĐẠI THIÊN TÔN.
(Niệm danh hiệu trên 3 lần, lạy 9 lạy).
VỊ THÁI ẤT CHƠN NHƠN NGỢI RẰNG
Đức Hoàng Thiên thượng Đế, đặt một quyển
kinh chương Tiêu Khiên, Giải Tội cho người phước
9
Trọng Trời Đất, lễ với Thần( Thần sáng suốt).
10
Làm theo phương tiện(Pháp/Kinh...) tích thêm âm công.
11
Có lòng hại người có lợi cho mình
42. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 42
thường thường. Vưng làm mà chẳng trễ, thì quỉ kỉnh
thần nhường. Trì tụng đặng một biến, an vui đủ
đường. Hởi bọn ngươi đại chúng, lòng gắng sức làm
bương12
. Lâu ngày không mỏi mệt đặng lên chốn
thiên đường13
.
NGỌC ĐẾ THIÊN TÔN
DIÊN THỌ TÍCH PHƯỚC
Hoàng Kinh nhị phẩm
***
Đức Ngọc Đế ngồi ngự Lăng tiêu, phóng huệ
nhãn xem dân đại chúng. Dân đại chúng phước bạc
mạng vắn là vì cớ nào? Vì cớ nào, Đức Ngọc Đế nói
cho ngươi nghe, cho ngươi nghe: chuyên tâm trì
tụng Hoàng Kinh nầy. Hoàng Kinh nầy, thêm tuổi
thêm phước độ chúng sanh. Độ chúng sanh, thật
lòng trì tụng đặng thành Tiên. Đặng thành Tiên tiêu
diêu khoái lạc hưởng trường xuân, hưởng trường
xuân, vâng làm vui theo chớ nghi nghờ.
12
Trân quý và làm theo.
13
Lâu ngày không mỏi mệt được ghi tên vào sổ Tiên.
43. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 43
Người sanh ra ở trong đời, làm lành là trước nhất.
Sống thác giàu nghèo trước đã định, chuyên lòng
làm thiện sẽ về trời. Trời rất quý người làm thiện,
làm thiện phải ở nơi Thật lòng14
.
Thật lòng hiếu Thân như Đại Thuấn, thì trời cho
mình sống lâu. Thật lòng thật ý kỉnh trời xanh, thì
Trời xanh cho mình thêm tuổi nhiều. Thật lòng hòa
nhã với anh em, hơi hòa đầy sân thọ toán giải15
. Thật
hay thanh tâm và quả dục, Ngọc Hoàng cho mình
thọ thêm. Thật hay kỉnh tiếc chữ Thánh Hiền, kỉnh
tiếc muôn ngàn đặng sống giai. Thật hay nhịn miệng
toàn loài vật, tóc bạc da mồi16
con cháu hiển.
Người Hiền nói, nói muôn ngàn; ngàn lời; ngàn lời
răn dạy bài trước rồi. Sóc Vọng17
hối lạp cùng ngày
vía, phải cử vợ chồng chung. Hoặc tám Tiết18
cùng
Sấm sét, kiêng dè phải ngủ riêng một mình. Dưỡng
tánh thủ thân chớ làm quấy, cái lẽ sống lâu ở nơi ấy.
Phước khá bớt, cũng khá thêm; cái nẻo thêm Phước
14
Làm thiện phải thật tâm.
15
Hòa khí đầy sân mãi.
16
Huỳnh cẩu thai bối, nghĩa là: Mấy người già cả thì tóc bạc da trổ đồi mồi. → Tóc bạc răng long.
17
Sóc: ngày mùng một. Vọng: ngày rắm. Hối: ngày 30. Tiên thánh sinh kỳ là các ngày vía. Mùng một tháng Giêng
là ngày Thiên Lạp, mùng 5 tháng 5 là ngày Địa lạp, ngày mùng 7 tháng 7 là ngày Đạo đức lạp. 12 tháng 12 là ngày
Dân lạp.
18
Bát tiết là tám ngày trong năm: ngày Lập Xuân, Xuân Phân, Lập hạ, Hạ chí, Lập Thu, Thu phân, Lập Đông,
Đông chí.
44. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 44
phải gắng sức. Chứa Âm công19
, Âm công cao
Phước lớn khôn cùng. Khôn cùng phước lộc duyên
nào đặng? rõ giải Hoàng Kinh thời hiểu tường.
Phước chẳng tại của nhiều, của nhiều chẳng phải
phước. Phước tại con cháu hiền, con cháu hiền là
Phước. Hành phương tiện, trời xanh cho mấy phước
vô hạng. Chứa âm công, trời xanh cho mấy phước
vô cùng.
Chừa khắc bạc, phước lộc dầm dầm thường khoái
lạc. dạy con cháu, con cháu hiền lương quá muôn
vàng. Phải nhịn nhục, nhịn nhục nhiều đặng muôn
phước lợi. Tiết ngủ cốc, trời xanh tự nhiên thêm y
lộc. Biết cần kiệm, hể người cần kiệm Trời ưa
chuộng. Cái nẻo cầu phước trọn nơi ấy, cái điều bớt
phước phải răn dè.
Phàm ở đời ham xài phí; lần lần bớt phước, tội biết
mấy. Táu lớn nhỏ, lường lận người; ngày sau con
cháu phá bằng mười. Trăm thứ lúa, chẳng thương
tiếc, chắc sau y thực phải khiếm khuyết. Phàm trăm
việc, giành phần hơn; sau bị thiệt hại họa vô đơn.
19
Âm công là công đức âm thầm, ít người biết đặng, lén làm Phước dấu thiên hạ, không khoe.
45. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 45
Những điều bớt Phước phải sám hối, những điều tích
phước phải gắng làm. Làm20
ở đời, nương theo đây,
đây thiệt là kinh Diên niên tích phước. Kinh nầy
công đức biết ngần nào, noi làm trăm lành trăm
phước đến. Noi làm ngàn lành ngàn Phước thêm.
Noi làm muôn lành đặng thành Tiên. Thật lòng trì
tụng quyển kinh nầy, thành tâm cúi đầu xin cầu.
HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG DIÊN THỌ TÍCH PHƯỚC
ĐẠI THIÊN TÔN
(Niệm 3 lần, lạy 9 lạy)
VỊ TỪ HÀNG CHƠN NHƠN NGỢI RẰNG
Huyền khung thượng đế lượng cao sâu,
Diên thọ kinh nầy ý rất mầu.
Phỏng khiến người đời hay kỉnh tụng,
Tiêu tai giảm bịnh có sai đâu.
Tụng qua một biến ngàn lành nhóm,
Tụng luôn trăm biến hưởng sống lâu.
20
Sống ở đời.
46. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 46
Khoan thai thong thả lên tiên cảnh,
Kiền thiền trì tụng cứ theo cầu.
NGỌC ĐẾ THIÊN TÔN
GIÁNG THẦN TRỤC QUỈ
Hoàng Kinh nhị phẩm
***
Đức Ngọc Hoàng đại thiên tôn, nhón đặt Hoàng
Kinh nầy. Đốt hương cáo tụng niệm, chư tiên liền
giáng lâm. Hết lòng theo cầu khẩn, chín lạy các Tiên
chơn.
Đức Thanh Vi Thiên Cung Khổng Thiên Nhơn,
tụng kinh hữu thỉnh xin giáng lâm. Cả thảy bất nhơn
cùng bất tín, vô lễ vô nghĩa các tội danh. Chỉnh hay
tụng kinh gìn sám hối, cả cho oai linh tha tội mình.
Đức Tây Phương Phật Tổ Tăng Thánh Nhơn, từ
bi cứu người khắp mười phương. Cả thảy Tham,
Sân, Si, Ái, Dục; bất kỉnh Tam bảo chư tội hình.
Chỉnh hay sám hối tụng kinh nầy, cả phát từ bi ủng
hộ mình.
47. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 47
Đức Thanh Vi ngươn thủy Đại Thiên Tôn, phép
Tiên vô cùng độ chúng sanh. Chúng sanh sám hối
tụng kinh nầy, cả cho oai linh độ lên Trời.
Đức Tam Thanh ứng hóa Lý lão quân, phép đạo
càng sâu hộ thương sanh. Thương sanh sám hối tụng
kinh nầy, cả cho oai linh gìn giữ mình.
Đức Âm Tào đông nhạc Đại Thiên Tôn chưởng
quản Âm ty ngũ ngục môn. Như hay sám hối tụng
kinh nầy, diệt tội tiêu khiên gìn giữ hồn.
Đức Thanh Vi Quản Pháp Đại Thiên Tôn, pháp
lực vô biên độ chúng sanh. Chúng sanh sám hối tụng
kinh nầy. Cung trời sổ Tiên liền ký dân.
Đức Văn Xương hiển hóa Đại Thiên Tôn, bảo
hộ bầy dân tụng Hoàng Kinh.
Dức Chiêu Minh Dực Hớn Quan Đế Quân, ủng
hộ bầy dân tụng Hoàng Kinh.
Hởi các kẻ phàm nhơn mạc thế, cùng cả thảy
chúng sanh đời sau, chỉnh hay gìn lòng mà sám hốt,
đốt hương trì tụng quyển kinh nầy.
Thời Đức ngọc đế khiển vị Phi Thiên đại thần,
vị Thanh vi tứ đại thiên tôn, vị Hộ pháp Di đà Tôn
48. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 48
giả, cùng cả thảy các vị Chơn Tiên. Thiên binh
Thiên tướng đều hộ trạch, Lục đinh Lục giáp thì hộ
mình. Nhưng phải hết sức làm lành chớ luống tụng
đọc vân vân.
Lại có kẻ thiện nam tín nữ, hoặc bị tật bịnh ràng
theo mình. Như hay trì tụng và giải quyết, bèn có
Đức cứu nạn Quan Âm. Cùng là vị Minh y Thánh
chúa, vị Thái ất cứu khổ chơn nhơn. Bảo hợ cả mình
không tật bịnh, tiêu tai thoát nạn đặng thanh bình.
Hoặc là gặp tà tinh nhiểu hại, hoặc là lâm mãnh
thú thời ôn. Như hay thọ trì, thì Đức Ngọc Đế khiển
vị Hộ Pháp Chơn Quân, vị Vạn Pháp Chơn Quân, vị
Đại Pháp chơn Quân, vị Quảng Pháp Chơn Quân, vị
Vệ Pháp Chơn Quân, vị Phụ Pháp Chơn Quân, vị vị
Tá Pháp Chơn Quân. Cùng là vị Huyền Thiên
Thượng Đế, vị Đảng Ma Thiên Tôn, vị Tứ Đại
Ngươn Soái, vị Thập Đại Thiên Quân; đuổi trừ tà
quỉ, dứt dấu mất hình, họa hoạn tiêu diết, đạo khí an
ninh.
Lại như có người: hoặc gặp quân trận, hoặc gặp
oan gia. Chỉnh hay sám hối, trì tụng kinh nầy. Bên
có vị Tam Quan Đại Đế, vị Giải ách Thiên Tôn. Vĩ
49. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 49
Thần Tiên Binh Mã, Kim tinh mảnh thú, Vô yên số
chúng, Huỳnh cân lực sĩ, ủng hộ thửa mình.
Lại như có kẻ phàm nhơn thời mạc thế, xảy ra
mấy đều kếp vận, những là đạo tặc thủy hỏa. Chỉnh
hay sám hối, trì tụng kinh nầy. Bèn có vị Tứ Đại
Thiên Vương, vị bác Đại kim Cang; thường khi ủng
hộ, vị Hỏa Tổ thì giữa gìn, vị Long Thần phò độ.
Kinh Ngọc Hoàng đây, công đức ý khôn xiết
thể, quần Tiên khó thuật đủ tướng. Bọn ngươi đại
chúng nhơn dân, chuyên lòng trì tụng vưng làm.
Vưng làm lâu chẳng mỏi, tự nhiên Tiên tịch biên tên.
Chớ khá bán nghi bán tín, miệng tụng lòng cải chẳng
tuân. Như ai khinh khi quấy quá, định cho trảm thủ
phân hình! Phạt biến côn trùng thảo mộc, con cháu
tuyệt tự trừ căn.
Đức Ngọc Đế truyền kinh nầy, nhọc sức lại nhọc
lòng. Bọn ngươi bầy dân đen, thành tâm với Thánh
Tiên. Trí tâm qui mạng lễ.
HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG GIÁNG THẦN KHỬ QUỈ
ĐẠI THIÊN TÔN. (niệm 3 lần, 9 lạy)
50. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 50
VỊ HUYỀN THIÊN THƯỢNG ĐẾ NGỢI
RẰNG
Hoàng Kinh công đức thiệt vô cùng,
Thần Tiên giáng hạ khắp trời chung.
Cả thảy Yêu ma tiêu thói dữ,
Các loài Quỉ súy bặt hơi lung.
Muôn đạo tường quang soi khắp hết,
Ngàn từng ác nghiệt biến thành không.
Chốn chốn tinh thần đều khỏe mạnh,
Nơi nơi độ lượng rất thung dung.
Danh liệt Tiên bang cùng Tiên tịch,
Hồn về Thiên phủ với Thiên cung.
Thất Tổ đặng lên miền cực lạc,
Cửu Huyền thoát khỏi chốn Minh trung.
Gắng chí tinh chuyên cần tụng niệm,
Chớ lòng hủy báng nói minh mông.
Đại chúng ban hành đừng trể nãi,
Tự nhiên đặng hưởng chữ niên phong.
51. Ngọc Hoàng Kinh
Trang 51
THÂU KINH KỆ
Ngọc Hoàng Hựu Tội Đại Thiên Tôn, từ ưu nhứt
thiết chư chúng sanh. Nguyện dĩ thử kinh công
đức nghĩa, ân cần giải thuyết độ Mê tân.
Kinh tụng đã hết rồi niệm
Khể thủ lễ tạ VÔ CỰC THÁNH CHÚNG THIÊN
TÔN
(niệm 3 lần, lạy 9 lạy).
Hương hoa thỉnh, hương hoa tống, Thánh
thượng Thiên cung.
Tay sạch cầm kinh, xem gói cất tử tế, chẳng nên để
váng ngựa, chiếu giường mà tội
*********
52. Ngọc Hoàng Tâm Ấn
Trang 52
NGỌC HOÀNG TÂM ẤN
***
Thượng dược tam phẩm, Thần dữ Khí Tinh,
Hoảng hoảng hốt hốt, Yểu yểu minh minh,
Tồn vô thủ hữu, Khoảnh khắc nhi thành,
Hồi phong hỗn hiệp, Bá nhựt công linh,
Mặc triều Thượng Ðế, Nhứt kỷ phi thăng,
Trí giả dị ngộ, Muội giả nan hành,
Lý tiển thiên quang, Hô hấp dục thanh,
Xuất quyền nhập tẩn, Nhược vong nhược tồn,
Miên miên bất tuyệt, Cố đế thân căn,
Nhơn các hữu tinh, Tinh hiệp kỳ thần,
Thần hiệp kỳ khí, Khí hiệp thể chơn,
Bất đắc kỳ chơn, Giai thị cưỡng danh,
Thần năng nhập thạch, Thần năng phi hình,
Nhập thủy bất nịch, Nhập hoả bất phân,
53. Ngọc Hoàng Tâm Ấn
Trang 53
Thần y hình sanh, Tinh y khí doanh,
Bất tiêu bất tàn, Tùng bá thanh thanh,
Tam phẩm nhứt lý, Diệu bất khả thính,
Kỳ tựu tắc hữu, Kỳ tán tắc khuynh,
Thất khiếu tương thông, Khiếu khiếu quang minh,
Thánh nhựt thánh nguyệt, Chiếu diệu kim đình,
Nhứt đắc vĩnh đắc, Tự nhiên thân khinh,
Thái hoà sung dật, Cốt tán hàn huỳnh,
Ðắc đan tắc linh, Bất đắc tắc khuynh,
Ðơn tại thân trung, Phi bạch phi thanh,
Tụng trì vạn biến, Diệu lý tự minh.
*********
54. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 54
KINH NGỌC HOÀNG
THƯỢNG ĐẾ
(st kinh Cao Đài )
***
Đại La Thiên Đế,
Thái Cực Thánh Hoàng.
Hóa dục quần sanh,
Thống ngự vạn vật.
Diệu diệu “Huỳnh Kim Khuyết”,
Nguy nguy “Bạch Ngọc Kinh”.
Nhược thiệt, nhược hư,
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.
Thị không, thị sắc,
Vô vi nhi dịch sử quần linh.
Thời thừa Lục long,
Du hành bất tức,
55. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 55
Khí phân Tứ tượng,
Hoát truyền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện ác tất kiến,
Huyền phạm quảng đại,
Nhứt toán họa phước lập phân.
Thượng chưởng Tam thập lục Thiên,
Tam Thiên Thế giái.
Hạ ốc Thất thập nhị Địa,
Tứ Đại Bộ Châu
Tiên Thiên Hậu Thiên ,
Tịnh dục Đại Từ Phụ.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng,
Phổ tế Tổng Pháp Tông.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi Quân,
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi Chủ.
56. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 56
Trạm tịch chơn Đạo,
Khôi mịch tôn nghiêm.
Biến hóa vô cùng,
Lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế,
Linh oai mạc trắc,
Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh.
Hồng oai, hồng từ,
Vô cực, vô thượng.
Đại Thánh, Đại Nguyện, Đại Tạo, Đại Bi.
HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG TÍCH PHƯỚC HỰU TỘI
ĐẠI THIÊN TÔN.
NIỆM: “NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI
BỒ TÁT MA HA TÁT”
*********
57. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 57
KINH NGỌC HOÀNG
THƯỢNG ĐẾ
(GIẢI THÍCH)
***
Đại La Thiên Đế: Đức Thượng Đế còn gọi là Đại
La Thiên Đế, một vị vua Trời (Thiên Đế) cầm quyền
rộng lớn mênh mông như một tấm lưới trời bao trùm
cả các cõi thế giới (Đại La). Đây cũng là Hồng danh
của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thái Cực Thánh Hoàng: Ngài cũng là Đấng Thái
Cực Thánh Hoàng, tức là vị vua Thánh ngự tại ngôi
Thái Cực cầm quyền sinh hóa vạn vật. Đây cũng là
Hồng danh của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng
Đế
Hóa dục quần sanh: Đức Thượng Đế thường tạo
hóa và nuôi dưỡng chúng sanh.
Thống ngự vạn vật: Ngài cai quản và điều hành sự
tiến hóa của muôn vật.
58. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 58
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết: Cổng Huỳnh Kim
Khuyết trên thiên cung, sắc vàng lóng lánh hiện ra
mù mù, diệu vợi.
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh: Tòa Bạch Ngọc Kinh
cẩn ngọc trắng sáng, cao vòi vọi, nguy nga.
Nhược thiệt, nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên
đại hóa: Dường như thật, dường như hư. Không nói
gì, trong sự tĩnh lặng mà vận hành sinh hóa.
Thị không, thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh: Là
không là sắc. Không thấy làm nhưng sai khiến quần
linh.
Thời thừa Lục long, du hành bất tức: Theo thời
mà cởi sáu rồng, đi khắp nơi không ngừng nghỉ. Tức
là Đạo Trời mạnh mẽ vận hành khắp vũ trụ không
bao giờ ngừng nghỉ.
Khí phân Tứ tượng oát triền vô biên: Khí Lưỡng
nghi tức Âm Dương phối hợp nhau mới phân ra Tứ
Tượng. Xoay chuyển qua lại mãi mãi không giới
hạn. Đây chỉ Đạo phối hợp Âm Dương rồi sinh Tứ
Tượng, và vận hành cả Càn Khôn Vũ Trụ không bao
giờ ngừng nghỉ.
59. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 59
Càn kiện cao minh, vạn loại thiện ác tất kiến:
Ngôi Càn (Đạo Trời) mạnh mẽ sáng suốt có thể thấy
rõ việc lành dữ của muôn loài.
Huyền phạm quảng đại, nhứt toán họa phước lập
phân: Cái khuôn phép mầu nhiệm rộng lớn. Từng
việc lành dữ đều được phân định rõ ràng.
Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, Tam Thiên
Thế giái: Thượng Đế, trên thì chưởng quản ba mươi
sáu tầng Trời, ba ngàn Thế giới.
Hạ ốc Thất thập nhị Địa, Tứ Đại Bộ Châu: Bên
dưới (Phần bên dưới Vũ Trụ): chưởng quản bảy
mươi hai Địa cầu và bốn Đại Bộ Châu.
Tiên Thiên Hậu Thiên, tịnh dục Đại Từ Phụ: Đức
Thượng Đế từ thời kỳ tiên thiên đến thời kỳ hậu
thiên nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng, phổ tế Tổng Pháp
Tông: Từ xưa đến nay vẫn kính ngưỡng Thượng Đế,
Người gom các Giáo pháp để phổ độ chúng sanh.
60. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 60
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi Quân: Thượng
Đế là vua của mặt Trời, mặt Trăng, các vì sao và thời
thần.
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi Chủ: Ngài là chủ
của Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Trạm tịch chơn Đạo: Đạo Trời chơn chánh sâu xa,
lặng lẽ.
Khôi mịch tôn nghiêm: To lớn và uy nghiêm vô
cùng.
Biến hóa vô cùng, lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế:
Đạo Trời thiên biến vạn hóa, không cùng không tận.
Biết bao nhiêu lần đã truyền kinh sách quí báu để
giác ngộ người đời.
Linh oai mạc trắc, thường thi Thần giáo dĩ lợi
sanh: Cái oai quyền thiêng liêng của Chí Tôn không
thể đo lường được. Chí Tôn đem những giáo điều
diệu mầu để làm lợi ích cho chúng sanh.
Hồng oai, hồng từ, vô cực, vô thượng: Cái oai linh
to lớn, cái lòng đại từ bi của Đức Thượng Đế thật là
61. Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 61
lớn vô ngần, không chỗ nào tận cùng, không còn gì
cao hơn nữa.
Đại Thánh, đại nguyện, đại tạo, đại bi: Đức Ngài
là một vị Đại Thánh, có một tâm nguyện rộng lớn,
một lòng đại từ bi nên Ngài là Đấng Tạo hóa ra Càn
khôn vũ trụ và vạn vật.
Huyền Khung Cao Thượng Đế: Ngài chính là Đức
Huyền Khung Cao Thượng Đế.
Ngọc Hoàng, tích phước hựu tội, Đại Thiên Tôn:
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là một vị Đại Thiên
Tôn đã ban phước, xá tội cho chúng sanh.
*********
62. Bài chúc tụng Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 62
BÀI CHÚC TỤNG NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
(st Kinh Cao Đài)
***
Lạy mừng Từ Phụ Chí Tôn
Xuống ơn phổ tế khắp trong cõi trần
Chúng con gội đức Thiên ân
Tam Kỳ Phổ Độ cứu dân khỏi nàn
Người tu vượt cảnh thiên đàng
Người gìn nhơn đạo hưởng an cõi trần
Biết Thầy, biết Đạo, biết ơn
Biết lo quy hiệp hạ nguơn đến kỳ
Nhờ Thầy cứu khỏi nạn tai
Kỳ Ba Phổ Độ Cao Đài hiệp chung
Ơn Thầy lượng cả thương cùng
Ra tay cứu vớt nạn chung nhơn loài
Chúng con thành khẩn lạy Thầy
Cầu cho nhơn loại gặp ngày Thuấn Nghiêu
Chúng con gắng sức mai chiều
Chung tâm đoàn kết dắt dìu lẫn nhau
63. Bài chúc tụng Ngọc Hoàng Thượng Đế
Trang 63
Huyền Khung xin bố phép mầu
Ban ơn cứu tử khắp bầu nhân gian
Cầu xin phúc tải vạn bang
Cầu Trời ban phước cứu an đại đồng
Cứu đời thoát khỏi diệt vong
Ma ha thánh dược tẩy lòng trần duyên
Cứu con thoát khỏi não phiền
Dạy con tu luyện lánh miền trầm kha
Xin cầu chánh pháp truyền ra
Độ con lánh khỏi phong ba đời cùng
Cúi xin khẩn lạy Chí Tôn
Giúp cho nhơn loại sinh tồn khương ninh.
(Dứt bài niệm)
NAM MÔ HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN.
(lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật)
*********
64. Phật Mẫu Chơn Kinh
Trang 64
PHẬT MẪU CHƠN KINH
(Giọng Nam Xuân)
***
Tạo Hóa Thiên Huyền Vi Thiên Hậu,
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.
Sanh quang dưỡng dục quần nhi,
Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.
Thiên cung xuất Vạn linh tùng pháp,
Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh.
Càn Khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sinh.
Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,
Lập Tam Tài định kiếp hòa căn.
Chuyển luân định phẩm cao thăng.
Hư vô bát quái trị thần qui nguyên.
Diệt tục kiếp trần duyên oan trái,
Chưởng đào tiên thủ giải trường tồn.
65. Phật Mẫu Chơn Kinh
Trang 65
Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
Chí công định vị vĩnh tồn Thiên Cung.
Chủ Âm quang thường tùng Thiên mạng,
Độ chơn thần nhứt vãng nhứt lai.
Siêu thăng phụng liễn qui khai,
Tiên cung Phật xứ Cao Đài xướng danh.
Hội ngươn hữu Chi Linh huấn chúng,
Đại Long Hoa nhơn chủng hòa Ki (là cơ)
Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,
Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên.
Trung khổ hải độ thuyền Bát nhã,
Phước từ bi giải quả trừ căn.
Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,
Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn Chưởng Âm,
Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
Tùng địa chi hóa trưởng Càn khôn.
Trùng huờn phục vị Thiên môn,
66. Phật Mẫu Chơn Kinh
Trang 66
Ngươn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng.
Vô siêu đọa quả căn hửu pháp,
Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan.
Vô địa ngục, vô quỉ quan,
Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên.
Chiếu ngũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam, bắc, đông, tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài,
Diệt hình tà pháp cường khai Đại Đồng.
Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch,
Qui thiên lương quyết sách vận trù.
Xuân Thu, Phất Chủ, Bát vu.
Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn
Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,
Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
Trụ căn quỉ khí cửu tuyền,
Quản khai thiên thượng tạo quyền chí công
67. Phật Mẫu Chơn Kinh
Trang 67
Lịnh Mẫu Hậu khai Tông định Đạo,
Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài
Càn khôn Tạo Hóa sánh tài.
Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.
"Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền
Thiên Cảm Bái"
"Nam mô Đại Từ Bi Năng Hỉ Xả Thiên Hậu, Chí
Tôn, Đại Bi, Đại Ái"
*********
68. Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Trang 68
TÁN TỤNG CÔNG ĐỨC
DIÊU TRÌ KIM MẪU
***
Kể từ hỗn độn sơ khai,
Chí Tôn hạ chỉ trước đài Linh Tiêu.
Lưỡng nghi phân khí hư vô,
Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.
Âm Dương biến tạo Chơn thần.
Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
Mớm cơm vú sữa cũng tay,
Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.
Xét vì nhơn vật lẽ đồng,
Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.
Chí mong hòa hảo âm dương
Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.
Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,
Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
69. Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Trang 69
Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.
Đỉnh chung là miếng treo gương,
Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.
Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,
Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.
Ngồi trông con đặng phi thường,
Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.
Xưa con không thấu cội nhành,
Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.
Từ con cách Mẹ phương trời,
Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.
Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
Ngọc Hư định phép cũng nhiều,
Phái Vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ.
Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.
Đắc truyền khai mối Tam Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.
Chín cô đã sẵn lòng thương,
Mê tân độ chúng bườm trương thoát vòng.
Lục Nương phất phướn truy hồn,
70. Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Trang 70
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
Bát Nương thật đấng chí linh,
Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu,
Nhờ Người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi.
Môn sanh thiện niệm hằng ngày,
Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương.
Đê đầu khấu bái Nương Nương,
Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng.
Niệm:
“Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim
Mẫu”
“Nam Mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu Vị Nữ Phật”
71. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 71
BẮC ĐẨU CHƠN KINH
THIÊN TRUNG BẮC ĐẨU CỔ PHẬT
Tiêu Tai- Diên Thọ-Diệu Kinh Khải thủ
*******
KHẢI KINH THƯỢNG HƯƠNG TÁN
Lư hương sạ nhiệt, pháp giái mông huân. Chư
phật hội thượng tất diêu văn. Tùy xứ kiết tường vân.
Thành ý phương ân chư Phật hiện toàn thân.
NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ TÁT
MAHATÁT
(Đọc 3 lần, lạy 3 lạy)
NAM MÔ DIÊN THỌ HỘI THƯỢNG CHƯ
PHẬT BỒ TÁT
(Đọc 3 lần, lạy 3 lạy)
72. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 72
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa
PHẬT THUYẾT
THIÊN TRUNG BẮC ĐẨU CỔ PHẬT
Tiêu Tai- Diên Thọ-Diệu Kinh
*********
Như thị ngã văn, nhứt thời Phật tại Tịnh Cư
Thiên Cung, tập Chư Thiên chúng. Đế Thích, Phạm
Hoàng, Bát Bộ. Tứ chúng quảng đàn pháp yếu.
Nhĩ thời, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát tùng tòa nhi
khởi, tiền bạch Phật ngôn: Thế Tôn, phục kiến đế
hoàng. Tể phụ quới tiên chúng sanh, tứ tượng ngũ
hành hàm linh xuẩn động, mạt bất giai do Bắc Đẩu
Thất ngươn chi sở chủ tể. Hà cố thị tinh, ư Châu
Thiên Trung, oai quyền oai đức, tối tôn tối thượng?
73. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 73
Duy nguyện Thế Tôn, vị chúng tuyên thuyết,
nhứt thiết nhơn thiên hàm tri qui hướng.
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát
cập chư đại chúng ngôn.
Thiện tai! thiện tai! ngô kim vi nhử cập mạt thế
chúng sanh, ngạo tuyên nhơn do, dữ đương lai thế,
hàm cọng tri chi thị thất ngươn tinh phước bị quần
sanh, ân thi vạn dự công đức giã dả. Vu thời Thế Tôn
tức thuyết Bắc Đẩu thất ngươn cổ phật thánh hiệu
đảnh lễ: (mỗi câu dưới lạy 1 lạy)
Bắc Đẩu Đệ Nhứt: Đại Khôi Dương Minh,
Tham Lang Thái Tinh Quân thị: Đông Phương Tối
Thắng Thế Giái, Vận Ý Thông Chứng Như Lai.
Bắc Đẩu Đệ Nhị: Đại Phược Âm Tinh, Cự Môn
Ngươn Tinh Quân thị: Đông Phương Diệu Bửu Thế
Giái-Quan Âm Tự Tại Như Lai.
Bắc Đẩu Đệ Tam: Đại Quyền Chơn Nhơn Lộc
Tồn Trinh Tinh Quân thị: Đông Phương Viên Châu
Thế Giái-Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
74. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 74
Bắc Đẩu Đệ Tứ: Đại Hoàng Huyền Minh Văn
Khúc Tinh Quân thị: Đông Phương Vô Ưu Thế Giái
-Tối Thắng Kiết Tường Như Lai.
Bắc Đẩu Đệ Ngũ: Đại Tấc Đơn Ngươn Liêm
Trinh Cang Tinh Quân thị: Đông Phương Tịnh Trụ
Thế Giái-Quảng Đại Trí Biện Như Lai.
Bắc Đẩu Đệ Lục: Đại Phu Bắc Cực Võ Khúc Kỷ
Tinh Quân thị: Đông Phương Pháp Ý Thế Giái-Pháp
Hải Du Hí Như Lai.
Bắc Đẩu Đệ Thất: Đại Phiêu Thiên Quang, Phá
Quân Quang Tinh Quân thị: Đông Phương Mãn
Nguyệt Thế Giái, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Bắc Đẩu Đệ Bát: Động Minh Ngoại Phụ Tinh
Quân thị: Tây Phương Diệu Hỷ Thế Giái-Hoa Tàng
Trang Nghiêm Bồ Tát.
Bắc Đẩu Đệ Cửu: Ẩn Quang Nội Bật Tinh Quân
thị: Tây Phương Diệu Viên Thế Giái -An Lạc Tự Tại
Bồ Tát.
75. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 75
Ư thị Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát cập Chư Đại
Chúng Văn Phật khai diễn như thượng kinh chơn
giai thị quá khứ kiết tường thiện thệ Đại Bi Thế
Tôn phổ vị chúng sanh hóa thân thị hiện cát cát
hoan hỷ , đắc vỉ vị tằng hữu, khể thủ xưng tán như
thuyết kệ ngôn:
Đại Thánh chư thiện thệ,
Vô thượng kiết tường tồn,
Quá khứ dĩ tu chứng,
Ly dục siêu thế gian,
Thuỳ từ tứ kiếp hậu,
Lân mẫn chư quần hữu,
Hoá Thân Thiên Trung Chủ,
Bắc Cực Thất Ngươn tôn,
Phụ Bậc cọng quyền hoành,
Chử tể ư vạn vị.
76. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 76
Thiện tai Thích Ca Sư,
Vị chúng cố tuyên thuyết,
Ngã đẳng kim dĩ văn,
Nguyện quảng ư mạt thế,
Như thị Kinh Công Đức,
Cầu Phật tuyên dương.
Nhĩ thời Phật cáo đại chúng: “Nhược hữu thiện
nam tín nữ ý mỗi niên chánh ngoạt, bát nhựt, thất
ngoạt, thất nhựt, cửu ngoạt, cửu nhựt, mỗi ngoạt,
thất, cửu nhựt bổn mạng sanh thình nhựt, trứ tân tịnh
y phục đối tinh tượng tiền, chí tâm xưng niệm Thất
Phật nhị Bồ Tát. Tinh chơn Thánh hiệu, tuỳ tâm sở
cầu, khắc niệm cảm ứng cánh năng bố đăng như
Đẩu, thiết tịnh thuỷ, hương hoa, vu dạ phân thì, kiền
thiền kỳ đảo, hàm đắc toại ý.” Phật cáo Mạn Thù
Thất Lợi, thế gian tể quan, cư sĩ, tăng ni, đạo, tục,
nhược qưới nhược tiện đản hữu Thức Tình, giai
thuộc Bắc Đẩu sở chủ.
77. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 77
Nhược văn thử kinh, thọ trì đọc tụng, thiết tượng
bố đẩu, hương hoa cúng dường, như thị chư nhơn,
lộc vị sùng cao, thọ mạng diên trường, hoạch phước
vô lượng.
Nhược hữu tiên vong, viễn niên cận nhựt, vị
năng siêu độ khủng trệ u đồ, nhược năng trì tụng tư
kinh, thọ tử ấn thị, vong giả sanh Thiên, hiện tồn
hoạch phước.
Nhược hữu Nam Nữ, hoặc bị tà ma sở xâm, quỷ
thần, di hại, ác mộng kinh tích, tâm thần hổn loạn,
thọ trì thử kinh, chuyên tâm cúng dường tà quỷ thối
tán tức đắc an lạc.
Nhược hữu thiên tai ngoạt ách, tật bịnh triền
thân, thọ trì thử kinh, kiêm trì trai giới, tức đắc tai
ách tiêu trừ, bịch nguyên thoát thể.
Nhược hữu mạng phùng ác diệu vận tri oai tinh,
bạo xích nhiệt nhãn ế mô già tình, quan sự khiên
liên, ngục tù cấm hệ, ngũ dạ ác mộng, bá quái cầm
minh, đản năng bố đăng Bắc Đẩu chi tiền, hương
hoa tịnh thuỷ, khóa trì thử kinh, thất biến chí thất,
thất biến, hung ương diển diệt, chư tác kiết tường.
78. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 78
Nhược hữu Nam tử, cầu tự khoa danh, năng ư
tịnh dạ phần hương Bắc Đẩu chi tiền bái tụng thử
kinh thất biến chí bá biến, chúc tự, tức sanh thông
huệ chí nam, chúc danh tức đăng long hổ chi bản.
Nhược hữu điền viên lục súc, canh nậu thiểu
thành, khả ư tịnh thất phần hương, bái tụng thử kinh,
tức đắc điền tâm bội hoạch, súc dưỡng thành quần,
hoặc hữu Nữ nhơn lụy thương thai giáp, lâm sản chí
thì, tâm hoài ưu lự, đản năng hương hoa cúng dường,
trì tụng thử kinh, tức đắc oan gia giải thích, dị ư phân
vãn, mẫu tử đoàn viên, Nam Nữ đoan chánh.
Phật ngôn: Thiện Nam Tử tu trì Bắc Đẩu Cổ
Phật hoằng đại từ bi thị hiện thiên trung, chủ trương
niên mạng, thống lãnh càn khôn, thượng chí Đế
vương dĩ cập Lê thứ, Thiên địa Sơn hà, cầm thú thảo
mộc nhứt thiết giai tuân Thiết Ngươn Tinh Quân Chi
sở quang chiếu.
Nhược hữu tai suy nguy cấp, tức đương bố đăng,
kiền cáo, trì tụng thử kinh, tức hoạch hộ hữu, như ý
kiết tường.
79. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 79
Nhược hữu quốc thổ lâm ư chiến địch, năng trì
thử kinh, tâm vô gián đoạn, thiết lập thánh tượng,
như pháp cúng dường, tức đắc Đẩu khí gia oai,
Thiên cang thuận chiếu, tướng thắng binh cường,
phong đoan mã dõng, tuỳ sở chí phương, ứng hộ
khắc phục. Phật ngôn: Như thị Thất Ngươn Như Lai
cảm ứng vô lượng cùng kiếp nan tuyên, tắc ư thị
trung, nhi thiết chú viết:
" Án hát na, đàng na, tra tra đế, ma ha đế, sất
sất, sất sất đế, hát bát na vị ta bà ha. "
Phật thuyết thử kinh dĩ, Mạn Thù Thất Lợi Bồ
Tát cập chư đại chúng, Thiên Long Bát Bộ Tinh
chơn, quỷ thần cung kỉnh, tác lễ kính thọ phụng
hành. Phật thuyết: Thiên Trung Bắc Đẩu Cổ Phật
tiêu tai diên thọ diệu kinh tán viết: Bắc Cực quang
mang phổ chiếu tứ phương Khôi, Thược, Quyền,
Hành Tắc, Huy Hoàng Phủ, Phiêu, Phụ, Bậc, Cường
khể thủ tuyên dương phước lộc thọ miên trường.
NAM MÔ DIÊN THỌ HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ
TÁT MA HA TÁT ( Đọc 3 lần 3 lạy )
80. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 80
Nguyện dĩ thử kinh công.
Phổ tế ư nhứt thiết.
Lễ đẩu bảo bình an.
Tiêu tai tăng phước thọ.
(1 lạy )
QUAN ÂM KINH TÁN
Phổ môn thị hiện.
Cứu khổ tầm thinh.
Từ bi thuyết pháp độ mê tân.
Phó cãm ứng tùy hình.
Tứ hải thanh minh.
Bát nạn vĩnh vô xâm.
1- Nam mô hiệu Viên Thông danh Tự Tại, Quan
Âm Như Lai, quảng pháp hằng thệ nguyện.
2- Nam mô nhất niệm tâm vô quái ngại, Quan Âm
Như Lai, thường cư Nam Hải nguyện.
3- Nam mô trụ Ta bà U Minh Giái, Quan Âm Như
Lai, tầm thinh cứu khổ nguyện.
4- Nam mô hàng Tà ma, trừ Yêu quái, Quan Âm
như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện.
81. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 81
5- Nam mô thanh tịnh, bình thủy dương liễu, Quan
Âm Như Lai, cam lồ sái tâm nguyện.
6- Nam mô đại từ đại bi năng hỉ xả, Quan Âm Như
Lai, thường hành bình đẳng nguyện.
7- Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như
Lai, thệ diệt tam đồ nguyện.
8- Nam mô vọng nham cẩn lễ bái, Quan Âm Như
Lai, già tỏa giải thoát nguyện.
9- Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quan Âm
Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện.
10- Nam mô tiền tràng phang, hậu bửu cái, Quan
Âm Như Lai, tiếp dẫn tây phương nguyện.
11- Nam mô vô lượng thọ Phật cảnh giới, Quan Âm
Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện.
12- Nam mô đoan nghiêm thân, vô tỉ trại, Quan Âm
Như Lai, quả tu thập nhị nguyện.
*********
82. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 82
PHẬT NÓI THẤT TINH
CHƠN NGÔN THẦN CHÚ
***
Úm, Táp Đá Nhi Nẵng Giả, Bán Nhá Mật Nhá
Giả, Nhiễm Phổ Tha, Ma Ta Phạ, Nhị Nẵng Ra Khất
Sơn Bà Phạ Đô Xóa Ha (108 lần).
1. Tham Lang tinh (sao Tham Lang). Người sanh giờ
Tý hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu gặp
nguy nạn, nên dùng món ăn gạo, lúa mạch cúng
dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại
kiết.
2. Cự Môn tinh (sao Cự Môn). Người sanh giờ Sửu,
giờ Hợi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh.
Nếu khi gặp nguy nạn, nên dùng món ăn lúa, nếp
cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được
đại kiết.
3. Lộc tồn tinh (sao Lộc Tồn). Người sanh giờ Dần,
giờ Tuất đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh.
Nếu khi gặp hoạn nạn, nếu dùng món ăn lúa tẻ cúng
83. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 83
dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại
kiết.
4. Văn Khúc tinh sao (sao Văn Khúc). Người sanh
giờ Mẹo, giờ Dậu đồng hướng nơi vị tinh tú này mà
hạ sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt
đậu nhỏ cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù
thì được đại kiết.
5. Liêm Trinh tinh (sao Liêm Trinh). Người sanh giờ
Thìn, giờ Thân đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ
sanh. Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt mè
cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được
đại kiết.
6. Vũ Khúc tinh (sao Vũ Khúc). Người sanh giờ Tỵ,
giờ Mùi đồng hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh.
Nếu khi gặp hoạn nạn nên dùng món ăn hạt đậu lớn
cúng dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được
đại kiết.
7. Phá Quân tinh (sao Phá Quân). Người sanh giờ
Ngọ hướng nơi vị tinh tú này mà hạ sanh. Nếu khi
gặp hoạn nạn, nên dùng món ăn hạt đậu nhỏ cúng
84. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 84
dường kinh này và đeo bổn Tinh Phù thì được đại
kiết.
Tụng trì Thần chú dưới đây:
Phạn: Om Saptayinaya Banja Viyaya
yamputhama svamine Raksam Bhavalu
Soaha.
Hán Việt: Úm táp đá nhi nẵng dã, bán nhá mật
nhá dã, nhiễm phổ tha ma tap ha nhị nẵng ra
khất sơn bà phạ đô xóa ha.
Nếu có người mỗi ngày tụng Thần chú này quyết
định tội nghiệp thảy đều tiêu trừ và tất cả sở nguyện
cầu đều được thành tựu. Nếu mỗi ngày tụng Thần
chú này 108 biến, thân mình và tất cả quyến thuộc
đều được phò hộ. Nếu tụng 500 biến được sức đại
oai thần trong 500 do tuần, tất cả ma vương, các ma
chúng, kẻ chướng ngại và vô lượng ác quỷ không
dám gần gũi, thường được ủng hộ.
ẤN TRIỆU THỈNH BẮC ĐẨU THẤT TINH:
Chắp tay trống ở giữa, 2 ngón cái vịn đầu móng ngón
vô danh, 2 ngón giữa và 2 ngón út như lá sen, 2 ngón
85. Bắc Đẩu Chơn Kinh
Trang 85
trỏ hơi cong đầu lại để cách khoảng qua lại tụng Chú
Đảnh Luân Chơn Ngôn trước rồi sau đó mới triệu
thỉnh Bắc Đẩu.
ẤN KHI TỤNG CHÚ BẮC ĐẨU THẤT TINH
DIÊN MẠNG:
Hai tay, 2 ngón giữa và 2 ngón cái vịn nhau, 2 ngón
vô danh hợp lại trước mặt 2 ngón út, 2 ngón trỏ thẳng
đứng.