SlideShare a Scribd company logo
1 of 18
Download to read offline
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 1
(trích dịch từ cuốn Pháp Luân Công)
Chương IV:
Pháp Luân Công công pháp
Pháp Luân Công là một pháp môn tu luyện Phật gia đặc thù. Trong đó có những nét độc đáo khác với
các phương pháp tu luyện Phật gia thông thường khác. Bởi vì công pháp này là Đại Pháp tu luyện
thượng thừa, trong quá khứ nó là pháp tu luyện yêu cầu người có tâm tính cực cao hoặc học viên đại
căn cơ, do vậy không dễ phổ cập. Tuy nhiên để có nhiều người luyện công hơn nữa đạt đến cao tầng,
hiểu rõ được pháp môn, đồng thời đáp ứng mong mỏi của quảng đại những người có chí tu luyện, do
vậy [tôi] đã chỉnh lý thành một bộ thích hợp cho việc phổ cập cho công chúng. Tuy thế nó vẫn vượt xa rất
rất nhiều so với các công pháp thông thường khác về những điều giảng dạy và về tầng.
Người học Pháp Luân Công không những rất mau chóng tăng trưởng công lực và công năng, mà trong
một thời trong một thời gian ngắn có được một Pháp Luân uy lực không gì sánh được. Sau khi hình
thành, Pháp Luân ở tại vị trí bụng dưới tự xoay chuyển không ngừng; liên tục từ vũ trụ thu thập và diễn
hoá năng lượng, cuối cùng ở trong bản thể của người tu luyện chuyển hoá thành công. Như thế đạt
được mục đích “Pháp luyện người”.
Công pháp này có năm bộ động tác tất cả: Phật triển thiên thủ Pháp1
, Pháp Luân trang Pháp2
, Quán
thông lưỡng cực Pháp3
, Pháp Luân châu thiên Pháp4
, và Thần thông gia trì Pháp5
.
Tất cả các chú thích đều của người dịch, chỉ để tham khảo. Đây là bản trích dịch không chính thức trên
Internet vào tháng 11, 2001.
1. Phật triển thiên thủ Pháp: bài Phật mở nghìn tay.
2. Pháp Luân trang Pháp: bài Pháp luân đứng.
3. Quán thông lưỡng cực Pháp: bài thông suốt hai cực.
4. Pháp Luân châu thiên Pháp: bài Pháp Luân châu thiên.
5. Thần thông gia trì Pháp: bài gia trì thần thông.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 2
Bài 1: Phật triển thiên thủ Pháp
{bài Phật mở nghìn tay}
Công lý: Cốt lõi của bài “Phật triển thiên thủ Pháp” là chùng [và] căng, làm trăm mạch đều thông. Đối với
người mới học khí công mà xét, thì thông qua luyện công [này] có thể đắc khí rất mau; đối với người đã
từng luyện công mà xét, thì có thể mau chóng nâng cao. Bộ công pháp này ngay lập tức yêu cầu trăm
mạch đều thông, để người luyện công đứng ngay tại tầng rất cao mà luyện. Động tác của công pháp này
tương đối đơn giản, bởi vì Đại Đạo là chí giản chí dị1
; động tác tuy đơn giản, nhưng từ mức nhìn rộng
mà xét thì nó khống chế toàn bộ công pháp những thứ cần luyện xuất được. Khi học luyện công này, thì
cảm giác thấy thân thể phát nhiệt, cảm thụ một cách đặc thù được trường năng lượng rất mạnh mẽ, bởi
vì [nó] triển khai và khơi thông những thông đạo khí của toàn cơ thể. Mục đích là đả thông những chỗ
khí bị tắc nghẽn, thông suốt không ngăn, điều động khí vận động mạnh nóng bên trong [thân] thể và
dưới da, hô hấp lớn mạnh những năng lượng trong vũ trụ; đồng thời đưa người luyện công nhanh chóng
tiến nhập vào trạng thái ở trong trường năng lượng khí công. Công pháp này đóng vai trò công pháp
luyện cơ sở của Pháp Luân Công; mỗi khi luyện công, thông thường luyện công pháp này trước tiên; nó
là một phương pháp tăng cường tu luyện.
Quyết2
: Thân thần hợp nhất, động tĩnh tuỳ cơ;
Đỉnh thiên độc tôn, thiên thủ Phật lập.
Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải; bàn chân cách rộng bằng vai, đứng thẳng tự
nhiên; hai chân cong một chút, đầu gối và đùi ở trạng thái [hơi] khuỵ; cằm hơi thu vào, lưỡi chạm hàm
trên, hai hàm răng hơi cách nhau chút xíu, môi đóng kín, hai mắt nhắm khẽ, mang theo [ý] niệm giữ nét
mặt hoà nhã. Trong khi luyện công sẽ cảm giác bản thân mình rất cao lớn.
Lưỡng thủ kết-ấn3
: Hai tạy nâng lên, lòng bàn tay hướng lên trên, hai đầu ngón tay cái tiếp xúc nhẹ vào
nhau, bốn ngón tay kia xếp chồng lên nhau; nam tay trái ở trên, nữ tay phải ở trên, tạo thành hình bầu
dục; đặt ở chỗ bụng dưới; để hai bắp tay hơi hướng về phía trước, hai cùi trỏ hướng lên, sao cho chỗ
nách có khoảng trống (như hình 1-1).
1. Chí giản chí dị: vô cùng giản dị, giản dị nhất.
2. Quyết: khẩu quyết, nhẩm đọc một lần trước khi tập.
3. Lưỡng thủ kết ấn: hai tay ở thế kết-ấn.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 3
Di lặc thân yêu1
: Từ khởi thế là kết-ấn, hay tay kết-ấn nâng lên; thuận theo tay dâng lên, hai chân cũng
dần dần duỗi ra; đến lúc hay tay nâng đến ngang đầu thì kết-ấn dần dần mở ra, bàn tay dần dần xoay
chuyển hướng lên trên; khi lên đến đỉnh đầu, thì lòng bàn tay hướng lên trên; mười ngón tay chỉ vào
nhau, đầu ngón tay cách nhau 20-25cm (như hình 1-2). Đồng thời lúc ấy đầu dựng [thẳng] lên, hai chân
dẫm xuống, thân thể thẳng tắp; dùng lực ở hai chưởng căn2
ấn lên; toàn thân dần dần căng thẳng; căng
chừng 2-3 giây; rồi toàn thân lập tức thả lỏng, đặc biệt là đầu gối và chân trở về trạng thái thả lỏng.
Như Lai quán đỉnh3
: Làm tiếp theo động tác trên, hai tay đồng thời xoay bàn tay ra ngoài 140 độ, hai
tay tạo thành “hình cái phễu”; cổ tay lỏng bàn đưa bàn tay xuống (như hình 1-3). Hay bàn tay xuống đến
ngực thì tay cách ngực khoảng 10cm; tiếp tục vận động hạ xuống đến vị trí bụng dưới (như hình 1-4).
1. Di Lặc thân yêu: Di Lặc duỗi lưng; thân nghĩa là duỗi ra.
2. Chưởng căn: gốc bàn tay, nơi nối với cổ tay.
3. Như Lai quán đỉnh: Như Lai tưới vào đầu; quán nghĩa là tưới vào.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 4
Song thủ hợp-thập1
: Hai tay ở vị trí bụng dưới, lập tức nâng lên trước ngực làm thế “hợp-thập” (như
hình 1-5). Khi hợp-thập thì ngón tay gắn chặt ngón tay, chưởng căn gắn chặt chưởng căn, có khoảng
trống giữa lòng bàn tay, hai cùi trỏ hướng lên, hai cánh tay dưới tạo thành một đường thẳng (ngoại trừ
thế “hợp-thập” và “kết-ấn” ra, đều [để bàn tay] ở thế “liên-hoa chưởng”2
, [các động tác khác] dưới đây
cũng như thế).
Chưởng chỉ càn khôn3
: Từ khởi thế là “hợp-thập”, hai bàn tay tách ra, cách nhau khoảng 2-3cm, đồng
thời bắt đầu xuay bàn tay, nam tay trái ở trên (nữ tay phải ở trên); hướng chỗ ngực xoay chuyển, tay
phải xoáy ra ngoài ngực, sao cho tay trái ở trên, tay phải ở dưới, và cánh tay tạo thành hình chữ “nhất”
(như hình 1-6). Tiếp đó cánh tay trái triển khai sang bên trái nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống
dưới, bàn tay cao bằng đầu; tay phải vẫn ở trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên; thuận theo tay trái
dần dần đạt đến vị trí, thì toàn thân cũng dần dần duỗi thẳng, đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống;
tay trái duỗi thẳng sang trái nghiêng lên trên; tay phải ở trước ngực, bắp tay duỗi ra ngoài (như hình 1-
7). Duỗi căng trong khoảng 2-3 giây, rồi lập tức thả lỏng toàn thân; tay trái lại thu về trước ngực cùng với
tay phải tạo thành thế “hơp-thập”. Sau đó lại xoay chuyển bàn tay, tay phải (nữ là tay trái) ở trên, tay trái
ở dưới (như hình 1-8). Tay phải lặp lại động tác của tay trái lúc trước; cánh tay phải triển khai sang bên
phải nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống, tay cao bằng đầu; tay trái vẫn ở trước ngực, lòng bàn
tay hướng lên trên. Sau khi duỗi căng (như hình 1-9), toàn thân lập tức thả lỏng. [Rồi] sau khi hai tay thu
về ở trước ngực [tạo thành] “hợp-thập” (như hình 1-5).
Kim hầu phân thân4
: Từ khởi thế “hợp-thập”; hai tay tách ra duỗi sang hai bên, cùng với vai tạo thành
hình chữ “nhất”; toàn thân dần dần duỗi thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dậm xuống đất; dụng lực
vào hai tay ở hai bên, lực tách làm bốn (như hình 1-10). Duỗi căng trong 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức
thả lỏng; hai tay thu hồi “hợp-thập” trước ngực.
Song long hạ hải5
: Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tách ra hướng về đằng trước duỗi xuống dưới, hay tay
song song, duỗi thẳng ra, tạo với bắp chân một góc 30 độ (như hình 1-11). Toàn thân dần dần duỗi căng
thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dẫm xuống dưới; căng thẳng trong khoảng 2-3 giây, [rồi] toàn thân
lập tức thả lỏng; tay lại thu về, “hợp-thập” trước ngực.
Bồ Tát phù liên6
: Từ khở thế “hợp-thập”, sang hai bên thân thể và nghiêng xuống dưới duỗi ra; khi tay
sang hai bên rồi, thì cánh tay cũng thẳng ra tạo với hai bên phải trái của thân thể góc 30 độ (như hình 1-
1. Song thủ hợp thập: hai tay ở thể hợp-thập.
2. Liên hoa chưởng: bàn tay sen; tức là bàn tay để xuôi ra với ngón giữa hơi nhíu vào trong một chút,
hãy quan sát các hình ảnh thật kỹ.
3. Chưởng chỉ càn khôn: bàn tay chỉ trời đất, càn khôn vũ trụ.
4. Kim hầu phân thân: khỉ vàng phân thân.
5. Song long hạ hải: hai rồng xuống biển.
6. Bồ Tát phù liên: Bồ Tát dìu sen; liên nghĩa là hoa sen.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 5
12). Lúc này, toàn thân dần dần căng thẳng, ngón tay dụng lực hướng xuống dưới; sau đó toàn thân lập
tức thả lỏng, hai tay thu về hợp thập trước ngực.
.
La Hán bối sơn1
: Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tay tách ra, duỗi về phía sau thân thể, đồng thời lòng bàn
tay xoay hướng về phía sau; khi tay đến bên thân thì dần dần xoay móc cổ tay lên; cổ tay quá về sau
thân thể, cổ tay tạo thành góc 45 độ (như hình 1-13). Toàn thân dần dẫn duỗi căng thẳng; sau khi tay
đến vị trí, thì đầu dựng [thẳng] lên, hai chân đạp xuống, thân thể rất thẳng; duỗi thẳng trong 2-3 giây; [rồi]
toàn thân lập tức thả lỏng. Lại thu tay về, trở lại “hợp-thập” trước ngực.
Kim cương bài sơn2
: Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tay tách ra, hướng về phía trước [như là] đẩy núi,
ngón tay chỉ lên trên; cánh tay cao bằng vai, khi cánh tay duỗi xong, dùng lực căng thẳng ra, đầu dựng
[thẳng] lên, hai chân dẫm xuống, thân thể thẳng tắp (như hình 1-14). Căng duỗi trong 2-3 giây, [rồi] toàn
thân lập tức thả lỏng, hai tay thu về “hợp-thập” trước ngực.
1. La Hán bối sơn: La Hán vác núi trên lưng.
2. Kim cương bài sơn: Kim Cương đẩy núi.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 6
Diệp khấu tiểu phúc1
: Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tay từ tốn đưa xuống, lòng bàn tay chuyển hướng
vào bụng; khi tay xuống đến chỗ bụng dưới thì hai bàn tay chồng trùng vào nhau, nam tay trái để trong,
nữ tay phải để trong, lòng bàn tay này hướng vào mu bàn tay kia. Khoảng cách giữa hai tay và khoảng
cách giữa tay và bụng dưới là 3cm, thời gian xếp chồng là 40-100 giây (như hình 1-15). Thu thế: lưỡng
thủ kết ấn.
1. Diệp khấu tiểu phúc: xếp vàp bụng dưới.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 7
Bài 2: Pháp Luân trang Pháp
{bài Pháp Luân đứng}
Công lý: Công pháp này là bộ công pháp thứ hai của Pháp Luân Công, [nó] thuộc về tĩnh trang pháp1
.
[Nó] có tất cả bốn động tác bão luân2
tạo thành; các động tác này tương đối đơn điệu; tuy nhiên mỗi
động tác lại yêu cầu luyện trong thời gian rất lâu. Người mới học trạm trang, khi bắt đầu học sẽ thấy bắp
tay rất nặng, rất đau; nhưng khi luyện xong lại cảm giác thấy thân thể nhẹ nhàng, không có cảm giác
[của sự] mệt mỏi sau khi làm việc. Tuỳ theo thời gian [luyện] nâng lên, và số lần luyện công tăng lên, thì
ở chỗ hai bắp tay sẽ xuất hiện [cảm giác] “Pháp Luân” đang xoay chuyển. Thường xuyên luyện Pháp
Luân trang Pháp có thể làm toàn thân toàn bộ thông suốt, gia tăng công lực. “Pháp Luân trang Pháp”
thuộc về phương pháp tăng huệ, nâng cao tầng, gia trì thần thông; công tuy đơn giản, nhưng những thứ
luyện ra được rất nhiều, rất toàn diện. Động tác của công pháp này cần tự nhiên; bản thân mình cần
phải biết mình đang luyện công, không được lắc động; [tuy nhiên] có động chút ít thì bình thường. Công
pháp này cũng giống những công pháp khác của Pháp Luân Công, luyện xong không thu công; bởi vì
Pháp Luân thường chuyển không thể thu dừng; yêu cầu thời gian luyện mỗi động tác là tuỳ vào người
[tập], càng lâu càng tốt.
Quyết: Sinh huệ tăng lực, dung tâm khinh thể;
Tự diệu tự ngộ, Pháp Luân sơ khởi.
Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách rộng bằng vai, đứng thẳng tự
nhiên, hai chân hơi chùng xuống, đầu gối và đùi ở trạng thái hơi khuỵ; cằm dưới hơi thu vào, lưỡi chạm
hàm trên, hai hàm răng hơi cách nhau một chút, môi ngậm kín, hai mắt nhắm khẽ; mang [ý] niệm giữ nét
mặt hoà nhã, lưỡng thủ kết ấn (như hình 2-1).
Đầu tiền bão luân3
: Từ khởi thế kết-ấn, hai tay từ trước bụng từ từ dâng lên, [đồng thời] theo đó mà mở
kết-ấn ra. Đến khi hai tay nâng đến trước đầu, thì lòng bàn tay hướng vào mặt, cao độ bằng lông mày;
mười ngón tay chỉ vào nhau, cự ly của đầu các ngón tay khoảng 15cm; hai cánh tay ôm [thành] hình
tròn, toàn thân thả lỏng (như hình 2-2).
Phúc tiền bão luân4
: Hai tay từ trạng thái “đầu tiền bão luân” từ từ hạ dần xuống, không thay đổi tư thế,
hạ xuống đến vị trí bụng dưới, tay cách bụng dưới khoảng 10cm, hai cùi trỏ hướng lên, chỗ nách có
khoảng trống, lòng bàn tay ngửa lên; mười ngón tay chỉ vào nhau, khoảng cách giữa các ngón tay
khoảng 10cm, hai cánh tay ôm hình tròn (như hình 2-3).
1. Tĩnh trang pháp: bài đứng tĩnh lặng,
2. Bão luân: ôm bánh xe; bão nghĩa là ôm giữ.
3. Đầu tiền bão luân: ôm bánh xe phía trước đầu.
4. Phúc tiền bão luân: ôm bánh xe phía trước bụng.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 8
Đầu đỉnh bão luân1
: Từ khởi thế “phúc tiền bão luân”, tư thế không đổi, hai tay dần dần nâng lên đến
đỉnh đầu; làm đầu đỉnh bão luân. Mười ngón tay chỉ vào nhau, lòng bàn tay hướng xuống dưới, khoảng
cách các ngón tay là 20-30cm. Hai cánh tay bao thành hình tròn; vai, bắp tay, cùi trỏ, cổ tay đều hoàn
toàn thả lỏng (như hình 2-4).
Lưỡng trắc bão luân2
: Từ thế “đầu đỉnh bão luân” hai tay hạ xuống, sang hai bên đầu; lòng bàn tay
hướng vào hai tai; hai vai buông lỏng; cánh tay dưới để dựng đứng; khoảng cách giữa tay và tai không
được gần quá (như hình 2-5).
Diệp khấu tiểu phúc: Từ thế “lưỡng trắc bão luân” hai tay hạ xuống; hạ xuống đến chỗ bụng dưới và
xếp chồng lên nhau (hình 2-6). [Sau đó] thu về thế lưỡng thủ kết ấn.
1. Đầu đỉnh bão luân: ôm bánh xe trên đỉnh đầu.
2. Lưỡng trắc bão luân: ôm bánh xe ở hai bên.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 9
Bài 3: Quán thông lưỡng cực Pháp
{bài thông suốt hai cực}
Công lý: Công pháp này là để quán thông khí của vũ trụ với khí ở trong thân thể; thổ nạp1
một lượng
lớn; cho phép người tu luyện trong một thời gian ngắn, có thể bài xuất khỏi thân thể những khí bệnh, khí
đen, rồi lấy vào đó một lượng lớn khí vũ trụ, tịnh hoá thân thể; mau chóng đến được trạng thái “tịnh bạch
thể”2
. Ngoài ra công này trong khi xung quán3
có thể “khai đỉnh”, và cũng trong khi xung quán có thể đả
khai đường thông đạo ở dưới chân.
Trước khi luyện công niệm nghĩ một chút rằng bản thân như hai cái thùng rỗng rất cao lớn, đỉnh thiên lập
địa4
, cao lớn không gì sánh được. Khí bên trong thân thể vận động tuỳ theo tay lên xuống; [khi] xông ra
khỏi đỉnh [đầu], đạt cho đến chỗ cao nhất của vũ trụ; còn khí xông xuống thì từ chân xông xuống, xông
đến tận chỗ thấp nhất của vũ trụ. Sau đó tuỳ theo tay vận động, khí ở hai cực phản hồi vào trong thân
thể, rồi lại phóng xuất ra; đi lại tất cả chín lần. Vào lần tưới thứ chín, thì tay trái (nữ là tay phải) ở cực
trên đợi tay phải (nữ là tay trái) đi lên. Sau đó hai tay đồng thời thâu hồi quán nhập xuống cực phía dưới,
sau đó lại xung quán hướng lên trên thân thể; lặp lại như thế tất cả chín lần, và thu hồi về. Sau khi thu
hồi, ở bên ngoài chỗ bụng dưới xoay chuyển Pháp Luân theo chiều kim đồng hồ5
xoay chuyển khí ở
phía ngoài hồi về cơ thể; sau đó kết định-ấn; luyện xong thu thế không thu công.
Quyết: Tịnh hoá bản thể, Pháp khai đỉnh để;
Tâm từ ý mãnh, thông thiên triệt địa.
Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai
chân hơi cong chùng, đầu gối và đùi ở trạng thái buông khuỵ chút xíu; cằm dưới hơi thu vào một chút,
lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi hé chút xíu; miệng ngậm kín, mắt nhắm khẽ; mang theo [ý] niệm
khuôn mặt hoà nhã. Lưỡng thủ kết-ấn, [rồi] hợp-thập (như hình 3-1 và 3-2).
Đơn thủ xung quán6
: Từ khởi thế hợp-thập, làm động tác tay xung lên quán xuống, tay thuận theo khí
cơ bên ngoài thân thể mà từ từ chuyển động; khí bên trong cơ thể cùng thuận theo tay mà chuyển động
1. Thổ nạp: ra vào, thổ là đưa ra, nạp là nạp vào,
2. Tịnh bạch thể: thân tịnh trắng.
3. Xung quán: tưới mạnh vào, xung mạnh lên.
4. Đỉnh thiên lập địa: đứng ở đất đỉnh chạm trời.
5. Quay theo chiều kim đồng hồ nếu tính là đứng từ phía trước mặt nhìn vào.
6. Đơn thủ xung quán: xung quán từng tay đơn.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 10
lên xuống. Nam tay trái lên trước (như hình 3-3), nữ tay phải lên trước. Tay từ chỗ bên cạnh đầu dần
dần xung lên, vượt hết đỉnh đầu, đồng thời tay phải (nữ là tay trái) cũng từ từ quán hạ xuống. Sau đó
luân phiên lặp đi lặp lại (như hình 3-4). Hai lòng bàn tay đều hướng vào thân thể, giữ khoảng cách với
thân thể ở cự ly 10cm. Khi thực hiện, toàn thân cần thả lỏng; [mỗi] tay lên rồi xuống tính là một lần, xung
quán tổng cộng chín lần.
Song thủ xung quán1
: Khi đơn thủ xung quán đến lần thứ chín, khi để tay trái (nữ là tay phải) ở bên
trên, thì đưa tay kia lên, nghĩa là, hai tay cùng ở vị trí xung lên ở trên (như hình 3-5). Sau đó hai tay đồng
thời xung quán xuống dưới (như hình 3-6). Khi lưỡng thủ xung quán, lòng bàn tay hướng vào thân thể,
cách thân thể khoảng 10cm; tay đưa lên rồi xuống tính là một lần, cộng làm chín lần xung quán.
1. Song thủ xung quán: xung quán hai tay.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 11
Song thủ suy động Pháp Luân1
: Sau khi hoàn thành lần thứ chín, hai tay đã đang ở trên quá đầu, rồi
hạ xuống qua đầu, ngực, cho đến chỗ bụng dưới, hạ liền cho đến chỗ bụng dưới. Tại chỗ bụng dưới này
đẩy chuyển Pháp Luân (như hình 3-7, 3-8, và 3-9). Nam để tay trái ở trong, nữ để tay phải ở trong. Cự ly
giữa hai tay, cự ly giữa tay và bụng dưới ước lượng là 4cm, thuận theo chiều kim đồng hồ xoay chuyển
Pháp Luân bốn lần, để năng lượng bên ngoài thân xoáy hồi vào trong thân. Khi xoay Pháp Luân hai tay
cần phải [chuyển động] trong phạm vi bụng dưới.
Lưỡng thủ kết ấn: (như hình 3-10).
1. Song thủ suy động Pháp Luân: hai tay đẩy Pháp Luân chuyển động.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 12
Bài 4: Pháp Luân châu thiên Pháp
{bài Pháp Luân châu thiên}
Công lý: Công pháp này làm cho năng lượng trong thân thể con người lưu động trên một điện rộng;
không phải chạy một mạch hay một vài mạch, mà là toàn diện phía âm thân thể tuần hoàn đến phía
dương, rồi lại quay lại không ngừng; [nó] vượt hơn hẳn các [phương] pháp thông mạch thông thường,
hoặc tiểu châu thiên, đại châu thiên. Công pháp này thuộc về công pháp trung tầng của Pháp Luân
Công. Trên cơ sở ba bộ công pháp bên trên, thông qua việc luyện công pháp này có thể đả khai rất mau
lẹ các mạch khí ở toàn thân (gồm cả đại châu thiên), do từ trên xuống dưới thông khắp toàn thân. Đặc
điểm lớn nhất của công pháp này là dùng sự xoay chuyển của “Pháp Luân” để chỉnh lại những trạng thái
chưa đúng đắn ở thân thể, đưa thân thể con người - tiểu vũ trụ - quy về trạng thái sơ thuỷ ban đầu, làm
cho các mạch khí toàn thân thông suốt vô ngại. Khi luyện đến trạng thái này, trong tu luyện tại thế-gian-
pháp đã đạt đến tầng rất cao, người đại căn khí có thể tiến nhập vào tu luyện Đại Pháp. Lúc ấy, công
năng và thần thông đều tăng mạnh. Khi luyện, tay chuyển động thuận theo khí cơ, động tác cần hoãn-
mạn-viên1
.
Quyết: Toàn Pháp chí hư, tâm thanh tự ngọc;
Phản bổn quy chân, du du tự khởi.
Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách nhau bằng vai, đứng thẳng tự
nhiên, hai chân hơi cong chùng, đầu gối và đùi ở trạng thái hơi khuỵ một chút; cằm dưới hơi thu vào,
lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng cách nhau một tí, miệng ngậm kín, hai mắt nhắm khẽ, mang niệm nét
mặt hoà nhã.
Lưỡng thủ kết-ấn, [xong rồi] hợp-thập (như hình 4-1 và 4-2).
Hai tay vừa tách khỏi trạng thái “hợp-thập”, vừa đưa xuống phía bụng dưới, đồng thời xoay hai bàn tay
để lòng bàn tay hướng vào thân thể. Cựu ly giữa tay và thân thể khoảng 10cm; qua chỗ bụng dưới rồi
duỗi tiếp xuống chỗ trong hai chân, thuận theo mặt trong chân mà đi xuống, đồng thời cong lưng ngồi
xổm xuống (như hình 4-3). Khi ngón tay gần tiếp mặt đất, thì tay từ đầu chân, sang bên mép ngoài bàn
chân, vòng một vạch đến tận bên ngoài gót chân (như hình 4-4).
Sau đó hai cổ tay hơi cong một chút , dần dần men theo bên ngoài, đằng sau bắp chân nần dần lên
(hình 4-5).
Vừ nâng hai tay lên ở đằng lưng, vừa thẳng lưng ra (như hình 4-6).
Trong toàn bộ Pháp Luân châu thiên Pháp, hai tay không được chạm vào bất kể chỗ nào trên thân thể,
nếu không năng lượng ở trên hai tay sẽ quay trở về thân thể. Khi hai tay đến chỗ không thể nâng lên
1. Hoãn → hoà hoãn từ tốn; mạn → chậm rãi; viên → tròn trịa.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 13
được nữa, thì làm một nắm tay rỗng (như hình 4-7). Từ chỗ nách đưa ra bắt chéo hai tay trước ngực
(không có yêu cầu đặc biệt tay nào trên tay nào dưới, tuỳ theo thói quen, không phân biệt nam nữ) (như
hình 4-8). Buông mở hai nắm tay, hai bàn tay ở trên vai (có cách ra). Kéo sát theo phía dương (bên
ngoài) của cánh tay trên và cánh tay dưới, cho đến chỗ cổ tay, để hai lòng bàn tay xoay mặt vào nhau,
sao cho ngón cái tay bên ngoài xoay chỉ lên trên, ngón cái tay bên trong xoay chỉ xuống dưới; cự ly hai
bàn tay khoảng 3-4cm; lúc này hai tay tạo thành hình chữ “nhất” (như hình 4-9).
Hai bàn tay xoay như nâng quả cầu, tay ở trong xoay ra ngoài, tay ngoài xoay vào trong. Sau đó vừa hai
tay đẩy dọc theo phía âm (mặt trong) của cánh tay dưới và cánh tay trên, vừa đưa hai tay qua đầu (như
hình 4-10). Hai tay qua đầu xong; hai tay ở trạng thái chéo nhau; tiếp tục chuyển động về phía xương
sống (như hình 4-11). Hai tay tách khỏi [trạng thái] chéo nhau, ngón tay chỉ xuống dưới và tiếp [nối] với
năng lượng đằng lưng; lại chuyển động hai tay một cách song song vòng qua đầu đến trước ngực (như
hình 4-12).
Như thế là một [lần] tuần hoàn châu thiên, [thực hiện] tổng cộng chín lần. Hoàn thành chín lần xong, đưa
tay xuống chỗ bụng dưới.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 14
Diệp khấu tiểu phục (như hình 4-13), [rồi] lưỡng thủ kết ấn (như hình 4-14).
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 15
Bài 5: Thần thông gia trì Pháp
{bài gia trì thần thông}
Công lý: “Thần thông gia trì Pháp” thuộc về pháp tu luyện tĩnh công của Pháp Luân Công, là pháp luyện
công đa mục đích sử dụng các “Phật” thủ ấn để chuyển “Pháp Luân” gia trì thần thông (gồm cả công
năng) và công lực. Pháp này thuộc về công Pháp từ trung tầng trở lên, nguyên là pháp bí luyện1
. Để đáp
ứng yêu cầu của những người [luyện công] đã có cơ sở nhất định, [tôi] đặc cách truyền xuất công pháp
này ra, để chuyên độ những người có duyên. Công pháp này yêu cầu luyện trong khi bàn toạ, tốt nhất là
song bàn, còn dùng đơn bàn thì cũng tạm khả dĩ2
. Khi tu luyện thì khí lưu [chuyển] tương đối mạnh,
trường năng lượng bên ngoài tương đối lớn. Động tác thực hành thuận theo khí cơ của Sư phụ [đã cấp].
Khi khởi thủ3
thì ý đặt vào động tác, khi gia trì thần thông thì ý [rỗng] không, tiềm ý thức hơi tí tẹo đặt ở
hai bàn tay. Lòng bàn tay có nhiệt, nặng, có điện tê, cảm giác như có vật. Nhưng không được dụng ý
truy cầu, mà tuỳ kỳ tự nhiên4
. Thời gian bàn toạ càng lâu càng tốt, căn cứ theo công đê nhi định5
, thời
gian càng lâu, cường độ càng lớn, xuất công càng nhanh. Khi luyện công (không nghĩ gì hết, không có ý
niệm nào cả) dần dần nhập tĩnh. Từ trạng thái động công tự tĩnh phi định6
dần dần nhập định. Tuy nhiên
chủ ý thức biết rằng mình đang luyện công.
Quyết: Hữu ý vô ý, ấn tuỳ cơ khởi,
Tự không phi không, động tĩnh như ý.
Lưỡng thủ kết ấn: Song bàn đả toạ, toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, lưng ngay cổ thẳng, cằm
dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hé mở một chút xíu, môi miệng ngậm khít, hai mắt nhắm khẽ,
tâm sinh từ bi, ý nét mặt hoà nhã. Hai tay kết-ấn tại chỗ bụng dưới, dần dần nhập tĩnh (như hình 5-1).
Thủ ấn chi nhất7
: (khi khởi thủ, ý đặt vào chuyển động, thuận theo khí cơ của Sư phụ cài mà thực hành,
yêu cầu hoãn-mạn-viên). Hai tay từ trạng thái kết ấn dần dần đưa lên; lên đến trước đầu thì quay bàn tay
hướng lên trên; khi bàn tay hướng hẳn lên trên thì nó cũng đạt đến điểm cao nhất (như hình 5-2). Tiếp
theo tách hai bàn tay, vạch một vòng cung trên đỉnh đầu, chuyển động sang hai bên, chuyển tiếp cho
đến bên biên trước của đầu (như hình 5-3). Ngay tiếp đó hai tay dần dần hạ xuống, hai cùi trỏ hướng
vào trong, lòng hai bàn tay hướng lên trên, ngón tay chỉ về phía trước (như hình 5-4).
Sau đó hai cổ tay vừa duỗi thẳng ra, vừa bắt chéo trước ngực. Nam tay trái ở ngoài, nữ tay phải ở ngoài
(như hình 5-5). Khi từ bắt chéo nhau chuyển thành chữ “nhất”; đối với tay bên ngoài: cổ tay xoay ra
ngoài, vừa hướng lòng bàn tay lên trên, vạch một hình bán nguyệt lớn, trở thành lòng bàn tay hướng lên
1. Bí luyện: tu luyện bí mật.
2. Bàn toạ: ngồi xếp bằng thế hoa sen, cũng gọi là kiết-già. Đơn bàn: ngồi thế bán-già, chân trái đặt
trên chân phải, với bàn chân trái đặt ngửa trên đùi chân phải (nữ thì ngược lại, chân phải ở trên).
Toàn bàn hoặc song bàn đả toạ: ngồi thế kiết-già đầy đủ; từ thế đơn bàn, lấy chân phải đặt tiếp lên
chân trái (kéo qua mé ngoài chứ không phải từ trong), tức là chân phải ở trên (nữ làm ngược lại,
chân trái ở trên); như vậy hai bàn chân đặt ngửa trên hai đùi (xem kỹ hình chụp).
3. Khởi thủ: [bắt đầu] di chuyển tay,
4. Tuỳ kỳ tự nhiên: tuỳ thuận theo tự nhiên, không khiên cưỡng theo mong cầu chủ quan.
5. Công đê nhi định: tuỳ theo công mà định, theo khả năng định lực bản thân.
6. Tự tinh phi định: tự nó tĩnh nhưng chưa phải là định, trạng thái khi tập động tác tay.
7. Thủ ấn chi nhất: thủ ấn thứ nhất.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 16
trên, ngón tay chỉ về phía sau, tay có lực nhất định; đối với tay bên trong, sau khi bắt chéo xong, lòng
bàn tay dần dần chuyển hướng xuống dưới, duỗi thẳng ra, tay và cánh tay xoay sao cho lòng bàn tay
hướng ra ngoài, tay và cánh tay nghiêng với thân thể một góc 30 độ (như hình 5-6).
Thủ ấn chi nhị: Từ thế tay ở hình 5-6, tay trái (tay ở trên) từ vị trí đó dời đi; tay phải vừa xuay hướng
lòng bàn tay vào trong, vừa đưa lên; động tác giống thủ ấn chi nhất với phải trái giao hoán, vị trí của tay
tương phàn (như hình 5-7).
Thủ ấn chi tam: Tay phải của nam (nữ là tay trái) cổ tay vừa duỗi ra, lòng bàn tay vừa hướng vào thân
thể, thông qua bắt chéo tay trước ngực, lòng bàn tay chuyển hướng xuống dưới, đưa nghiêng xuống
đến chỗ trước bụng dưới, cánh tay duỗi ra; tay trái của nam (nữ là tay phải) chuyển lòng bàn tay hướng
vào trong, vừa đi lên, bắt chéo tay xong, vừa xoay bàn tay, vừa vận động hướng về vai trái (nữ là vai
phải), khi tay đến vị trí ấy, lòng bàn tay hướng lên, ngón tay chỉ về phía trước (như hình 5-8).
Thủ ấn chi tứ: Là thủ ấn chi tam giao hoán, nam tay trái (nữ tay phải) chuyển động xoay vào trong; nam
tay phải (nữ tay trái) chuyển động hướng ra ngoài; động tác cũng như thế nhưng giao hoán phải trái với
nhau, thế tay tương phản (như hình 5-9).
Gia trì cầu trạng thần thông1
: Tiếp theo “thủ ấn chi tứ”, thì tay trên chuyển vào trong, tay dưới chuyển
ra ngoài; tay phải của nam dần dần dần xoay, lòng bàn tay hướng vào ngực di chuyển xuống. Tay trái
của nam (tay phải của nữ) nâng lên, khi hai cánh tay đạt đến hình chữ nhất ở trước ngực (như hình 5-
10), thì hai tay vừa tách sang hai bên (như hình 5-11), vừa xoay chuyển lòng bàn tay xuống dưới. Khi
tay đạt đến chỗ bên ngoài biên đầu gối thì độ cao của bàn tay ở ngang lưng, cánh tay dưới và cổ tay cao
bằng nhau, hai cánh tay thả lỏng (như hình 5-12). Tư thế này lấy những thần thông ra hai tay để gia trì,
1. Gia trì cầu trạng thần thông: gia trì thần thông hình cầu.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 17
lấy những thần thông hình cầu. Khi gia trì thần thông, bàn tay có nhiệt, nặng, điện tê, cảm giác như có
vật. Tuy nhiên không được dụng ý truy cầu, phải tuỳ kỳ tự nhiên. Hình [thế] này làm càng lâu càng tốt,
làm đến lúc không kiên trì được mới thôi.
Gia trì trụ trạng thần thông1
: Tiếp theo hình [thế] trên; tay phải (nữ là tay trái) vừa chuyển với lòng bàn
tay hướng lên trên, vừa đưa về phía chỗ bụng dưới, đến vị trí đó rồi, đặt bàn tay vào vị trí ấy với lòng
bàn tay hướng lên trên; trong khi tay phải thực hiện động tác, thì tay trái (nữ là tay phải) vừa đưa lên
trên, vừa chuyển động đến chỗ dưới cằm, lòng bàn tay hướng xuống dưới, bàn tay cao bằng mép dưới
cằm, tay và cánh tay trên để ngang. Đến lúc này, hai lòng bàn tay hướng vào nhau, định lại ở hình [thế]
này (như hình 5-13); đây là gia trì thần thông hình trụ, ví dụ như loại chưởng thủ lôi2
. Thực hiện đến lúc
tự bản thân mình không thể kiên trì hơn được.
Sau đó tay trên vẽ một vòng bán nguyệt ở phía trước, chuyển đến vị trí chỗ bụng dưới; đồng thời tay
dưới nâng lên, và xoay lòng bàn tay hướng xuống dưới, đưa đến vị trí dưới cằm (như hình 5-14), cánh
tay cao bằng vai, hai lòng bàn tay hướng vào nhau. Đây cũng là gia trì thần thông hình trụ, chỉ khác là
thế tay tương phản. Thực hiện lâu đến mức cánh tay không kiên trì được nữa thì mới thôi.
Tĩnh công tu luyện3
: Tiếp theo hình [thế] trên, tay trên vạch một hình bán nguyệt phía trước, và đặt vào
chỗ bụng dưới, hai tay vào trạng thái lưỡng thủ kết-ấn (như hình 5-15); nhập tĩnh công tu luyện. Nhập
định, thời gian càng lâu càng tốt.
Thu thế: Hai tay “hợp-thập” (như hình 5-16), xuất định, ra khỏi trạng thái song bàn.
1. Gia trì trụ trạng thần thông: gia trì thần thông hình trụ
2. Chưởng thủ lôi: lôi đánh bằng tay.
3. Tĩnh công tu luyện: tu luyện tĩnh công.
PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 18
Một số yêu cầu và chú ý cơ bản
khi tu luyện Pháp Luân Công
[1] Năm bộ công pháp của Pháp Luân công, có thể luyện theo thứ tự, [hoặc] có thể tuyển chọn tuỳ ý mà
luyện. Tuy nhiên thông thường yêu cầu tập bộ thứ nhất đầu tiên, ngoài ra tập nó 3 lần là tốt. Tất nhiên,
không luyện bộ thứ nhất mà luyện bài khác trước cũng được. Mỗi một bài đều có thể luyện đơn lẻ.
[2] Động tác phải chuẩn xác, tiết tấu phải rõ ràng, tay và cánh tay phải tròn trịa, trên-dưới trước-sau phải-
trái phải “hoãn mạn viên” thuận theo khí cơ mà hành xử, không được nhanh quá, nhưng cũng không
được quá chậm.
[3] Trong khi luyện công, chủ ý thức phải làm chủ bản thân mình. Pháp Luân Công là tu luyện chủ ý
thức; không được hữu ý truy cầu những dao động; nếu có lắc động thì phải khống chế trụ lại, nếu cần
thiết có thể mở to mắt ta.
[4] Toàn thân thả lỏng. Làm sao cho đầu gối và đùi phải thả lỏng, đứng ngay đơ quá, khí mạch sẽ không
thông suốt được.
[5] Trong khi luyện công, động tác phải thanh thoát tự nhiên, thư triển rộng rãi, trong nhu có cương, thoải
mái như ý, tuy nhiên có một lực nhất định, nhưng chớ cứng đơ. Thực hiện động tác như thế, công hiệu
minh hiển.
[6] Khi kết thúc luyện công, “chỉ thu thế, bất thu công”. Chỉ làm động tác kết-ấn là đủ, xong kết ấn, là thu
thế xong. Không được dụng ý niệm để thu công, bởi vì Pháp Luân không thể dừng xoay chuyển.
[7] Người bệnh nặng thân yếu, cần căn cứ vào tình hình thực tế mà luyện ít thôi, hoặc là [chọn] tập lấy
một bài nào nào đó mà tu luyện. Không luyện động công được thì có thể đả toạ. Luyện công thông
thường không được gián đoạn.
[8] Không có yêu cầu đặc biệt về trường luyện công1
, và phương hướng luyện công; tuy nhiên nơi luyện
công nên trong sạch, hoàn cảnh cần yên tĩnh.
[9] Luyện công này không mang theo ý niệm, không sợ sai lệch. Tuy nhiên không được trộn lẫn với công
pháp khác. Nếu như khi luyện công mà để những công pháp khác lẫn vào, thì Pháp Luân sẽ bị biến
hình.
[10] Luyện công nhưng không tĩnh lại được, có thể niệm tên Sư phụ, dần dần sẽ tự nhiên tĩnh lại được.
[11] Khi luyện công sẽ gặp một số khó nạn nào đó, khó nạn ấy là một hình thức hoàn “nghiệp”. Cá nhân
nào cũng có “nghiệp”, khi thân thể xuất hiện khó chịu, thì không được coi đó là bệnh. Để là tiêu “nghiệp”,
để dọn đường tu luyện, khó nạn phải đến nhanh, đến sớm.
[12] Khi đả toạ không xếp bàn chân lên đùi được, có thể ngồi bên mép một chiếc ghế để luyện công,
cũng được hiệu quả tương tự. Tuy nhiên, đã là người luyện công, thì cần phải xếp bằng cho được; sau
một thời gian, dần dần rồi sẽ ngồi được [song bàn].
[13] Khi luyện tĩnh công, nếu như thấy hình ảnh gì, hoặc nhìn thấy cảnh tượng gì, thì không để ý gì đến
nó, bản thân vẫn cứ luyện công. Nếu như có hiện tượng ghê sợ can nhiễu, hoặc giả có uy hiếp nào đó,
cần lập tức nghĩ: “Ta có Sư phụ môn Pháp Luân Công bảo hộ, không phải sợ gì hết”, hoặc giả hô tên Lý
Sư phụ, rồi tiếp tục luyện công.
1. Trường luyện công: tức là điểm luyện công, nơi tụ tập lại luyện công.
[http://www.phapluan.org]

More Related Content

What's hot

1 số bài văn nghị luận xã hội
1 số bài văn nghị luận xã hội1 số bài văn nghị luận xã hội
1 số bài văn nghị luận xã hộimya12011998
 
Các phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnh
Các phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnhCác phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnh
Các phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnhvisinhyhoc
 
Đạo Đức Kinh _ Lão Tử
Đạo Đức Kinh _ Lão TửĐạo Đức Kinh _ Lão Tử
Đạo Đức Kinh _ Lão TửLinh Hoàng
 
Lịch sử đạo đức y học
Lịch sử đạo đức y họcLịch sử đạo đức y học
Lịch sử đạo đức y họcVuKirikou
 
Slide quanho bacninh
Slide quanho bacninhSlide quanho bacninh
Slide quanho bacninhtrang quynh
 

What's hot (7)

1 số bài văn nghị luận xã hội
1 số bài văn nghị luận xã hội1 số bài văn nghị luận xã hội
1 số bài văn nghị luận xã hội
 
Tiểu luận Tâm lý và giao tiếp trong kinh doanh du lịch. HAY
Tiểu luận Tâm lý và giao tiếp trong kinh doanh du lịch. HAYTiểu luận Tâm lý và giao tiếp trong kinh doanh du lịch. HAY
Tiểu luận Tâm lý và giao tiếp trong kinh doanh du lịch. HAY
 
Các phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnh
Các phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnhCác phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnh
Các phương pháp chẩn đoán vsv gây bệnh
 
Đạo Đức Kinh _ Lão Tử
Đạo Đức Kinh _ Lão TửĐạo Đức Kinh _ Lão Tử
Đạo Đức Kinh _ Lão Tử
 
Lịch sử đạo đức y học
Lịch sử đạo đức y họcLịch sử đạo đức y học
Lịch sử đạo đức y học
 
Đề tài: Chính sách phát triển du lịch bền vững khu du lịch Cát Bà
Đề tài: Chính sách phát triển du lịch bền vững khu du lịch Cát BàĐề tài: Chính sách phát triển du lịch bền vững khu du lịch Cát Bà
Đề tài: Chính sách phát triển du lịch bền vững khu du lịch Cát Bà
 
Slide quanho bacninh
Slide quanho bacninhSlide quanho bacninh
Slide quanho bacninh
 

Similar to Pháp luân công

12 thuc dich can kinh
12 thuc dich can kinh12 thuc dich can kinh
12 thuc dich can kinhNam Le
 
Bài tập cot song
Bài tập cot songBài tập cot song
Bài tập cot songVy Dũng
 
12 bài tập khí công cơ bản
12 bài tập khí công cơ bản12 bài tập khí công cơ bản
12 bài tập khí công cơ bảnphamhphuc
 
[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạn
[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạn[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạn
[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạnMinh Quan Luong
 
15 phut tap_voi_trai_bong_4979
15 phut tap_voi_trai_bong_497915 phut tap_voi_trai_bong_4979
15 phut tap_voi_trai_bong_4979ta_la_ta_157
 
Bàn về luyện eo háng trong thái cực quyền
Bàn về luyện eo háng trong thái cực quyềnBàn về luyện eo háng trong thái cực quyền
Bàn về luyện eo háng trong thái cực quyềnCôn nhị khúc
 
Khái niệm khí công (1)
Khái niệm khí công (1)Khái niệm khí công (1)
Khái niệm khí công (1)hlinh123456789
 
21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ
21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ 21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ
21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ Thể Hình Channel
 
Thuốc tăng chiêu cao super growth height hỗ trợ tăng chiều cao
Thuốc tăng chiêu cao   super growth height hỗ trợ tăng chiều caoThuốc tăng chiêu cao   super growth height hỗ trợ tăng chiều cao
Thuốc tăng chiêu cao super growth height hỗ trợ tăng chiều caoKim Anh Phan
 
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Kividanang
 
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Kividanang
 
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Kividanang
 
Tăng chiều cao tối đa superior taller hỗ trợ tăng chiều cao
Tăng chiều cao tối đa   superior taller hỗ trợ tăng chiều caoTăng chiều cao tối đa   superior taller hỗ trợ tăng chiều cao
Tăng chiều cao tối đa superior taller hỗ trợ tăng chiều caoanhmybds
 
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnBài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnKividanang
 
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnBài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnKividanang
 
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnBài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnKividanang
 

Similar to Pháp luân công (20)

12 thuc dich can kinh
12 thuc dich can kinh12 thuc dich can kinh
12 thuc dich can kinh
 
Bài tập cot song
Bài tập cot songBài tập cot song
Bài tập cot song
 
12 bài tập khí công cơ bản
12 bài tập khí công cơ bản12 bài tập khí công cơ bản
12 bài tập khí công cơ bản
 
Khi Cong
Khi CongKhi Cong
Khi Cong
 
[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạn
[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạn[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạn
[đừng bỏ qua] 25 bài tập thể hình cực đã cho cơ liên sườn của bạn
 
15 phut tap_voi_trai_bong_4979
15 phut tap_voi_trai_bong_497915 phut tap_voi_trai_bong_4979
15 phut tap_voi_trai_bong_4979
 
Thuc hanh luyen hoi
Thuc hanh luyen hoiThuc hanh luyen hoi
Thuc hanh luyen hoi
 
Bàn về luyện eo háng trong thái cực quyền
Bàn về luyện eo háng trong thái cực quyềnBàn về luyện eo háng trong thái cực quyền
Bàn về luyện eo háng trong thái cực quyền
 
Khái niệm khí công (1)
Khái niệm khí công (1)Khái niệm khí công (1)
Khái niệm khí công (1)
 
21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ
21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ 21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ
21 bài tập gập bụng tại nhà dễ tập đánh tan mỡ bụng cho nam lẫn nữ
 
Thuốc tăng chiêu cao super growth height hỗ trợ tăng chiều cao
Thuốc tăng chiêu cao   super growth height hỗ trợ tăng chiều caoThuốc tăng chiêu cao   super growth height hỗ trợ tăng chiều cao
Thuốc tăng chiêu cao super growth height hỗ trợ tăng chiều cao
 
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
 
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
 
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
Thuốc tăng-chiêu-cao-super-growth-height-hỗ-trợ-tăng-chiều-cao-1
 
Bai 02
Bai 02Bai 02
Bai 02
 
Tăng chiều cao tối đa superior taller hỗ trợ tăng chiều cao
Tăng chiều cao tối đa   superior taller hỗ trợ tăng chiều caoTăng chiều cao tối đa   superior taller hỗ trợ tăng chiều cao
Tăng chiều cao tối đa superior taller hỗ trợ tăng chiều cao
 
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnBài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
 
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnBài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
 
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuầnBài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
Bài tập tăng chiều cao 4 đến 10 phân trong 10 tuần
 
question
question question
question
 

More from Chiến Thắng Bản Thân

THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾTHẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾChiến Thắng Bản Thân
 
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân LoạiĐường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân LoạiChiến Thắng Bản Thân
 
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành MạnhNhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành MạnhChiến Thắng Bản Thân
 
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chúKinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chúChiến Thắng Bản Thân
 

More from Chiến Thắng Bản Thân (20)

Vô thừa chơn giáo.
Vô thừa chơn giáo.Vô thừa chơn giáo.
Vô thừa chơn giáo.
 
Milarepa Con Người Siêu Việt
Milarepa Con Người Siêu ViệtMilarepa Con Người Siêu Việt
Milarepa Con Người Siêu Việt
 
Đại giác thánh kinh
Đại giác thánh kinhĐại giác thánh kinh
Đại giác thánh kinh
 
Vo vi meditation
Vo vi meditationVo vi meditation
Vo vi meditation
 
Con Đường Chuyển Hóa
Con Đường Chuyển HóaCon Đường Chuyển Hóa
Con Đường Chuyển Hóa
 
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾTHẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
 
AMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAO
AMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAOAMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAO
AMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAO
 
Sống để trao tặng
Sống để trao tặngSống để trao tặng
Sống để trao tặng
 
LĂNG KÍNH CỦA LYRA
LĂNG KÍNH CỦA LYRALĂNG KÍNH CỦA LYRA
LĂNG KÍNH CỦA LYRA
 
THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.
THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.
THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.
 
Bách Hiếu Kinh .
Bách Hiếu Kinh .Bách Hiếu Kinh .
Bách Hiếu Kinh .
 
Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.
 
NỘI LỰC TỰ SINH.
NỘI LỰC TỰ SINH.NỘI LỰC TỰ SINH.
NỘI LỰC TỰ SINH.
 
Kinh Cúng Tứ Thời.
Kinh Cúng Tứ Thời.Kinh Cúng Tứ Thời.
Kinh Cúng Tứ Thời.
 
Huỳnh Đình Kinh.
Huỳnh Đình Kinh. Huỳnh Đình Kinh.
Huỳnh Đình Kinh.
 
Cõi vô hình Vô vi tâm pháp.
Cõi vô hình  Vô vi tâm pháp.Cõi vô hình  Vô vi tâm pháp.
Cõi vô hình Vô vi tâm pháp.
 
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân LoạiĐường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
 
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành MạnhNhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
 
Vệ Sinh Yếu Quyết
Vệ Sinh Yếu QuyếtVệ Sinh Yếu Quyết
Vệ Sinh Yếu Quyết
 
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chúKinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
 

Pháp luân công

  • 1. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 1 (trích dịch từ cuốn Pháp Luân Công) Chương IV: Pháp Luân Công công pháp Pháp Luân Công là một pháp môn tu luyện Phật gia đặc thù. Trong đó có những nét độc đáo khác với các phương pháp tu luyện Phật gia thông thường khác. Bởi vì công pháp này là Đại Pháp tu luyện thượng thừa, trong quá khứ nó là pháp tu luyện yêu cầu người có tâm tính cực cao hoặc học viên đại căn cơ, do vậy không dễ phổ cập. Tuy nhiên để có nhiều người luyện công hơn nữa đạt đến cao tầng, hiểu rõ được pháp môn, đồng thời đáp ứng mong mỏi của quảng đại những người có chí tu luyện, do vậy [tôi] đã chỉnh lý thành một bộ thích hợp cho việc phổ cập cho công chúng. Tuy thế nó vẫn vượt xa rất rất nhiều so với các công pháp thông thường khác về những điều giảng dạy và về tầng. Người học Pháp Luân Công không những rất mau chóng tăng trưởng công lực và công năng, mà trong một thời trong một thời gian ngắn có được một Pháp Luân uy lực không gì sánh được. Sau khi hình thành, Pháp Luân ở tại vị trí bụng dưới tự xoay chuyển không ngừng; liên tục từ vũ trụ thu thập và diễn hoá năng lượng, cuối cùng ở trong bản thể của người tu luyện chuyển hoá thành công. Như thế đạt được mục đích “Pháp luyện người”. Công pháp này có năm bộ động tác tất cả: Phật triển thiên thủ Pháp1 , Pháp Luân trang Pháp2 , Quán thông lưỡng cực Pháp3 , Pháp Luân châu thiên Pháp4 , và Thần thông gia trì Pháp5 . Tất cả các chú thích đều của người dịch, chỉ để tham khảo. Đây là bản trích dịch không chính thức trên Internet vào tháng 11, 2001. 1. Phật triển thiên thủ Pháp: bài Phật mở nghìn tay. 2. Pháp Luân trang Pháp: bài Pháp luân đứng. 3. Quán thông lưỡng cực Pháp: bài thông suốt hai cực. 4. Pháp Luân châu thiên Pháp: bài Pháp Luân châu thiên. 5. Thần thông gia trì Pháp: bài gia trì thần thông.
  • 2. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 2 Bài 1: Phật triển thiên thủ Pháp {bài Phật mở nghìn tay} Công lý: Cốt lõi của bài “Phật triển thiên thủ Pháp” là chùng [và] căng, làm trăm mạch đều thông. Đối với người mới học khí công mà xét, thì thông qua luyện công [này] có thể đắc khí rất mau; đối với người đã từng luyện công mà xét, thì có thể mau chóng nâng cao. Bộ công pháp này ngay lập tức yêu cầu trăm mạch đều thông, để người luyện công đứng ngay tại tầng rất cao mà luyện. Động tác của công pháp này tương đối đơn giản, bởi vì Đại Đạo là chí giản chí dị1 ; động tác tuy đơn giản, nhưng từ mức nhìn rộng mà xét thì nó khống chế toàn bộ công pháp những thứ cần luyện xuất được. Khi học luyện công này, thì cảm giác thấy thân thể phát nhiệt, cảm thụ một cách đặc thù được trường năng lượng rất mạnh mẽ, bởi vì [nó] triển khai và khơi thông những thông đạo khí của toàn cơ thể. Mục đích là đả thông những chỗ khí bị tắc nghẽn, thông suốt không ngăn, điều động khí vận động mạnh nóng bên trong [thân] thể và dưới da, hô hấp lớn mạnh những năng lượng trong vũ trụ; đồng thời đưa người luyện công nhanh chóng tiến nhập vào trạng thái ở trong trường năng lượng khí công. Công pháp này đóng vai trò công pháp luyện cơ sở của Pháp Luân Công; mỗi khi luyện công, thông thường luyện công pháp này trước tiên; nó là một phương pháp tăng cường tu luyện. Quyết2 : Thân thần hợp nhất, động tĩnh tuỳ cơ; Đỉnh thiên độc tôn, thiên thủ Phật lập. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải; bàn chân cách rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên; hai chân cong một chút, đầu gối và đùi ở trạng thái [hơi] khuỵ; cằm hơi thu vào, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi cách nhau chút xíu, môi đóng kín, hai mắt nhắm khẽ, mang theo [ý] niệm giữ nét mặt hoà nhã. Trong khi luyện công sẽ cảm giác bản thân mình rất cao lớn. Lưỡng thủ kết-ấn3 : Hai tạy nâng lên, lòng bàn tay hướng lên trên, hai đầu ngón tay cái tiếp xúc nhẹ vào nhau, bốn ngón tay kia xếp chồng lên nhau; nam tay trái ở trên, nữ tay phải ở trên, tạo thành hình bầu dục; đặt ở chỗ bụng dưới; để hai bắp tay hơi hướng về phía trước, hai cùi trỏ hướng lên, sao cho chỗ nách có khoảng trống (như hình 1-1). 1. Chí giản chí dị: vô cùng giản dị, giản dị nhất. 2. Quyết: khẩu quyết, nhẩm đọc một lần trước khi tập. 3. Lưỡng thủ kết ấn: hai tay ở thế kết-ấn.
  • 3. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 3 Di lặc thân yêu1 : Từ khởi thế là kết-ấn, hay tay kết-ấn nâng lên; thuận theo tay dâng lên, hai chân cũng dần dần duỗi ra; đến lúc hay tay nâng đến ngang đầu thì kết-ấn dần dần mở ra, bàn tay dần dần xoay chuyển hướng lên trên; khi lên đến đỉnh đầu, thì lòng bàn tay hướng lên trên; mười ngón tay chỉ vào nhau, đầu ngón tay cách nhau 20-25cm (như hình 1-2). Đồng thời lúc ấy đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống, thân thể thẳng tắp; dùng lực ở hai chưởng căn2 ấn lên; toàn thân dần dần căng thẳng; căng chừng 2-3 giây; rồi toàn thân lập tức thả lỏng, đặc biệt là đầu gối và chân trở về trạng thái thả lỏng. Như Lai quán đỉnh3 : Làm tiếp theo động tác trên, hai tay đồng thời xoay bàn tay ra ngoài 140 độ, hai tay tạo thành “hình cái phễu”; cổ tay lỏng bàn đưa bàn tay xuống (như hình 1-3). Hay bàn tay xuống đến ngực thì tay cách ngực khoảng 10cm; tiếp tục vận động hạ xuống đến vị trí bụng dưới (như hình 1-4). 1. Di Lặc thân yêu: Di Lặc duỗi lưng; thân nghĩa là duỗi ra. 2. Chưởng căn: gốc bàn tay, nơi nối với cổ tay. 3. Như Lai quán đỉnh: Như Lai tưới vào đầu; quán nghĩa là tưới vào.
  • 4. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 4 Song thủ hợp-thập1 : Hai tay ở vị trí bụng dưới, lập tức nâng lên trước ngực làm thế “hợp-thập” (như hình 1-5). Khi hợp-thập thì ngón tay gắn chặt ngón tay, chưởng căn gắn chặt chưởng căn, có khoảng trống giữa lòng bàn tay, hai cùi trỏ hướng lên, hai cánh tay dưới tạo thành một đường thẳng (ngoại trừ thế “hợp-thập” và “kết-ấn” ra, đều [để bàn tay] ở thế “liên-hoa chưởng”2 , [các động tác khác] dưới đây cũng như thế). Chưởng chỉ càn khôn3 : Từ khởi thế là “hợp-thập”, hai bàn tay tách ra, cách nhau khoảng 2-3cm, đồng thời bắt đầu xuay bàn tay, nam tay trái ở trên (nữ tay phải ở trên); hướng chỗ ngực xoay chuyển, tay phải xoáy ra ngoài ngực, sao cho tay trái ở trên, tay phải ở dưới, và cánh tay tạo thành hình chữ “nhất” (như hình 1-6). Tiếp đó cánh tay trái triển khai sang bên trái nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống dưới, bàn tay cao bằng đầu; tay phải vẫn ở trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên; thuận theo tay trái dần dần đạt đến vị trí, thì toàn thân cũng dần dần duỗi thẳng, đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống; tay trái duỗi thẳng sang trái nghiêng lên trên; tay phải ở trước ngực, bắp tay duỗi ra ngoài (như hình 1- 7). Duỗi căng trong khoảng 2-3 giây, rồi lập tức thả lỏng toàn thân; tay trái lại thu về trước ngực cùng với tay phải tạo thành thế “hơp-thập”. Sau đó lại xoay chuyển bàn tay, tay phải (nữ là tay trái) ở trên, tay trái ở dưới (như hình 1-8). Tay phải lặp lại động tác của tay trái lúc trước; cánh tay phải triển khai sang bên phải nghiêng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống, tay cao bằng đầu; tay trái vẫn ở trước ngực, lòng bàn tay hướng lên trên. Sau khi duỗi căng (như hình 1-9), toàn thân lập tức thả lỏng. [Rồi] sau khi hai tay thu về ở trước ngực [tạo thành] “hợp-thập” (như hình 1-5). Kim hầu phân thân4 : Từ khởi thế “hợp-thập”; hai tay tách ra duỗi sang hai bên, cùng với vai tạo thành hình chữ “nhất”; toàn thân dần dần duỗi thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dậm xuống đất; dụng lực vào hai tay ở hai bên, lực tách làm bốn (như hình 1-10). Duỗi căng trong 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng; hai tay thu hồi “hợp-thập” trước ngực. Song long hạ hải5 : Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tách ra hướng về đằng trước duỗi xuống dưới, hay tay song song, duỗi thẳng ra, tạo với bắp chân một góc 30 độ (như hình 1-11). Toàn thân dần dần duỗi căng thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, chân dẫm xuống dưới; căng thẳng trong khoảng 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng; tay lại thu về, “hợp-thập” trước ngực. Bồ Tát phù liên6 : Từ khở thế “hợp-thập”, sang hai bên thân thể và nghiêng xuống dưới duỗi ra; khi tay sang hai bên rồi, thì cánh tay cũng thẳng ra tạo với hai bên phải trái của thân thể góc 30 độ (như hình 1- 1. Song thủ hợp thập: hai tay ở thể hợp-thập. 2. Liên hoa chưởng: bàn tay sen; tức là bàn tay để xuôi ra với ngón giữa hơi nhíu vào trong một chút, hãy quan sát các hình ảnh thật kỹ. 3. Chưởng chỉ càn khôn: bàn tay chỉ trời đất, càn khôn vũ trụ. 4. Kim hầu phân thân: khỉ vàng phân thân. 5. Song long hạ hải: hai rồng xuống biển. 6. Bồ Tát phù liên: Bồ Tát dìu sen; liên nghĩa là hoa sen.
  • 5. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 5 12). Lúc này, toàn thân dần dần căng thẳng, ngón tay dụng lực hướng xuống dưới; sau đó toàn thân lập tức thả lỏng, hai tay thu về hợp thập trước ngực. . La Hán bối sơn1 : Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tay tách ra, duỗi về phía sau thân thể, đồng thời lòng bàn tay xoay hướng về phía sau; khi tay đến bên thân thì dần dần xoay móc cổ tay lên; cổ tay quá về sau thân thể, cổ tay tạo thành góc 45 độ (như hình 1-13). Toàn thân dần dẫn duỗi căng thẳng; sau khi tay đến vị trí, thì đầu dựng [thẳng] lên, hai chân đạp xuống, thân thể rất thẳng; duỗi thẳng trong 2-3 giây; [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng. Lại thu tay về, trở lại “hợp-thập” trước ngực. Kim cương bài sơn2 : Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tay tách ra, hướng về phía trước [như là] đẩy núi, ngón tay chỉ lên trên; cánh tay cao bằng vai, khi cánh tay duỗi xong, dùng lực căng thẳng ra, đầu dựng [thẳng] lên, hai chân dẫm xuống, thân thể thẳng tắp (như hình 1-14). Căng duỗi trong 2-3 giây, [rồi] toàn thân lập tức thả lỏng, hai tay thu về “hợp-thập” trước ngực. 1. La Hán bối sơn: La Hán vác núi trên lưng. 2. Kim cương bài sơn: Kim Cương đẩy núi.
  • 6. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 6 Diệp khấu tiểu phúc1 : Từ khởi thế “hợp-thập”, hai tay từ tốn đưa xuống, lòng bàn tay chuyển hướng vào bụng; khi tay xuống đến chỗ bụng dưới thì hai bàn tay chồng trùng vào nhau, nam tay trái để trong, nữ tay phải để trong, lòng bàn tay này hướng vào mu bàn tay kia. Khoảng cách giữa hai tay và khoảng cách giữa tay và bụng dưới là 3cm, thời gian xếp chồng là 40-100 giây (như hình 1-15). Thu thế: lưỡng thủ kết ấn. 1. Diệp khấu tiểu phúc: xếp vàp bụng dưới.
  • 7. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 7 Bài 2: Pháp Luân trang Pháp {bài Pháp Luân đứng} Công lý: Công pháp này là bộ công pháp thứ hai của Pháp Luân Công, [nó] thuộc về tĩnh trang pháp1 . [Nó] có tất cả bốn động tác bão luân2 tạo thành; các động tác này tương đối đơn điệu; tuy nhiên mỗi động tác lại yêu cầu luyện trong thời gian rất lâu. Người mới học trạm trang, khi bắt đầu học sẽ thấy bắp tay rất nặng, rất đau; nhưng khi luyện xong lại cảm giác thấy thân thể nhẹ nhàng, không có cảm giác [của sự] mệt mỏi sau khi làm việc. Tuỳ theo thời gian [luyện] nâng lên, và số lần luyện công tăng lên, thì ở chỗ hai bắp tay sẽ xuất hiện [cảm giác] “Pháp Luân” đang xoay chuyển. Thường xuyên luyện Pháp Luân trang Pháp có thể làm toàn thân toàn bộ thông suốt, gia tăng công lực. “Pháp Luân trang Pháp” thuộc về phương pháp tăng huệ, nâng cao tầng, gia trì thần thông; công tuy đơn giản, nhưng những thứ luyện ra được rất nhiều, rất toàn diện. Động tác của công pháp này cần tự nhiên; bản thân mình cần phải biết mình đang luyện công, không được lắc động; [tuy nhiên] có động chút ít thì bình thường. Công pháp này cũng giống những công pháp khác của Pháp Luân Công, luyện xong không thu công; bởi vì Pháp Luân thường chuyển không thể thu dừng; yêu cầu thời gian luyện mỗi động tác là tuỳ vào người [tập], càng lâu càng tốt. Quyết: Sinh huệ tăng lực, dung tâm khinh thể; Tự diệu tự ngộ, Pháp Luân sơ khởi. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách rộng bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi chùng xuống, đầu gối và đùi ở trạng thái hơi khuỵ; cằm dưới hơi thu vào, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi cách nhau một chút, môi ngậm kín, hai mắt nhắm khẽ; mang [ý] niệm giữ nét mặt hoà nhã, lưỡng thủ kết ấn (như hình 2-1). Đầu tiền bão luân3 : Từ khởi thế kết-ấn, hai tay từ trước bụng từ từ dâng lên, [đồng thời] theo đó mà mở kết-ấn ra. Đến khi hai tay nâng đến trước đầu, thì lòng bàn tay hướng vào mặt, cao độ bằng lông mày; mười ngón tay chỉ vào nhau, cự ly của đầu các ngón tay khoảng 15cm; hai cánh tay ôm [thành] hình tròn, toàn thân thả lỏng (như hình 2-2). Phúc tiền bão luân4 : Hai tay từ trạng thái “đầu tiền bão luân” từ từ hạ dần xuống, không thay đổi tư thế, hạ xuống đến vị trí bụng dưới, tay cách bụng dưới khoảng 10cm, hai cùi trỏ hướng lên, chỗ nách có khoảng trống, lòng bàn tay ngửa lên; mười ngón tay chỉ vào nhau, khoảng cách giữa các ngón tay khoảng 10cm, hai cánh tay ôm hình tròn (như hình 2-3). 1. Tĩnh trang pháp: bài đứng tĩnh lặng, 2. Bão luân: ôm bánh xe; bão nghĩa là ôm giữ. 3. Đầu tiền bão luân: ôm bánh xe phía trước đầu. 4. Phúc tiền bão luân: ôm bánh xe phía trước bụng.
  • 8. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 8 Đầu đỉnh bão luân1 : Từ khởi thế “phúc tiền bão luân”, tư thế không đổi, hai tay dần dần nâng lên đến đỉnh đầu; làm đầu đỉnh bão luân. Mười ngón tay chỉ vào nhau, lòng bàn tay hướng xuống dưới, khoảng cách các ngón tay là 20-30cm. Hai cánh tay bao thành hình tròn; vai, bắp tay, cùi trỏ, cổ tay đều hoàn toàn thả lỏng (như hình 2-4). Lưỡng trắc bão luân2 : Từ thế “đầu đỉnh bão luân” hai tay hạ xuống, sang hai bên đầu; lòng bàn tay hướng vào hai tai; hai vai buông lỏng; cánh tay dưới để dựng đứng; khoảng cách giữa tay và tai không được gần quá (như hình 2-5). Diệp khấu tiểu phúc: Từ thế “lưỡng trắc bão luân” hai tay hạ xuống; hạ xuống đến chỗ bụng dưới và xếp chồng lên nhau (hình 2-6). [Sau đó] thu về thế lưỡng thủ kết ấn. 1. Đầu đỉnh bão luân: ôm bánh xe trên đỉnh đầu. 2. Lưỡng trắc bão luân: ôm bánh xe ở hai bên.
  • 9. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 9 Bài 3: Quán thông lưỡng cực Pháp {bài thông suốt hai cực} Công lý: Công pháp này là để quán thông khí của vũ trụ với khí ở trong thân thể; thổ nạp1 một lượng lớn; cho phép người tu luyện trong một thời gian ngắn, có thể bài xuất khỏi thân thể những khí bệnh, khí đen, rồi lấy vào đó một lượng lớn khí vũ trụ, tịnh hoá thân thể; mau chóng đến được trạng thái “tịnh bạch thể”2 . Ngoài ra công này trong khi xung quán3 có thể “khai đỉnh”, và cũng trong khi xung quán có thể đả khai đường thông đạo ở dưới chân. Trước khi luyện công niệm nghĩ một chút rằng bản thân như hai cái thùng rỗng rất cao lớn, đỉnh thiên lập địa4 , cao lớn không gì sánh được. Khí bên trong thân thể vận động tuỳ theo tay lên xuống; [khi] xông ra khỏi đỉnh [đầu], đạt cho đến chỗ cao nhất của vũ trụ; còn khí xông xuống thì từ chân xông xuống, xông đến tận chỗ thấp nhất của vũ trụ. Sau đó tuỳ theo tay vận động, khí ở hai cực phản hồi vào trong thân thể, rồi lại phóng xuất ra; đi lại tất cả chín lần. Vào lần tưới thứ chín, thì tay trái (nữ là tay phải) ở cực trên đợi tay phải (nữ là tay trái) đi lên. Sau đó hai tay đồng thời thâu hồi quán nhập xuống cực phía dưới, sau đó lại xung quán hướng lên trên thân thể; lặp lại như thế tất cả chín lần, và thu hồi về. Sau khi thu hồi, ở bên ngoài chỗ bụng dưới xoay chuyển Pháp Luân theo chiều kim đồng hồ5 xoay chuyển khí ở phía ngoài hồi về cơ thể; sau đó kết định-ấn; luyện xong thu thế không thu công. Quyết: Tịnh hoá bản thể, Pháp khai đỉnh để; Tâm từ ý mãnh, thông thiên triệt địa. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong chùng, đầu gối và đùi ở trạng thái buông khuỵ chút xíu; cằm dưới hơi thu vào một chút, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng hơi hé chút xíu; miệng ngậm kín, mắt nhắm khẽ; mang theo [ý] niệm khuôn mặt hoà nhã. Lưỡng thủ kết-ấn, [rồi] hợp-thập (như hình 3-1 và 3-2). Đơn thủ xung quán6 : Từ khởi thế hợp-thập, làm động tác tay xung lên quán xuống, tay thuận theo khí cơ bên ngoài thân thể mà từ từ chuyển động; khí bên trong cơ thể cùng thuận theo tay mà chuyển động 1. Thổ nạp: ra vào, thổ là đưa ra, nạp là nạp vào, 2. Tịnh bạch thể: thân tịnh trắng. 3. Xung quán: tưới mạnh vào, xung mạnh lên. 4. Đỉnh thiên lập địa: đứng ở đất đỉnh chạm trời. 5. Quay theo chiều kim đồng hồ nếu tính là đứng từ phía trước mặt nhìn vào. 6. Đơn thủ xung quán: xung quán từng tay đơn.
  • 10. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 10 lên xuống. Nam tay trái lên trước (như hình 3-3), nữ tay phải lên trước. Tay từ chỗ bên cạnh đầu dần dần xung lên, vượt hết đỉnh đầu, đồng thời tay phải (nữ là tay trái) cũng từ từ quán hạ xuống. Sau đó luân phiên lặp đi lặp lại (như hình 3-4). Hai lòng bàn tay đều hướng vào thân thể, giữ khoảng cách với thân thể ở cự ly 10cm. Khi thực hiện, toàn thân cần thả lỏng; [mỗi] tay lên rồi xuống tính là một lần, xung quán tổng cộng chín lần. Song thủ xung quán1 : Khi đơn thủ xung quán đến lần thứ chín, khi để tay trái (nữ là tay phải) ở bên trên, thì đưa tay kia lên, nghĩa là, hai tay cùng ở vị trí xung lên ở trên (như hình 3-5). Sau đó hai tay đồng thời xung quán xuống dưới (như hình 3-6). Khi lưỡng thủ xung quán, lòng bàn tay hướng vào thân thể, cách thân thể khoảng 10cm; tay đưa lên rồi xuống tính là một lần, cộng làm chín lần xung quán. 1. Song thủ xung quán: xung quán hai tay.
  • 11. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 11 Song thủ suy động Pháp Luân1 : Sau khi hoàn thành lần thứ chín, hai tay đã đang ở trên quá đầu, rồi hạ xuống qua đầu, ngực, cho đến chỗ bụng dưới, hạ liền cho đến chỗ bụng dưới. Tại chỗ bụng dưới này đẩy chuyển Pháp Luân (như hình 3-7, 3-8, và 3-9). Nam để tay trái ở trong, nữ để tay phải ở trong. Cự ly giữa hai tay, cự ly giữa tay và bụng dưới ước lượng là 4cm, thuận theo chiều kim đồng hồ xoay chuyển Pháp Luân bốn lần, để năng lượng bên ngoài thân xoáy hồi vào trong thân. Khi xoay Pháp Luân hai tay cần phải [chuyển động] trong phạm vi bụng dưới. Lưỡng thủ kết ấn: (như hình 3-10). 1. Song thủ suy động Pháp Luân: hai tay đẩy Pháp Luân chuyển động.
  • 12. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 12 Bài 4: Pháp Luân châu thiên Pháp {bài Pháp Luân châu thiên} Công lý: Công pháp này làm cho năng lượng trong thân thể con người lưu động trên một điện rộng; không phải chạy một mạch hay một vài mạch, mà là toàn diện phía âm thân thể tuần hoàn đến phía dương, rồi lại quay lại không ngừng; [nó] vượt hơn hẳn các [phương] pháp thông mạch thông thường, hoặc tiểu châu thiên, đại châu thiên. Công pháp này thuộc về công pháp trung tầng của Pháp Luân Công. Trên cơ sở ba bộ công pháp bên trên, thông qua việc luyện công pháp này có thể đả khai rất mau lẹ các mạch khí ở toàn thân (gồm cả đại châu thiên), do từ trên xuống dưới thông khắp toàn thân. Đặc điểm lớn nhất của công pháp này là dùng sự xoay chuyển của “Pháp Luân” để chỉnh lại những trạng thái chưa đúng đắn ở thân thể, đưa thân thể con người - tiểu vũ trụ - quy về trạng thái sơ thuỷ ban đầu, làm cho các mạch khí toàn thân thông suốt vô ngại. Khi luyện đến trạng thái này, trong tu luyện tại thế-gian- pháp đã đạt đến tầng rất cao, người đại căn khí có thể tiến nhập vào tu luyện Đại Pháp. Lúc ấy, công năng và thần thông đều tăng mạnh. Khi luyện, tay chuyển động thuận theo khí cơ, động tác cần hoãn- mạn-viên1 . Quyết: Toàn Pháp chí hư, tâm thanh tự ngọc; Phản bổn quy chân, du du tự khởi. Thế dự bị: Toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, bàn chân cách nhau bằng vai, đứng thẳng tự nhiên, hai chân hơi cong chùng, đầu gối và đùi ở trạng thái hơi khuỵ một chút; cằm dưới hơi thu vào, lưỡi chạm hàm trên, hai hàm răng cách nhau một tí, miệng ngậm kín, hai mắt nhắm khẽ, mang niệm nét mặt hoà nhã. Lưỡng thủ kết-ấn, [xong rồi] hợp-thập (như hình 4-1 và 4-2). Hai tay vừa tách khỏi trạng thái “hợp-thập”, vừa đưa xuống phía bụng dưới, đồng thời xoay hai bàn tay để lòng bàn tay hướng vào thân thể. Cựu ly giữa tay và thân thể khoảng 10cm; qua chỗ bụng dưới rồi duỗi tiếp xuống chỗ trong hai chân, thuận theo mặt trong chân mà đi xuống, đồng thời cong lưng ngồi xổm xuống (như hình 4-3). Khi ngón tay gần tiếp mặt đất, thì tay từ đầu chân, sang bên mép ngoài bàn chân, vòng một vạch đến tận bên ngoài gót chân (như hình 4-4). Sau đó hai cổ tay hơi cong một chút , dần dần men theo bên ngoài, đằng sau bắp chân nần dần lên (hình 4-5). Vừ nâng hai tay lên ở đằng lưng, vừa thẳng lưng ra (như hình 4-6). Trong toàn bộ Pháp Luân châu thiên Pháp, hai tay không được chạm vào bất kể chỗ nào trên thân thể, nếu không năng lượng ở trên hai tay sẽ quay trở về thân thể. Khi hai tay đến chỗ không thể nâng lên 1. Hoãn → hoà hoãn từ tốn; mạn → chậm rãi; viên → tròn trịa.
  • 13. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 13 được nữa, thì làm một nắm tay rỗng (như hình 4-7). Từ chỗ nách đưa ra bắt chéo hai tay trước ngực (không có yêu cầu đặc biệt tay nào trên tay nào dưới, tuỳ theo thói quen, không phân biệt nam nữ) (như hình 4-8). Buông mở hai nắm tay, hai bàn tay ở trên vai (có cách ra). Kéo sát theo phía dương (bên ngoài) của cánh tay trên và cánh tay dưới, cho đến chỗ cổ tay, để hai lòng bàn tay xoay mặt vào nhau, sao cho ngón cái tay bên ngoài xoay chỉ lên trên, ngón cái tay bên trong xoay chỉ xuống dưới; cự ly hai bàn tay khoảng 3-4cm; lúc này hai tay tạo thành hình chữ “nhất” (như hình 4-9). Hai bàn tay xoay như nâng quả cầu, tay ở trong xoay ra ngoài, tay ngoài xoay vào trong. Sau đó vừa hai tay đẩy dọc theo phía âm (mặt trong) của cánh tay dưới và cánh tay trên, vừa đưa hai tay qua đầu (như hình 4-10). Hai tay qua đầu xong; hai tay ở trạng thái chéo nhau; tiếp tục chuyển động về phía xương sống (như hình 4-11). Hai tay tách khỏi [trạng thái] chéo nhau, ngón tay chỉ xuống dưới và tiếp [nối] với năng lượng đằng lưng; lại chuyển động hai tay một cách song song vòng qua đầu đến trước ngực (như hình 4-12). Như thế là một [lần] tuần hoàn châu thiên, [thực hiện] tổng cộng chín lần. Hoàn thành chín lần xong, đưa tay xuống chỗ bụng dưới.
  • 14. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 14 Diệp khấu tiểu phục (như hình 4-13), [rồi] lưỡng thủ kết ấn (như hình 4-14).
  • 15. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 15 Bài 5: Thần thông gia trì Pháp {bài gia trì thần thông} Công lý: “Thần thông gia trì Pháp” thuộc về pháp tu luyện tĩnh công của Pháp Luân Công, là pháp luyện công đa mục đích sử dụng các “Phật” thủ ấn để chuyển “Pháp Luân” gia trì thần thông (gồm cả công năng) và công lực. Pháp này thuộc về công Pháp từ trung tầng trở lên, nguyên là pháp bí luyện1 . Để đáp ứng yêu cầu của những người [luyện công] đã có cơ sở nhất định, [tôi] đặc cách truyền xuất công pháp này ra, để chuyên độ những người có duyên. Công pháp này yêu cầu luyện trong khi bàn toạ, tốt nhất là song bàn, còn dùng đơn bàn thì cũng tạm khả dĩ2 . Khi tu luyện thì khí lưu [chuyển] tương đối mạnh, trường năng lượng bên ngoài tương đối lớn. Động tác thực hành thuận theo khí cơ của Sư phụ [đã cấp]. Khi khởi thủ3 thì ý đặt vào động tác, khi gia trì thần thông thì ý [rỗng] không, tiềm ý thức hơi tí tẹo đặt ở hai bàn tay. Lòng bàn tay có nhiệt, nặng, có điện tê, cảm giác như có vật. Nhưng không được dụng ý truy cầu, mà tuỳ kỳ tự nhiên4 . Thời gian bàn toạ càng lâu càng tốt, căn cứ theo công đê nhi định5 , thời gian càng lâu, cường độ càng lớn, xuất công càng nhanh. Khi luyện công (không nghĩ gì hết, không có ý niệm nào cả) dần dần nhập tĩnh. Từ trạng thái động công tự tĩnh phi định6 dần dần nhập định. Tuy nhiên chủ ý thức biết rằng mình đang luyện công. Quyết: Hữu ý vô ý, ấn tuỳ cơ khởi, Tự không phi không, động tĩnh như ý. Lưỡng thủ kết ấn: Song bàn đả toạ, toàn thân thả lỏng, lỏng nhưng không oải, lưng ngay cổ thẳng, cằm dưới hơi thu, lưỡi đặt hàm trên, hàm răng hé mở một chút xíu, môi miệng ngậm khít, hai mắt nhắm khẽ, tâm sinh từ bi, ý nét mặt hoà nhã. Hai tay kết-ấn tại chỗ bụng dưới, dần dần nhập tĩnh (như hình 5-1). Thủ ấn chi nhất7 : (khi khởi thủ, ý đặt vào chuyển động, thuận theo khí cơ của Sư phụ cài mà thực hành, yêu cầu hoãn-mạn-viên). Hai tay từ trạng thái kết ấn dần dần đưa lên; lên đến trước đầu thì quay bàn tay hướng lên trên; khi bàn tay hướng hẳn lên trên thì nó cũng đạt đến điểm cao nhất (như hình 5-2). Tiếp theo tách hai bàn tay, vạch một vòng cung trên đỉnh đầu, chuyển động sang hai bên, chuyển tiếp cho đến bên biên trước của đầu (như hình 5-3). Ngay tiếp đó hai tay dần dần hạ xuống, hai cùi trỏ hướng vào trong, lòng hai bàn tay hướng lên trên, ngón tay chỉ về phía trước (như hình 5-4). Sau đó hai cổ tay vừa duỗi thẳng ra, vừa bắt chéo trước ngực. Nam tay trái ở ngoài, nữ tay phải ở ngoài (như hình 5-5). Khi từ bắt chéo nhau chuyển thành chữ “nhất”; đối với tay bên ngoài: cổ tay xoay ra ngoài, vừa hướng lòng bàn tay lên trên, vạch một hình bán nguyệt lớn, trở thành lòng bàn tay hướng lên 1. Bí luyện: tu luyện bí mật. 2. Bàn toạ: ngồi xếp bằng thế hoa sen, cũng gọi là kiết-già. Đơn bàn: ngồi thế bán-già, chân trái đặt trên chân phải, với bàn chân trái đặt ngửa trên đùi chân phải (nữ thì ngược lại, chân phải ở trên). Toàn bàn hoặc song bàn đả toạ: ngồi thế kiết-già đầy đủ; từ thế đơn bàn, lấy chân phải đặt tiếp lên chân trái (kéo qua mé ngoài chứ không phải từ trong), tức là chân phải ở trên (nữ làm ngược lại, chân trái ở trên); như vậy hai bàn chân đặt ngửa trên hai đùi (xem kỹ hình chụp). 3. Khởi thủ: [bắt đầu] di chuyển tay, 4. Tuỳ kỳ tự nhiên: tuỳ thuận theo tự nhiên, không khiên cưỡng theo mong cầu chủ quan. 5. Công đê nhi định: tuỳ theo công mà định, theo khả năng định lực bản thân. 6. Tự tinh phi định: tự nó tĩnh nhưng chưa phải là định, trạng thái khi tập động tác tay. 7. Thủ ấn chi nhất: thủ ấn thứ nhất.
  • 16. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 16 trên, ngón tay chỉ về phía sau, tay có lực nhất định; đối với tay bên trong, sau khi bắt chéo xong, lòng bàn tay dần dần chuyển hướng xuống dưới, duỗi thẳng ra, tay và cánh tay xoay sao cho lòng bàn tay hướng ra ngoài, tay và cánh tay nghiêng với thân thể một góc 30 độ (như hình 5-6). Thủ ấn chi nhị: Từ thế tay ở hình 5-6, tay trái (tay ở trên) từ vị trí đó dời đi; tay phải vừa xuay hướng lòng bàn tay vào trong, vừa đưa lên; động tác giống thủ ấn chi nhất với phải trái giao hoán, vị trí của tay tương phàn (như hình 5-7). Thủ ấn chi tam: Tay phải của nam (nữ là tay trái) cổ tay vừa duỗi ra, lòng bàn tay vừa hướng vào thân thể, thông qua bắt chéo tay trước ngực, lòng bàn tay chuyển hướng xuống dưới, đưa nghiêng xuống đến chỗ trước bụng dưới, cánh tay duỗi ra; tay trái của nam (nữ là tay phải) chuyển lòng bàn tay hướng vào trong, vừa đi lên, bắt chéo tay xong, vừa xoay bàn tay, vừa vận động hướng về vai trái (nữ là vai phải), khi tay đến vị trí ấy, lòng bàn tay hướng lên, ngón tay chỉ về phía trước (như hình 5-8). Thủ ấn chi tứ: Là thủ ấn chi tam giao hoán, nam tay trái (nữ tay phải) chuyển động xoay vào trong; nam tay phải (nữ tay trái) chuyển động hướng ra ngoài; động tác cũng như thế nhưng giao hoán phải trái với nhau, thế tay tương phản (như hình 5-9). Gia trì cầu trạng thần thông1 : Tiếp theo “thủ ấn chi tứ”, thì tay trên chuyển vào trong, tay dưới chuyển ra ngoài; tay phải của nam dần dần dần xoay, lòng bàn tay hướng vào ngực di chuyển xuống. Tay trái của nam (tay phải của nữ) nâng lên, khi hai cánh tay đạt đến hình chữ nhất ở trước ngực (như hình 5- 10), thì hai tay vừa tách sang hai bên (như hình 5-11), vừa xoay chuyển lòng bàn tay xuống dưới. Khi tay đạt đến chỗ bên ngoài biên đầu gối thì độ cao của bàn tay ở ngang lưng, cánh tay dưới và cổ tay cao bằng nhau, hai cánh tay thả lỏng (như hình 5-12). Tư thế này lấy những thần thông ra hai tay để gia trì, 1. Gia trì cầu trạng thần thông: gia trì thần thông hình cầu.
  • 17. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 17 lấy những thần thông hình cầu. Khi gia trì thần thông, bàn tay có nhiệt, nặng, điện tê, cảm giác như có vật. Tuy nhiên không được dụng ý truy cầu, phải tuỳ kỳ tự nhiên. Hình [thế] này làm càng lâu càng tốt, làm đến lúc không kiên trì được mới thôi. Gia trì trụ trạng thần thông1 : Tiếp theo hình [thế] trên; tay phải (nữ là tay trái) vừa chuyển với lòng bàn tay hướng lên trên, vừa đưa về phía chỗ bụng dưới, đến vị trí đó rồi, đặt bàn tay vào vị trí ấy với lòng bàn tay hướng lên trên; trong khi tay phải thực hiện động tác, thì tay trái (nữ là tay phải) vừa đưa lên trên, vừa chuyển động đến chỗ dưới cằm, lòng bàn tay hướng xuống dưới, bàn tay cao bằng mép dưới cằm, tay và cánh tay trên để ngang. Đến lúc này, hai lòng bàn tay hướng vào nhau, định lại ở hình [thế] này (như hình 5-13); đây là gia trì thần thông hình trụ, ví dụ như loại chưởng thủ lôi2 . Thực hiện đến lúc tự bản thân mình không thể kiên trì hơn được. Sau đó tay trên vẽ một vòng bán nguyệt ở phía trước, chuyển đến vị trí chỗ bụng dưới; đồng thời tay dưới nâng lên, và xoay lòng bàn tay hướng xuống dưới, đưa đến vị trí dưới cằm (như hình 5-14), cánh tay cao bằng vai, hai lòng bàn tay hướng vào nhau. Đây cũng là gia trì thần thông hình trụ, chỉ khác là thế tay tương phản. Thực hiện lâu đến mức cánh tay không kiên trì được nữa thì mới thôi. Tĩnh công tu luyện3 : Tiếp theo hình [thế] trên, tay trên vạch một hình bán nguyệt phía trước, và đặt vào chỗ bụng dưới, hai tay vào trạng thái lưỡng thủ kết-ấn (như hình 5-15); nhập tĩnh công tu luyện. Nhập định, thời gian càng lâu càng tốt. Thu thế: Hai tay “hợp-thập” (như hình 5-16), xuất định, ra khỏi trạng thái song bàn. 1. Gia trì trụ trạng thần thông: gia trì thần thông hình trụ 2. Chưởng thủ lôi: lôi đánh bằng tay. 3. Tĩnh công tu luyện: tu luyện tĩnh công.
  • 18. PHÁP LUÂN CÔNG CÔNG PHÁP 18 Một số yêu cầu và chú ý cơ bản khi tu luyện Pháp Luân Công [1] Năm bộ công pháp của Pháp Luân công, có thể luyện theo thứ tự, [hoặc] có thể tuyển chọn tuỳ ý mà luyện. Tuy nhiên thông thường yêu cầu tập bộ thứ nhất đầu tiên, ngoài ra tập nó 3 lần là tốt. Tất nhiên, không luyện bộ thứ nhất mà luyện bài khác trước cũng được. Mỗi một bài đều có thể luyện đơn lẻ. [2] Động tác phải chuẩn xác, tiết tấu phải rõ ràng, tay và cánh tay phải tròn trịa, trên-dưới trước-sau phải- trái phải “hoãn mạn viên” thuận theo khí cơ mà hành xử, không được nhanh quá, nhưng cũng không được quá chậm. [3] Trong khi luyện công, chủ ý thức phải làm chủ bản thân mình. Pháp Luân Công là tu luyện chủ ý thức; không được hữu ý truy cầu những dao động; nếu có lắc động thì phải khống chế trụ lại, nếu cần thiết có thể mở to mắt ta. [4] Toàn thân thả lỏng. Làm sao cho đầu gối và đùi phải thả lỏng, đứng ngay đơ quá, khí mạch sẽ không thông suốt được. [5] Trong khi luyện công, động tác phải thanh thoát tự nhiên, thư triển rộng rãi, trong nhu có cương, thoải mái như ý, tuy nhiên có một lực nhất định, nhưng chớ cứng đơ. Thực hiện động tác như thế, công hiệu minh hiển. [6] Khi kết thúc luyện công, “chỉ thu thế, bất thu công”. Chỉ làm động tác kết-ấn là đủ, xong kết ấn, là thu thế xong. Không được dụng ý niệm để thu công, bởi vì Pháp Luân không thể dừng xoay chuyển. [7] Người bệnh nặng thân yếu, cần căn cứ vào tình hình thực tế mà luyện ít thôi, hoặc là [chọn] tập lấy một bài nào nào đó mà tu luyện. Không luyện động công được thì có thể đả toạ. Luyện công thông thường không được gián đoạn. [8] Không có yêu cầu đặc biệt về trường luyện công1 , và phương hướng luyện công; tuy nhiên nơi luyện công nên trong sạch, hoàn cảnh cần yên tĩnh. [9] Luyện công này không mang theo ý niệm, không sợ sai lệch. Tuy nhiên không được trộn lẫn với công pháp khác. Nếu như khi luyện công mà để những công pháp khác lẫn vào, thì Pháp Luân sẽ bị biến hình. [10] Luyện công nhưng không tĩnh lại được, có thể niệm tên Sư phụ, dần dần sẽ tự nhiên tĩnh lại được. [11] Khi luyện công sẽ gặp một số khó nạn nào đó, khó nạn ấy là một hình thức hoàn “nghiệp”. Cá nhân nào cũng có “nghiệp”, khi thân thể xuất hiện khó chịu, thì không được coi đó là bệnh. Để là tiêu “nghiệp”, để dọn đường tu luyện, khó nạn phải đến nhanh, đến sớm. [12] Khi đả toạ không xếp bàn chân lên đùi được, có thể ngồi bên mép một chiếc ghế để luyện công, cũng được hiệu quả tương tự. Tuy nhiên, đã là người luyện công, thì cần phải xếp bằng cho được; sau một thời gian, dần dần rồi sẽ ngồi được [song bàn]. [13] Khi luyện tĩnh công, nếu như thấy hình ảnh gì, hoặc nhìn thấy cảnh tượng gì, thì không để ý gì đến nó, bản thân vẫn cứ luyện công. Nếu như có hiện tượng ghê sợ can nhiễu, hoặc giả có uy hiếp nào đó, cần lập tức nghĩ: “Ta có Sư phụ môn Pháp Luân Công bảo hộ, không phải sợ gì hết”, hoặc giả hô tên Lý Sư phụ, rồi tiếp tục luyện công. 1. Trường luyện công: tức là điểm luyện công, nơi tụ tập lại luyện công. [http://www.phapluan.org]