SlideShare a Scribd company logo
1 of 88
Download to read offline
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
         KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
                  ----------------------------




KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

                         Đề tài :
QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
  VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM




            Giáo viên hướng dẫn        : PGS.TS Nguyễn Phúc Khanh
            Sinh viên thực hiện         : Trần Ngọc Trung
            Lớp                        : A4 - K38B




                         Hà nội - 2003
MỤC LỤC



LỜI NÓI ĐẦU…………………………………….…………….………………………..1


CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Khái niệm về bán phá giá…….…………………………………………………...3
1.1 Định nghĩa………………….………………………………………………………...3
1.2 Các đạo luật liên quan đến bán phá giá
( Luật doanh thu 1916, Luật thuế quan 1930,…)………...………………………...3
2. Quy định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá…...……...5
2.1 Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá……..……………………...5
2.2 Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá……..…………………….………………...6
2.2.1 Quá trình khởi kiện……..…………………….…………..………………………6
2.2.2 Quá trình điều tra….....…………………….…………………………………...10
2.2.3 Các khái niệm pháp lý chính …………….……………….……....…………...20
2.2.4 Quá trình xem xét lại…………...………….……………………………….…...34


CHƯƠNG II. THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ…………………....36
1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001…………………...37
1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ……….…….….…...43
2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ……...49
2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ…..…...49
2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của luật chống bán phá giá của Mỹ
đến bản thân nền kinh tế Mỹ…………..………….…………………………………...52




CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn chống
bán phá giá của Mỹ……………….…………………………..………..……………...55
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá
giá……………………………………….…………….…………………………………...58
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá…....58
2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá…….………………...61
2.3 Nhóm giải pháp khác……………….……………………………………………...76


KẾT LUẬN……………….……….……………………………………….……...……...79
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO




                            LỜI NÓI ĐẦU
Luật chống bán phá giá là một trong những bộ luật non trẻ nhất của hệ
thống luật thương mại quốc gia cũng như thế giới bởi cho đến đầu thế kỷ XX,
khái niệm chống bán phá giá hầu như vẫn chưa hình thành.
     Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày càng phát triển, khi
mà các hàng rào thương mại cổ điển dần được tháo bỏ, thì khái niệm bán phá
giá và chống bán phá giá ngày càng phổ biến và luật chống bán phá giá, do vậy,
ngày càng được chú trọng. Điều này đã được minh chứng qua số lượng ngày
càng tăng các quốc gia có luật chống bán phá giá cũng như các vụ kiện bán phá
giá diễn ra trên phạm vi toàn cầu.
     Do vậy một điều hiển nhiên là trong hoạt động thương mại quốc tế trong
tương lai, việc các doanh nghiệp phải đối mặt với luật chống bán phá giá là một
điều tất yếu.
     Mỹ, với tư cách là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và cũng là bạn hàng
khó chơi nhất, là một trong những quốc gia tiên phong trong việc sử dụng luật
chống bán phá giá để điều chỉnh mối quan hệ thương mại với các quốc gia
khác. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có dịp đối mặt với luật chống bán
phá giá Mỹ. Sự đơn giản về mặt bản chất nhưng phức tạp về các quy định cũng
như cách thức xử lý đòi hỏi các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp Việt
Nam, phải có được một vốn hiểu biết nhất định về bộ luật này nhằm, ít nhất,
tránh những lúng túng và sai sót không cần thiết trong trường hợp bị kiện bán
phá giá, và cao hơn, giành phần thắng về mình.
     Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài này để thực hiện bài khoá luận tốt
nghiệp với mong muốn đưa ra được một cái nhìn riêng về bộ luật chống bán
phá giá của Mỹ. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan,
bản khoá luận này mới chỉ đưa ra được một số nét cơ bản của bộ luật chống bán
phá giá Mỹ cũng như việc thực thi bộ luật này trong thực tế nhằm giúp cho
người đọc có một cái nhìn khái quát nhất về bộ luật này.
     Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và sự hỗ trợ về mặt tài liệu của giáo
viên hướng dẫn, thầy Nguyễn Phúc Khanh, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó hiệu
trưởng trường Đại học Ngoại thương. Dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của thầy,
em đã có thể hoàn thành tốt bản khoá luận tốt nghiệp này.

                                          Hà nội, ngày 30/12/2003
                                                 Sinh viên

                                             Trần Ngọc Trung
CHƯƠNG I
              QUI ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ

      1. Khái niệm về bán phá giá

      1.1. Định nghĩa
      Theo qui định tại khoản 800-801, chương 463 thuộc bộ Luật Doanh Thu
1916 (Revenue Act of 1916), hành vi bán phá giá là hành vi nhập khẩu, hỗ trợ
việc nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ tại mức giá thấp hơn
đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn của hàng hóa đó, tính tại thời điểm
xuất khẩu vào thị trường Mỹ, hoặc tại thị trường chính của nước sản xuất, hoặc
tại một nước thứ ba cũng nhập khẩu hàng hóa đó (giá trị thực hoặc giá bán buôn
nói trên là giá không bao gồm cước vận chuyển, thuế, và các khoản phí khác cần
thiết cho việc nhập khẩu và bán tại thị trường Mỹ) với điều kiện, hành vi nói
trên được thực hiện nhằm phá hủy hoặc phương hại một ngành sản xuất ở Mỹ
hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ, hoặc giành vị trí độc
quyền buôn bán hàng hóa đó ở Mỹ.
      Theo định nghĩa trên, một hành vi sẽ được coi là bán phá giá nếu thỏa mãn
2 tiêu chí:
      - Hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường.
      - Việc bán hàng hóa tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của
       Mỹ.


      1.2. Các đạo luật của Mỹ liên quan đến bán phá giá
      Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên đưa luật chống bán phá giá vào
hệ thống luật pháp quốc gia.
      Điều luật đầu tiên điều chỉnh hành vi bán phá giá là khoản 800 - 801 thuộc
Bộ Luật Doanh Thu ban hành năm 1916, thường được gọi là Luật chống bán
phá giá 1916.
Theo luật này, nhà nhập khẩu có thể bị truy cứu trách nhiệm dân sự và
hình sự nếu nhập khẩu hoặc bán hàng hóa ngoại nhập vào thị trường Mỹ tại mức
giá thấp hơn đáng kể so với mức giá của cũng sản phẩm đó bán tại một thị
trường khác tương đương. Đạo luật này được ban hành do nỗi lo sợ rằng các
Công ty châu Âu, đặc biệt là các Công ty Đức, trong nỗ lực giành lại vị thế trên
thị trường Mỹ sau thế chiến thứ I, sẽ đe dọa đến sự phát triển của ngành sản xuất
Mỹ.
      Tuy nhiên, do tính phức tạp trong việc yêu cầu nguyên đơn đưa ra các
bằng chứng, nên luật này chỉ được áp dụng một cách hạn chế và đã nhanh chóng
được bổ sung bởi một điều luật khác: Luật chống bán phá giá ban hành năm
1921, sau này được đưa vào phần VII Luật thuế quan 1930 (Tariff Act of 1930).
Luật chống bán phá giá 1921 là căn cứ pháp lý quan trọng nhất trong việc xử lý
các hành vi bán phá giá. Bộ luật này cũng là nền tảng của Điều khoản VI của
GATT, sau này là Bộ luật chống bán phá giá của GATT ( ban hành năm 1967 ).
      Sau việc ban hành luật chống bán phá giá 1921, phải mãi cho tới năm 1974
và 1979, Mỹ mới tiếp tục ban hành các điều luật điều chỉnh hành vi bán phá giá.
Đó là Luật Thương mại 1974 (Trade Act of 1974) và luật Thương mại 1979
(Trade Act of 1979). Hai điều luật này được ban hành nhằm chấn chỉnh lại công
tác kiểm soát, điều tra và xử lý các hành vi bán phá giá gây tổn hại cho nền công
nghiệp Mỹ. Chi tiết về vấn đề này sẽ được thảo luận kỹ ở phần sau.
      Như vậy về cơ bản có 4 điều luật chính điều chỉnh hành vi bán phá giá:
      - Luật chống bán phá giá 1916
      - Luật chống bán phá giá 1921
      - Luật Thương mại 1974
      - Luật Thương mại 1979
      Bốn bộ luật này được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau và đều được Bộ
Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ (USITC) dẫn chiếu
trong quá trình xử lý các vụ kiện bán phá giá.
2. Qui định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá

     2.1. Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá
     Cùng với sự hình thành của các điều luật liên quan, phạm vi thẩm quyền
xét xử hành vi bán phá giá cũng thay đổi theo.
     Khi ban hành luật chống bán phá giá 1916, các vụ kiện bán phá giá được
coi là các vụ án dân sự và thậm chí là hình sự, do vậy cơ quan chịu trách nhiệm
là tòa án Mỹ. Thẩm quyền của tòa án chỉ giới hạn trong phạm vi xét xử, còn việc
tìm kiếm chứng cứ để có thể thắng được vụ kiện hoàn toàn là bổn phận của bên
nguyên đơn.
     Việc ra đời Luật chống bán phá giá 1921 đồng nghĩa với việc chuyển đổi
thẩm quyền từ Tòa án sang Cục ngân khố Mỹ (US Treasury). Trách nhiệm cũng
được nâng cao: thẩm quyền của Cục Ngân khố không chỉ giới hạn trong việc
đưa ra phán quyết mà còn tiến hành các bước điều tra và xác định mức độ thiệt
hại mà mỗi hành vi bán phá giá gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế, các công tác liên
quan đến hành vi bán phá giá đều không được Cục Ngân khố tiến hành công
khai và thường không có thời hạn để hoàn tất một cuộc điều tra. Chính bởi lý do
này mà tính bảo hộ của Luật chống bán phá giá đã không được phát huy, tạo nên
sự phản ứng trong giới công nghiệp Mỹ, đặc biệt là trong ngành thép. Sự phản
ứng này đã dẫn đến kết quả ra đời của Luật Thương mại 1974 (Trade Act of
1979) và Luật Thương mại 1979 (Trade Act of 1979). Một cách chính xác thì
trong 2 bộ luật mới này, chính quyền Mỹ đã đưa ra các đạo luật qui định về hành
vi bán phá giá, cụ thể là Đạo luật Jackson - Vanik.
     Theo luật mới này, hành vi bán hàng ở mức giá thấp hơn chi phí sản xuất
cũng được coi là bán phá giá. Về mặt thuật ngữ, bán phá giá và bán dưới mức
chi phí đều được gọi là bán dưới mức hợp lý (Less than fair value - LTFV). Luật
mới cũng đưa ra định nghĩa về chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất = chi phí trung bình + 10% chi phí quản lý + 8% lợi nhuận.
     Đồng thời, thẩm quyền cũng được chuyển giao từ Cục Ngân khố Mỹ sang
Bộ Thương mại Hoa Kỳ ( DOC - Cơ quan bảo hộ công nghiệp nội địa) và Uỷ
ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC). Hai cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm
từng phần, cụ thể:
     - Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) chịu trách nhiệm xác định mức giá bán
dưới mức hợp lý – mức LTFV. Việc xác định mức giá có thể được tiến hành khá
linh động. DOC có thể lựa chọn các mức tỷ giá hối đoái khác nhau khi chuyển
đổi giá xuất khẩu sang đồng tiền của nước xuất khẩu. DOC có thể bỏ qua mức
doanh số thấp hơn chi phí sản xuất thu được ở thị trường nước xuất khẩu. Khi
mức doanh số này quá thấp, DOC có thể sử dụng mức giá ở một thị trường thứ
ba. DOC cũng có thể không xét đến lượng doanh số ở mức giá cao hơn mức
LTFV thu được trên thị trường Mỹ. Một điều quan trọng là thị trường Mỹ có thể
phân ra thành các thị trường khu vực. Việc xác định lượng doanh số ở mức giá
LTFV chủ yếu phụ thuộc vào phương pháp tính toán mà DOC áp dụng.
     - Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) chịu trách nhiệm xác định
mức độ thiệt hại. Tương tự như DOC, USITC cũng có thể linh động trong việc
xác định xem liệu hành vi bán phá giá gây ra những thiệt hại vật chất hay chỉ
mới đe dọa đến ngành sản xuất Mỹ. USITC có thể xem xét nhiều chỉ tiêu khác
nhau như doanh số, lợi nhuận, việc làm,…

     2.2. Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá
     Như đã trình bày ở trên, quá trình điều tra và đưa ra phán quyết cuối cùng
được gói gọn trong thời hạn tối đa là 280 ngày. Tuy nhiên, trên thực tế, các phán
quyết cuối cùng thường được đưa ra sớm hơn thời hạn này rất nhiều. Về cơ bản,
có 3 bước để kết thúc một vụ kiện bán phá giá:
     - Khởi kiện.
     - Điều tra
     - Xem xét lại.
2.2.1. Quá trình khởi kiện
     A. Tổng quan.
     Bên nguyên đơn có thể đệ đơn kiện bán phá giá lên Bộ Thương mại Hoa
Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế (USITC) với nội dung: Một ngành
sản xuất của Mỹ đang phải chịu thiệt hại vật chất hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt
hại vật chất, hoặc việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ bị trì hoãn do việc
nhập khẩu một hay nhiều loại hàng hóa tại mức giá thấp hơn mức hợp lý (mức
LTFV) hoặc do việc Chính phủ của một hay nhiều quốc gia trợ giá cho hàng hóa
mà Mỹ nhập khẩu.

     B. Chuẩn bị khởi kiện
     Thông thường, DOC và USITC thường xem xét lại đơn kiện trước khi
được đệ trình chính thức nhằm giúp nguyên đơn tránh được những sai sót có thể
ngăn cản quá trình điều tra.
     Về mặt hình thức, đơn kiện phải có phần mở đầu và kết luận và được trình
bày theo dạng sau:
     Mục 1: Thông tin chung
     Mục 2: Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu
     Mục 3: Thông tin về trợ giá và thông tin về giá
     Mục 4: Thông tin về tình trạng nguy kịch
     Mục 5: Thông tin về mức độ thiệt hại

     Mục 1: Thông tin chung
     Phần này cung cấp thông tin về nguyên đơn và ngành nội địa sản xuất sản
phẩm tương tự hoặc gần giống với sản phẩm nhập khẩu. Theo qui định, đơn kiện
phải nhân danh cả một ngành sản xuất. Để thỏa mãn điều kiện này thì:
     i. Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải đại diện cho
tối thiểu 25% tổng sản lượng của ngành đó.
ii. Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải chiếm trên
50% sản lượng mà 25% nói trên tạo ra(1).
       Nếu đơn kiện không có được sự ủng hộ của các nhà sản xuất và công nhân
chiếm trên 50% tổng sản lượng của ngành, thì DOC phải trưng cầu ý kiến của cả
ngành hoặc dựa vào các thông tin khác để xác định xem liệu đơn kiện đó có đạt
được mức ủng hộ như luật định không.

      Mục 2: Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu
       Trong phần này, bên nguyên đơn cần đưa ra những định nghĩa chính xác
và rõ ràng về hàng nhập khẩu bao gồm đặc tính kỹ thuật, nguyên liệu sản xuất
kèm theo catalog sản phẩm. Nhìn chung, định nghĩa này phải đủ rộng để bao
quát được toàn bộ vấn đề nhưng cũng phải đủ hẹp để tránh tốn thời gian điều tra.
       Ngoài ra, bên nguyên đơn phải đưa ra thông tin về nước xuất xứ của hàng
nhập khẩu, nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, giá trị và kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường Mỹ trong 3 năm gần nhất.

       Mục 3: Thông tin về trợ giá và thông tin về giá LTFV
       Trong phần này, bên nguyên đơn phải đưa ra các thông tin, bằng chứng về
sự can thiệp của Chính phủ nước xuất khẩu đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ,
cũng như mức giá dưới mức hợp lý - LTFV của hàng hóa nhập khẩu. Các thông
tin này sẽ chỉ do Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) xem xét.

       Mục 4: Thông tin về "Tình trạng nguy kịch"
       "Tình trạng nguy kịch" là điều khoản cho phép áp dụng thuế chống bán
phá giá trước thời hạn hiệu lực trong trường hợp đặc biệt. Bên nguyên đơn có
thể yêu cầu áp dụng điều khoản vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày DOC đưa
ra phán quyết cuối cùng 20 ngày.
       Đương nhiên, để điều khoản này được áp dụng, thì bên nguyên đơn phải
nhận được phán quyết xử thắng của DOC và USITC. Việc thi hành điều khoản
(1)
   Ví dụ, 1 tổng công ty, gồm nhiều công ty thành viên chiếm 25% tổng sản lượng của ngành, đệ đơn kiện bán
phá giá. Để đơn kiện được chấp nhận, số công ty thành viên ủng hộ đơn kiện phải chiếm trên 50% sản lượng của
tổng công ty.
này sẽ dẫn đến việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập
khẩu được bán trong khoảng thời gian 90 ngày trước khi mức thuế chống bán
phá giá được áp dụng. Điều khoản này được áp dụng nhằm 2 mục đích:
       (1) Ngăn cản việc nhà nhập khẩu trốn thuế chống bán phá giá bằng cách
       nhập khẩu một khối lượng lớn ngay sau khi có đơn kiện.
       (2) Giảm bớt ảnh hưởng của lượng hàng nhập khẩu trốn thuế nếu như sự
       việc đã xảy ra.
     DOC phải đưa ra quyết định liên quan đến việc áp dụng điều khoản “tình
trạng nguy kịch”, và nếu quyết định của DOC là có tồn tại tình trạng đó, đồng
thời USITC cũng xác nhận việc có thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất nội
địa, thì USITC phải đưa ra một phán quyết bổ sung để xác định xem liệu có xảy
ra tình trạng trốn thuế hay không. Để đưa ra phán quyết này, USITC phải cân
nhắc các yếu tố:
     (1) Thời gian và khối lượng hàng nhập khẩu.
     (2) Sự tăng nhanh chóng lượng hàng nhập khẩu.
     (3) Bất kỳ một yếu tố khác cho thấy đang có hành vi trốn thuế chống bán
         phá giá.

     Mục 5: Thông tin về mức độ thiệt hại
     Trong phần này, bên nguyên đơn phải cung cấp các dữ liệu chứng minh
việc mặt hàng nhập khẩu gây thiệt hại hoặc đe đọa thiệt hại cho ngành sản xuất
nội địa. Nhìn chung, các số liệu này phải tổng kết được tình hình của 3 năm gần
nhất bao gồm:
     (1) Kim ngạch và giá trị hàng nhập khẩu được bán ở mức giá LTFV.
     (2) Giá bán tại Mỹ của hàng nhập khẩu và giá của sản phẩm tương tự được
        sản xuất tại Mỹ.
(3) Năng suất, doanh số trong nước, doanh số xuất khẩu của sản phẩm
             tương tự được sản xuất tại Mỹ.1
         (4) Số lao động của Mỹ trong ngành sản xuất sản phẩm tương tự trên.
         (5) Số liệu về thu nhập và lỗ (doanh số ròng, chi phí sản xuất, lợi nhuận
             hoặc lỗ, chi phí bán hàng, chi phí quản lý)




         2.2.2. Quá trình điều tra
         Quá trình điều tra vụ kiện chống bán phá giá có thể được chia làm 5 bước,
kết thúc mỗi bước là phán quyết của DOC hoặc USITC.
         Bước 1: Bắt đầu điều tra.
         Bước 2: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Uỷ ban TMQT USITC
         Bước 3: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Bộ TM HoaKỳ DOC
         Bước 4: Giai đoạn điều tra chính thức của Bộ TM Hoa Kỳ DOC
         Bước 5: Giai đoạn điều tra chính thức của Uỷ ban TMQT Hoa Kỳ USITC
         Ngoại trừ bước 3, trong các bước còn lại nếu có phán quyết xử thua bên
nguyên đơn thì vụ kiện sẽ bị dừng lại.
         Thời hạn hoàn thành cho 5 bước trên như sau:
         Bước 1: 20 ngày sau khi nhận được đơn kiện
         Bước 2: 45 ngày sau khi nhận được đơn kiện
         Bước 3: 115 ngày sau khi hoàn thành bước 2
         Bước 4: 75 ngày sau khi hoàn thành bước 3.
         Bước 5: 120 ngày sau khi hoàn thành bước 3.



1
    Những thông tin này sẽ được sử dụng để đánh giá quy mô của ngành sản xuất mặt hàng tương tự của Mỹ, từ đó
đánh giá mức độ thiệt hại mà mặt hàng bán phá giá gây ra.
A. Bước 1: Bắt đầu điều tra
     Bên nguyên đơn phải đồng thời đệ đơn kiện lên DOC và USITC. Trong
vòng 20 ngày sau khi nhận đơn kiện, Bộ TM Hoa Kỳ (DOC) sẽ xác định tính
cần thiết áp dụng thuế chống bán phá giá như đơn kiện yêu cầu. Nếu phán quyết
của DOC là cần thiết, thì quá trình điều tra sẽ được tiến hành, nếu ngược lại
DOC sẽ bác đơn kiện và quá trình tố tụng chấm dứt.

     B. Bước 2: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Uỷ ban Thương mại Quốc tế
     Hoa Kỳ - USITC
     Trong vòng 45 ngày sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ dựa trên
những thông tin sẵn có để xác định xem liệu có dấu hiệu nào cho thấy một
ngành sản xuất Mỹ đang phải chịu thiệt hại hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại
vật chất, hoặc việc thành lập một ngành sản xuất bị ngăn cản do việc nhập khẩu
loại hàng hóa nằm trong diện điều tra. Trong giai đoạn điều tra sơ bộ này,
USITC phải tiến hành 6 bước:
     - Thành lập và lên kế hoạch điều tra sơ bộ.
     - Bảng câu hỏi.
     - Họp báo và tổng kết
     - Báo cáo của ban điều tra và bản ghi nhớ
     - Tổng kết và biểu quyết
     - Phán quyết và quan điểm của USITC

     * Thành lập và lên kế hoạch điều tra sơ bộ
     Sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ thành lập một ban điều tra gồm 6
thành viên: 1 điều tra viên, 1 chuyên gia kinh tế, 1 kế toán viên/kiểm toán viên,
1 chuyên gia phân tích sản xuất, một luật sư, và 1 giám sát viên. Ban điều tra sẽ
lên kế hoạch điều tra và soạn thảo 1 thông báo cho công luận. Mục đích của bản
thông báo này là cung cấp cho công chúng những thông tin liên quan đến nội
dung điều tra và lịch trình điều tra.
     Bên nguyên đơn cũng có thể tham gia vào ban điều tra.
* Bảng câu hỏi
     Sau khi xem xét kỹ lưỡng đơn kiện và các thông tin sẵn có khác, ban điều
tra soạn thảo bảng câu hỏi để gửi cho các nhà sản xuất Mỹ, các nhà nhập khẩu
Mỹ và các nhà sản xuất nước ngoài nhằm lấy các thông tin cần thiết để đưa ra
phán quyết. Bảng câu hỏi sẽ được gửi đi trong vòng 2 đến 4 ngày làm việc sau
khi nhận được đơn kiện. Việc trả lời bảng câu hỏi là bắt buộc đối với các nhà
sản xuất và nhà nhập khẩu Mỹ. Nhà sản xuất nước ngoài không nhất thiết phải
trả lời bảng câu hỏi, tuy nhiên, việc không trả lời có thể dẫn đến những kết luận
không có lợi từ phía USITC.
     Trong quá trình soạn thảo, bảng câu hỏi, USITC phải giải quyết một vấn
đề mấu chốt, đó là xác định chính xác sản phẩm cần điều tra. Trước khi đưa ra
phán quyết, USITC phải đánh giá mức độ thiệt hại mà một ngành sản xuất sản
phẩm tương tự của Mỹ phải hứng chịu. Luật chống bán phá giá định nghĩa "một
ngành sản xuất" là "bao gồm tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc
bao gồm các nhà sản xuất tạo ra một phần sản lượng chủ chốt của sản phẩm
trên…". Cũng theo luật thì "sản phẩm tương tự" là sản phẩm giống hệt, hoặc
trong trường hợp không có sản phẩm giống hệt, là sản phẩm có nhiều đặc tính
tương đồng với sản phẩm được so sánh nhất…". Việc xác định sản phẩm tương
tự được thực hiện dựa trên việc xem xét đơn kiện, thảo luận với các cá nhân
trong ngành sản xuất sản phẩm đó, và các phân tích mà USITC có được. Sau khi
đã lựa chọn được sản phẩm tương tự cần điều tra, USITC sẽ soạn thảo bảng câu
hỏi theo một mẫu đã được điều chỉnh cho phù hợp với vấn đề điều tra và gửi cho
các nhà sản xuất Mỹ, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất
nước ngoài (nước xuất khẩu thuộc diện điều tra).
     Bảng câu hỏi cho nhà sản xuất Mỹ có 4 phần: Phần 1 đưa ra các câu hỏi về
bộ máy và hoạt động của Công ty; có ủng hộ đơn kiện này không? Tại sao?
Phần 2 yêu cầu cung cấp các thông tin, dữ liệu trong vòng 3 năm gần nhất về
năng suất, sản lượng, lượng hàng dự trữ, lượng hàng bán, lượng hàng nhập khẩu,
lượng tiêu thụ nội bộ, số lao động, giờ làm việc, mức lương. Phần 3 liên quan
đến các dữ liệu về tài chính trong 3 năm gần nhất bao gồm dữ liệu về tình hình
lỗ lãi của sản phẩm được điều tra; dữ liệu về vốn, chi phí nghiên cứu và phát
triển, và giá trị tài sản của doanh nghiệp; ngoài ra còn có các câu hỏi về mức độ
ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đối với tình hình vốn và đầu tư. Phần 4 yêu cầu
nhà sản xuất cung cấp các thông tin liên quan đến mức giá và yêu cầu nhà sản
xuất khẳng định việc sụt giảm doanh thu là do ảnh hưởng của loại hàng nhập
khẩu đang được điều tra.
     Bảng câu hỏi cho nhà nhập khẩu Mỹ gồm 3 phần. Phần 1 tương tự như
bảng câu hỏi cho nhà sản xuất. Phần 2 yêu cầu các dữ liệu trong vòng 3 năm gần
nhất về việc nhập khẩu mặt hàng được điều tra; kim ngạch và giá trị hàng bán,
tiêu thụ nội bộ, chuyển nhượng hàng nhập khẩu nói trên; và lượng hàng nhập
khẩu dự trữ trong kho. Phần 3 yêu cầu cung cấp mức giá bán hàng nhập khẩu và
các thông tin liên quan đến mức giá.
     Bảng câu hỏi cho nhà sản xuất nước ngoài cũng gồm 3 phần. Hai phần đầu
bao gồm các câu hỏi tổng quát về hoạt động của nhà sản xuất tại nước đang
được điều tra (nước xuất khẩu) và tại Mỹ. Phần 3 yêu cầu các thông tin trong 3
năm gần nhất về năng suất, sản lượng, lượng hàng bán trong nước, lượng xuất
khẩu sang Mỹ và các thị trường khác và lượng dự trữ mặt hàng trên.

     * Họp báo và tổng kết
     Sau khoảng 3 tuần điều tra sơ bộ, USITC sẽ tổ chức một cuộc họp báo.
Điều hành buổi họp báo là giám đốc điều tra của USITC; ban điều tra cùng tham
dự. Các bên ủng hộ hay phản đối vụ kiện đều có một tiếng đồng hồ để đưa ra
các luận điểm và bằng chứng để bảo vệ quan điểm của mình. Các bên diễn
thuyết phải đảm bảo tính chính xác của các thông tin đưa ra. Các quan chức
đứng đầu và ban điều tra có thể đặt câu hỏi cho các nhân chứng, nhưng việc chất
vấn giữa hai bên ủng hộ và phản đối là không được phép. Sau khi hai bên kết
thúc bài thuyết trình, mỗi bên cũng có 10 phút để bác bỏ luận điểm của bên còn
lại và đưa ra kết luận. Toàn bộ nội dung buổi họp báo được lập thành biên bản.
     USITC khuyến khích các bên nộp bản tổng kết sau họp báo. Trong bản
tổng kết này, các bên có thể đưa ra các thông tin và luận điểm thích hợp với vấn
đề điều tra. Bảng tổng kết được giới hạn về độ dài là 50 trang và phải được trình
lên USITC trong vòng 3 ngày làm việc sau buổi họp báo.

     * Báo cáo của ban điều tra và bản ghi nhớ
     Báo cáo của ban điều tra là một văn bản khách quan do điều tra viên,
chuyên gia phân tích sản xuất, kế toán viên / kiểm toán viên, và chuyên gia kinh
tế soạn thảo dưới sự chỉ đạo của giám sát viên. Bản báo cáo bao gồm 1 bài
thuyết trình và phân tích về tất cả các số liệu thống kê và các thông tin khác thu
thập được từ bảng câu hỏi, tài liệu, nghiên cứu thực địa… Bản báo cáo không
đưa ra bất kỳ đề xuất nào liên quan đến phán quyết của USITC.
     Sau khi giám sát viên xem xét kỹ, bản báo cáo sẽ được chuyển tới USITC
sau khoảng 5 tuần điều tra sơ bộ. Vào ngày làm việc tiếp theo, hội đồng cố vấn
sẽ chuyển cho USITC bản ghi nhớ do thành viên luật sư của ban điều tra soạn
thảo. Bản ghi nhớ nêu ra các vấn đề pháp lý liên quan đến cuộc điều tra, tóm tắt
luận điểm của hai bên ủng hộ và phản đối, đồng thời cũng đưa ra đề xuất về mặt
pháp lý.

     * Tổng kết và biểu quyết
     Khoảng 4 ngày làm việc sau khi nhận được bản báo cáo của ban điều tra,
USITC sẽ tổ chức một buổi họp nhằm tổng kết giai đoạn điều tra và biểu quyết.
Trong buổi họp, đại diện của USITC có thể chất vấn ban điều tra về các vấn đề
liên quan đến cuộc điều tra trước khi thông qua bản báo cáo. Tiếp sau đó, từng
đại diện của USITC sẽ tuyên bố quan điểm của cá nhân và biểu quyết việc có
hay không thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất Mỹ do hành vi bán phá
giá gây ra. ý kiến biểu quyết sẽ quyết định đến phán quyết của USITC. Chỉ cần
số biểu quyết ủng hộ chiếm một nửa, thì phán quyết của USITC sẽ là: Có.
* Phán quyết và quan điểm của USITC
       Theo qui định pháp luật, USITC phải đệ trình phán quyết của giai đoạn
điều tra sơ bộ lên Ban thư ký của DOC trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận đơn
kiện. Tiếp sau đó, USITC có 5 ngày để trình bày quan điểm bằng văn bản lên
DOC. Trong cùng thời gian này, ban điều tra cũng phải đệ trình lên DOC bản
báo cáo đã được phát hành rộng rãi (bản báo cáo được phát hành rộng rãi là bản
báo cáo trong đó không đề cập đến bất kỳ một công ty cụ thể nào và không chứa
đựng các thông tin bí mật).

       C. Bước 3: Giai đoạn điều tra sơ bộ của DOC
       Trong trường hợp phán quyết mà USITC đưa ra là có thiệt hại vật chất thì
DOC phải tiến hành giai đoạn điều tra sơ bộ. Thời hạn cho giai đoạn này là 160
ngày kể từ ngày nhận đơn kiện. DOC sẽ dựa trên các thông tin sẵn có để kết
luận xem liệu có cơ sở cho việc nghi ngờ hàng hóa nhập khẩu được bán ở mức
giá LTFV hay không. Cụ thể, DOC sẽ phải dựa vào các thông tin, số liệu do Ban
điều tra thu thập hoặc do chính DOC thu thập để xác định các khái niệm : Giá trị
thông thường, Giá xuất khẩu, Mức bán phá giá và tỉ lệ bán phá giá (ý nghĩa của
các khái niệm này sẽ được giải thích cụ thể ở phần 2.2.3).
       Nếu kết luận sơ bộ của DOC là có hành vi bán phá giá thì DOC sẽ ra lệnh
đình chỉ việc thanh toán cho tất cả các giao dịch liên quan đến hàng nhập khẩu
thuộc diện điều tra, được thực hiện trong khoảng thời gian 90 ngày trước khi ban
hành lệnh này. Tiếp sau đó, các nhà nhập khẩu phải ký quĩ một khoản tiền tương
                                        (1)
đương với tỉ lệ bán phá giá                   . Nếu kết luận của DOC là: không có cơ sở cho
những nghi ngờ trên, thì DOC vẫn tiến hành giai đoạn điều tra chính thức,
nhưng nhà nhập khẩu sẽ không phải ký quỹ số tiền nói trên.



(1)
   "Mức bán phá giá" là lượng chênh lệch giữa giá trị thông thường của loại hàng đó với giá xuất khẩu vào thị
trường Mỹ cũng của loại hàng đó".
  "Tỉ lệ bán phá giá " =       "Mức bán phá giá"             X 100%
                                  Giá xuất khẩu
D. Bước 4: Giai đoạn điều tra chính thức của DOC
     Trong vòng 235 ngày sau ngày nhận đơn kiện, DOC phải đưa ra phán
quyết chính thức liệu hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra có được bán hoặc có
khả năng được bán ở mức giá dưới mức hợp lý (mức LTFV) hay không.

     E. Bước 5: Giai đoạn điều tra chính thức của USITC
     Trong vòng 280 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện, USITC phải đưa ra phán
quyết chính thức về việc liệu hành vi nhập khẩu loại hàng hóa thuộc diện điều
tra có gây tổn hại vật chất hoặc đe dọa tổn hại vật chất hoặc ngăn cản việc thành
lập một ngành sản xuất của Mỹ hay không.
     Giai đoạn điều tra chính thức này được chia làm 8 bước:
     - Lập lịch trình điều tra.
     - Lập bảng câu hỏi
     - Báo cáo trước hội thảo
     - Hội thảo và tổng kết.
     - Báo cáo chính thức của ban điều tra và bản ghi nhớ.
     - Kết thúc hồ sơ điều tra và ý kiến của các bên.
     - Tổng kết và biểu quyết.
     - Phán quyết và quan điểm của USITC.


     * Lập lịch trình điều tra
     Giai đoạn điều tra chính thức của USITC bắt đầu sau khi nhận được thông
báo của DOC về việc: DOC đã đưa ra kết luận sơ bộ rằng có hành vi bán phá giá
và cần tiếp tục điều tra. USITC sẽ thành lập một ban điều tra gồm 6 thành viên.
Ban điều tra sẽ lập lịch trình điều tra. Lịch trình này sẽ được USITC thông qua
trong vòng 1 tuần kể từ ngày nhận được thông báo của DOC.
     Các bên liên quan, nếu muốn tham gia vào quá trình điều tra chính thức,
thì cần đệ đơn xin tham gia lên ban thư ký của USITC.

     * Lập bảng câu hỏi
Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ của giai đoạn điều tra sơ bộ và đặc biệt là
quan điểm của USITC về vấn đề điều tra, ban điều tra sẽ lập bảng câu hỏi nhằm
khai thác từ các nhà sản xuất Mỹ và ngoại quốc, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà buôn
Mỹ các thông tin mà USITC cần. Bản thảo của bảng câu hỏi sẽ được gửi cho các
bên liên quan để lấy ý kiến. Tiếp đó, ban điều tra tập hợp các ý kiến và trình
bảng câu hỏi lên USITC để được thông qua. Bảng câu hỏi sau khi được thông
qua sẽ được gửi cho tất cả các nhà sản xuất Mỹ, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà sản
xuất nước ngoài có tham gia vào việc trả lời bảng câu hỏi của giai đoạn điều tra
sơ bộ. Bảng câu hỏi cũng có thể được gửi cho các Công ty khác mà ban điều tra
cho rằng có liên quan đến việc nhập khẩu hoặc sản xuất mặt hàng thuộc diện
điều tra. Về cơ bản, cấu trúc bảng câu hỏi này là tương đồng với bảng câu hỏi sử
dụng trong giai đoạn điều tra sơ bộ, tuy nhiên có thể có một vài thay đổi về nội
dung câu hỏi và sự rút ngắn về mặt thời gian của các số liệu cần thu thập.
     Bảng câu hỏi cho nhà buôn Mỹ ít nhất gồm 4 phần: Phần 1 tương tự như
bảng câu hỏi cho nhà sản xuất và nhà nhập khẩu. Phần 2 yêu cầu số liệu về hạn
ngạch và giá trị loại hàng thuộc diện điều tra mà Công ty mua, phân loại theo
nước sản xuất (hàng sản xuất tại Mỹ, hàng sản xuất tại nước thuộc diện điều tra,
và hàng sản xuất tại nước không thuộc diện điều tra). Phần 3 đưa ra các câu hỏi
về đặc điểm của thị trường của loại hàng hóa trên và phương thức mua bán.
Phần 4 đưa ra các câu hỏi về tình hình cạnh tranh giữa hàng sản xuất tại Mỹ với
hàng sản xuất tại nước thuộc diện điều tra và hàng sản xuất tại nước không
thuộc diện điều tra. Ngoài ra còn có các câu hỏi yêu cầu đưa ra sự so sánh về
giá, chất lượng… giữa các mặt hàng có xuất xứ từ 3 nguồn gốc nói trên.
     Bảng câu hỏi sẽ được gửi đi trong vòng 1 tuần sau khi nhận được thông
báo của DOC về kết luận điều tra sơ bộ.

     * Báo cáo tiền hội thảo
Bản báo cáo này được trình lên USITC 9 ngày trước khi tổ chức hội thảo,
bao gồm các thông tin mới nhất và số liệu thống kê, phân tích của các bên liên
quan, cũng như các cơ sở để USITC và các bên thảo luận trong buổi hội thảo.

      * Hội thảo và tổng kết
      USITC sẽ tổ chức một buổi hội thảo ngay sau khi DOC đưa ra phán quyết
chính thức. Chủ tịch của USITC sẽ chủ trì buổi hội thảo. Buổi hội thảo là dịp để
các bên liên quan bày tỏ quan điểm của mình và cũng là cơ hội để các thành
viên USITC chất vấn các bên và khai thác thông tin phục vụ cho việc đưa phán
quyết chính thức. Đơn đăng ký tham gia hội thảo phải được gửi lên Ban thư ký
của USITC chậm nhất là 3 ngày trước khi buổi hội thảo diễn ra.
      Trong buổi hội thảo, các bên ủng hộ và phản đối đơn kiện sẽ có 5 phút cho
mỗi bên để tóm tắt luận điểm của mình. Tiếp theo đó, mỗi bên sẽ có một tiếng
đồng hồ để nêu ra bằng chứng bảo vệ luận điểm của mình. Sau khi nghe trình
bày của các bên là quá trình chất vấn của USITC, của ban điều tra và của bên
đối lập.
      Kết thúc buổi hội thảo là phần tóm tắt vụ kiện dài 5 phút do cả hai bên, bên
nguyên đơn và bị đơn, trình bày.
      USITC khuyến khích các bên liên quan đệ trình bằng chứng lên USITC
trước khi diễn ra buổi hội thảo. Các bằng chứng này cần ngắn gọn và tập trung
vào vấn đề chính của cuộc điều tra. Ngoài ra, USITC cũng khuyến khích các bên
đệ trình bản tổng kết sau buổi hội thảo. Bản tổng kết có thể đưa ra thông tin
được khám phá trong thời gian sau khi tổ chức hội thảo. Thời hạn nộp bản tổng
kết là 5 ngày sau buổi hội thảo.


      * Báo cáo chính thức của ban điều tra và bản ghi nhớ
      Sau buổi hội thảo, ban điều tra sẽ cập nhật các thông tin thu thập được từ
buổi hội thảo, bản tổng kết,… vào bản báo cáo tiền hội thảo. Mục tiêu của bản
báo cáo chính thức là bổ sung và đính chính các thông tin được đưa ra trong bản
báo cáo tiền hội thảo. Bản báo cáo chính thức sẽ được đệ trình lên USITC
khoảng 2 tuần sau khi kết thúc hội thảo. Bản báo cáo chính thức, cùng với các
tài liệu do ban điều tra soạn thảo, biên bản nội dung buổi hội thảo, bản tổng kết
của các bên liên quan và các thông tin khác sẽ là căn cứ để USITC đưa ra phán
quyết cuối cùng.

       * Kết thúc hồ sơ điều tra và ý kiến của các bên
       USITC sẽ kết thúc hồ sơ điều tra 5 ngày sau khi nhận được bản báo cáo
chính thức của ban điều tra. Đến thời điểm này, các bên liên quan sẽ được phép
xem xét tất cả các thông tin trước đây chưa công bố. 2 ngày sau khi kết thúc hồ
sơ điều tra, các bên có liên quan sẽ có cơ hội đưa ra ý kiến về tính chính xác,
mức độ tin cậy, hoặc giá trị của các thông tin này.

       * Tổng kết và biểu quyết
       USITC sẽ tổ chức một buổi tổng kết và biểu quyết công khai, 3 ngày sau
khi nhận được ý kiến bình luận nêu trên của các bên có liên quan và 6 ngày
trước khi kết thúc thời hạn điều tra. Trước khi biểu quyết, USITC sẽ một lần nữa
xem xét lại toàn bộ hồ sơ và có thể yêu cầu ban điều tra tóm tắt lại quá trình điều
tra.

       * Phán quyết và quan điểm của USITC
       Theo qui định, USITC phải đệ trình phán quyết chính thức lên ban thư ký
của DOC trong vòng 120 ngày sau khi nhận được thông báo về kết luận sơ bộ
của DOC hoặc 45 ngày sau khi nhận được thông báo về kết luận chính thức của
DOC. Trong cùng thời gian này, USITC phải trình bày quan điểm bằng văn bản
về lý do đưa ra phán quyết đó. Các văn bản này cùng được chuyển cho các bên
liên quan.
       Sau khi xem xét phán quyết chính thức và bản giải trình của USITC, DOC
sẽ đưa ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu
thuộc diện điều tra và đưa ra một mức thuế tương đương với tỉ lệ bán phá giá.
Lưu ý : Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý rằng, mức thuế mà DOC đưa ra
vào thời điểm này không phải là mức thuế thực sự mà hàng hoá nhập khẩu phải
chịu. Ta có thể xem xét một ví dụ: DOC phát hiện thấy hàng nhập khẩu được
bán với tỉ lệ bán phá giá là 5%. Sau khi USITC đưa ra phán quyết chính thức là
có thiệt hại vật chất, DOC sẽ ra quyết định áp dụng mức thuế chống bán phá giá
với hàng hoá đó là 5%. Từ thời điểm này, mặt hàng trên, khi nhập khẩu vào Mỹ,
sẽ phải chịu thêm một mức thuế 5%. Nhà nhập khẩu sẽ phải đặt cọc một số tiền
tương đương với mức 5% trên cho Cục Hải quan của Mỹ khi làm thủ tục nhập
khẩu. Tình trạng này sẽ được duy trì trong vòng một năm. Sau một năm, trong
quá trình xem xét lại, DOC mới đưa ra một mức thuế chống bán phá giá thực sự.
Mức thuế chống bán phá giá thực sự này có thể sẽ cao hơn hoặc thấp hơn tỉ lệ
bán phá giá mà DOC tìm thấy. Nếu cao hơn, nhà nhập khẩu sẽ phải nộp thêm số
tiền còn thiếu. Nếu thấp hơn, nhà nhập khẩu sẽ được hoàn trả lại phần thừa.
Đồng thời trong quá trình xem xét lại, DOC và USITC sẽ quyết định việc có tiếp
tục duy trì thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng đó hay không.
     Có hai mốc hiệu lực của thuế chống bán phá giá, tuỳ thuộc vào phán quyết
chính thức của DOC về “tình trạng nguy kịch”. Nếu phán quyết chính thức của
DOC là có tồn tại "tình trạng nguy kịch”, và USITC cũng đưa ra phán quyết
chính thức rằng: 1 ngành sản xuất của Mỹ đang phải chịu thiệt hại vật chất, thì
USITC sẽ phải điều tra thêm để xác định xem liệu có tình trạng "trốn thuế" hay
không (như trình bày trong mục 4 - phần B - 2.2.1). Kết quả của cuộc điều tra
thêm này sẽ quyết định ngày hiệu lực của phán quyết: Nếu kết quả điều tra là có
hành vi "trốn thuế", thì mức thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng từ ngày
ban hành lệnh đình chỉ thanh toán (C-2.2.2); trong trường hợp ngược lại, thì thời
hạn hiệu lực bắt đầu từ ngày công bố chính thức quyết định của USITC.
     Như vậy, việc DOC và USITC đưa ra các phán quyết chính thức chưa hẳn
đã kết thúc quá trình điều tra một hành vi bán phá giá. Như đã nói ở phần đầu,
quá trình điều tra chỉ kết thúc sau khi đã hoàn thành quá trình xem xét lại. Tuy
nhiên, để hiểu rõ hơn về bản chất của việc điều tra cũng như cơ sở để hình thành
kết quả của mỗi phán quyết, chúng ta sẽ nghiên cứu các khái niệm pháp lý chính
trước. Quá trình xem xét lại sẽ được đề cập sau.


     2.2.3. Các khái niệm pháp lý chính
     Các khái niệm pháp lý này chính là cái khung tạo ra kết quả điều tra của
Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
(USITC).
     A. Giá trị thông thường ( Normal value )
     Giá trị thông thường, nói một cách đơn giản, là giá của sản phẩm thuộc
diện điều tra được bán tại một thị trường khác ngoài Mỹ.
     Giá trị thông thường là một khái niệm quan trọng, có tính quyết định đến
phương pháp tính mức bán phá giá cũng như kết quả hay mức thuế chống bán
phá giá sẽ được áp dụng.
     Việc tiến hành xác định “giá trị thông thường” do DOC tiến hành và có 5
phương pháp để xác định khái niệm này :
     (1) Giá thị trường nước xuất khẩu
     (2) Giá thị trường nước thứ ba
     (3) Giá dự tính
     (4) Giá của nền kinh tế phi thị trường
     (5) Giá xây dựng theo các dữ liệu sẵn có


     (1) Giá trị thông thường = Giá thị trường nước xuất khẩu
     Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Giá trị thông thường
được tính trên cơ sở giá bán của sản phẩm xuất khẩu tại thị trường nước xuất
khẩu. Nói cách khác, một sản phẩm sẽ bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu
của sản phẩm đó vào thị trường Mỹ thấp hơn giá bán lẻ ( giá bán cho người tiêu
dùng) cũng của sản phẩm đó hoặc sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất
khẩu. Trên cơ sở giá CIF, DOC sẽ trừ đi các khoản phí như cước vận chuyển,
phí giao dịch, hoa hồng, và các chi phí bán hàng có liên quan khác. Mục đích
của DOC là muốn so sánh trên cơ sở giá xuất xưởng.


     (2) Giá trị thông thường = Giá thị trường của nước thứ ba
     Trong trường hợp sản phẩm thuộc diện điều tra hoặc sản phẩm tương tự
sản phẩm thuộc diện điều tra không được bán trên thị trường nước xuất khẩu
hoặc doanh số của mặt hàng này tại thị trường nước xuất khẩu quá thấp ( nhỏ
hơn 5% tổng doanh số mặt hàng này tại thị trường Mỹ ) thì DOC sẽ coi thị
trường mặt hàng này của nước xuất khẩu là không tồn tại và lựa chọn thị trường
một nước thứ ba nơi cũng nhập khẩu mặt hàng tương tự của nước xuất khẩu
trên. DOC sẽ lấy giá xuất khẩu vào thị trường nước thứ ba của mặt hàng thuộc
diện điều tra làm giá trị thông thường.


     (3) Giá trị thông thường = Giá dự tính
     Giá dự tính là mức giá do DOC xây dựng nên dựa trên 3 yếu tố: Chi phí
sản xuất ; Mức chi phí chung ; Mức lợi nhuận hợp lý. Việc tính toán mức chi
phí chung và mức lợi nhuận hợp lý sẽ được dựa trên các dữ liệu liên quan đến
hoạt động sản xuất và bán hàng do nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất thuộc diện
điều tra cung cấp. Trong trường hợp không xác định được 2 yếu tố này bằng cơ
sở trên, DOC có thể dựa vào : Số liệu thực tế về hoạt động sản xuất và bán hàng
của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất thuộc diện điều tra tại thị trường nước xuất
khẩu hoặc bất kỳ một phương pháp nào khác miễn là mức lợi nhuận dự tính
không vượt quá mức lợi nhuận thông thường mà nhà xuất khẩu hoặc nhà sản
xuất thuộc diện điều tra vẫn hưởng.
     DOC sẽ áp dụng mức giá dự tính trong trường hợp không có thị trường
nước thứ ba tương tự.
     Trường hợp đặc biệt : Loại trừ các khoản doanh thu phát sinh từ
mức giá thấp hơn mức chi phí.
Trong quá trình kinh doanh, thường có một số giao dịch có mức giá bán
thấp hơn mức chi phí sản xuất. Các giao dịch như vậy sẽ được coi là “giao dịch
trong điều kiện thương mại bất thường” và sẽ bị loại khỏi giá trị thông thường.
Trong thực tế, các giao dịch dưới mức chi phí sẽ bị loại nếu giá bán trung bình
của các giao dịch này thấp hơn chi phí sản xuất trung bình và kim ngạch của
các giao dịch này chiếm trên 20% tổng kim ngạch. Việc loại bỏ các giao dịch
trên sẽ làm tăng giá trị thông thường và càng làm cho việc phát hiện ra hành vi
bán phá giá khả dĩ hơn. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Trong ví dụ này, giả
sử mức chi phí sản xuất là 50 :


Thời điểm         Kim        Giá trị thông thường    Giá xuất khẩu vào
                 ngạch                                  thị trường Mỹ

Tháng 1             10            40                      50

Tháng 2             10            100                     100

Tháng 3             10            150                     150

Tháng 4             10            200                     200


     Ví dụ trên đưa ra 4 giao dịch với kim ngạch của mỗi giao dịch là 10. Giao
dịch vào tháng 1 có mức giá là 40, thấp hơn mức chi phí sản xuất ( 50 ). Giao
dịch này chiếm 25% tổng kim ngạch ( > 20% ) vì vậy nó sẽ bị loại khỏi giá trị
thông thường. Kết quả là ta có:
     Giá trị thông thường trung bình là (100 +150 + 200)/3 = 150
     Mức giá xuất khẩu trung bình là (50 + 100 + 150 + 200)/4 = 125
     Do đó mức bán phá giá là (150 – 125) = 25 và tỉ lệ bán phá giá là 25/125 =
20%. Nếu như giao dịch trong tháng 1 không bị loại khỏi gía trị thông thường
thì giá trị thông thường trung bình là 122.5 và như vậy đã không có hành vi bán
phá giá.
(4) Giá trị thông thường = Giá của một nền kinh tế phi thị trường
      Đối với hàng nhập khẩu từ các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường như
Liên bang Sô Viết cũ, Trung Quốc,.., DOC sẽ từ chối việc lấy giá ở thị trường
nước xuất khẩu làm giá trị thông thường với quan điểm rằng giá và chi phí của
các thị trường nói trên là do chính phủ kiểm soát và do đó không phản ánh đúng
giá trị thị trường. DOC sẽ thu thập các thông tin về các yếu tố đầu vào mà nhà
sản xuất tại nước xuất khẩu cần để tạo ra sản phẩm thuộc diện điều tra. Sau đó,
DOC sẽ tính toán giá trị của các yếu tố đầu vào này trên cơ sở giá của các yếu
tố đó tại một “nước đại diện”. Nước đại diện là quốc gia có nền kinh tế thị
trường và được đánh giá là có mức độ phát triển tương đương với nước thuộc
diện điều tra.

      (5) Giá trị thông thường = Giá xây dựng theo các dữ liệu sẵn có
      Phương pháp cuối cùng mà DOC sử dụng là xác định giá trị thông thường
dựa vào các thông tin sẵn có chứ không phải là các dữ liệu mà nhà sản xuất
hoặc nhà nhập khẩu cung cấp. Phương pháp này được sử dụng khi nhà sản xuất
nước ngoài không cung cấp đủ các thông tin về giá và chi phí như DOC yêu
cầu, hoặc những thông tin được cung cấp tỏ ra không chính xác và đầy đủ.
Trong trường hợp đó, DOC sẽ dựa vào các dữ liệu sẵn có trong hồ sơ các vụ
kiện bán phá giá khác.




      B. Mức bán phá giá ( Dumping Amount ) và Tỉ lệ bán phá giá
      ( Dumping Margins )
Theo quy định của luật chống bán phá giá, sau khi đã xác định được giá
trị thông thường bằng một trong năm phương pháp trên, DOC sẽ tiến hành tính
toán mức bán phá giá.
        Mức bán phá giá là chênh lệch giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu
sang thị trường Mỹ của mặt hàng thuộc diện điều tra.
        Tỉ lệ bán phá giá là tỉ lệ phần trăm của mức bán phá giá so với giá xuất
khẩu.
        Việc xác định mức bán phá giá là một bước quan trọng để xác định xem
liệu có hay không hành vi bán phá giá và nếu có thì hành vi đó xảy ra ở mức độ
nào. Cụ thể, nếu giá xuất khẩu nhỏ hơn giá trị thông thường thì đã có hành vi
bán phá giá và tỉ lệ bán phá giá càng lớn thì mức độ nghiêm trọng của hành vi
bán phá giá càng cao.
        Theo quy định, việc so sánh này sẽ được thực hiện ở cùng một khâu trong
kênh phân phối, thông thường là ở khâu xuất xưởng, và các thông số được sử
dụng trong quá trình so sánh thường có mốc thời gian không chênh lệch nhau
lắm. Việc so sánh hai giá trị này ở khâu xuất xưởng đồng nghĩa với việc phải
loại trừ tất cả các chi phí phát sinh sau thời điểm hàng hoá được xuất xưởng ra
khỏi mức giá được sử dụng để so sánh. Ví dụ như, nếu giá xuất khẩu là giá CIF,
tức là nhà xuất khẩu phải trả cước vận chuyển nội địa, cước tàu biển và bảo
hiểm, thì các mức cước này sẽ bị loại trừ để có được giá xuất xưởng.
        Về cơ bản, có hai phương pháp so sánh : So sánh theo giá trị trung bình (
Weighted average to weighted average basis ) và So sánh theo từng giao dịch (
Transaction to Transaction basis ). Hãy xem xét ví dụ sau :

Thời điểm        Giá trị thông thường Giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ

Tháng 1                   50                            50

Tháng 2                  100                           100

Tháng 3                  150                           150
Tháng 4                  200                           200


     Nếu sử dụng phương pháp so sánh theo giá trị trung bình, ta sẽ có giá trị
thông thường là ( 50 + 100 + 150 + 200)/4 =125, còn giá xuất khẩu là (50 + 100
+ 150 + 200)/4 = 125. Do giá trị thông thường bằng giá xuất khẩu nên không có
hành vi bán phá giá.
     Nếu sử dụng phương pháp so sánh theo từng giao dịch thì các giao dịch
trong nước và giao dịch xuất khẩu diễn ra vào cùng một mốc thời gian ( thường
là trong cùng một tháng ) sẽ được so sánh với nhau.


     Trường hợp ngoại lệ
     DOC có thể so sánh giá trị trung bình của giá trị thông thường với giá
xuất khẩu của từng giao dịch, nếu DOC phát hiện có sự chênh lệch lớn về mức
giá, bán cho các người mua khác nhau, bán cho các khu vực khác nhau, và bán
vào các thời điểm khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp này, kết quả sẽ rất
khác biệt.


Thời           Giá trị thông thường          Giá xuất khẩu     Mức bán
điểm           (tính trên cơ sở giá trị     (từng giao dịch)   phá giá
                       trung bình)

Tháng 1                   125                         50          75

Tháng 2                   125                     100             25

Tháng 3                   125                     150             -25

Tháng 4                   125                     200             -75


     Phương pháp làm tròn : Từ ví dụ trên, ta có một lượng bán phá giá
dương là 100 ( 75 và 25 của hai giao dịch đầu ) và một lượng bán phá giá âm
cũng là 100 ( -25 và -75 của hai giao dịch cuối ). Sở dĩ có mức bán phá giá âm
là do giá xuất khẩu thực tế cao hơn giá trị thông thường. Sẽ không có hành vi
bán phá giá nếu lượng bán phá giá âm được bù cho lượng bán phá giá dương.
Tuy nhiên, DOC không chấp nhận sự bù đắp như trên và thay vào đó, gán giá
trị 0 vào các giao dịch có mức bán phá giá âm. Đây tạm gọi là phương pháp làm
tròn ( Zeroing ). Kết quả của phương pháp này là: Ta sẽ có một mức bán phá
giá là 100 và tỉ lệ bán phá giá là 100/500 = 20%.
       Việc áp dụng phương pháp làm tròn được giải thích rằng : Chỉ cần có một
giao dịch có hành vi bán phá giá thì tức là mặt hàng nhập khẩu từ quốc gia đó
bị bán phá giá. Phương pháp này, do đó, đã hỗ trợ việc phát hiện ra hành vi bán
phá giá.
       Ví dụ minh họa cách xác định mức bán phá giá
       Ví dụ 1. Giá trị thông thường được xác định theo phương pháp 1, giá thị
trường nước xuất khẩu.

       Giá trị thông thường                  Giá xuất khẩu

Nhà sản xuất X      Thị trường trong   Nhà sản xuất X     Xuất khẩu
nước

Giá bán : 100                          Giá CIF : 100

Thuế : 5                               Những khác biệt trong quá trình
                                       xuất khẩu : 5

Chiết khấu : 2                         Chiết khấu : 2

Đóng gói : 1                           Đóng gói : 1

Cước vận chuyển nội địa : 1            Cước vận chuyển nội địa : 1

                                       Cước đường biển/Bảo hiểm : 6

Lãi tiền vay : 5                       Lãi tiền vay : 2

Bảo hành : 2                           Bảo hành : 2
Hoa hồng : 2                             Hoa hồng : 2

Giá trị thông thường ( tại khâu xuất     Giá xuất khẩu ( tại khâu xuất xưởng
xưởng ) : 82                             ) : 79


     Từ ví dụ này, ta có tỉ lệ bán phá giá là ( 82 –79 )/100 x 100 = 3%. Ví dụ
này cho thấy, mặc dù giá bán trong nước và giá xuất khẩu là tương đương,
nhưng vẫn có hành vi bán phá giá do giá xuất khẩu ( tại khâu xuất xưởng ) thấp
hơn giá trị thông thường ( tại khâu xuất xưởng ).

     Ví dụ 2.

     Giá trị thông thường                         Giá xuất khẩu

                           Nhà    sản             Nhà sản xuất X     Xuất khẩu
                    xuất X        Thị
                    trường       trong
                    nước

     Giá bán : 100                                Giá CIF : 100

     Thuế : 5                                     Những khác biệt trong quá
                                         trình xuất khẩu : 5

     Chiết khấu : 5                               Chiết khấu : 2

     Đóng gói : 1                                 Đóng gói : 1

     Cước vận chuyển nội địa : 1                  Cước vận chuyển nội địa : 1

                                                  Cước đường biển/Bảo hiểm :
                                         6

     Lãi tiền vay : 6                             Lãi tiền vay : 1

     Bảo hành : 2                                 Bảo hành : 2

     Hoa hồng : 2                                 Hoa hồng : 2
Giá trị thông thường ( tại khâu         Giá xuất khẩu ( tại khâu xuất
xuất xưởng ) : 78                      xưởng) : 80


     Trong ví dụ này, tỉ lệ bán phá giá là ( 78 –80 )/100 x100 = -2. Theo
phương pháp làm tròn mà DOC áp dụng, mức bán phá giá âm này sẽ không
được tính vào công thức tính toán mà thay vào đó là giá trị 0.




     C. Thiệt hại vật chất
     Theo qui định tại khoản 771(7) của luật chống bán phá giá 1921, để xác
định mức độ thiệt hại vật chất, USITC phải xem xét:
     (1) Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra.
     (2) ảnh hưởng của việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra đến tình
hình giá cả của sản phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ.
     (3) ảnh hưởng của việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra đến hoạt
động sản xuất của các Công ty, cá nhân Mỹ sản xuất mặt hàng tương tự.
     USITC phải xác định xem mức tăng trong kim ngạch nhập khẩu mặt hàng
điều tra có tăng đáng kể hay không. Khi đánh giá ảnh hưởng của hàng nhập
khẩu đến tình hình giá cả, USITC phải cân nhắc liệu có tồn tại:
     (1) Việc bán rẻ hàng nhập khẩu so với mặt hàng tương tự được sản xuất tại
     Mỹ.
     (2) Việc bán hàng nhập khẩu làm giảm hoặc kìm hãm việc tăng giá của sản
     phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ.
     Trong quá trình đánh giá ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến hoạt động
sản xuất của các Công ty, cá nhân Mỹ sản xuất mặt hàng tương tự, USITC sẽ
phải đánh giá tất cả các nhân tố kinh tế tương ứng như:
     (1) Sự suy giảm trong sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng
     suất,…
(2) Các nhân tố ảnh hưởng đến mức giá trên thị trường Mỹ.
     (3) Các ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, hàng tồn kho, nhân công, lương,
     tốc độ tăng trưởng, khả năng huy động vốn và đầu tư.
     (4) Các ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình phát triển và sản xuất của ngành
     sản xuất Mỹ.
     (5) Mức bán phá giá (là mức chênh lệch giữa giá trị thông thường của mặt
hàng thuộc diện điều tra với giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ của mặt hàng đó).
     Nghị viện Mỹ yêu cầu USITC phải đánh giá tất cả các nhân tố trên, có xét
đến chu kỳ kinh doanh và điều kiện cạnh tranh đặc trưng của ngành sản xuất bị
ảnh hưởng bởi hàng nhập khẩu.
     Một cách đơn giản, việc xác định mức thiệt hại vật chất được tiến hành
như sau:

                        Nhà          Nhà xuất khẩu      Nhà xuất khẩu
                    sản xuất Mỹ      nước ngoài Y        nước ngoài Z
    Giá bán             100             80                  110

 Giá mục tiêu           121

 Mức thiệt hại                      (121-80)/80x100   (121-110)/110x100
    vật chất                        =51.25%           =10%


     Trong ví dụ này, giả sử mức chi phí của nhà sản xuất Mỹ là 110. Do phải
đối mặt với hàng nhập khẩu giá rẻ, nhà sản xuất Mỹ buộc phải bán ở mức giá
thấp hơn mức chi phí. DOC có thể tiến hành tính toán một mức giá mục tiêu cho
nhà sản xuất Mỹ dựa trên mức chi phí sản xuất thực tế cộng với một mức lợi
nhuận hợp lý, trong ví dụ nàylà 10%. Do vậy, ta có mức giá mục tiêu trong ví dụ
này là 110+(110x10%)=121. Và ta có mức thiệt hại vật chất tương ứng là
51.25% và 10%.

     D. Đe dọa thiệt hại vật chất
Theo luật chống bán phá giá, khi xác định xem liệu một ngành sản xuất
của Mỹ có bị đe dọa thiệt hại vật chất hay không, USITC cần cân nhắc:
     (1) Tính xác thực của các thông tin về hình thức trợ giá được áp dụng
     (hình thức trợ giá đó có phải là một trong các hình thức trợ giá được qui
     định trong khoản 3 hoặc khoản 6.1 của Hiệp ước trợ giá của WTO hay
     không).
     (2) Việc tăng lượng hàng nhập khẩu vào Mỹ có phải do có sự tăng năng
     suất của nước xuất khẩu hay không.
     (3) Việc tăng thị phần của hàng nhập khẩu có phải do lượng nhập khẩu
     tăng hay không.
     (4) Mức giá của hàng nhập khẩu có làm giảm mức giá của sản phẩm nội
     địa cùng loại và làm tăng nhu cầu nhập khẩu hay không.
     (6) Khả năng chuyển đổi sản phẩm trong trường hợp nước xuất khẩu thuộc
     diện điều tra ngừng sản xuất sản phẩm đó.
     (7) ảnh hưởng tiêu cực đối với hoạt động sản xuất sản phẩm nội địa cùng
     loại.
     (8) Các xu hướng bất lợi khác biểu thị khả năng có thiệt hại vật chất do
     nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra.
     USITC sẽ phải cân nhắc toàn bộ các nhân tố trên trong một mối quan hệ
thống nhất, từ đó mới đưa ra kết luận và phán quyết chính thức.

     E. Kìm hãm sản xuất
     Nguyên đơn có thể khẳng định việc thành lập một ngành sản xuất của Mỹ
bị kìm hãm do việc nhập khẩu hoặc bán mặt hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra.
Luật chống bán phá giá không đưa ra định nghĩa về “kìm hãm sản xuất”, tuy
nhiên, trong quá trình xử kiện, USITC đã bắt đầu cân nhắc vấn đề này thông qua
các yếu tố sau:
     (1) Ngành sản xuất đó bắt đầu hoạt động từ khi nào.
     (2) Việc sản xuất là liên tục hay ngắt quãng.
(3) Qui mô của ngành sản xuất đó so với qui mô thị trường của loại sản
phẩm mà ngành sản xuất đó tạo ra.
     (4) Ngành sản xuất đó đã đạt được mức hòa vốn hợp lý chưa.
     (5) Các hoạt động sản xuất này thực sự là thuộc một ngành sản xuất mới
hay chỉ đơn thuần là một dòng sản phẩm mới của một ngành sản xuất cũ.

     F. Sản phẩm nội địa đồng loại và ngành sản xuất Mỹ
     Trước khi xác định thiệt hại vật chất hoặc nguy cơ thiệt hại vật chất của
một ngành sản xuất Mỹ, hoặc sự kìm hãm việc thành lập một ngành sản xuất
Mỹ, USITC phải xác định rõ thế nào là "sản phẩm nội địa đồng loại" và "ngành
sản xuất". Theo khoản 771(34) của luật chống bán phá giá 1921, "ngành sản
xuất" là "tập hợp bao gồm tất cả các nhà sản xuất của một sản phẩm nội địa
đồng loại, hoặc tập hợp các nhà sản xuất chiếm phần lớn sản lượng của sản
phẩm đó". Còn "sản phẩm nội địa đồng loại" là "sản phẩm giống hệt với sản
phẩm nhập khẩu thuộc diện điều tra, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm
giống hệt, là sản phẩm có nhiều đặc tính và giá trị sử dụng tương đồng với sản
phẩm nhập khẩu nhất".
     Việc xác định phạm vi của 2 khái niệm này trong từng vụ kiện sẽ do DOC
tiến hành. Tuy nhiên, USITC có thể thay đổi phạm vi của khái niệm "sản phẩm
nội địa đồng loại" bằng cách đưa thêm một số sản phẩm nội địa vào danh sách
các sản phẩm nội địa đồng loại. Khi xác định sản phẩm nội địa đồng loại,
USITC thường cân nhắc các yếu tố sau:
     (1) Đặc điểm bên ngoài và giá trị sử dụng.
     (2) Khả năng thay thế cho sản phẩm khác.
     (3) Kênh phân phối.
     (4) Thiết bị sản xuất, qui trình sản xuất và nhân công.
     (5) Cảm nhận của khách hàng và nhà sản xuất.
     (6) Giá cả.
Một vấn đề cũng cần phải được nhắc đến: đó là liệu các sản phẩm ở các
công đoạn sản xuất khác nhau có được coi là sản phẩm đồng loại không. Khi
phân tích vấn đề này, USITC thường phải tiến hành phân tích bán thành phẩm
dựa theo các nhân tố sau:
     (1) Sản phẩm thuộc khâu trước được sử dụng cho việc sản xuất sản phẩm ở
     khâu tiếp theo hay được sử dụng độc lập.
     (2) Có tồn tại thị trường riêng biệt cho sản phẩm thuộc khâu trước và sản
     phẩm thuộc khâu tiếp theo không.
     (3) Sự khác biệt về đặc tính và chức năng của sản phẩm thuộc 2 khâu kể
     trên
     (4) Sự khác biệt về chi phí hoặc giá trị giữa 2 sản phẩm trên.
     (5) Qui trình chuyển đổi sản phẩm khâu trước thành sản phẩm khâu tiếp
     theo.
     Sau khi xác định được sản phẩm nội địa đồng loại của một cuộc điều tra,
USITC sẽ xác định "ngành sản xuất". USITC phải cân nhắc liệu một nhà sản
xuất cụ thể có được xếp vào khái niệm "ngành sản xuất" của một vụ kiện cụ thể
hay không. Để đưa ra quyết định này, USITC phải xem xét các yếu tố:
     (1) Nguồn gốc và qui mô vốn.
     (2) Trình độ công nghệ
     (3) Giá trị đóng góp vào sản phẩm
     (4) Mức nhân công
     (5) Bất kì một chi phí hay hoạt động trực tiếp đóng góp vào quá trình sản
xuất sản phẩm nội địa đồng loại.
     Một đặc điểm khi phân loại để xác định "ngành sản xuất" đó là USITC có
thể coi "ngành sản xuất" là:
     (1) Bao gồm các nhà sản xuất sản phẩm đồng loại thuộc một khu vực địa
lý nhất định. Cách phân loại này được gọi là “Ngành sản xuất theo khu vực”.
             Hoặc
(2) Bao gồm các nhà sản xuất sản phẩm đồng loại trên toàn nước Mỹ,
ngoại trừ "các bên liên quan"
     * Ngành sản xuất theo khu vực
     Luật chống bán phá giá 1921 qui định:
     "Trong trường hợp cụ thể, đối với một mặt hàng cụ thể, nước Mỹ có thể
được chia thành 2 hay nhiều thị trường riêng biệt, và các nhà sản xuất trong mỗi
thị trường đó sẽ được coi là thuộc 1 ngành sản xuất riêng biệt nếu:
     (1) Các nhà sản xuất trong thị trường đó bán tất cả hoặc phần lớn sản phẩm
của mình tại thị trường đó.
     (2) Nhu cầu của thị trường đó không được đáp ứng, dù ở bất cứ mức độ
nào, bởi nhà sản xuất không thuộc thị trường đó.
     Trong trường hợp như vậy, có thể coi là tồn tại thiệt hại vật chất, nguy cơ
thiệt hại vật chất, hoặc sự ngăn cản thành lập đối với một ngành sản xuất của Mỹ
cho dù toàn bộ ngành sản xuất đó tính trên toàn nước Mỹ không hề phải chịu
thiệt hại hay bị đe dọa thiệt hại, nếu có hành vi bán phá giá vào một thị trường
riêng biệt và các nhà sản xuất trong thị trường đó phải chịu thiệt hại vật chất
hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại vật chất do hành vi bán phá giá đó gây ra.
Thuật ngữ "ngành sản xuất theo khu vực" là để chỉ các nhà sản xuất nội địa
thuộc một khu vực nhất định, những nhà sản xuất này sẽ được coi là thuộc một
ngành sản xuất riêng biệt…”
     Trong trường hợp USITC phát hiện có thiệt hại vật chất, nguy cơ thiệt hại
vật chất đối với một ngành sản xuất khu vực do hành vi bán phá giá hàng nhập
khẩu gây ra, thì DOC sẽ chỉ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nhà
xuất khẩu bán hàng vào thị trường đó.

     * Các bên liên quan
     Luật chống bán phá giá quy định:
     "Nếu một nhà sản xuất sản phẩm nội địa cùng loại có quan hệ với nhà xuất
khẩu hoặc nhà nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra, hoặc nếu một nhà sản
xuất sản phẩm nội địa cùng loại đồng thời là nhà nhập khẩu sản phẩm thuộc diện
điều tra, thì nhà sản xuất đó, trong trường hợp cụ thể, có thể không được tính là
thuộc "ngành sản xuất".
       Nhà sản xuất sẽ bị coi là có quan hệ với nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu
nếu:
       (1) Nhà sản xuất trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà nhập khẩu.
       (2) Nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà
sản xuất.
       (3) Một bên thứ ba trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà xuất khẩu, nhà
nhập khẩu và nhà sản xuất.
       (4) Nhà sản xuất và nhà xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm
soát một bên thứ ba và có lý do chứng minh rằng mối quan hệ này có tác động
tới hành vi của nhà sản xuất.

       G. Hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng
       Theo luật chống bán phá giá, hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng là
hàng nhập khẩu từ quốc gia có kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đó vào Mỹ nhỏ
hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ. Căn cứ để xác định
kim ngạch của mặt hàng trên là số liệu trong vòng 12 tháng gần nhất. Khi được
coi là hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng, thì các vụ kiện bán phá giá đối với
mặt hàng đó sẽ bị bác bỏ.


       2.2.4. Quá trình xem xét lại
       Theo qui định của luật chống bán phá giá. Trong vòng 5 năm kể từ ngày áp
dụng thuế chống bán phá giá. DOC và USITC phải tiến hành xem xét lại để cân
nhắc việc bãi bỏ thuế chống bán phá giá. Trên thực tế, một năm sau khi đưa ra
phán quyết chính thức, DOC sẽ tiến hành xem xét lại với mục đích cân nhắc và
đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức và sẽ hủy bỏ việc áp dụng thuế
chống bán phá giá trừ khi kết quả của quá trình xem xét lại cho thấy rằng hành
vi bán phá giá vẫn có khả năng tiếp diễn và đe dọa gây thiệt hại cho một ngành
sản xuất của Mỹ.
     Trong quá trình đánh giá lại, USITC sẽ phải dự đoán những thay đổi trong
kim ngạch, ảnh hưởng của mức giá và ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến ngành
sản xuất khi mức thuế chống bán phá giá được bãi bỏ. Cụ thể, USITC sẽ phải
xem xét:
     (1) Phán quyết ban đầu.
     (2) Tiến triển của "ngành sản xuất" Mỹ kể từ khi mức thuế chống bán phá
giá được áp dụng.
     (3) Khả năng bị đe dọa thiệt hại vật chất khi mức thuế chống bán phá giá
được bãi bỏ.
     Khi đánh giá khả năng thay đổi về kim ngạch nhập khẩu trong trường hợp
thuế chống bán phá giá được bãi bỏ, USITC sẽ phải xem xét các yếu tố:
     (1) Khả năng tăng năng suất hoặc sử dụng năng lực sản xuất nhàn rỗi của
nước xuất khẩu
     (2) Lượng hàng tồn kho của mặt hàng thuộc diện điều tra
     (3) Các rào cản đối với việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra vào
các nước khác ngoài Mỹ
     (4) Khả năng chuyển đổi sản phẩm trong trường hợp nước xuất khẩu
ngừng sản xuất mặt hàng trên
     Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của mức giá của hàng nhập khẩu trong
trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải cân nhắc:
     (1) Khả năng bán rẻ hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra so với sản phẩm
nội địa đồng loại.
     (2) Khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến sự sụt giảm giá của sản
phẩm nội địa đồng loại.
     Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến "ngành sản
xuất" của Mỹ trong trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải
cân nhắc các yếu tố kinh tế tác động đến ngành sản xuất của Mỹ như:
(1) Khả năng sụt giảm sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng
suất,…
     (2) Khả năng xuất hiện các ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, lượng hàng
dự trữ, nhân công, lương, khả năng huy động vốn,…
     Luật chống bán phá giá qui định: USITC phải xét đến tất cả các yếu tố này
trong mối quan hệ với chu kỳ sản xuất và đặc điểm cạnh tranh của ngành.
     Trên đây là một vài nét về các qui định xử lý hành vi bán phá giá của Mỹ.
Để xem xét xem thực tế áp dụng các qui định này như thế nào, chúng ta sẽ
nghiên cứu trong Chương II.
CHƯƠNG II
       THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ

    1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ
   Trong vòng 50 năm qua , Hoa Kỳ đã liên kết các quốc gia trên thế giới lại
với nhau thông qua các hiệp định tự do hoá thương mại với mục đích giảm bớt
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đồng thời với việc nghiêm cấm các
hình thức phân biệt đối xử trong thương mại, các hiệp định này cũng thừa nhận
luật chống bán phá giá như một công cụ cho phép ngăn chặn các hành vi gian
lận thương mại gây tổn hại cho nền kinh tế của một quốc gia.
    Do kết quả của việc giảm dần các hàng rào thương mại, thuế chống bán phá
giá đã nhanh chóng trở thành một công cụ đắc lực được các nhà sản xuất Mỹ tận
dụng để giảm bớt áp lực từ hàng hoá nhập khẩu. Các vụ kiện bán phá giá đã tăng
lên rất nhanh và xuất hiện ở tất cả các mặt hàng từ các sản phẩm nông nghiệp
như hoa, hải sản, mật ong tới các sản phẩm vật liệu như thép, và thậm chí là cả
các sản phẩm công nghệ cao như máy tính và chip bán dẫn.
    Sức mạnh của luật chống bán phá giá nằm ở chỗ : Chính quyền Mỹ có thể
áp dụng một mức thuế lên đến trên 400%. Trong nhiều trường hợp, mức thuế có
thể đủ cao để đẩy các công ty nước ngoài ra khỏi thị trường Mỹ. Ngoài ra, mức
thuế chống bán phá giá còn có thể kéo dài tới 20 năm, tạo thành một hàng rào
“bền vững” đối với một sản phẩm được nhập khẩu từ một nước nhất định.
   Xét một cách công bằng thì luật chống bán phá giá chỉ có được sức mạnh
kể từ khi Luật Thương mại 1979 ra đời. Luật Thương mại 1979 đã tạo ra một số
thay đổi trong Luật chống bán phá giá 1921, hay còn gọi là Chương VII Luật
Thuế quan 1930. Những thay đổi này có hiệu lực từ ngày 1/1/1980. Một trong
số những thay đổi đó là sự chuyển đổi thẩm quyền từ Cục Ngân khố Mỹ sang
Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (
USITC). Như vậy, sức mạnh hiện nay của Luật chống bán phá giá chỉ có được
từ ngày 1/1/1980. Đây là lý do để chúng ta xem xét và tổng kết các vụ kiện bán
phá giá trong giai đoạn 1980-2001.
    1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001
    Trong giai đoạn 1980-2001, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban
Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã nhận được 988 vụ kiện bán phá giá
với tổng trị giá hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra là 58 tỉ USD.


  Biểu đồ 1. Thống kê các vụ kiện Bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001


100                                                                 92
                                         89
 90                 82
 80
 70        65          63             65       59
                 58
 60                                                           50
 50
                          36 38             36                   35
 40 34        34
                                29                         33
 30                                21             18    23
 20     15                                           13
 10
  0
    1980 1982 1984 1986 1988 1990 1992 1994 1996 1998 2000
                                *Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
                                          Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC


    Trong số 988 vụ kiện này, bên nguyên đơn tức là các nhà sản xuất Mỹ đã
giành thắng lợi được 42%( 42% số vụ kiện kết thúc bằng việc DOC đưa ra một
mức thuế chống bán phá giá); 38% số vụ kiện nhận được phán quyết của USITC
là: không gây thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ; 20% còn lại là do DOC hoãn
điều tra hoặc không tìm thấy hành vi bán phá giá. Nếu tính theo giá trị hàng
nhập khẩu thuộc diện điều tra thì các con số tương ứng là 54%; 32.5%; 13.5%
(tức là có 54% giá trị hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra phải chịu thuế chống
bán phá giá). Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 1980 đến 1990, các nhà sản xuất
Mỹ đã đệ trình khoảng 500 đơn kiện lên DOC và USITC. Một nửa trong số này
đã nhận được một mức thuế chống bán phá giá. Mức thuế trung bình trong giai
đoạn này là vào khoảng 30 đến 40%. Theo các số liệu thống kê, sự suy giảm
trong khả năng tận dụng năng lực sản xuất đi kèm với việc tăng lượng hàng
nhập khẩu là nguyên nhân chính dẫn đến việc ngày càng có nhiều vụ kiện nhận
được một mức thuế chống bán phá giá.

      Bảng 1. Kết quả của các vụ kiện bán phá giá vào thị trường Mỹ
                           Giai đoạn 1980-2001
Kết quả của    DOC áp dụng     USITC phán quyết          DOC hoãn điều tra
 các vụ kiện    thuế chống     : Không gây thiệt        hoặc không phát hiện
bán phá giá     bán phá giá       hại vật chất           ra hành vi bán phá
qua các năm        (vụ)               (vụ)                       giá
                                                                (vụ)
    1980              9                  15                      10
    1981              4                   5                       6
    1982             12                  25                      28
    1983             12                  14                       8
    1984             16                  13                      29
    1985             26                  20                      36
    1986             37                  14                      12
    1987             17                  15                       4
    1988             21                  14                       3
    1989             17                   9                       3
    1990             15                   4                       2
    1991             19                  40                       6
    1992             38                  47                       4
    1993             11                   9                      16
    1994             29                  26                       4
    1995              9                   6                       3
    1996              9                   2                       2
    1997             14                   7                       2
    1998             22                  11                       0
    1999             20                  24                       6
    2000             18                  15                       2
    2001             40                  43                       9
                              *Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
                                        Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
Trong thập niên 90 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới, “ chống bán
phá giá bằng việc áp dụng thuế” vẫn là một cách bảo hộ được các nhà sản xuất
Mỹ ưa thích. Ví dụ như riêng trong năm 1992 đã có 89 vụ kiện bán phá giá. Và
tính cho đến năm 2001, đã có đến 550 mức thuế chống bán phá giá được thực
thi.
                   Biểu đồ 2. Kết quả xử lý các vụ kiện trong
                                Giai đoạn 1980-2001

                                  20%



                                                                      42%




                                  38%
                    DOC ¸p dông thuÕ chèng b¸n ph¸ gi¸
                    USITC ph¸n quyÕt : Kh«ng g©y thiÖt h¹i vËt chÊt
                    DOC ho·n ®iÒu tra hoÆc kh«ng ph¸t hiÖn ra hμnh vi b¸n ph¸ gi¸

                                   *Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá
                                              Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC

       Một đặc điểm khác đó là xu hướng ngày càng tăng của tỉ lệ bán phá giá
(dumping margins) mà DOC phát hiện ra. Xu hướng tăng này là khá ổn định với
tỉ lệ tăng trung bình là 2.5%/năm, đưa tỉ lệ bán phá giá bình quân từ mức 15.5%
trong những năm đầu của thập niên 80 lên mức 63% tính đến năm 2001. Tuy
nhiên, tỉ lệ tăng trong 10 năm đầu là cao hơn so với 10 năm tiếp theo, dù vậy xu
hướng tăng lên vẫn là xu hướng chính có thể thấy trong giai đoạn này.
       Biểu đồ 4 biểu diễn tỉ lệ các vụ kiện nhận được phán quyết “gây thiệt hại
vật chất” của USITC. Cũng tương tự như trong biểu đồ 3, ta có thể thấy một xu
hướng tăng lên của số lượng phán quyết “gây thiệt hại vật chất”, tức là tỉ lệ các
phán quyết “gây thiệt hại vật chất” so với số lượng các vụ kiện ngày càng cao,
từ mức 45% vào đầu những năm 80 tăng lên đến mức 62% tính đến năm 2001.
          Biểu đồ 3.Xu hướng của “tỉ lệ bán phá giá”(dumping margins)
                                       Giai đoạn 1980-2001

     70 %

     60

     50

     40

     30

     20

     10

      0
          1980

                 1982

                        1984

                                1986

                                          1988

                                                 1990

                                                        1992

                                                               1994

                                                                          1996

                                                                                 1998

                                                                                        2000
                               *Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ
                                                                      Bruce A. Blonigen - 4/2003
Biểu đồ 4. Tỉ lệ các phán quyết “Có thiệt hại vật chất”
                                  Giai đoạn 1980-2001

      70 %

      60

      50

      40

      30

      20

      10

       0
           1980

                   1982

                          1984

                                  1986

                                         1988

                                                1990

                                                       1992

                                                              1994

                                                                     1996

                                                                            1998

                                                                                   2000
                                 *Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ
                                                                 Bruce A. Blonigen - 4/2003
    Kết hợp hai xu hướng này lại cho thấy một xu hướng tăng lên của mức thuế
chống bán phá giá (tỉ lệ bán phá giá nhân với tỉ lệ phán quyết “gây thiệt hại vật
chất”), từ mức 5% lên 30% cho mỗi công ty bị kiện bán phá giá.
    Có một số lý do có thể giải thích cho xu hướng này. Thứ nhất, những thay
đổi về mặt pháp lý đã làm thay đổi đáng kể những quy định mà Bộ Thương mại
Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) phải tuân thủ
trong quá trình đưa ra phán quyết của mình. Thứ hai, cơ cấu các công ty và các
sản phẩm thuộc diện điều tra thay đổi theo chiều hướng liên quan đến các hành
vi bán phá giá nhiều hơn. Cuối cùng, đó là sự tuỳ ý của các cơ quan pháp luật
Mỹ trong việc sử dụng các phương pháp có khả năng phát hiện ra hành vi bán
phá giá cao hơn.
    Tuy nhiên, theo một nghiên cứu phát hành vào tháng 4/2003 của Bruce A.
Blonigen thuộc trường Đại học Tổng hợp Oregon và Cục Nghiên cứu Kinh tế
Quốc gia (NBER), xu hướng tăng lên của mức bán phá giá cơ bản là do sự linh
động ngày càng cao trong cách xác định mức bán phá giá của DOC. Điều này
có nghĩa là sự tăng lên của mức bán phá giá chủ yếu là do tác động của nguyên
nhân thứ ba, còn tác động của hai nguyên nhân đầu là rất ít hoặc không đáng
kể. Cụ thể, việc DOC sử dụng phương pháp “Dữ liệu sẵn có”, thẩm tra chi phí
sản xuất và việc sử dụng dữ liệu về chi phí để xây dựng giá trị thông thường bị
quy là nguyên nhân chính làm tăng đáng kể mức bán phá giá. Một điểm quan
trọng là xu hướng tăng lên của mức bán phá giá không chỉ do việc DOC ngày
càng áp dụng biện pháp trên nhiều hơn (phát triển theo chiều rộng), mà còn do
sự thay đổi trong việc áp dụng các biện pháp này. Điều này có nghĩa là sự thay
đổi trên dẫn đến kết quả : ngày càng tìm thấy mức bán phá giá cao hơn (phát
triển theo chiều sâu). Trong khi việc thực hiện Hiệp định đạt được tại vòng đàm
phán Uruguay 1995 (cụ thể là Hiệp định chống bán phá giá) đã làm mức bán
phá giá trung bình mà DOC phát hiện được giảm 20%, thì sự phát triển theo
chiều rộng và chiều sâu nói trên đã giúp bù lại những ảnh hưởng của Vòng đàm
phán Uruguay tính cho đến năm 2001.


    Một khía cạnh khác cũng cần xét đến là các mục tiêu của luật chống bán
phá giá Mỹ. Về cơ bản, có bốn đặc điểm để hình thành một mục tiêu của luật
chống bán phá giá. Thứ nhất, đó là các công ty xuất khẩu có mức giá quá cạnh
tranh bởi đơn giản giá cả chính là nguyên nhân để kiện bán phá giá. Hơn nữa,
chính mức giá là yếu tố tạo nên sự cạnh tranh giữa nhà xuất khẩu và nhà sản
xuất nội địa Mỹ. Mức giá càng cạnh tranh thì động lực để các nhà sản xuất Mỹ
đệ đơn kiện bán phá giá càng cao. Thứ hai, đó là các công ty xuất khẩu chiếm
một thị phần đáng kể trên thị trường Mỹ. Sở dĩ có đặc điểm này là bởi lẽ, chỉ có
các công ty chiếm thị phần lớn mới tạo đủ sự đe doạ đối với khả năng sinh lời
của các đối thủ nội địa Mỹ. Thứ ba, thị phần của các công ty xuất khẩu này là
khá ổn định bởi nếu không các đối thủ Mỹ sẽ dễ dàng chiếm được thị phần mà
không cần viện đến luật chống bán phá giá. Và cuối cùng, thị trường Mỹ là thị
trường chủ chốt, nếu không muốn nói là thị trường duy nhất, của các công ty
xuất khẩu trên (Tuy nhiên, trên thực tế, không phải chỉ có các công ty có cả bốn
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738
126 738

More Related Content

Viewers also liked (8)

Kien chong ban pha gia 1
Kien chong ban pha gia 1Kien chong ban pha gia 1
Kien chong ban pha gia 1
 
Bai 9 banphagia
Bai 9 banphagiaBai 9 banphagia
Bai 9 banphagia
 
Bai10
Bai10Bai10
Bai10
 
Ban_pha_gia
Ban_pha_giaBan_pha_gia
Ban_pha_gia
 
Các sự kiện liên quan đến cuộc chiến
Các sự kiện liên quan đến cuộc chiếnCác sự kiện liên quan đến cuộc chiến
Các sự kiện liên quan đến cuộc chiến
 
Ban pha gia (bai hoan chinh)
Ban pha gia (bai hoan chinh)Ban pha gia (bai hoan chinh)
Ban pha gia (bai hoan chinh)
 
Cuộc chiến Catfish:
Cuộc chiến Catfish:Cuộc chiến Catfish:
Cuộc chiến Catfish:
 
BC Chuyên đề - Bán phá giá trong ngoại thương
BC Chuyên đề - Bán phá giá trong ngoại thươngBC Chuyên đề - Bán phá giá trong ngoại thương
BC Chuyên đề - Bán phá giá trong ngoại thương
 

Similar to 126 738

Pháp luật về chống độc quyền mỹ
Pháp luật về chống độc quyền mỹPháp luật về chống độc quyền mỹ
Pháp luật về chống độc quyền mỹ
minhhue91
 
de an mon hoc (48).doc
de an mon hoc  (48).docde an mon hoc  (48).doc
de an mon hoc (48).doc
Luanvan84
 
Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...
Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...
Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...
huynhminhquan
 

Similar to 126 738 (20)

Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.pdf
Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.pdfNhững vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.pdf
Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.pdf
 
Pháp luật về chống độc quyền mỹ
Pháp luật về chống độc quyền mỹPháp luật về chống độc quyền mỹ
Pháp luật về chống độc quyền mỹ
 
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
 
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp pháp lý ngăn...
 
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM_10184512052019
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM_10184512052019BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM_10184512052019
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM_10184512052019
 
Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTO
Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTOVai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTO
Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTO
 
Luận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ
Luận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệLuận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ
Luận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ
 
Đề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAY
Đề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAYĐề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAY
Đề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAY
 
19473
1947319473
19473
 
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đLuận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại, HOT, 9đ
 
Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...
Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...
Khóa luận: Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh th...
 
de an mon hoc (48).doc
de an mon hoc  (48).docde an mon hoc  (48).doc
de an mon hoc (48).doc
 
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀNSO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
 
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOTLuận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
 
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdfCác biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
Các biện pháp phòng vệ thương mại theo Hiệp định thương mại tự do.pdf
 
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giáLuận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
Luận văn: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá
 
Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...
Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...
Giải-quyết-tranh-chấp-về-bảo-hộ-quyền-sở-hữu-trí-tuệ-theo-cơ-chế-của-Tổ-chức-...
 
Luận văn: Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật, 9 ĐIỂM
Luận văn: Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật, 9 ĐIỂMLuận văn: Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật, 9 ĐIỂM
Luận văn: Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật, 9 ĐIỂM
 
Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Vô Hiệu Và Hậu Quả Phát Sinh.doc
Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Vô Hiệu Và Hậu Quả Phát Sinh.docHợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Vô Hiệu Và Hậu Quả Phát Sinh.doc
Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Vô Hiệu Và Hậu Quả Phát Sinh.doc
 

126 738

  • 1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ---------------------------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài : QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Phúc Khanh Sinh viên thực hiện : Trần Ngọc Trung Lớp : A4 - K38B Hà nội - 2003
  • 2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU…………………………………….…………….………………………..1 CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ 1. Khái niệm về bán phá giá…….…………………………………………………...3 1.1 Định nghĩa………………….………………………………………………………...3 1.2 Các đạo luật liên quan đến bán phá giá ( Luật doanh thu 1916, Luật thuế quan 1930,…)………...………………………...3 2. Quy định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá…...……...5 2.1 Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá……..……………………...5 2.2 Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá……..…………………….………………...6 2.2.1 Quá trình khởi kiện……..…………………….…………..………………………6 2.2.2 Quá trình điều tra….....…………………….…………………………………...10 2.2.3 Các khái niệm pháp lý chính …………….……………….……....…………...20 2.2.4 Quá trình xem xét lại…………...………….……………………………….…...34 CHƯƠNG II. THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ 1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ…………………....36 1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001…………………...37 1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ……….…….….…...43 2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ……...49 2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ…..…...49 2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của luật chống bán phá giá của Mỹ đến bản thân nền kinh tế Mỹ…………..………….…………………………………...52 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
  • 3. 1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn chống bán phá giá của Mỹ……………….…………………………..………..……………...55 2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá……………………………………….…………….…………………………………...58 2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá…....58 2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá…….………………...61 2.3 Nhóm giải pháp khác……………….……………………………………………...76 KẾT LUẬN……………….……….……………………………………….……...……...79 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI NÓI ĐẦU
  • 4. Luật chống bán phá giá là một trong những bộ luật non trẻ nhất của hệ thống luật thương mại quốc gia cũng như thế giới bởi cho đến đầu thế kỷ XX, khái niệm chống bán phá giá hầu như vẫn chưa hình thành. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày càng phát triển, khi mà các hàng rào thương mại cổ điển dần được tháo bỏ, thì khái niệm bán phá giá và chống bán phá giá ngày càng phổ biến và luật chống bán phá giá, do vậy, ngày càng được chú trọng. Điều này đã được minh chứng qua số lượng ngày càng tăng các quốc gia có luật chống bán phá giá cũng như các vụ kiện bán phá giá diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Do vậy một điều hiển nhiên là trong hoạt động thương mại quốc tế trong tương lai, việc các doanh nghiệp phải đối mặt với luật chống bán phá giá là một điều tất yếu. Mỹ, với tư cách là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và cũng là bạn hàng khó chơi nhất, là một trong những quốc gia tiên phong trong việc sử dụng luật chống bán phá giá để điều chỉnh mối quan hệ thương mại với các quốc gia khác. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có dịp đối mặt với luật chống bán phá giá Mỹ. Sự đơn giản về mặt bản chất nhưng phức tạp về các quy định cũng như cách thức xử lý đòi hỏi các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp Việt Nam, phải có được một vốn hiểu biết nhất định về bộ luật này nhằm, ít nhất, tránh những lúng túng và sai sót không cần thiết trong trường hợp bị kiện bán phá giá, và cao hơn, giành phần thắng về mình. Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài này để thực hiện bài khoá luận tốt nghiệp với mong muốn đưa ra được một cái nhìn riêng về bộ luật chống bán phá giá của Mỹ. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, bản khoá luận này mới chỉ đưa ra được một số nét cơ bản của bộ luật chống bán phá giá Mỹ cũng như việc thực thi bộ luật này trong thực tế nhằm giúp cho người đọc có một cái nhìn khái quát nhất về bộ luật này. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và sự hỗ trợ về mặt tài liệu của giáo viên hướng dẫn, thầy Nguyễn Phúc Khanh, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó hiệu
  • 5. trưởng trường Đại học Ngoại thương. Dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của thầy, em đã có thể hoàn thành tốt bản khoá luận tốt nghiệp này. Hà nội, ngày 30/12/2003 Sinh viên Trần Ngọc Trung
  • 6. CHƯƠNG I QUI ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ 1. Khái niệm về bán phá giá 1.1. Định nghĩa Theo qui định tại khoản 800-801, chương 463 thuộc bộ Luật Doanh Thu 1916 (Revenue Act of 1916), hành vi bán phá giá là hành vi nhập khẩu, hỗ trợ việc nhập khẩu, bán hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ tại mức giá thấp hơn đáng kể so với giá trị thực hoặc giá bán buôn của hàng hóa đó, tính tại thời điểm xuất khẩu vào thị trường Mỹ, hoặc tại thị trường chính của nước sản xuất, hoặc tại một nước thứ ba cũng nhập khẩu hàng hóa đó (giá trị thực hoặc giá bán buôn nói trên là giá không bao gồm cước vận chuyển, thuế, và các khoản phí khác cần thiết cho việc nhập khẩu và bán tại thị trường Mỹ) với điều kiện, hành vi nói trên được thực hiện nhằm phá hủy hoặc phương hại một ngành sản xuất ở Mỹ hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ, hoặc giành vị trí độc quyền buôn bán hàng hóa đó ở Mỹ. Theo định nghĩa trên, một hành vi sẽ được coi là bán phá giá nếu thỏa mãn 2 tiêu chí: - Hàng hóa đó được bán tại mức giá thấp hơn giá trị thông thường. - Việc bán hàng hóa tại mức giá đó gây thiệt hại tới ngành sản xuất của Mỹ. 1.2. Các đạo luật của Mỹ liên quan đến bán phá giá Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên đưa luật chống bán phá giá vào hệ thống luật pháp quốc gia. Điều luật đầu tiên điều chỉnh hành vi bán phá giá là khoản 800 - 801 thuộc Bộ Luật Doanh Thu ban hành năm 1916, thường được gọi là Luật chống bán phá giá 1916.
  • 7. Theo luật này, nhà nhập khẩu có thể bị truy cứu trách nhiệm dân sự và hình sự nếu nhập khẩu hoặc bán hàng hóa ngoại nhập vào thị trường Mỹ tại mức giá thấp hơn đáng kể so với mức giá của cũng sản phẩm đó bán tại một thị trường khác tương đương. Đạo luật này được ban hành do nỗi lo sợ rằng các Công ty châu Âu, đặc biệt là các Công ty Đức, trong nỗ lực giành lại vị thế trên thị trường Mỹ sau thế chiến thứ I, sẽ đe dọa đến sự phát triển của ngành sản xuất Mỹ. Tuy nhiên, do tính phức tạp trong việc yêu cầu nguyên đơn đưa ra các bằng chứng, nên luật này chỉ được áp dụng một cách hạn chế và đã nhanh chóng được bổ sung bởi một điều luật khác: Luật chống bán phá giá ban hành năm 1921, sau này được đưa vào phần VII Luật thuế quan 1930 (Tariff Act of 1930). Luật chống bán phá giá 1921 là căn cứ pháp lý quan trọng nhất trong việc xử lý các hành vi bán phá giá. Bộ luật này cũng là nền tảng của Điều khoản VI của GATT, sau này là Bộ luật chống bán phá giá của GATT ( ban hành năm 1967 ). Sau việc ban hành luật chống bán phá giá 1921, phải mãi cho tới năm 1974 và 1979, Mỹ mới tiếp tục ban hành các điều luật điều chỉnh hành vi bán phá giá. Đó là Luật Thương mại 1974 (Trade Act of 1974) và luật Thương mại 1979 (Trade Act of 1979). Hai điều luật này được ban hành nhằm chấn chỉnh lại công tác kiểm soát, điều tra và xử lý các hành vi bán phá giá gây tổn hại cho nền công nghiệp Mỹ. Chi tiết về vấn đề này sẽ được thảo luận kỹ ở phần sau. Như vậy về cơ bản có 4 điều luật chính điều chỉnh hành vi bán phá giá: - Luật chống bán phá giá 1916 - Luật chống bán phá giá 1921 - Luật Thương mại 1974 - Luật Thương mại 1979 Bốn bộ luật này được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau và đều được Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ (USITC) dẫn chiếu trong quá trình xử lý các vụ kiện bán phá giá.
  • 8. 2. Qui định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá 2.1. Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá Cùng với sự hình thành của các điều luật liên quan, phạm vi thẩm quyền xét xử hành vi bán phá giá cũng thay đổi theo. Khi ban hành luật chống bán phá giá 1916, các vụ kiện bán phá giá được coi là các vụ án dân sự và thậm chí là hình sự, do vậy cơ quan chịu trách nhiệm là tòa án Mỹ. Thẩm quyền của tòa án chỉ giới hạn trong phạm vi xét xử, còn việc tìm kiếm chứng cứ để có thể thắng được vụ kiện hoàn toàn là bổn phận của bên nguyên đơn. Việc ra đời Luật chống bán phá giá 1921 đồng nghĩa với việc chuyển đổi thẩm quyền từ Tòa án sang Cục ngân khố Mỹ (US Treasury). Trách nhiệm cũng được nâng cao: thẩm quyền của Cục Ngân khố không chỉ giới hạn trong việc đưa ra phán quyết mà còn tiến hành các bước điều tra và xác định mức độ thiệt hại mà mỗi hành vi bán phá giá gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế, các công tác liên quan đến hành vi bán phá giá đều không được Cục Ngân khố tiến hành công khai và thường không có thời hạn để hoàn tất một cuộc điều tra. Chính bởi lý do này mà tính bảo hộ của Luật chống bán phá giá đã không được phát huy, tạo nên sự phản ứng trong giới công nghiệp Mỹ, đặc biệt là trong ngành thép. Sự phản ứng này đã dẫn đến kết quả ra đời của Luật Thương mại 1974 (Trade Act of 1979) và Luật Thương mại 1979 (Trade Act of 1979). Một cách chính xác thì trong 2 bộ luật mới này, chính quyền Mỹ đã đưa ra các đạo luật qui định về hành vi bán phá giá, cụ thể là Đạo luật Jackson - Vanik. Theo luật mới này, hành vi bán hàng ở mức giá thấp hơn chi phí sản xuất cũng được coi là bán phá giá. Về mặt thuật ngữ, bán phá giá và bán dưới mức chi phí đều được gọi là bán dưới mức hợp lý (Less than fair value - LTFV). Luật mới cũng đưa ra định nghĩa về chi phí sản xuất:
  • 9. Chi phí sản xuất = chi phí trung bình + 10% chi phí quản lý + 8% lợi nhuận. Đồng thời, thẩm quyền cũng được chuyển giao từ Cục Ngân khố Mỹ sang Bộ Thương mại Hoa Kỳ ( DOC - Cơ quan bảo hộ công nghiệp nội địa) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC). Hai cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm từng phần, cụ thể: - Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) chịu trách nhiệm xác định mức giá bán dưới mức hợp lý – mức LTFV. Việc xác định mức giá có thể được tiến hành khá linh động. DOC có thể lựa chọn các mức tỷ giá hối đoái khác nhau khi chuyển đổi giá xuất khẩu sang đồng tiền của nước xuất khẩu. DOC có thể bỏ qua mức doanh số thấp hơn chi phí sản xuất thu được ở thị trường nước xuất khẩu. Khi mức doanh số này quá thấp, DOC có thể sử dụng mức giá ở một thị trường thứ ba. DOC cũng có thể không xét đến lượng doanh số ở mức giá cao hơn mức LTFV thu được trên thị trường Mỹ. Một điều quan trọng là thị trường Mỹ có thể phân ra thành các thị trường khu vực. Việc xác định lượng doanh số ở mức giá LTFV chủ yếu phụ thuộc vào phương pháp tính toán mà DOC áp dụng. - Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) chịu trách nhiệm xác định mức độ thiệt hại. Tương tự như DOC, USITC cũng có thể linh động trong việc xác định xem liệu hành vi bán phá giá gây ra những thiệt hại vật chất hay chỉ mới đe dọa đến ngành sản xuất Mỹ. USITC có thể xem xét nhiều chỉ tiêu khác nhau như doanh số, lợi nhuận, việc làm,… 2.2. Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá Như đã trình bày ở trên, quá trình điều tra và đưa ra phán quyết cuối cùng được gói gọn trong thời hạn tối đa là 280 ngày. Tuy nhiên, trên thực tế, các phán quyết cuối cùng thường được đưa ra sớm hơn thời hạn này rất nhiều. Về cơ bản, có 3 bước để kết thúc một vụ kiện bán phá giá: - Khởi kiện. - Điều tra - Xem xét lại.
  • 10. 2.2.1. Quá trình khởi kiện A. Tổng quan. Bên nguyên đơn có thể đệ đơn kiện bán phá giá lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế (USITC) với nội dung: Một ngành sản xuất của Mỹ đang phải chịu thiệt hại vật chất hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại vật chất, hoặc việc thành lập một ngành sản xuất ở Mỹ bị trì hoãn do việc nhập khẩu một hay nhiều loại hàng hóa tại mức giá thấp hơn mức hợp lý (mức LTFV) hoặc do việc Chính phủ của một hay nhiều quốc gia trợ giá cho hàng hóa mà Mỹ nhập khẩu. B. Chuẩn bị khởi kiện Thông thường, DOC và USITC thường xem xét lại đơn kiện trước khi được đệ trình chính thức nhằm giúp nguyên đơn tránh được những sai sót có thể ngăn cản quá trình điều tra. Về mặt hình thức, đơn kiện phải có phần mở đầu và kết luận và được trình bày theo dạng sau: Mục 1: Thông tin chung Mục 2: Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu Mục 3: Thông tin về trợ giá và thông tin về giá Mục 4: Thông tin về tình trạng nguy kịch Mục 5: Thông tin về mức độ thiệt hại Mục 1: Thông tin chung Phần này cung cấp thông tin về nguyên đơn và ngành nội địa sản xuất sản phẩm tương tự hoặc gần giống với sản phẩm nhập khẩu. Theo qui định, đơn kiện phải nhân danh cả một ngành sản xuất. Để thỏa mãn điều kiện này thì: i. Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải đại diện cho tối thiểu 25% tổng sản lượng của ngành đó.
  • 11. ii. Số lượng nhà sản xuất và công nhân ủng hộ đơn kiện phải chiếm trên 50% sản lượng mà 25% nói trên tạo ra(1). Nếu đơn kiện không có được sự ủng hộ của các nhà sản xuất và công nhân chiếm trên 50% tổng sản lượng của ngành, thì DOC phải trưng cầu ý kiến của cả ngành hoặc dựa vào các thông tin khác để xác định xem liệu đơn kiện đó có đạt được mức ủng hộ như luật định không. Mục 2: Mô tả hàng hóa nhập khẩu, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu Trong phần này, bên nguyên đơn cần đưa ra những định nghĩa chính xác và rõ ràng về hàng nhập khẩu bao gồm đặc tính kỹ thuật, nguyên liệu sản xuất kèm theo catalog sản phẩm. Nhìn chung, định nghĩa này phải đủ rộng để bao quát được toàn bộ vấn đề nhưng cũng phải đủ hẹp để tránh tốn thời gian điều tra. Ngoài ra, bên nguyên đơn phải đưa ra thông tin về nước xuất xứ của hàng nhập khẩu, nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, giá trị và kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong 3 năm gần nhất. Mục 3: Thông tin về trợ giá và thông tin về giá LTFV Trong phần này, bên nguyên đơn phải đưa ra các thông tin, bằng chứng về sự can thiệp của Chính phủ nước xuất khẩu đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ, cũng như mức giá dưới mức hợp lý - LTFV của hàng hóa nhập khẩu. Các thông tin này sẽ chỉ do Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) xem xét. Mục 4: Thông tin về "Tình trạng nguy kịch" "Tình trạng nguy kịch" là điều khoản cho phép áp dụng thuế chống bán phá giá trước thời hạn hiệu lực trong trường hợp đặc biệt. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu áp dụng điều khoản vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày DOC đưa ra phán quyết cuối cùng 20 ngày. Đương nhiên, để điều khoản này được áp dụng, thì bên nguyên đơn phải nhận được phán quyết xử thắng của DOC và USITC. Việc thi hành điều khoản (1) Ví dụ, 1 tổng công ty, gồm nhiều công ty thành viên chiếm 25% tổng sản lượng của ngành, đệ đơn kiện bán phá giá. Để đơn kiện được chấp nhận, số công ty thành viên ủng hộ đơn kiện phải chiếm trên 50% sản lượng của tổng công ty.
  • 12. này sẽ dẫn đến việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu được bán trong khoảng thời gian 90 ngày trước khi mức thuế chống bán phá giá được áp dụng. Điều khoản này được áp dụng nhằm 2 mục đích: (1) Ngăn cản việc nhà nhập khẩu trốn thuế chống bán phá giá bằng cách nhập khẩu một khối lượng lớn ngay sau khi có đơn kiện. (2) Giảm bớt ảnh hưởng của lượng hàng nhập khẩu trốn thuế nếu như sự việc đã xảy ra. DOC phải đưa ra quyết định liên quan đến việc áp dụng điều khoản “tình trạng nguy kịch”, và nếu quyết định của DOC là có tồn tại tình trạng đó, đồng thời USITC cũng xác nhận việc có thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất nội địa, thì USITC phải đưa ra một phán quyết bổ sung để xác định xem liệu có xảy ra tình trạng trốn thuế hay không. Để đưa ra phán quyết này, USITC phải cân nhắc các yếu tố: (1) Thời gian và khối lượng hàng nhập khẩu. (2) Sự tăng nhanh chóng lượng hàng nhập khẩu. (3) Bất kỳ một yếu tố khác cho thấy đang có hành vi trốn thuế chống bán phá giá. Mục 5: Thông tin về mức độ thiệt hại Trong phần này, bên nguyên đơn phải cung cấp các dữ liệu chứng minh việc mặt hàng nhập khẩu gây thiệt hại hoặc đe đọa thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Nhìn chung, các số liệu này phải tổng kết được tình hình của 3 năm gần nhất bao gồm: (1) Kim ngạch và giá trị hàng nhập khẩu được bán ở mức giá LTFV. (2) Giá bán tại Mỹ của hàng nhập khẩu và giá của sản phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ.
  • 13. (3) Năng suất, doanh số trong nước, doanh số xuất khẩu của sản phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ.1 (4) Số lao động của Mỹ trong ngành sản xuất sản phẩm tương tự trên. (5) Số liệu về thu nhập và lỗ (doanh số ròng, chi phí sản xuất, lợi nhuận hoặc lỗ, chi phí bán hàng, chi phí quản lý) 2.2.2. Quá trình điều tra Quá trình điều tra vụ kiện chống bán phá giá có thể được chia làm 5 bước, kết thúc mỗi bước là phán quyết của DOC hoặc USITC. Bước 1: Bắt đầu điều tra. Bước 2: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Uỷ ban TMQT USITC Bước 3: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Bộ TM HoaKỳ DOC Bước 4: Giai đoạn điều tra chính thức của Bộ TM Hoa Kỳ DOC Bước 5: Giai đoạn điều tra chính thức của Uỷ ban TMQT Hoa Kỳ USITC Ngoại trừ bước 3, trong các bước còn lại nếu có phán quyết xử thua bên nguyên đơn thì vụ kiện sẽ bị dừng lại. Thời hạn hoàn thành cho 5 bước trên như sau: Bước 1: 20 ngày sau khi nhận được đơn kiện Bước 2: 45 ngày sau khi nhận được đơn kiện Bước 3: 115 ngày sau khi hoàn thành bước 2 Bước 4: 75 ngày sau khi hoàn thành bước 3. Bước 5: 120 ngày sau khi hoàn thành bước 3. 1 Những thông tin này sẽ được sử dụng để đánh giá quy mô của ngành sản xuất mặt hàng tương tự của Mỹ, từ đó đánh giá mức độ thiệt hại mà mặt hàng bán phá giá gây ra.
  • 14. A. Bước 1: Bắt đầu điều tra Bên nguyên đơn phải đồng thời đệ đơn kiện lên DOC và USITC. Trong vòng 20 ngày sau khi nhận đơn kiện, Bộ TM Hoa Kỳ (DOC) sẽ xác định tính cần thiết áp dụng thuế chống bán phá giá như đơn kiện yêu cầu. Nếu phán quyết của DOC là cần thiết, thì quá trình điều tra sẽ được tiến hành, nếu ngược lại DOC sẽ bác đơn kiện và quá trình tố tụng chấm dứt. B. Bước 2: Giai đoạn điều tra sơ bộ của Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ - USITC Trong vòng 45 ngày sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ dựa trên những thông tin sẵn có để xác định xem liệu có dấu hiệu nào cho thấy một ngành sản xuất Mỹ đang phải chịu thiệt hại hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại vật chất, hoặc việc thành lập một ngành sản xuất bị ngăn cản do việc nhập khẩu loại hàng hóa nằm trong diện điều tra. Trong giai đoạn điều tra sơ bộ này, USITC phải tiến hành 6 bước: - Thành lập và lên kế hoạch điều tra sơ bộ. - Bảng câu hỏi. - Họp báo và tổng kết - Báo cáo của ban điều tra và bản ghi nhớ - Tổng kết và biểu quyết - Phán quyết và quan điểm của USITC * Thành lập và lên kế hoạch điều tra sơ bộ Sau khi nhận được đơn kiện, USITC sẽ thành lập một ban điều tra gồm 6 thành viên: 1 điều tra viên, 1 chuyên gia kinh tế, 1 kế toán viên/kiểm toán viên, 1 chuyên gia phân tích sản xuất, một luật sư, và 1 giám sát viên. Ban điều tra sẽ lên kế hoạch điều tra và soạn thảo 1 thông báo cho công luận. Mục đích của bản thông báo này là cung cấp cho công chúng những thông tin liên quan đến nội dung điều tra và lịch trình điều tra. Bên nguyên đơn cũng có thể tham gia vào ban điều tra.
  • 15. * Bảng câu hỏi Sau khi xem xét kỹ lưỡng đơn kiện và các thông tin sẵn có khác, ban điều tra soạn thảo bảng câu hỏi để gửi cho các nhà sản xuất Mỹ, các nhà nhập khẩu Mỹ và các nhà sản xuất nước ngoài nhằm lấy các thông tin cần thiết để đưa ra phán quyết. Bảng câu hỏi sẽ được gửi đi trong vòng 2 đến 4 ngày làm việc sau khi nhận được đơn kiện. Việc trả lời bảng câu hỏi là bắt buộc đối với các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu Mỹ. Nhà sản xuất nước ngoài không nhất thiết phải trả lời bảng câu hỏi, tuy nhiên, việc không trả lời có thể dẫn đến những kết luận không có lợi từ phía USITC. Trong quá trình soạn thảo, bảng câu hỏi, USITC phải giải quyết một vấn đề mấu chốt, đó là xác định chính xác sản phẩm cần điều tra. Trước khi đưa ra phán quyết, USITC phải đánh giá mức độ thiệt hại mà một ngành sản xuất sản phẩm tương tự của Mỹ phải hứng chịu. Luật chống bán phá giá định nghĩa "một ngành sản xuất" là "bao gồm tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc bao gồm các nhà sản xuất tạo ra một phần sản lượng chủ chốt của sản phẩm trên…". Cũng theo luật thì "sản phẩm tương tự" là sản phẩm giống hệt, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm giống hệt, là sản phẩm có nhiều đặc tính tương đồng với sản phẩm được so sánh nhất…". Việc xác định sản phẩm tương tự được thực hiện dựa trên việc xem xét đơn kiện, thảo luận với các cá nhân trong ngành sản xuất sản phẩm đó, và các phân tích mà USITC có được. Sau khi đã lựa chọn được sản phẩm tương tự cần điều tra, USITC sẽ soạn thảo bảng câu hỏi theo một mẫu đã được điều chỉnh cho phù hợp với vấn đề điều tra và gửi cho các nhà sản xuất Mỹ, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài (nước xuất khẩu thuộc diện điều tra). Bảng câu hỏi cho nhà sản xuất Mỹ có 4 phần: Phần 1 đưa ra các câu hỏi về bộ máy và hoạt động của Công ty; có ủng hộ đơn kiện này không? Tại sao? Phần 2 yêu cầu cung cấp các thông tin, dữ liệu trong vòng 3 năm gần nhất về năng suất, sản lượng, lượng hàng dự trữ, lượng hàng bán, lượng hàng nhập khẩu,
  • 16. lượng tiêu thụ nội bộ, số lao động, giờ làm việc, mức lương. Phần 3 liên quan đến các dữ liệu về tài chính trong 3 năm gần nhất bao gồm dữ liệu về tình hình lỗ lãi của sản phẩm được điều tra; dữ liệu về vốn, chi phí nghiên cứu và phát triển, và giá trị tài sản của doanh nghiệp; ngoài ra còn có các câu hỏi về mức độ ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đối với tình hình vốn và đầu tư. Phần 4 yêu cầu nhà sản xuất cung cấp các thông tin liên quan đến mức giá và yêu cầu nhà sản xuất khẳng định việc sụt giảm doanh thu là do ảnh hưởng của loại hàng nhập khẩu đang được điều tra. Bảng câu hỏi cho nhà nhập khẩu Mỹ gồm 3 phần. Phần 1 tương tự như bảng câu hỏi cho nhà sản xuất. Phần 2 yêu cầu các dữ liệu trong vòng 3 năm gần nhất về việc nhập khẩu mặt hàng được điều tra; kim ngạch và giá trị hàng bán, tiêu thụ nội bộ, chuyển nhượng hàng nhập khẩu nói trên; và lượng hàng nhập khẩu dự trữ trong kho. Phần 3 yêu cầu cung cấp mức giá bán hàng nhập khẩu và các thông tin liên quan đến mức giá. Bảng câu hỏi cho nhà sản xuất nước ngoài cũng gồm 3 phần. Hai phần đầu bao gồm các câu hỏi tổng quát về hoạt động của nhà sản xuất tại nước đang được điều tra (nước xuất khẩu) và tại Mỹ. Phần 3 yêu cầu các thông tin trong 3 năm gần nhất về năng suất, sản lượng, lượng hàng bán trong nước, lượng xuất khẩu sang Mỹ và các thị trường khác và lượng dự trữ mặt hàng trên. * Họp báo và tổng kết Sau khoảng 3 tuần điều tra sơ bộ, USITC sẽ tổ chức một cuộc họp báo. Điều hành buổi họp báo là giám đốc điều tra của USITC; ban điều tra cùng tham dự. Các bên ủng hộ hay phản đối vụ kiện đều có một tiếng đồng hồ để đưa ra các luận điểm và bằng chứng để bảo vệ quan điểm của mình. Các bên diễn thuyết phải đảm bảo tính chính xác của các thông tin đưa ra. Các quan chức đứng đầu và ban điều tra có thể đặt câu hỏi cho các nhân chứng, nhưng việc chất vấn giữa hai bên ủng hộ và phản đối là không được phép. Sau khi hai bên kết
  • 17. thúc bài thuyết trình, mỗi bên cũng có 10 phút để bác bỏ luận điểm của bên còn lại và đưa ra kết luận. Toàn bộ nội dung buổi họp báo được lập thành biên bản. USITC khuyến khích các bên nộp bản tổng kết sau họp báo. Trong bản tổng kết này, các bên có thể đưa ra các thông tin và luận điểm thích hợp với vấn đề điều tra. Bảng tổng kết được giới hạn về độ dài là 50 trang và phải được trình lên USITC trong vòng 3 ngày làm việc sau buổi họp báo. * Báo cáo của ban điều tra và bản ghi nhớ Báo cáo của ban điều tra là một văn bản khách quan do điều tra viên, chuyên gia phân tích sản xuất, kế toán viên / kiểm toán viên, và chuyên gia kinh tế soạn thảo dưới sự chỉ đạo của giám sát viên. Bản báo cáo bao gồm 1 bài thuyết trình và phân tích về tất cả các số liệu thống kê và các thông tin khác thu thập được từ bảng câu hỏi, tài liệu, nghiên cứu thực địa… Bản báo cáo không đưa ra bất kỳ đề xuất nào liên quan đến phán quyết của USITC. Sau khi giám sát viên xem xét kỹ, bản báo cáo sẽ được chuyển tới USITC sau khoảng 5 tuần điều tra sơ bộ. Vào ngày làm việc tiếp theo, hội đồng cố vấn sẽ chuyển cho USITC bản ghi nhớ do thành viên luật sư của ban điều tra soạn thảo. Bản ghi nhớ nêu ra các vấn đề pháp lý liên quan đến cuộc điều tra, tóm tắt luận điểm của hai bên ủng hộ và phản đối, đồng thời cũng đưa ra đề xuất về mặt pháp lý. * Tổng kết và biểu quyết Khoảng 4 ngày làm việc sau khi nhận được bản báo cáo của ban điều tra, USITC sẽ tổ chức một buổi họp nhằm tổng kết giai đoạn điều tra và biểu quyết. Trong buổi họp, đại diện của USITC có thể chất vấn ban điều tra về các vấn đề liên quan đến cuộc điều tra trước khi thông qua bản báo cáo. Tiếp sau đó, từng đại diện của USITC sẽ tuyên bố quan điểm của cá nhân và biểu quyết việc có hay không thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất Mỹ do hành vi bán phá giá gây ra. ý kiến biểu quyết sẽ quyết định đến phán quyết của USITC. Chỉ cần số biểu quyết ủng hộ chiếm một nửa, thì phán quyết của USITC sẽ là: Có.
  • 18. * Phán quyết và quan điểm của USITC Theo qui định pháp luật, USITC phải đệ trình phán quyết của giai đoạn điều tra sơ bộ lên Ban thư ký của DOC trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện. Tiếp sau đó, USITC có 5 ngày để trình bày quan điểm bằng văn bản lên DOC. Trong cùng thời gian này, ban điều tra cũng phải đệ trình lên DOC bản báo cáo đã được phát hành rộng rãi (bản báo cáo được phát hành rộng rãi là bản báo cáo trong đó không đề cập đến bất kỳ một công ty cụ thể nào và không chứa đựng các thông tin bí mật). C. Bước 3: Giai đoạn điều tra sơ bộ của DOC Trong trường hợp phán quyết mà USITC đưa ra là có thiệt hại vật chất thì DOC phải tiến hành giai đoạn điều tra sơ bộ. Thời hạn cho giai đoạn này là 160 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện. DOC sẽ dựa trên các thông tin sẵn có để kết luận xem liệu có cơ sở cho việc nghi ngờ hàng hóa nhập khẩu được bán ở mức giá LTFV hay không. Cụ thể, DOC sẽ phải dựa vào các thông tin, số liệu do Ban điều tra thu thập hoặc do chính DOC thu thập để xác định các khái niệm : Giá trị thông thường, Giá xuất khẩu, Mức bán phá giá và tỉ lệ bán phá giá (ý nghĩa của các khái niệm này sẽ được giải thích cụ thể ở phần 2.2.3). Nếu kết luận sơ bộ của DOC là có hành vi bán phá giá thì DOC sẽ ra lệnh đình chỉ việc thanh toán cho tất cả các giao dịch liên quan đến hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra, được thực hiện trong khoảng thời gian 90 ngày trước khi ban hành lệnh này. Tiếp sau đó, các nhà nhập khẩu phải ký quĩ một khoản tiền tương (1) đương với tỉ lệ bán phá giá . Nếu kết luận của DOC là: không có cơ sở cho những nghi ngờ trên, thì DOC vẫn tiến hành giai đoạn điều tra chính thức, nhưng nhà nhập khẩu sẽ không phải ký quỹ số tiền nói trên. (1) "Mức bán phá giá" là lượng chênh lệch giữa giá trị thông thường của loại hàng đó với giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ cũng của loại hàng đó". "Tỉ lệ bán phá giá " = "Mức bán phá giá" X 100% Giá xuất khẩu
  • 19. D. Bước 4: Giai đoạn điều tra chính thức của DOC Trong vòng 235 ngày sau ngày nhận đơn kiện, DOC phải đưa ra phán quyết chính thức liệu hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra có được bán hoặc có khả năng được bán ở mức giá dưới mức hợp lý (mức LTFV) hay không. E. Bước 5: Giai đoạn điều tra chính thức của USITC Trong vòng 280 ngày kể từ ngày nhận đơn kiện, USITC phải đưa ra phán quyết chính thức về việc liệu hành vi nhập khẩu loại hàng hóa thuộc diện điều tra có gây tổn hại vật chất hoặc đe dọa tổn hại vật chất hoặc ngăn cản việc thành lập một ngành sản xuất của Mỹ hay không. Giai đoạn điều tra chính thức này được chia làm 8 bước: - Lập lịch trình điều tra. - Lập bảng câu hỏi - Báo cáo trước hội thảo - Hội thảo và tổng kết. - Báo cáo chính thức của ban điều tra và bản ghi nhớ. - Kết thúc hồ sơ điều tra và ý kiến của các bên. - Tổng kết và biểu quyết. - Phán quyết và quan điểm của USITC. * Lập lịch trình điều tra Giai đoạn điều tra chính thức của USITC bắt đầu sau khi nhận được thông báo của DOC về việc: DOC đã đưa ra kết luận sơ bộ rằng có hành vi bán phá giá và cần tiếp tục điều tra. USITC sẽ thành lập một ban điều tra gồm 6 thành viên. Ban điều tra sẽ lập lịch trình điều tra. Lịch trình này sẽ được USITC thông qua trong vòng 1 tuần kể từ ngày nhận được thông báo của DOC. Các bên liên quan, nếu muốn tham gia vào quá trình điều tra chính thức, thì cần đệ đơn xin tham gia lên ban thư ký của USITC. * Lập bảng câu hỏi
  • 20. Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ của giai đoạn điều tra sơ bộ và đặc biệt là quan điểm của USITC về vấn đề điều tra, ban điều tra sẽ lập bảng câu hỏi nhằm khai thác từ các nhà sản xuất Mỹ và ngoại quốc, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà buôn Mỹ các thông tin mà USITC cần. Bản thảo của bảng câu hỏi sẽ được gửi cho các bên liên quan để lấy ý kiến. Tiếp đó, ban điều tra tập hợp các ý kiến và trình bảng câu hỏi lên USITC để được thông qua. Bảng câu hỏi sau khi được thông qua sẽ được gửi cho tất cả các nhà sản xuất Mỹ, nhà nhập khẩu Mỹ và nhà sản xuất nước ngoài có tham gia vào việc trả lời bảng câu hỏi của giai đoạn điều tra sơ bộ. Bảng câu hỏi cũng có thể được gửi cho các Công ty khác mà ban điều tra cho rằng có liên quan đến việc nhập khẩu hoặc sản xuất mặt hàng thuộc diện điều tra. Về cơ bản, cấu trúc bảng câu hỏi này là tương đồng với bảng câu hỏi sử dụng trong giai đoạn điều tra sơ bộ, tuy nhiên có thể có một vài thay đổi về nội dung câu hỏi và sự rút ngắn về mặt thời gian của các số liệu cần thu thập. Bảng câu hỏi cho nhà buôn Mỹ ít nhất gồm 4 phần: Phần 1 tương tự như bảng câu hỏi cho nhà sản xuất và nhà nhập khẩu. Phần 2 yêu cầu số liệu về hạn ngạch và giá trị loại hàng thuộc diện điều tra mà Công ty mua, phân loại theo nước sản xuất (hàng sản xuất tại Mỹ, hàng sản xuất tại nước thuộc diện điều tra, và hàng sản xuất tại nước không thuộc diện điều tra). Phần 3 đưa ra các câu hỏi về đặc điểm của thị trường của loại hàng hóa trên và phương thức mua bán. Phần 4 đưa ra các câu hỏi về tình hình cạnh tranh giữa hàng sản xuất tại Mỹ với hàng sản xuất tại nước thuộc diện điều tra và hàng sản xuất tại nước không thuộc diện điều tra. Ngoài ra còn có các câu hỏi yêu cầu đưa ra sự so sánh về giá, chất lượng… giữa các mặt hàng có xuất xứ từ 3 nguồn gốc nói trên. Bảng câu hỏi sẽ được gửi đi trong vòng 1 tuần sau khi nhận được thông báo của DOC về kết luận điều tra sơ bộ. * Báo cáo tiền hội thảo
  • 21. Bản báo cáo này được trình lên USITC 9 ngày trước khi tổ chức hội thảo, bao gồm các thông tin mới nhất và số liệu thống kê, phân tích của các bên liên quan, cũng như các cơ sở để USITC và các bên thảo luận trong buổi hội thảo. * Hội thảo và tổng kết USITC sẽ tổ chức một buổi hội thảo ngay sau khi DOC đưa ra phán quyết chính thức. Chủ tịch của USITC sẽ chủ trì buổi hội thảo. Buổi hội thảo là dịp để các bên liên quan bày tỏ quan điểm của mình và cũng là cơ hội để các thành viên USITC chất vấn các bên và khai thác thông tin phục vụ cho việc đưa phán quyết chính thức. Đơn đăng ký tham gia hội thảo phải được gửi lên Ban thư ký của USITC chậm nhất là 3 ngày trước khi buổi hội thảo diễn ra. Trong buổi hội thảo, các bên ủng hộ và phản đối đơn kiện sẽ có 5 phút cho mỗi bên để tóm tắt luận điểm của mình. Tiếp theo đó, mỗi bên sẽ có một tiếng đồng hồ để nêu ra bằng chứng bảo vệ luận điểm của mình. Sau khi nghe trình bày của các bên là quá trình chất vấn của USITC, của ban điều tra và của bên đối lập. Kết thúc buổi hội thảo là phần tóm tắt vụ kiện dài 5 phút do cả hai bên, bên nguyên đơn và bị đơn, trình bày. USITC khuyến khích các bên liên quan đệ trình bằng chứng lên USITC trước khi diễn ra buổi hội thảo. Các bằng chứng này cần ngắn gọn và tập trung vào vấn đề chính của cuộc điều tra. Ngoài ra, USITC cũng khuyến khích các bên đệ trình bản tổng kết sau buổi hội thảo. Bản tổng kết có thể đưa ra thông tin được khám phá trong thời gian sau khi tổ chức hội thảo. Thời hạn nộp bản tổng kết là 5 ngày sau buổi hội thảo. * Báo cáo chính thức của ban điều tra và bản ghi nhớ Sau buổi hội thảo, ban điều tra sẽ cập nhật các thông tin thu thập được từ buổi hội thảo, bản tổng kết,… vào bản báo cáo tiền hội thảo. Mục tiêu của bản báo cáo chính thức là bổ sung và đính chính các thông tin được đưa ra trong bản
  • 22. báo cáo tiền hội thảo. Bản báo cáo chính thức sẽ được đệ trình lên USITC khoảng 2 tuần sau khi kết thúc hội thảo. Bản báo cáo chính thức, cùng với các tài liệu do ban điều tra soạn thảo, biên bản nội dung buổi hội thảo, bản tổng kết của các bên liên quan và các thông tin khác sẽ là căn cứ để USITC đưa ra phán quyết cuối cùng. * Kết thúc hồ sơ điều tra và ý kiến của các bên USITC sẽ kết thúc hồ sơ điều tra 5 ngày sau khi nhận được bản báo cáo chính thức của ban điều tra. Đến thời điểm này, các bên liên quan sẽ được phép xem xét tất cả các thông tin trước đây chưa công bố. 2 ngày sau khi kết thúc hồ sơ điều tra, các bên có liên quan sẽ có cơ hội đưa ra ý kiến về tính chính xác, mức độ tin cậy, hoặc giá trị của các thông tin này. * Tổng kết và biểu quyết USITC sẽ tổ chức một buổi tổng kết và biểu quyết công khai, 3 ngày sau khi nhận được ý kiến bình luận nêu trên của các bên có liên quan và 6 ngày trước khi kết thúc thời hạn điều tra. Trước khi biểu quyết, USITC sẽ một lần nữa xem xét lại toàn bộ hồ sơ và có thể yêu cầu ban điều tra tóm tắt lại quá trình điều tra. * Phán quyết và quan điểm của USITC Theo qui định, USITC phải đệ trình phán quyết chính thức lên ban thư ký của DOC trong vòng 120 ngày sau khi nhận được thông báo về kết luận sơ bộ của DOC hoặc 45 ngày sau khi nhận được thông báo về kết luận chính thức của DOC. Trong cùng thời gian này, USITC phải trình bày quan điểm bằng văn bản về lý do đưa ra phán quyết đó. Các văn bản này cùng được chuyển cho các bên liên quan. Sau khi xem xét phán quyết chính thức và bản giải trình của USITC, DOC sẽ đưa ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra và đưa ra một mức thuế tương đương với tỉ lệ bán phá giá.
  • 23. Lưu ý : Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý rằng, mức thuế mà DOC đưa ra vào thời điểm này không phải là mức thuế thực sự mà hàng hoá nhập khẩu phải chịu. Ta có thể xem xét một ví dụ: DOC phát hiện thấy hàng nhập khẩu được bán với tỉ lệ bán phá giá là 5%. Sau khi USITC đưa ra phán quyết chính thức là có thiệt hại vật chất, DOC sẽ ra quyết định áp dụng mức thuế chống bán phá giá với hàng hoá đó là 5%. Từ thời điểm này, mặt hàng trên, khi nhập khẩu vào Mỹ, sẽ phải chịu thêm một mức thuế 5%. Nhà nhập khẩu sẽ phải đặt cọc một số tiền tương đương với mức 5% trên cho Cục Hải quan của Mỹ khi làm thủ tục nhập khẩu. Tình trạng này sẽ được duy trì trong vòng một năm. Sau một năm, trong quá trình xem xét lại, DOC mới đưa ra một mức thuế chống bán phá giá thực sự. Mức thuế chống bán phá giá thực sự này có thể sẽ cao hơn hoặc thấp hơn tỉ lệ bán phá giá mà DOC tìm thấy. Nếu cao hơn, nhà nhập khẩu sẽ phải nộp thêm số tiền còn thiếu. Nếu thấp hơn, nhà nhập khẩu sẽ được hoàn trả lại phần thừa. Đồng thời trong quá trình xem xét lại, DOC và USITC sẽ quyết định việc có tiếp tục duy trì thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng đó hay không. Có hai mốc hiệu lực của thuế chống bán phá giá, tuỳ thuộc vào phán quyết chính thức của DOC về “tình trạng nguy kịch”. Nếu phán quyết chính thức của DOC là có tồn tại "tình trạng nguy kịch”, và USITC cũng đưa ra phán quyết chính thức rằng: 1 ngành sản xuất của Mỹ đang phải chịu thiệt hại vật chất, thì USITC sẽ phải điều tra thêm để xác định xem liệu có tình trạng "trốn thuế" hay không (như trình bày trong mục 4 - phần B - 2.2.1). Kết quả của cuộc điều tra thêm này sẽ quyết định ngày hiệu lực của phán quyết: Nếu kết quả điều tra là có hành vi "trốn thuế", thì mức thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng từ ngày ban hành lệnh đình chỉ thanh toán (C-2.2.2); trong trường hợp ngược lại, thì thời hạn hiệu lực bắt đầu từ ngày công bố chính thức quyết định của USITC. Như vậy, việc DOC và USITC đưa ra các phán quyết chính thức chưa hẳn đã kết thúc quá trình điều tra một hành vi bán phá giá. Như đã nói ở phần đầu, quá trình điều tra chỉ kết thúc sau khi đã hoàn thành quá trình xem xét lại. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về bản chất của việc điều tra cũng như cơ sở để hình thành
  • 24. kết quả của mỗi phán quyết, chúng ta sẽ nghiên cứu các khái niệm pháp lý chính trước. Quá trình xem xét lại sẽ được đề cập sau. 2.2.3. Các khái niệm pháp lý chính Các khái niệm pháp lý này chính là cái khung tạo ra kết quả điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC). A. Giá trị thông thường ( Normal value ) Giá trị thông thường, nói một cách đơn giản, là giá của sản phẩm thuộc diện điều tra được bán tại một thị trường khác ngoài Mỹ. Giá trị thông thường là một khái niệm quan trọng, có tính quyết định đến phương pháp tính mức bán phá giá cũng như kết quả hay mức thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng. Việc tiến hành xác định “giá trị thông thường” do DOC tiến hành và có 5 phương pháp để xác định khái niệm này : (1) Giá thị trường nước xuất khẩu (2) Giá thị trường nước thứ ba (3) Giá dự tính (4) Giá của nền kinh tế phi thị trường (5) Giá xây dựng theo các dữ liệu sẵn có (1) Giá trị thông thường = Giá thị trường nước xuất khẩu Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Giá trị thông thường được tính trên cơ sở giá bán của sản phẩm xuất khẩu tại thị trường nước xuất khẩu. Nói cách khác, một sản phẩm sẽ bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu của sản phẩm đó vào thị trường Mỹ thấp hơn giá bán lẻ ( giá bán cho người tiêu dùng) cũng của sản phẩm đó hoặc sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất khẩu. Trên cơ sở giá CIF, DOC sẽ trừ đi các khoản phí như cước vận chuyển,
  • 25. phí giao dịch, hoa hồng, và các chi phí bán hàng có liên quan khác. Mục đích của DOC là muốn so sánh trên cơ sở giá xuất xưởng. (2) Giá trị thông thường = Giá thị trường của nước thứ ba Trong trường hợp sản phẩm thuộc diện điều tra hoặc sản phẩm tương tự sản phẩm thuộc diện điều tra không được bán trên thị trường nước xuất khẩu hoặc doanh số của mặt hàng này tại thị trường nước xuất khẩu quá thấp ( nhỏ hơn 5% tổng doanh số mặt hàng này tại thị trường Mỹ ) thì DOC sẽ coi thị trường mặt hàng này của nước xuất khẩu là không tồn tại và lựa chọn thị trường một nước thứ ba nơi cũng nhập khẩu mặt hàng tương tự của nước xuất khẩu trên. DOC sẽ lấy giá xuất khẩu vào thị trường nước thứ ba của mặt hàng thuộc diện điều tra làm giá trị thông thường. (3) Giá trị thông thường = Giá dự tính Giá dự tính là mức giá do DOC xây dựng nên dựa trên 3 yếu tố: Chi phí sản xuất ; Mức chi phí chung ; Mức lợi nhuận hợp lý. Việc tính toán mức chi phí chung và mức lợi nhuận hợp lý sẽ được dựa trên các dữ liệu liên quan đến hoạt động sản xuất và bán hàng do nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất thuộc diện điều tra cung cấp. Trong trường hợp không xác định được 2 yếu tố này bằng cơ sở trên, DOC có thể dựa vào : Số liệu thực tế về hoạt động sản xuất và bán hàng của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất thuộc diện điều tra tại thị trường nước xuất khẩu hoặc bất kỳ một phương pháp nào khác miễn là mức lợi nhuận dự tính không vượt quá mức lợi nhuận thông thường mà nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất thuộc diện điều tra vẫn hưởng. DOC sẽ áp dụng mức giá dự tính trong trường hợp không có thị trường nước thứ ba tương tự. Trường hợp đặc biệt : Loại trừ các khoản doanh thu phát sinh từ mức giá thấp hơn mức chi phí.
  • 26. Trong quá trình kinh doanh, thường có một số giao dịch có mức giá bán thấp hơn mức chi phí sản xuất. Các giao dịch như vậy sẽ được coi là “giao dịch trong điều kiện thương mại bất thường” và sẽ bị loại khỏi giá trị thông thường. Trong thực tế, các giao dịch dưới mức chi phí sẽ bị loại nếu giá bán trung bình của các giao dịch này thấp hơn chi phí sản xuất trung bình và kim ngạch của các giao dịch này chiếm trên 20% tổng kim ngạch. Việc loại bỏ các giao dịch trên sẽ làm tăng giá trị thông thường và càng làm cho việc phát hiện ra hành vi bán phá giá khả dĩ hơn. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Trong ví dụ này, giả sử mức chi phí sản xuất là 50 : Thời điểm Kim Giá trị thông thường Giá xuất khẩu vào ngạch thị trường Mỹ Tháng 1 10 40 50 Tháng 2 10 100 100 Tháng 3 10 150 150 Tháng 4 10 200 200 Ví dụ trên đưa ra 4 giao dịch với kim ngạch của mỗi giao dịch là 10. Giao dịch vào tháng 1 có mức giá là 40, thấp hơn mức chi phí sản xuất ( 50 ). Giao dịch này chiếm 25% tổng kim ngạch ( > 20% ) vì vậy nó sẽ bị loại khỏi giá trị thông thường. Kết quả là ta có: Giá trị thông thường trung bình là (100 +150 + 200)/3 = 150 Mức giá xuất khẩu trung bình là (50 + 100 + 150 + 200)/4 = 125 Do đó mức bán phá giá là (150 – 125) = 25 và tỉ lệ bán phá giá là 25/125 = 20%. Nếu như giao dịch trong tháng 1 không bị loại khỏi gía trị thông thường thì giá trị thông thường trung bình là 122.5 và như vậy đã không có hành vi bán phá giá.
  • 27. (4) Giá trị thông thường = Giá của một nền kinh tế phi thị trường Đối với hàng nhập khẩu từ các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường như Liên bang Sô Viết cũ, Trung Quốc,.., DOC sẽ từ chối việc lấy giá ở thị trường nước xuất khẩu làm giá trị thông thường với quan điểm rằng giá và chi phí của các thị trường nói trên là do chính phủ kiểm soát và do đó không phản ánh đúng giá trị thị trường. DOC sẽ thu thập các thông tin về các yếu tố đầu vào mà nhà sản xuất tại nước xuất khẩu cần để tạo ra sản phẩm thuộc diện điều tra. Sau đó, DOC sẽ tính toán giá trị của các yếu tố đầu vào này trên cơ sở giá của các yếu tố đó tại một “nước đại diện”. Nước đại diện là quốc gia có nền kinh tế thị trường và được đánh giá là có mức độ phát triển tương đương với nước thuộc diện điều tra. (5) Giá trị thông thường = Giá xây dựng theo các dữ liệu sẵn có Phương pháp cuối cùng mà DOC sử dụng là xác định giá trị thông thường dựa vào các thông tin sẵn có chứ không phải là các dữ liệu mà nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu cung cấp. Phương pháp này được sử dụng khi nhà sản xuất nước ngoài không cung cấp đủ các thông tin về giá và chi phí như DOC yêu cầu, hoặc những thông tin được cung cấp tỏ ra không chính xác và đầy đủ. Trong trường hợp đó, DOC sẽ dựa vào các dữ liệu sẵn có trong hồ sơ các vụ kiện bán phá giá khác. B. Mức bán phá giá ( Dumping Amount ) và Tỉ lệ bán phá giá ( Dumping Margins )
  • 28. Theo quy định của luật chống bán phá giá, sau khi đã xác định được giá trị thông thường bằng một trong năm phương pháp trên, DOC sẽ tiến hành tính toán mức bán phá giá. Mức bán phá giá là chênh lệch giữa giá trị thông thường và giá xuất khẩu sang thị trường Mỹ của mặt hàng thuộc diện điều tra. Tỉ lệ bán phá giá là tỉ lệ phần trăm của mức bán phá giá so với giá xuất khẩu. Việc xác định mức bán phá giá là một bước quan trọng để xác định xem liệu có hay không hành vi bán phá giá và nếu có thì hành vi đó xảy ra ở mức độ nào. Cụ thể, nếu giá xuất khẩu nhỏ hơn giá trị thông thường thì đã có hành vi bán phá giá và tỉ lệ bán phá giá càng lớn thì mức độ nghiêm trọng của hành vi bán phá giá càng cao. Theo quy định, việc so sánh này sẽ được thực hiện ở cùng một khâu trong kênh phân phối, thông thường là ở khâu xuất xưởng, và các thông số được sử dụng trong quá trình so sánh thường có mốc thời gian không chênh lệch nhau lắm. Việc so sánh hai giá trị này ở khâu xuất xưởng đồng nghĩa với việc phải loại trừ tất cả các chi phí phát sinh sau thời điểm hàng hoá được xuất xưởng ra khỏi mức giá được sử dụng để so sánh. Ví dụ như, nếu giá xuất khẩu là giá CIF, tức là nhà xuất khẩu phải trả cước vận chuyển nội địa, cước tàu biển và bảo hiểm, thì các mức cước này sẽ bị loại trừ để có được giá xuất xưởng. Về cơ bản, có hai phương pháp so sánh : So sánh theo giá trị trung bình ( Weighted average to weighted average basis ) và So sánh theo từng giao dịch ( Transaction to Transaction basis ). Hãy xem xét ví dụ sau : Thời điểm Giá trị thông thường Giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ Tháng 1 50 50 Tháng 2 100 100 Tháng 3 150 150
  • 29. Tháng 4 200 200 Nếu sử dụng phương pháp so sánh theo giá trị trung bình, ta sẽ có giá trị thông thường là ( 50 + 100 + 150 + 200)/4 =125, còn giá xuất khẩu là (50 + 100 + 150 + 200)/4 = 125. Do giá trị thông thường bằng giá xuất khẩu nên không có hành vi bán phá giá. Nếu sử dụng phương pháp so sánh theo từng giao dịch thì các giao dịch trong nước và giao dịch xuất khẩu diễn ra vào cùng một mốc thời gian ( thường là trong cùng một tháng ) sẽ được so sánh với nhau. Trường hợp ngoại lệ DOC có thể so sánh giá trị trung bình của giá trị thông thường với giá xuất khẩu của từng giao dịch, nếu DOC phát hiện có sự chênh lệch lớn về mức giá, bán cho các người mua khác nhau, bán cho các khu vực khác nhau, và bán vào các thời điểm khác nhau. Nếu sử dụng phương pháp này, kết quả sẽ rất khác biệt. Thời Giá trị thông thường Giá xuất khẩu Mức bán điểm (tính trên cơ sở giá trị (từng giao dịch) phá giá trung bình) Tháng 1 125 50 75 Tháng 2 125 100 25 Tháng 3 125 150 -25 Tháng 4 125 200 -75 Phương pháp làm tròn : Từ ví dụ trên, ta có một lượng bán phá giá dương là 100 ( 75 và 25 của hai giao dịch đầu ) và một lượng bán phá giá âm
  • 30. cũng là 100 ( -25 và -75 của hai giao dịch cuối ). Sở dĩ có mức bán phá giá âm là do giá xuất khẩu thực tế cao hơn giá trị thông thường. Sẽ không có hành vi bán phá giá nếu lượng bán phá giá âm được bù cho lượng bán phá giá dương. Tuy nhiên, DOC không chấp nhận sự bù đắp như trên và thay vào đó, gán giá trị 0 vào các giao dịch có mức bán phá giá âm. Đây tạm gọi là phương pháp làm tròn ( Zeroing ). Kết quả của phương pháp này là: Ta sẽ có một mức bán phá giá là 100 và tỉ lệ bán phá giá là 100/500 = 20%. Việc áp dụng phương pháp làm tròn được giải thích rằng : Chỉ cần có một giao dịch có hành vi bán phá giá thì tức là mặt hàng nhập khẩu từ quốc gia đó bị bán phá giá. Phương pháp này, do đó, đã hỗ trợ việc phát hiện ra hành vi bán phá giá. Ví dụ minh họa cách xác định mức bán phá giá Ví dụ 1. Giá trị thông thường được xác định theo phương pháp 1, giá thị trường nước xuất khẩu. Giá trị thông thường Giá xuất khẩu Nhà sản xuất X Thị trường trong Nhà sản xuất X Xuất khẩu nước Giá bán : 100 Giá CIF : 100 Thuế : 5 Những khác biệt trong quá trình xuất khẩu : 5 Chiết khấu : 2 Chiết khấu : 2 Đóng gói : 1 Đóng gói : 1 Cước vận chuyển nội địa : 1 Cước vận chuyển nội địa : 1 Cước đường biển/Bảo hiểm : 6 Lãi tiền vay : 5 Lãi tiền vay : 2 Bảo hành : 2 Bảo hành : 2
  • 31. Hoa hồng : 2 Hoa hồng : 2 Giá trị thông thường ( tại khâu xuất Giá xuất khẩu ( tại khâu xuất xưởng xưởng ) : 82 ) : 79 Từ ví dụ này, ta có tỉ lệ bán phá giá là ( 82 –79 )/100 x 100 = 3%. Ví dụ này cho thấy, mặc dù giá bán trong nước và giá xuất khẩu là tương đương, nhưng vẫn có hành vi bán phá giá do giá xuất khẩu ( tại khâu xuất xưởng ) thấp hơn giá trị thông thường ( tại khâu xuất xưởng ). Ví dụ 2. Giá trị thông thường Giá xuất khẩu Nhà sản Nhà sản xuất X Xuất khẩu xuất X Thị trường trong nước Giá bán : 100 Giá CIF : 100 Thuế : 5 Những khác biệt trong quá trình xuất khẩu : 5 Chiết khấu : 5 Chiết khấu : 2 Đóng gói : 1 Đóng gói : 1 Cước vận chuyển nội địa : 1 Cước vận chuyển nội địa : 1 Cước đường biển/Bảo hiểm : 6 Lãi tiền vay : 6 Lãi tiền vay : 1 Bảo hành : 2 Bảo hành : 2 Hoa hồng : 2 Hoa hồng : 2
  • 32. Giá trị thông thường ( tại khâu Giá xuất khẩu ( tại khâu xuất xuất xưởng ) : 78 xưởng) : 80 Trong ví dụ này, tỉ lệ bán phá giá là ( 78 –80 )/100 x100 = -2. Theo phương pháp làm tròn mà DOC áp dụng, mức bán phá giá âm này sẽ không được tính vào công thức tính toán mà thay vào đó là giá trị 0. C. Thiệt hại vật chất Theo qui định tại khoản 771(7) của luật chống bán phá giá 1921, để xác định mức độ thiệt hại vật chất, USITC phải xem xét: (1) Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra. (2) ảnh hưởng của việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra đến tình hình giá cả của sản phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ. (3) ảnh hưởng của việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra đến hoạt động sản xuất của các Công ty, cá nhân Mỹ sản xuất mặt hàng tương tự. USITC phải xác định xem mức tăng trong kim ngạch nhập khẩu mặt hàng điều tra có tăng đáng kể hay không. Khi đánh giá ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến tình hình giá cả, USITC phải cân nhắc liệu có tồn tại: (1) Việc bán rẻ hàng nhập khẩu so với mặt hàng tương tự được sản xuất tại Mỹ. (2) Việc bán hàng nhập khẩu làm giảm hoặc kìm hãm việc tăng giá của sản phẩm tương tự được sản xuất tại Mỹ. Trong quá trình đánh giá ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến hoạt động sản xuất của các Công ty, cá nhân Mỹ sản xuất mặt hàng tương tự, USITC sẽ phải đánh giá tất cả các nhân tố kinh tế tương ứng như: (1) Sự suy giảm trong sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng suất,…
  • 33. (2) Các nhân tố ảnh hưởng đến mức giá trên thị trường Mỹ. (3) Các ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, hàng tồn kho, nhân công, lương, tốc độ tăng trưởng, khả năng huy động vốn và đầu tư. (4) Các ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình phát triển và sản xuất của ngành sản xuất Mỹ. (5) Mức bán phá giá (là mức chênh lệch giữa giá trị thông thường của mặt hàng thuộc diện điều tra với giá xuất khẩu vào thị trường Mỹ của mặt hàng đó). Nghị viện Mỹ yêu cầu USITC phải đánh giá tất cả các nhân tố trên, có xét đến chu kỳ kinh doanh và điều kiện cạnh tranh đặc trưng của ngành sản xuất bị ảnh hưởng bởi hàng nhập khẩu. Một cách đơn giản, việc xác định mức thiệt hại vật chất được tiến hành như sau: Nhà Nhà xuất khẩu Nhà xuất khẩu sản xuất Mỹ nước ngoài Y nước ngoài Z Giá bán 100 80 110 Giá mục tiêu 121 Mức thiệt hại (121-80)/80x100 (121-110)/110x100 vật chất =51.25% =10% Trong ví dụ này, giả sử mức chi phí của nhà sản xuất Mỹ là 110. Do phải đối mặt với hàng nhập khẩu giá rẻ, nhà sản xuất Mỹ buộc phải bán ở mức giá thấp hơn mức chi phí. DOC có thể tiến hành tính toán một mức giá mục tiêu cho nhà sản xuất Mỹ dựa trên mức chi phí sản xuất thực tế cộng với một mức lợi nhuận hợp lý, trong ví dụ nàylà 10%. Do vậy, ta có mức giá mục tiêu trong ví dụ này là 110+(110x10%)=121. Và ta có mức thiệt hại vật chất tương ứng là 51.25% và 10%. D. Đe dọa thiệt hại vật chất
  • 34. Theo luật chống bán phá giá, khi xác định xem liệu một ngành sản xuất của Mỹ có bị đe dọa thiệt hại vật chất hay không, USITC cần cân nhắc: (1) Tính xác thực của các thông tin về hình thức trợ giá được áp dụng (hình thức trợ giá đó có phải là một trong các hình thức trợ giá được qui định trong khoản 3 hoặc khoản 6.1 của Hiệp ước trợ giá của WTO hay không). (2) Việc tăng lượng hàng nhập khẩu vào Mỹ có phải do có sự tăng năng suất của nước xuất khẩu hay không. (3) Việc tăng thị phần của hàng nhập khẩu có phải do lượng nhập khẩu tăng hay không. (4) Mức giá của hàng nhập khẩu có làm giảm mức giá của sản phẩm nội địa cùng loại và làm tăng nhu cầu nhập khẩu hay không. (6) Khả năng chuyển đổi sản phẩm trong trường hợp nước xuất khẩu thuộc diện điều tra ngừng sản xuất sản phẩm đó. (7) ảnh hưởng tiêu cực đối với hoạt động sản xuất sản phẩm nội địa cùng loại. (8) Các xu hướng bất lợi khác biểu thị khả năng có thiệt hại vật chất do nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra. USITC sẽ phải cân nhắc toàn bộ các nhân tố trên trong một mối quan hệ thống nhất, từ đó mới đưa ra kết luận và phán quyết chính thức. E. Kìm hãm sản xuất Nguyên đơn có thể khẳng định việc thành lập một ngành sản xuất của Mỹ bị kìm hãm do việc nhập khẩu hoặc bán mặt hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra. Luật chống bán phá giá không đưa ra định nghĩa về “kìm hãm sản xuất”, tuy nhiên, trong quá trình xử kiện, USITC đã bắt đầu cân nhắc vấn đề này thông qua các yếu tố sau: (1) Ngành sản xuất đó bắt đầu hoạt động từ khi nào. (2) Việc sản xuất là liên tục hay ngắt quãng.
  • 35. (3) Qui mô của ngành sản xuất đó so với qui mô thị trường của loại sản phẩm mà ngành sản xuất đó tạo ra. (4) Ngành sản xuất đó đã đạt được mức hòa vốn hợp lý chưa. (5) Các hoạt động sản xuất này thực sự là thuộc một ngành sản xuất mới hay chỉ đơn thuần là một dòng sản phẩm mới của một ngành sản xuất cũ. F. Sản phẩm nội địa đồng loại và ngành sản xuất Mỹ Trước khi xác định thiệt hại vật chất hoặc nguy cơ thiệt hại vật chất của một ngành sản xuất Mỹ, hoặc sự kìm hãm việc thành lập một ngành sản xuất Mỹ, USITC phải xác định rõ thế nào là "sản phẩm nội địa đồng loại" và "ngành sản xuất". Theo khoản 771(34) của luật chống bán phá giá 1921, "ngành sản xuất" là "tập hợp bao gồm tất cả các nhà sản xuất của một sản phẩm nội địa đồng loại, hoặc tập hợp các nhà sản xuất chiếm phần lớn sản lượng của sản phẩm đó". Còn "sản phẩm nội địa đồng loại" là "sản phẩm giống hệt với sản phẩm nhập khẩu thuộc diện điều tra, hoặc trong trường hợp không có sản phẩm giống hệt, là sản phẩm có nhiều đặc tính và giá trị sử dụng tương đồng với sản phẩm nhập khẩu nhất". Việc xác định phạm vi của 2 khái niệm này trong từng vụ kiện sẽ do DOC tiến hành. Tuy nhiên, USITC có thể thay đổi phạm vi của khái niệm "sản phẩm nội địa đồng loại" bằng cách đưa thêm một số sản phẩm nội địa vào danh sách các sản phẩm nội địa đồng loại. Khi xác định sản phẩm nội địa đồng loại, USITC thường cân nhắc các yếu tố sau: (1) Đặc điểm bên ngoài và giá trị sử dụng. (2) Khả năng thay thế cho sản phẩm khác. (3) Kênh phân phối. (4) Thiết bị sản xuất, qui trình sản xuất và nhân công. (5) Cảm nhận của khách hàng và nhà sản xuất. (6) Giá cả.
  • 36. Một vấn đề cũng cần phải được nhắc đến: đó là liệu các sản phẩm ở các công đoạn sản xuất khác nhau có được coi là sản phẩm đồng loại không. Khi phân tích vấn đề này, USITC thường phải tiến hành phân tích bán thành phẩm dựa theo các nhân tố sau: (1) Sản phẩm thuộc khâu trước được sử dụng cho việc sản xuất sản phẩm ở khâu tiếp theo hay được sử dụng độc lập. (2) Có tồn tại thị trường riêng biệt cho sản phẩm thuộc khâu trước và sản phẩm thuộc khâu tiếp theo không. (3) Sự khác biệt về đặc tính và chức năng của sản phẩm thuộc 2 khâu kể trên (4) Sự khác biệt về chi phí hoặc giá trị giữa 2 sản phẩm trên. (5) Qui trình chuyển đổi sản phẩm khâu trước thành sản phẩm khâu tiếp theo. Sau khi xác định được sản phẩm nội địa đồng loại của một cuộc điều tra, USITC sẽ xác định "ngành sản xuất". USITC phải cân nhắc liệu một nhà sản xuất cụ thể có được xếp vào khái niệm "ngành sản xuất" của một vụ kiện cụ thể hay không. Để đưa ra quyết định này, USITC phải xem xét các yếu tố: (1) Nguồn gốc và qui mô vốn. (2) Trình độ công nghệ (3) Giá trị đóng góp vào sản phẩm (4) Mức nhân công (5) Bất kì một chi phí hay hoạt động trực tiếp đóng góp vào quá trình sản xuất sản phẩm nội địa đồng loại. Một đặc điểm khi phân loại để xác định "ngành sản xuất" đó là USITC có thể coi "ngành sản xuất" là: (1) Bao gồm các nhà sản xuất sản phẩm đồng loại thuộc một khu vực địa lý nhất định. Cách phân loại này được gọi là “Ngành sản xuất theo khu vực”. Hoặc
  • 37. (2) Bao gồm các nhà sản xuất sản phẩm đồng loại trên toàn nước Mỹ, ngoại trừ "các bên liên quan" * Ngành sản xuất theo khu vực Luật chống bán phá giá 1921 qui định: "Trong trường hợp cụ thể, đối với một mặt hàng cụ thể, nước Mỹ có thể được chia thành 2 hay nhiều thị trường riêng biệt, và các nhà sản xuất trong mỗi thị trường đó sẽ được coi là thuộc 1 ngành sản xuất riêng biệt nếu: (1) Các nhà sản xuất trong thị trường đó bán tất cả hoặc phần lớn sản phẩm của mình tại thị trường đó. (2) Nhu cầu của thị trường đó không được đáp ứng, dù ở bất cứ mức độ nào, bởi nhà sản xuất không thuộc thị trường đó. Trong trường hợp như vậy, có thể coi là tồn tại thiệt hại vật chất, nguy cơ thiệt hại vật chất, hoặc sự ngăn cản thành lập đối với một ngành sản xuất của Mỹ cho dù toàn bộ ngành sản xuất đó tính trên toàn nước Mỹ không hề phải chịu thiệt hại hay bị đe dọa thiệt hại, nếu có hành vi bán phá giá vào một thị trường riêng biệt và các nhà sản xuất trong thị trường đó phải chịu thiệt hại vật chất hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại vật chất do hành vi bán phá giá đó gây ra. Thuật ngữ "ngành sản xuất theo khu vực" là để chỉ các nhà sản xuất nội địa thuộc một khu vực nhất định, những nhà sản xuất này sẽ được coi là thuộc một ngành sản xuất riêng biệt…” Trong trường hợp USITC phát hiện có thiệt hại vật chất, nguy cơ thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất khu vực do hành vi bán phá giá hàng nhập khẩu gây ra, thì DOC sẽ chỉ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nhà xuất khẩu bán hàng vào thị trường đó. * Các bên liên quan Luật chống bán phá giá quy định: "Nếu một nhà sản xuất sản phẩm nội địa cùng loại có quan hệ với nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra, hoặc nếu một nhà sản
  • 38. xuất sản phẩm nội địa cùng loại đồng thời là nhà nhập khẩu sản phẩm thuộc diện điều tra, thì nhà sản xuất đó, trong trường hợp cụ thể, có thể không được tính là thuộc "ngành sản xuất". Nhà sản xuất sẽ bị coi là có quan hệ với nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu nếu: (1) Nhà sản xuất trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà nhập khẩu. (2) Nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà sản xuất. (3) Một bên thứ ba trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và nhà sản xuất. (4) Nhà sản xuất và nhà xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát một bên thứ ba và có lý do chứng minh rằng mối quan hệ này có tác động tới hành vi của nhà sản xuất. G. Hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng Theo luật chống bán phá giá, hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng là hàng nhập khẩu từ quốc gia có kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đó vào Mỹ nhỏ hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ. Căn cứ để xác định kim ngạch của mặt hàng trên là số liệu trong vòng 12 tháng gần nhất. Khi được coi là hàng nhập khẩu không gây ảnh hưởng, thì các vụ kiện bán phá giá đối với mặt hàng đó sẽ bị bác bỏ. 2.2.4. Quá trình xem xét lại Theo qui định của luật chống bán phá giá. Trong vòng 5 năm kể từ ngày áp dụng thuế chống bán phá giá. DOC và USITC phải tiến hành xem xét lại để cân nhắc việc bãi bỏ thuế chống bán phá giá. Trên thực tế, một năm sau khi đưa ra phán quyết chính thức, DOC sẽ tiến hành xem xét lại với mục đích cân nhắc và đưa ra mức thuế chống bán phá giá chính thức và sẽ hủy bỏ việc áp dụng thuế chống bán phá giá trừ khi kết quả của quá trình xem xét lại cho thấy rằng hành
  • 39. vi bán phá giá vẫn có khả năng tiếp diễn và đe dọa gây thiệt hại cho một ngành sản xuất của Mỹ. Trong quá trình đánh giá lại, USITC sẽ phải dự đoán những thay đổi trong kim ngạch, ảnh hưởng của mức giá và ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến ngành sản xuất khi mức thuế chống bán phá giá được bãi bỏ. Cụ thể, USITC sẽ phải xem xét: (1) Phán quyết ban đầu. (2) Tiến triển của "ngành sản xuất" Mỹ kể từ khi mức thuế chống bán phá giá được áp dụng. (3) Khả năng bị đe dọa thiệt hại vật chất khi mức thuế chống bán phá giá được bãi bỏ. Khi đánh giá khả năng thay đổi về kim ngạch nhập khẩu trong trường hợp thuế chống bán phá giá được bãi bỏ, USITC sẽ phải xem xét các yếu tố: (1) Khả năng tăng năng suất hoặc sử dụng năng lực sản xuất nhàn rỗi của nước xuất khẩu (2) Lượng hàng tồn kho của mặt hàng thuộc diện điều tra (3) Các rào cản đối với việc nhập khẩu mặt hàng thuộc diện điều tra vào các nước khác ngoài Mỹ (4) Khả năng chuyển đổi sản phẩm trong trường hợp nước xuất khẩu ngừng sản xuất mặt hàng trên Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của mức giá của hàng nhập khẩu trong trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải cân nhắc: (1) Khả năng bán rẻ hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra so với sản phẩm nội địa đồng loại. (2) Khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến sự sụt giảm giá của sản phẩm nội địa đồng loại. Khi đánh giá khả năng ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến "ngành sản xuất" của Mỹ trong trường hợp bãi bỏ thuế chống bán phá giá, USITC sẽ phải cân nhắc các yếu tố kinh tế tác động đến ngành sản xuất của Mỹ như:
  • 40. (1) Khả năng sụt giảm sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng suất,… (2) Khả năng xuất hiện các ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, lượng hàng dự trữ, nhân công, lương, khả năng huy động vốn,… Luật chống bán phá giá qui định: USITC phải xét đến tất cả các yếu tố này trong mối quan hệ với chu kỳ sản xuất và đặc điểm cạnh tranh của ngành. Trên đây là một vài nét về các qui định xử lý hành vi bán phá giá của Mỹ. Để xem xét xem thực tế áp dụng các qui định này như thế nào, chúng ta sẽ nghiên cứu trong Chương II.
  • 41. CHƯƠNG II THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ 1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ Trong vòng 50 năm qua , Hoa Kỳ đã liên kết các quốc gia trên thế giới lại với nhau thông qua các hiệp định tự do hoá thương mại với mục đích giảm bớt các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đồng thời với việc nghiêm cấm các hình thức phân biệt đối xử trong thương mại, các hiệp định này cũng thừa nhận luật chống bán phá giá như một công cụ cho phép ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại gây tổn hại cho nền kinh tế của một quốc gia. Do kết quả của việc giảm dần các hàng rào thương mại, thuế chống bán phá giá đã nhanh chóng trở thành một công cụ đắc lực được các nhà sản xuất Mỹ tận dụng để giảm bớt áp lực từ hàng hoá nhập khẩu. Các vụ kiện bán phá giá đã tăng lên rất nhanh và xuất hiện ở tất cả các mặt hàng từ các sản phẩm nông nghiệp như hoa, hải sản, mật ong tới các sản phẩm vật liệu như thép, và thậm chí là cả các sản phẩm công nghệ cao như máy tính và chip bán dẫn. Sức mạnh của luật chống bán phá giá nằm ở chỗ : Chính quyền Mỹ có thể áp dụng một mức thuế lên đến trên 400%. Trong nhiều trường hợp, mức thuế có thể đủ cao để đẩy các công ty nước ngoài ra khỏi thị trường Mỹ. Ngoài ra, mức thuế chống bán phá giá còn có thể kéo dài tới 20 năm, tạo thành một hàng rào “bền vững” đối với một sản phẩm được nhập khẩu từ một nước nhất định. Xét một cách công bằng thì luật chống bán phá giá chỉ có được sức mạnh kể từ khi Luật Thương mại 1979 ra đời. Luật Thương mại 1979 đã tạo ra một số thay đổi trong Luật chống bán phá giá 1921, hay còn gọi là Chương VII Luật Thuế quan 1930. Những thay đổi này có hiệu lực từ ngày 1/1/1980. Một trong số những thay đổi đó là sự chuyển đổi thẩm quyền từ Cục Ngân khố Mỹ sang Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ ( USITC). Như vậy, sức mạnh hiện nay của Luật chống bán phá giá chỉ có được
  • 42. từ ngày 1/1/1980. Đây là lý do để chúng ta xem xét và tổng kết các vụ kiện bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001. 1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001 Trong giai đoạn 1980-2001, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã nhận được 988 vụ kiện bán phá giá với tổng trị giá hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra là 58 tỉ USD. Biểu đồ 1. Thống kê các vụ kiện Bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001 100 92 89 90 82 80 70 65 63 65 59 58 60 50 50 36 38 36 35 40 34 34 29 33 30 21 18 23 20 15 13 10 0 1980 1982 1984 1986 1988 1990 1992 1994 1996 1998 2000 *Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC Trong số 988 vụ kiện này, bên nguyên đơn tức là các nhà sản xuất Mỹ đã giành thắng lợi được 42%( 42% số vụ kiện kết thúc bằng việc DOC đưa ra một mức thuế chống bán phá giá); 38% số vụ kiện nhận được phán quyết của USITC là: không gây thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ; 20% còn lại là do DOC hoãn điều tra hoặc không tìm thấy hành vi bán phá giá. Nếu tính theo giá trị hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra thì các con số tương ứng là 54%; 32.5%; 13.5% (tức là có 54% giá trị hàng nhập khẩu thuộc diện điều tra phải chịu thuế chống bán phá giá). Cụ thể, trong giai đoạn từ năm 1980 đến 1990, các nhà sản xuất Mỹ đã đệ trình khoảng 500 đơn kiện lên DOC và USITC. Một nửa trong số này
  • 43. đã nhận được một mức thuế chống bán phá giá. Mức thuế trung bình trong giai đoạn này là vào khoảng 30 đến 40%. Theo các số liệu thống kê, sự suy giảm trong khả năng tận dụng năng lực sản xuất đi kèm với việc tăng lượng hàng nhập khẩu là nguyên nhân chính dẫn đến việc ngày càng có nhiều vụ kiện nhận được một mức thuế chống bán phá giá. Bảng 1. Kết quả của các vụ kiện bán phá giá vào thị trường Mỹ Giai đoạn 1980-2001 Kết quả của DOC áp dụng USITC phán quyết DOC hoãn điều tra các vụ kiện thuế chống : Không gây thiệt hoặc không phát hiện bán phá giá bán phá giá hại vật chất ra hành vi bán phá qua các năm (vụ) (vụ) giá (vụ) 1980 9 15 10 1981 4 5 6 1982 12 25 28 1983 12 14 8 1984 16 13 29 1985 26 20 36 1986 37 14 12 1987 17 15 4 1988 21 14 3 1989 17 9 3 1990 15 4 2 1991 19 40 6 1992 38 47 4 1993 11 9 16 1994 29 26 4 1995 9 6 3 1996 9 2 2 1997 14 7 2 1998 22 11 0 1999 20 24 6 2000 18 15 2 2001 40 43 9 *Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC
  • 44. Trong thập niên 90 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới, “ chống bán phá giá bằng việc áp dụng thuế” vẫn là một cách bảo hộ được các nhà sản xuất Mỹ ưa thích. Ví dụ như riêng trong năm 1992 đã có 89 vụ kiện bán phá giá. Và tính cho đến năm 2001, đã có đến 550 mức thuế chống bán phá giá được thực thi. Biểu đồ 2. Kết quả xử lý các vụ kiện trong Giai đoạn 1980-2001 20% 42% 38% DOC ¸p dông thuÕ chèng b¸n ph¸ gi¸ USITC ph¸n quyÕt : Kh«ng g©y thiÖt h¹i vËt chÊt DOC ho·n ®iÒu tra hoÆc kh«ng ph¸t hiÖn ra hμnh vi b¸n ph¸ gi¸ *Nguồn : Hướng dẫn về các quy định chống bán phá giá Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ-USITC Một đặc điểm khác đó là xu hướng ngày càng tăng của tỉ lệ bán phá giá (dumping margins) mà DOC phát hiện ra. Xu hướng tăng này là khá ổn định với tỉ lệ tăng trung bình là 2.5%/năm, đưa tỉ lệ bán phá giá bình quân từ mức 15.5% trong những năm đầu của thập niên 80 lên mức 63% tính đến năm 2001. Tuy nhiên, tỉ lệ tăng trong 10 năm đầu là cao hơn so với 10 năm tiếp theo, dù vậy xu hướng tăng lên vẫn là xu hướng chính có thể thấy trong giai đoạn này. Biểu đồ 4 biểu diễn tỉ lệ các vụ kiện nhận được phán quyết “gây thiệt hại vật chất” của USITC. Cũng tương tự như trong biểu đồ 3, ta có thể thấy một xu hướng tăng lên của số lượng phán quyết “gây thiệt hại vật chất”, tức là tỉ lệ các
  • 45. phán quyết “gây thiệt hại vật chất” so với số lượng các vụ kiện ngày càng cao, từ mức 45% vào đầu những năm 80 tăng lên đến mức 62% tính đến năm 2001. Biểu đồ 3.Xu hướng của “tỉ lệ bán phá giá”(dumping margins) Giai đoạn 1980-2001 70 % 60 50 40 30 20 10 0 1980 1982 1984 1986 1988 1990 1992 1994 1996 1998 2000 *Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ Bruce A. Blonigen - 4/2003
  • 46. Biểu đồ 4. Tỉ lệ các phán quyết “Có thiệt hại vật chất” Giai đoạn 1980-2001 70 % 60 50 40 30 20 10 0 1980 1982 1984 1986 1988 1990 1992 1994 1996 1998 2000 *Nguồn : Xu hướng phất triển của luật chống bán phá giá Mỹ Bruce A. Blonigen - 4/2003 Kết hợp hai xu hướng này lại cho thấy một xu hướng tăng lên của mức thuế chống bán phá giá (tỉ lệ bán phá giá nhân với tỉ lệ phán quyết “gây thiệt hại vật chất”), từ mức 5% lên 30% cho mỗi công ty bị kiện bán phá giá. Có một số lý do có thể giải thích cho xu hướng này. Thứ nhất, những thay đổi về mặt pháp lý đã làm thay đổi đáng kể những quy định mà Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC) phải tuân thủ trong quá trình đưa ra phán quyết của mình. Thứ hai, cơ cấu các công ty và các sản phẩm thuộc diện điều tra thay đổi theo chiều hướng liên quan đến các hành vi bán phá giá nhiều hơn. Cuối cùng, đó là sự tuỳ ý của các cơ quan pháp luật Mỹ trong việc sử dụng các phương pháp có khả năng phát hiện ra hành vi bán phá giá cao hơn. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu phát hành vào tháng 4/2003 của Bruce A. Blonigen thuộc trường Đại học Tổng hợp Oregon và Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER), xu hướng tăng lên của mức bán phá giá cơ bản là do sự linh động ngày càng cao trong cách xác định mức bán phá giá của DOC. Điều này
  • 47. có nghĩa là sự tăng lên của mức bán phá giá chủ yếu là do tác động của nguyên nhân thứ ba, còn tác động của hai nguyên nhân đầu là rất ít hoặc không đáng kể. Cụ thể, việc DOC sử dụng phương pháp “Dữ liệu sẵn có”, thẩm tra chi phí sản xuất và việc sử dụng dữ liệu về chi phí để xây dựng giá trị thông thường bị quy là nguyên nhân chính làm tăng đáng kể mức bán phá giá. Một điểm quan trọng là xu hướng tăng lên của mức bán phá giá không chỉ do việc DOC ngày càng áp dụng biện pháp trên nhiều hơn (phát triển theo chiều rộng), mà còn do sự thay đổi trong việc áp dụng các biện pháp này. Điều này có nghĩa là sự thay đổi trên dẫn đến kết quả : ngày càng tìm thấy mức bán phá giá cao hơn (phát triển theo chiều sâu). Trong khi việc thực hiện Hiệp định đạt được tại vòng đàm phán Uruguay 1995 (cụ thể là Hiệp định chống bán phá giá) đã làm mức bán phá giá trung bình mà DOC phát hiện được giảm 20%, thì sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu nói trên đã giúp bù lại những ảnh hưởng của Vòng đàm phán Uruguay tính cho đến năm 2001. Một khía cạnh khác cũng cần xét đến là các mục tiêu của luật chống bán phá giá Mỹ. Về cơ bản, có bốn đặc điểm để hình thành một mục tiêu của luật chống bán phá giá. Thứ nhất, đó là các công ty xuất khẩu có mức giá quá cạnh tranh bởi đơn giản giá cả chính là nguyên nhân để kiện bán phá giá. Hơn nữa, chính mức giá là yếu tố tạo nên sự cạnh tranh giữa nhà xuất khẩu và nhà sản xuất nội địa Mỹ. Mức giá càng cạnh tranh thì động lực để các nhà sản xuất Mỹ đệ đơn kiện bán phá giá càng cao. Thứ hai, đó là các công ty xuất khẩu chiếm một thị phần đáng kể trên thị trường Mỹ. Sở dĩ có đặc điểm này là bởi lẽ, chỉ có các công ty chiếm thị phần lớn mới tạo đủ sự đe doạ đối với khả năng sinh lời của các đối thủ nội địa Mỹ. Thứ ba, thị phần của các công ty xuất khẩu này là khá ổn định bởi nếu không các đối thủ Mỹ sẽ dễ dàng chiếm được thị phần mà không cần viện đến luật chống bán phá giá. Và cuối cùng, thị trường Mỹ là thị trường chủ chốt, nếu không muốn nói là thị trường duy nhất, của các công ty xuất khẩu trên (Tuy nhiên, trên thực tế, không phải chỉ có các công ty có cả bốn