SlideShare a Scribd company logo
1 of 177
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 31) 
Pháp Sư Tịnh Không 
“Hoại chư dục trạm” 
. “Trạm” là thí dụ. Trước thành thị có tường thành, bên ngoài thành có hào giữ 
thành, hào gọi là trạm. Phật ở chỗ này đem phiền não thí dụ cho thành, đem dục 
vọng thí dụ cho hào giữ thành. Tất cả chúng sanh ở thế gian đều có dục vọng, 
cụ thể “ngũ dục” gồm năm loại dục vọng mãnh liệt: “tài, sắc, danh, thực, thùy”; 
“lục dục” gồm “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” còn gọi là lục trần. Những thứ 
này phải viễn ly, phải xả bỏ, hạ dục vọng của đời sống xuống mức thấp nhất thì 
đời sống của bạn liền được đại tự tại, ngay đời này chân thật hạnh phúc mỹ 
mãn. Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu được. Phật và học trò của ngài cũng làm được 
điều này, nên họ trải qua đời sống thong dong tự tại. Dưới mỗi gốc cây chỉ ngủ 
một đêm, nửa ngày ăn một bữa, không có gánh nặng nào. 
Trong khi người thế gian mê hoặc điên đảo, tham đắm năm dục sáu trần, nghĩ 
hết cách phải thành gia lập nghiệp, tại dựng cái nhà. Nhà là gì? Các vị xem thử 
kiểu dáng “nhà”, văn tự Trung Quốc, giống như chữ “hào”. Có một căn phòng 
nhỏ, trong phòng là chú heo nhỏ, đó chính là chữ nhà. Phật đầy đủ trí tuệ nên 
không làm việc này. “Nghiệp” là gì? là nghiệp chướng. Bạn còn phải lập nghiệp, 
chướng ngại “minh tâm kiến tánh”, chướng ngại thoát sanh tử, ra ba cõi. Gia 
nghiệp trói buộc, người giác ngộ phải biết xả bỏ nó. Vậy ngày nay, người xuất 
gia chúng ta có thật xuất gia hay không? Không. Họ ra khỏi nhà nhỏ, liền xây 
nhà to; xả bỏ nghiệp nhỏ, làm một đại nghiệp, khổ nói không ra lời. Cho nên phải 
tỉ mỉ tư duy, nghĩ xem khi còn ở đời, Phật đã dạy chúng ta như thế nào, tổ sư đại 
đức xưa nay dạy bảo chúng ta như thế nào. 
Khi Thế Tôn còn tại thế, không có đạo tràng. Tuy lúc tuổi già, một số quốc vương 
đại thần cúng dường tịnh xá, vườn rừng, thỉnh Phật ở đó giảng kinh nói pháp, đó 
chỉ là thỉnh Phật tạm trú, không hề tặng Phật Thích Ca Mâu Ni. Vườn rừng đạo 
tràng vẫn là của chính các tín đồ, họ vẫn có quyền sở hữu. Phật Thích Ca Mâu 
Ni cùng các đệ tử này chỉ có quyền sử dụng, chứ không có quyền sở hữu. Cũng 
như chúng ta ở nhà nghỉ vậy, chỉ đến ở vài ngày, nhưng ông chủ mới là người 
có quyền sở hữu. Lão hòa thượng tiền bối cũng từng nói, căn phòng này khi 
mưa xuống bị dột, người xuất gia thấy dột thì dọn qua nơi không dột. Bị dột nữa 
thì đi nơi khác. Sửa sang phòng ốc là việc của người chủ. Người tạm nghỉ không 
lo việc này. Loại cúng dường đó công đức chân thật. 
Ngày nay, một số tín đồ mua nhà cửa, cúng dường quyền sở hữu cho pháp sư. 
Pháp sư liền bước lên thòng lọng, thiệt hại càng to. Không phải bạn đang muốn 
xuất gia hay sao? Người ta kéo bạn trở lại thì bạn đã quay lại, rồi có một căn 
nhà, nhốt chết bạn, vĩnh viễn không thể thoát khỏi luân hồi. Tôi hy vọng đồng tu 
xuất gia chúng ta phải cảnh giác cao độ, quyết không để bị thiệt. 
Nếu như bạn muốn hỏi, “không có bất cứ thứ gì vẫn có thể thân tâm an ổn làm 
đạo sao?”. Cả đời tôi làm tấm gương cho các vị, cả đời tôi không có đạo tràng,
đều ở đạo tràng của người khác. Cả đời này chẳng phải tự tại, an vui hay sao? 
Không có gia nghiệp càng tự tại, càng an vui. Nếu không có người quan tâm đến 
tôi, không thỉnh tôi giảng kinh, không có nơi để ở, thì tôi càng an vui không gì 
bằng. Tôi có thể lập tức đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được A Di Đà Phật 
tiếp dẫn. Vì các vị vẫn cúng dường, tìm tôi giảng kinh, nên tôi không còn cách 
nào khác, phải ở thêm vài ngày vậy, đó là sự thật. Dục vọng giảm xuống mức 
thấp nhất. Hiện tại tôi gần như không có dục vọng. Hoằng pháp lợi sanh là việc 
của các vị, không liên quan đến tôi. Tôi ở đây giảng kinh, các vị muốn lưu thành 
băng đĩa để truyền bá khắp nơi, lợi ích chúng sanh, đó là việc của các vị, không 
liên quan đến tôi. Từ trước giờ tôi không nghe không hỏi, đó không phải là việc 
của tôi. Ai thích làm gì thì làm. Tôi cũng không có bản quyền, không gởi quan 
cáo các vị về tác quyền. 
Chúng ta phải học người thông minh, phải biết những thứ này không là việc tốt, 
quyết không có chướng ngại, xả bỏ tất cả mới có thể được đại tự tại. Mấy ngày 
nay, một số đồng tu nói với tôi, họ nghe tôi giảng kinh thuyết pháp, đem nhà và 
gia nghiệp thảy đều buông bỏ để đến học Phật. Sự nghiệp vừa buông bỏ, không 
làm việc, không thu nhập, qua vài ngày đời sống trở thành vấn đề. Cả nhà kêu 
khổ, thân thích bạn bè xem thấy cho rằng người học Phật này bị ma ám, mê 
muội. Nghe xong, tôi thấy họ đã hiểu sai ý nghĩa lời tôi nói. Tôi không dạy như 
vậy. Kinh nói “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, thực tế không dễ dàng. Ý 
nghĩa lời tôi nói bạn còn hiểu sai thì làm sao có thể hiểu được ý của Như Lai? 
Trong kinh Phật dạy chúng ta buông bỏ là buông bỏ phiền não, buông bỏ dục 
vọng. Không bảo bạn buông bỏ công việc. Kinh luận đại thừa tiểu thừa, không có 
bài kinh nào Phật bảo bạn buông bỏ công việc. Nếu Phật bảo buông bỏ hết công 
việc thì công tác giảng kinh nói pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng buông bỏ. 
Chúng ta sẽ không có kinh nghe, thế gian không có Phật pháp. Việc không hề 
chướng ngại trên kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. 
Ngại là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chính là nói phiền não, dục 
vọng. Cho nên, chướng ngại trên tâm lý phải buông bỏ. Trên sự không có 
chướng ngại. Không chỉ Phật không dạy buông bỏ công việc mà Phật còn dạy 
bạn làm việc chăm chỉ nỗ lực hơn người. Bạn muốn làm tốt hơn người khác, 
phải trở thành tấm gương để người khác soi theo. 
Sau cùng trong kinh Hoa Nghiêm nói đến năm mươi ba đồng tham, chẳng phải 
là thí dụ hay sao. Năm mươi ba vị đó không phải là Bồ tát mà là năm mươi ba vị 
Phật. Họ dùng thân đại sĩ để xuất hiện. Họ nội chứng, vẫn là thị hiện, không phải 
thật, đều là chư Phật Như Lai. Trên dấu vết có nam nữ già trẻ, các ngành nghề. 
Nhưng từ một nghề nghiệp nào đó, họ làm ra tấm gương tốt nhất. Cho nên Bồ 
Tát đạo tu ở đâu? chính ngay cuộc sống thường ngày của mình. Không hề rời 
khỏi đời sống. Nếu bạn nói, nhất định phải phát tâm, phải học Phật, phải tu hành 
chứng quả, phải xả bỏ việc nhà, thì nhất định phải xuất gia, nhưng xuất gia có 
thể thành Phật hay không? Xuất gia nếu không gặp duyên tốt, tạo tội nghiệp 
càng sâu, đọa a tỳ địa ngục càng nhanh, càng thê thảm. Chúng ta ở năm mươi 
ba vị đồng tham xem thấy, năm mươi ba vị Phật chính ngay trong đời sống của 
họ, trong nghề nghiệp của họ, mỗi mỗi đều thành tựu. Chúng ta phải giác ngộ. 
Những người đó đoạn tham sân si trong cuộc sống, xả bỏ dục vọng, thành tựu
vô lượng pháp môn, thành tựu vô thượng Phật đạo, đó gọi là học Phật. Tuyệt 
nhiên không xả bỏ đi sự nghiệp của mình. 
Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện người xuất gia, một nghề nghiệp tu hành chứng 
quả có thể thành Phật. Cư sĩ Duy Ma cùng Thích Ca Mâu Ni Phật trong một thời 
đại, thị hiện tại gia thành Phật, có gia nghiệp, có vợ con, dù tại gia nhưng cũng 
thành tựu cứu cánh viên mãn quả Phật như nhau. Cho nên các vị phải biết, xuất 
gia là một hạnh trong ba trăm sáu mươi hạnh. Hạnh nghiệp này là giáo dục xã 
hội, một tính chất nghĩa vụ. Bạn có hứng thú đối với việc này thì có thể chọn lựa. 
Hạnh nghiệp này là hoàn toàn dốc hết nghĩa vụ, quyết không ham muốn báo 
đáp. Không nhận báo đáp, bạn mới thanh tịnh. 
Nếu bạn tự làm rất nhiều việc từ thiện xã hội thì hà tất phải làm người xuất gia 
cho phiền. Bạn có tiền có thế lực thì cứ làm. Còn cúng dường pháp sư và yêu 
cầu pháp sư làm từ thiện giúp, như thế chẳng phải phiền người khác hay sao. 
Thích Ca Mâu Ni Phật không bao giờ làm. Trong hàng đệ tử của Ngài có biết 
bao quốc vương đại thần, nhưng Ngài không bao giờ tiếp nhận cúng dường hay 
lời thỉnh mời làm giúp những việc từ thiện. Phật chỉ dạy cách làm và bạn phải tự 
làm. Phật không làm thay việc này cho bạn. 
Hiện tại người xuất gia phá giới phạm quy củ cũng vì tiếp nhận cúng dường của 
người tại gia, làm việc cho người tại gia. Nếu thông minh có trí tuệ, chúng ta 
không làm việc ngốc này. Hãy để họ tự làm, chúng ta mới có thể viên mãn tròn 
đầy bổn phận của mình. Không ít người đi khắp nơi cúng dường tăng, trở thành 
một phong tục. Nếu bạn không tiếp nhận thì bị mắng và quy kết không từ bi, 
không chịu để người gieo chút phước điền. Việc này thật bất đắc dĩ cho nên 
không cách gì. Chẳng hạn ở HongKong, tôi không thể không tiếp nhận. Sau khi 
tiếp nhận, tôi liền đưa đồng tu mang về, thảy giao cho cư sĩ Lý Mộc Nguyên làm 
Phật sự. Ở Đài Loan cũng nhận ít cúng dường. Vừa đúng lúc có pháp sư đến 
đại lục cứu tế. Tôi nghe nói đại lục nạn nước rất nghiêm trọng, nên thảy đều giao 
hết tiền cúng dường cho pháp sư đó. Tôi không hề nhìn qua bao nhiêu tiền bên 
trong. Nhiều bao đỏ mang đến lại cho đi, rất tự tại. 
Phải biết tham sân si mạn, năm dục sáu trần hại chúng ta đời đời kiếp kiếp 
không ngẩng đầu lên. Không phải chúng ta không có thiện căn, nếu không có 
thiện căn, bạn không thể ngồi đây đến hai giờ đồng hồ. Ngồi được hai giờ đồng 
hồ, chứng tỏ bạn có thiện căn, Phật duyên của bạn rất sâu, quá khứ đời đời kiếp 
kiếp thân cận chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát, tổ sư đại đức, nhưng vì sao 
bạn không thể vãng sanh, vì sao vẫn đọa vào sáu cõi sanh tử luân hồi? Vì phiền 
não của bạn chưa đoạn, dục vọng chưa xả hết, bạn thường hay nghĩ đến việc 
này, càng nghĩ càng đáng sợ, càng nghĩ càng thấy nghiêm trọng. Trong đời này 
chúng ta gặp Phật pháp, được cơ duyên thù thắng, thuận lợi vãng sanh, nhưng 
còn phải xem bạn có chịu đem phiền não dục vọng hạ xuống mức thấp nhất hay 
không. Xả bỏ và hạ thấp thì ngay đời này liền thành tựu. Nếu đời này vẫn bị tập 
khí lôi kéo, vẫn không buông bỏ, hay nói cách khác, đời này cũng giống y đời 
trước, chỉ kết được thiện duyên với Phật A Di Đà thì không thể đi được. Bạn lại 
uổng qua một đời nữa, nghĩ xem có đáng tiếc không. Kinh văn mở ra câu thứ 
nhất liền nói đến phiền não dục vọng, thế mới biết tính nghiêm trọng của nó. Vô 
lượng kiếp đến nay chúng ta đã bị hại thê thảm, vậy mà vẫn chưa chịu giác ngộ 
hay sao?
“Tẩy trạc cấu uế” 
“Cấu” là phiền não chướng, “uế” là sở tri chướng, là vô minh, những thứ chúng 
ta phải kỳ rửa cho thật tinh sạch. Câu kinh này từ trên thí dụ mà nói, vậy phải 
dùng phương pháp gì để tẩy rửa? Lý luận trong kinh điển đại tiểu thừa cho 
chúng ta nhiều phương pháp phương tiện khéo léo tẩy rửa sở tri chướng và 
phiền não chướng. Tịnh tông Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta “gom nhiếp sáu 
căn, tịnh niệm tương tục”, đó là phương pháp tốt, nhưng làm thế nào để gom 
nhiếp sáu căn? “Nhiếp” là thâu nhiếp. Phật dạy như vậy, thánh nhân thế gian 
cũng dạy chúng ta như vậy. Các vị đọc Tứ Thư, Mạnh tử đã nói ra ý này, “Học 
vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ”. “Cầu kỳ phóng tâm” chính là “gom 
nhiếp sáu căn”. Tâm phàm phu chúng ta tùy theo sáu căn mà chạy rong bên 
ngoài, phan duyên sáu trần, nhãn duyên sắc, tai duyên tiếng, tâm hướng ra 
ngoài. Những thánh hiền thế xuất thế gian dạy bảo chúng ta phải gom nhiếp tâm 
đó lại. Mắt không duyên sắc trần, tai không duyên thinh trần, đó chính là học 
vấn, là công phu. 
Xã hội hiện đại rất phức tạp. Kinh Lăng Nghiêm nói “tà sư thuyết pháp như cát 
sông Hằng”, Phật không quá đáng chút nào. Phàm hễ mê hoặc bạn thì đều là tà 
sư. Truyền hình đang dạy bạn, ca vũ đang dạy bạn, sáu căn của bạn tiếp xúc với 
cảnh giới đều đang dạy bạn tạo mười ác nghiệp, tăng thêm tham sân si mạn, 
mục đích kéo bạn vào a tỳ địa ngục, không dễ gì thoát khỏi. Bồ Tát Địa Tạng ở 
nơi đó khổ cực lắm mới kéo bạn từ địa ngục đi ra. Kéo ra chưa được mấy ngày, 
những ma vương bên ngoài thấy bạn lại tạo nhiều sự mê hoặc. Bạn vừa nắm lấy 
thì lập tức trở vào. Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh đã nói, Bồ tát Địa Tạng 
thấy bạn vừa ra khỏi, rồi đánh một vòng lại trở vào, “chúng sanh Diêm Phù Đề, 
cang cường nan hoá”. Do đó chúng ta phải ghi nhớ lời của Phật Bồ Tát, không 
nên rơi vào thòng lọng yêu ma quỷ quái. Phải hiểu được gom nhiếp sáu căn. 
Phàm hễ tà ác, tà thì không chánh, ác thì không thiện, nhất định phải biết nguyên 
lý. Người chân thật tu hành không nên xem truyền hình. Truyền hình thời đại 
hiện nay là dấu hiệu của ma vương. Bạn qua lại với nó thì phiền não sẽ to. Vô số 
chúng sanh trên thế giới này từ nhỏ đã kết giao mật thiết với nó, một ngày không 
rời khỏi. Chúng ta phải cảnh giác cao độ. Không chỉ đó là ma vương, tương lai e 
rằng càng hung hơn, tà ác hơn. Đường truyền internet không cách gì phòng bị. 
Nội dung trong đó quá tà ác. Internet là một công cụ rất tốt để ma vương lợi 
dụng. Chúng ta là đệ tử Phật, phải phát tâm dùng công cụ này tuyên dương 
chánh pháp. Trong số người thế gian, người có thiện căn vẫn rất nhiều, họ sẽ 
giác ngộ, quay đầu. 
Lần trước tôi đến HongKong, lão pháp sư Giác Quang gọi điện cho tôi. Ông vừa 
từ Seattle Hoa Kỳ trở về. Ông ấy có hai đạo tràng ở Seattle, nên mỗi năm phải đi 
về hai lần, mỗi lần mười mấy ngày. Ông bảo, ở Seattle ngày ngày ông đều nghe 
tôi giảng kinh. Tôi lấy làm lạ, làm sao tôi có thể giảng kinh ở Seattle? Thì ra trên 
truyền hình. Mỗi ngày ở Hoa Kỳ có thời gian một giờ đồng hồ phát sóng băng đĩa 
giảng. Ông xem thấy rất hoan hỉ, gọi điện nói với tôi. Ông nói từ trước đó, trên 
truyền hình cũng có một số tà sư nói pháp, mê hoặc người. Sau khi phát tiết mục 
này của tôi, những tiết mục đó liền rất ít, người xem cũng giảm. Ông báo tin cho 
tôi, rồi mời tôi ăn cơm.
Cho nên, chúng ta phải cố gắng lợi dụng công cụ khoa học kỹ thuật. Ngạn ngữ 
thường nói “không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng đụng hàng”. Chúng ta dùng 
hàng thật, hàng tốt để tạo sự so sánh. Một số người có thiện căn tự biết chọn 
lựa. Do đó chúng ta phải xem trọng khoa học kỹ thuật, phải khéo lợi dụng nó mà 
đem chánh pháp của Phật, pháp thuần thiện của Phật truyền bá khắp thế giới. 
Mọi người đều biết kiếp nạn tai biến triền miên, vậy có thể hoá giải được không? 
Trên lý luận khẳng định có thể hoá giải. Kiếp nạn hình thành do tri kiến tà ác, 
hành vi tà ác, chúng sanh nghiệp lực trói buộc, ác nghiệp chiêu cảm. Hiện tại có 
rất nhiều người không tin điều này. Họ không tiếp nhận, nhưng những điều này 
đều là sự thật. Phật thường nói “mười pháp giới y chánh trang nghiêm, duy tâm 
sở hiện duy thức sở biến”, đó là nói rõ nguồn gốc của vũ trụ nhân sanh, do vậy 
mà đến. Lại nói với chúng ta “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, hữu tình có tưởng 
liền biến thành hữu tình thế gian, vô tình vô tưởng liền biến thành khí thế gian. 
Hữu tình thế gian cùng khí thế gian đồng một căn nguyên. Người học qua pháp 
tướng duy thức đều biết. Bốn phần của a lại da, hữu tình hữu tưởng kiến phần, 
vô tình vô tưởng tướng phần. Kiến phần tướng phần cùng đồng một tự chứng 
phần. Nếu chúng ta có thể đoạn tất cả tà ác, nỗ lực tu thiện thì nghiệp thiện thêm 
lớn, hoàn cảnh y báo liền chuyển, tai nạn tự nhiên cũng có thể tiêu trừ, hoặc 
chuyển biến, chân thật là “y báo tùy theo chánh báo chuyển”. 
Tóm lại, người chân thật hiểu dụng công, biết dụng công thì không gì khác hơn 
“gom nhiếp sáu căn”. Người niệm Phật so với phương pháp Bồ Tát Đại Thế Chí 
đã nói còn phải đơn giản hơn, có hiệu quả hơn. Dùng phương pháp một danh 
hiệu Phật gom nhiếp sáu căn, “nhất thanh Phật hiệu, nhất thanh tâm”, “nhất 
niệm tương ưng, nhất niệm Phật”. Ngay trong một niệm không có tà ác thì tương 
ưng; không có tà tư, không có ác niệm thì tương ưng. Niệm Phật vẫn khởi vọng 
tưởng, vẫn còn tham sân si mạn, vẫn có phải quấy nhân ngã, thì không tương 
ưng. Nói chung, những tri kiến thế tục này thảy đều không còn, tâm địa thanh 
tịnh mới tương ưng. 
“Hiển minh thanh bạch” 
“Thanh bạch” là thí dụ chân tâm bổn tánh, tự tánh. Loại bỏ hai chướng ngại, 
phiền não chướng và sở tri chướng thì tự tánh thanh bạch liền hiển lộ. Ngày nay 
tự tánh thanh bạch của chúng ta bị hai loại chướng này chướng ngại nên không 
thể hiển lộ. Như Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói “Bất dã phương tiện, tự đắc tâm 
khai”. 
“Hiển minh” chính là tự đắc tâm khai. Tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh”. Bốn 
chúng đồng tu chúng ta ngay đời này phải lấy đây làm mục tiêu. Tất cả cái khác 
đều giả, cái này là thật, tịnh tông gọi là “Nhất tâm bất loạn”. Bạn niệm Phật đến 
nhất tâm thì thành tựu của bạn là chân thật. 
Buổi tối hôm qua, một học sinh đến hỏi tôi, làm thế nào để học giảng kinh? Tôi 
hỏi anh ấy năm nay bao nhiêu tuổi? Anh trả lời hai mươi tám tuổi. Tôi bảo anh 
hãy chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ trong mười năm, đến ba mươi tám tuổi. 
Trong mười năm, không nên can dự đến các kinh điển khác, chỉ chuyên một 
môn. Khi một môn thâm nhập tâm của bạn liền định. Một bộ kinh được giảng 
trên dưới mười năm thì mỗi năm chí ít cũng phải giảng hai lần. Hy vọng trong 
mười năm, bộ kinh này được giảng từ đầu đến cuối ba mươi lần, thậm chí năm 
mươi lần càng tốt. Sau mười năm, chắc chắn bạn sẽ trở thành giảng sư hay
nhất thế giới, là chuyên gia của kinh Vô Lượng Thọ. Bạn chính là Vô Lượng Thọ 
Phật sống, Vô Lượng Thọ Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ. Bạn liền có thể hóa 
độ tất cả chúng sanh thế giới. 
Còn nếu bạn muốn học cùng lúc hai ba bộ kinh thì sức mạnh của bạn sẽ bị phân 
tán, không thể thành tựu. Bạn có học mười bộ kinh thì bạn cũng chỉ là một nhà 
Phật học, không liên quan gì đến việc thoát sanh tử vượt ba cõi. Tương lai bạn 
chết như thế nào vẫn phải chết như thế đó, đáng luân hồi như thế nào vẫn phải 
luân hồi như thế đó. Bạn phải hiểu đạo lý và chân tướng sự thật này. 
Bạn cũng không nên học tôi. Hôm nay tôi giảng nơi đây, ngày mai tôi lại giảng 
Hoa Nghiêm, giảng cái này, cái kia. Nếu bạn học tôi thì thật đáng lo. Vì tôi bị ép 
không còn cách lựa chọn. Nếu có người giảng Hoa Nghiêm, tôi sẽ tuyệt đối 
không giảng Hoa Nghiêm nữa mà một đời chỉ chuyên giảng một bộ kinh. Nhưng 
sở dĩ tôi phải giảng nhiều như vậy vì không có người giảng. Tôi không còn cách 
nào nên mới làm vậy. Rất nhiều người nói, “Pháp sư à! Lưu lại bộ băng đĩa này 
đi, đây là một công trình thật to lớn”. Thế nhưng tôi hy sinh có mức độ khi một 
đời giảng nhiều bộ kinh. Hạ hạ phẩm vãng sanh là mức thấp nhất, tôi biết mình 
có thể vãng sanh ít nhất là bậc hạ hạ phẩm. Còn nếu hạ hạ phẩm vãng sanh bạn 
cũng không thể nắm chắc thì việc giảng nhiều bộ kinh nhất định không nên làm. 
Hãy nghe lời tôi khuyên, ngay trong một đời này chuyên giảng một bộ kinh, 
tương lai các vị vãng sanh sẽ là thượng thượng phẩm. Đến thế giới Tây Phương 
Cực Lạc, phẩm vị của bạn sẽ cao hơn tôi nhiều. 
Năm xưa Đại sư Trí Giả ở đời cũng đã hi sinh rất lớn. Khi ngài sắp vãng sanh cõi 
phàm thánh đồng cư, học trò hỏi phẩm vị vãng sanh của ngài. Ngài nói: “nếu tôi 
không độ chúng, phẩm vị rất cao. Nhưng vì độ chúng, phải lo việc trụ trì, cho nên 
chỉ vãng sanh ở phẩm vị thứ năm”. Công phu của phẩm vị thứ năm không cao, 
tương đương với ngũ đình tâm vị trong tiểu thừa. Thị hiện này xả mình vì người, 
đó là việc rất khó được. Thế nhưng chính ngài phải nắm chắc mức độ thấp nhất 
để vãng sanh. Đó là từ bi chịu hi sinh chính mình. Một khi chấp nhận hi sinh, 
phẩm vị cũng không gì đáng tiếc. Còn nếu chính mình không nắm chắc được 
phần vãng sanh thì vạn nhất không nên làm. Đó là việc chính mình nhất định 
phải biết, quyết không làm trung gian. 
Bạn thông đạt các loại kinh luận, đều giảng được, tiếng tăm của bạn cao, vậy coi 
như xong. Tiếng tăm đó hại chết bạn. Bạn sẽ không bằng người chân thật cừ 
khôi, bậc đại thiện tri thức. Những người đó, bạn hỏi họ, thứ gì họ cũng không 
biết, chỉ biết một môn. Năm mươi ba tham trong Hoa Nghiêm chính là tấm 
gương như vậy. Khi Thiện Tài đến tham phỏng năm mươi ba vị thiện tri thức, họ 
ngay trong vô lượng pháp môn chỉ học một pháp môn, không học các pháp môn 
khác, chính mình khiêm tốn, tán thán người khác. Họ tự cho cái biết của mình rất 
có hạn, người khác biết nhiều hơn nên lại giới thiệu Thiện Tài Đồng Tử đến nơi 
khác tham phỏng. Chư Phật Bồ Tát đều làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta 
xem. Chúng ta phải giác ngộ. 
Ngạn ngữ Trung Quốc nói: “Chỉ cần công phu sâu, lo gì sắt không mài thành 
kim”. Chỉ cần bạn hạ công phu, làm gì không thể thành tựu vô thượng bồ đề. 
Ngay một đời này, chúng ta đích thực có thể chứng đắc, chỉ cần bạn thật chịu 
làm, chân thật buông bỏ phiền não, xả bỏ dục vọng, một lòng một dạ chuyên 
môn công phu minh tâm kiến tánh. Phải biết sau khi ngộ, tất cả thông đạt vô
ngại. Giáo học thời xưa không chỉ là Phật pháp mà còn có giáo học của nhà 
Nho. Lão sư rất xem trọng ngộ tánh của học trò. Thời kỳ kháng chiến, trường 
học chúng tôi ở Quế Châu, lão sư vẫn xem trọng ngộ tánh của học trò. Học trò 
nào ngộ tánh cao, thầy giáo đặc biệt quan tâm, chăm sóc. Họ không truyền bá tri 
thức mà dùng phương tiện khéo léo giúp bạn khai ngộ, đó mới là giáo dục chân 
thật. Còn trường học hiện tại hoàn toàn truyền thụ tri thức, không chú trọng ngộ 
tánh, sai lầm to lớn. Sau khi ngộ, bạn không chỉ thông đạt pháp xuất thế gian, 
mà pháp thế gian cũng thông đạt. 
Có người hỏi những Bồ Tát này cùng phàm phu chúng ta đồng một a lại da thức 
không? Không sai, là như nhau. Họ lại hỏi, ngay trong giống nhau vì sao lại nói 
“khứ hậu lai tiên tác chủ công”? Trong giống có không giống. Thế Tôn ở kinh 
Lăng Nghiêm đem tâm tánh thí dụ cho đại hải. A lại da thức của mỗi chúng sanh 
thí dụ cho bọt nước. Mỗi người là một bọt nước, vậy những bọt nước trong biển 
lớn giống nhau hay khác nhau. Đều từ đại hải biến hiện ra. Khi bọt nước này của 
bạn trong bể thì không giống, bởi vì phạm vi của bạn rất hẹp. Bọt nước của bạn 
sau khi ra bể mới hoàn toàn giống nhau. Cho nên quả nhiên có thể chuyển thức 
thành trí. Trí tuệ khai thì tất cả chư Phật công đức trí tuệ đã tu vô lượng kiếp đều 
biến thành chính ta. Các ngài tu biến thành của ta, vì đồng một pháp thân, đồng 
một tự tánh, đồng một a lại da thức. Tương tự, vô lượng kiếp đã tu của ta cũng 
biến thành của người khác. “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc”, đến quả địa Như 
Lai Phật Phật như nhau, không hề khác. 
Hiểu rõ đạo lý này mới biết khai ngộ rất đáng quý. Sau khi ngộ, tất cả thông đạt, 
thế xuất thế gian pháp cũng thông đạt. Từ xưa đến nay thế xuất thế gian pháp, 
bậc thiện tri thức chân thật thương yêu chúng sanh đều chủ trương dạy bảo 
“một môn thâm nhập, huân tu lâu dài”, không hề dạy nhiều và tạp. Rất nhiều rất 
tạp chính là hại bạn, làm cho bạn hướng đến con đường danh lợi, không phải 
hướng đến học vấn chân thật. Học vấn chân thật không liên quan danh vọng lợi 
dưỡng. Có học vấn chân thật sẽ không còn truy cầu danh vọng lợi dưỡng. Bên 
cạnh đó, nếu có duyên có thể nhờ danh vọng lợi dưỡng giáo hoá chúng sanh, lợi 
ích chúng sanh, quyết không ham muốn danh vọng lợi dưỡng. Phải hiểu đạo lý 
này, phương châm tu học mới có thể nắm chắc thành tựu. 
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 32) 
Pháp Sư Tịnh Không 
“ĐIỀU CHÚNG SANH, TUYÊN DIỆU LÝ, TRỮ CÔNG ĐỨC, THỊ PHƯỚC ĐIỀN, 
DĨ CHƯ PHÁP DƯỢC, CỨU LIỆU TAM KHỔ” 
Đoạn kinh văn đại ý “bi trí liệu khổ”. Kinh Phật nói tam giới đều khổ, đó là nói đến 
trời, nhân gian. Trong mấy năm gần đây, người hiện đại chúng ta cảm xúc rất 
sâu sắc cái khổ của nhân gian. Trên trời cũng vậy. Kinh Phật cho biết có hai 
mươi tám tầng trời, cũng rất khổ. Khổ vô lượng vô biên có thể được phân làm ba 
loại lớn “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. 
“Khổ khổ”, chữ khổ phía sau là danh từ, phía trước là động từ, ý nói quá nhiều 
quá rộng. Phật quy nạp thành tám loại, gọi là tám khổ, mục đích thuyết minh nói
rõ khổ khổ. Trong đó có sanh lão bệnh tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng hội, 
ngũ ấm xí thạnh. Tôi sẽ không nói tỉ mỉ vì mất nhiều thời gian. Ngoài tám khổ 
giao nhau, còn có hoại khổ, đối với tất cả sắc tướng luôn biến hoại. Khi nó tồn 
tại, chúng ta cảm thấy tốt đẹp, đến khi biến hoại liền cảm thấy rất khổ. Sau cùng 
là hành khổ. Thí dụ như người thế gian thường nói “không thể trẻ mãi”, đây 
thuộc về hành khổ. Sát na đang thay đổi, xê dịch đều thuộc về hành khổ. 
Phật nói, trong dục giới có ba loại khổ này, rất khó vượt qua. Trời sắc giới không 
có khổ khổ, vì khống chế được dục, nên gọi là “thiểu dục tri túc”. Họ có trí tuệ, 
sức định, xả bỏ được tham ái hưởng thọ trong năm dục sáu trần, do đó họ 
không có khổ khổ. Người trời sắc giới là hoá sanh, cho nên họ cũng không có 
khổ sanh lão bệnh tử. Họ đều xả bỏ năm dục “tài, sắc, danh, thực, thuỳ”. Trong 
khi đó, cõi dục giới là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh chiếm đại đa số. 
Một điều khiến chúng ta khó tưởng tượng. Chúng ta có thể xả tài, xả sắc, con 
người vẫn chưa phải chết; danh có thể không cần, nhưng ăn thì không được. Có 
người nào chịu nổi không ăn, không ngủ? Thế nhưng, các vị phải biết, người trời 
sắc giới thiền định rất sâu, “thiền duyệt vi thực”. Cái ăn dùng để nuôi thân, nhưng 
nuôi thân không cần phải có thức ăn, đó là thiền định. Thiền định cũng là trạng 
thái tỉnh táo, không hôn trầm. Họ ở trong định năm dục, nhằm chứng minh cho 
chúng ta họ đều có thể xả được. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta nên tận khả năng 
hạ thấp lòng tham sân si xuống. Như thế mới tốt cho chính mình. Không chỉ giúp 
đỡ việc tu học, giúp bạn khai trí tuệ, mà còn giúp thân thể bạn khoẻ mạnh sống 
lâu, không dễ già yếu. 
Định huệ khởi lên tác dụng nhất định. Người sức định càng sâu, họ biết thân thể 
này phiền phức, chính là sắc tướng. Người trời sắc giới có thân thể, tuy không 
khổ khổ, nhưng họ có hoại khổ. Thân hình có ngày sẽ hoại đi. Hoàn cảnh lầu các 
cung điện cũng sẽ hủy diệt. Cho nên họ có hoại khổ. Hoại khổ bắt nguồn từ đâu? 
Từ thân. Vì có sắc tướng nên mới có hoại khổ. Người thông minh biết tiến thêm 
một bước, tức không cần đến thân. Sắc tướng cũng xả bỏ, tiến vào vô sắc giới. 
Vô sắc giới đương nhiên không có hoại khổ và khổ khổ, nhưng họ có hành khổ. 
Hành khổ chính là cảnh giới tốt nhưng không thể vĩnh viễn giữ gìn. Đó là tầng 
cao nhất trong tầng trời, không gì cao hơn. Họ không giữ gìn được thì liền phải 
hướng xuống đọa lạc, đây gọi là hành khổ. 
Phật nói tam giới thảy đều khổ. Kinh Pháp Hoa hình dung ba cõi như nhà lửa. 
Bên trong đã cháy thì không nơi nào an toàn. Chúng ta nhất định phải biết, trong 
sáu cõi chỉ có khổ, không có vui. Bạn nói vui nhưng cái vui đó là cái khổ tạm thời 
đình chỉ nên bạn cảm thấy vui. Kỳ thật đó là cái thấy sai lầm của bạn. Phật thí 
dụ, con người mỗi ngày không thể ít đi ba buổi cơm. Ăn no ba bữa liền cảm thấy 
an vui. Nếu một bữa không được ăn thì thấy rất khổ. Hai bữa không được ăn sẽ 
càng khổ hơn, có thể thấy khổ là thật. Cái thân này có gì tốt, có gì vui? Đã đến 
lúc phải trị. Không trị không được. Đây là chân tướng sự thật. 
Cho nên tỉ mỉ mà nghĩ, lời Phật nói mỗi câu đều chân thật. Phật xuất hiện ở thế 
gian nhằm giáo hoá chúng sanh. Ngài vì việc này mà đến. Tám tướng thành 
đạo, tướng thứ bảy là “chuyển pháp luân tướng” chính vì sự việc này. Đối tượng 
giáo dục là tất cả chúng sanh sáu cõi, mở rộng hơn nữa là chúng sanh chín 
pháp giới. Đoạn này nói lên nguyên tắc giáo học của ngài “điều chúng sanh, 
tuyên diệu lý”.
“Điều chúng sanh, tuyên diệu lý” 
“Chúng sanh” ở đây là tất cả chúng sanh hữu tình, thuộc về động vật có cảm 
tình. Then chốt là chữ “điều”. Chúng sanh thân tâm không thể điều hòa. Bốn đại 
không hoà, trên sinh lý bạn liền đau bệnh. Tâm lý không hòa, bạn liền ưu tư 
phiền não. Cho nên nguyên tắc giáo học của Phật giúp chúng sanh cách điều 
tâm, điều thân. Tiêu chuẩn của điều là pháp tắc tự nhiên. Nếu thuận theo pháp 
tắc tự nhiên, thân tâm liền khoẻ mạnh. Pháp tắc của tự nhiên trong kinh Phật gọi 
là pháp tánh, Phật tánh tương ưng với thể tánh, đó gọi là điều thuận. Trái với thể 
tánh thì tất cả chúng sanh mê mất đi tự tánh. Cái tâm này là tư tưởng kiến giải 
của bạn, hoàn toàn trái với pháp tắc của tự nhiên nên chiêu cảm đến tất cả khổ 
nạn và những việc không vừa ý. 
Pháp tắc tự nhiên là gì? Kinh luận Phật nói rất nhiều, mọi người đều biết, thế 
nhưng thân tâm bạn vẫn cứ trái ngược với pháp tắc nên bạn không được thọ 
dụng của Phật pháp. Còn tương ưng với pháp tắc thì bạn liền được đại tự tại, 
liền có thọ dụng chân thật, hạnh phúc viên mãn. Pháp tắc này nói với chúng ta 
“tướng có thể không”. Nhà Phật nói “tướng có tánh không”. Tánh chính là thể. 
“Có” không phải thật có. Bát Nhã Tâm Kinh mọi người ngày ngày đều đọc, “có” 
gọi là diệu hữu, “không” gọi là chân không. “Diệu hữu phi hữu, chân không bất 
không”, cho nên trước chữ “không” thêm một chữ “chân”. Chân không ý nói tâm 
tánh của chúng ta. Tâm tánh biến hiện ra tướng, những tướng này gọi là diệu 
hữu. Sum la vạn tượng, bao gồm chính thân thể của chúng ta, bao gồm tất cả 
vạn tượng; cái vạn tượng này không thật. 
Kinh Kim Cang nói “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Hư vọng không thể nói 
không có tướng. Tướng là hư vọng vì tướng không thể tồn tại vĩnh hằng. Không 
chỉ tướng của mười pháp giới không thể tồn tại vĩnh hằng mà tướng của pháp 
giới nhất chân cũng không thể tồn tại. Thế nhưng chúng ta thấy những hiện 
tượng này vẫn tồn tại một khoảng thời gian, tướng tiếp nối tướng, như vậy mới 
hiểu rõ chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta sẽ không 
phân biệt đối với tướng, sẽ không chấp trước, vì nó là giả, mộng huyễn bào ảnh. 
Còn nếu bạn phân biệt thì bạn vọng tưởng, nếu chấp trước thì phiền não. Vọng 
tưởng phiền não do tự làm tự chịu. 
Kinh Hoa Nghiêm nói, tất cả hiện tượng tồn tại thời gian “khoảng sát na”. Kinh 
Nhân Vương nói, một khảy móng tay sáu mươi sát na. Một sát na có chín trăm 
lần sanh diệt, thời gian rất ngắn. Cũng như phim ảnh, trong máy chiếu là phim 
gốc, một giây đầu ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Trong một giây chiếu ra 
hai mươi bốn tấm. Phim gốc đó liên tục tướng tiếp nối tướng, chúng ta xem thấy 
như thật. Phật dùng cách nói này trên kinh Nhân Vương, “cái khảy móng tay của 
người khỏe mạnh”. Thân thể của đại lực sĩ rất khỏe mạnh nên khảy rất nhanh, 
một giây có thể khảy bốn lần. Bốn khảy móng tay nhân sáu mươi sát na, lại nhân 
tiếp cho chín trăm lần sanh diệt. Vậy tổng cộng có đến hai trăm mười sáu ngàn 
lần sanh diệt. Trên phim ảnh, một giây có hai mươi bốn tấm phim gốc đã có thể 
lừa được bạn. Bạn liền cho đó là thật. Nhưng nếu một giây là hai trăm mười sáu 
ngàn tấm thì làm sao bạn biết nó là giả? 
Kinh Nhân Vương phương tiện nói. Các vị tỉ mỉ tư duy mới hiểu được lời Phật, 
mới thể hội phần nào câu “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như 
sương cũng như chớp”. “Hoa Nghiêm phẩm thập định” nói rõ ràng hơn, một sát
na không chỉ chín trăm lần sanh diệt. Chúng ta đọc kinh Nhân Vương thấy rõ 
việc này. Phật Thích Ca Mâu Ni phương tiện nói, không phải nói chân thật. Nếu 
nói chân thật thì tốc độ còn nhanh hơn gấp nhiều lần. Phật nói rõ chân tướng sự 
thật của vũ trụ hiện tượng, sát na sanh diệt, Phật cũng đem hiện tượng này gọi 
là “bất sanh bất diệt”. Vì sao Phật nói tất cả sanh diệt của pháp tướng là bất 
sanh bất diệt? Vì tốc độ sanh diệt của nó quá nhanh, sanh diệt gần như đồng 
thời, cho nên gọi bất sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa Phật nói pháp. 
Chúng ta “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, nghĩ xem làm gì có pháp tướng 
tồn tại? Mười pháp giới y chánh trang nghiêm, bao gồm sáu cõi ba đường, căn 
bản không thể tồn tại, chân thật là mộng huyễn bào ảnh. Ấy thế mà tất cả chúng 
sanh mê ngay cảnh giới này, cho cảnh giới này là thật có. Từ đấy khởi lên vọng 
tưởng, phân biệt, chấp trước. Thế là đem hiện tượng sát na sanh diệt chuyển 
biến. Cái tướng đó là sát na sanh diệt, sát na chuyển biến. Vậy dùng sức mạnh 
gì để chuyển biến hiện tượng này? Dùng ý niệm, chính là vọng tưởng, phân biệt, 
chấp trước. Ý niệm của bạn thiện, chuyển biến là cảnh giới thiện; ý niệm ác, 
chuyển biến là cảnh giới ác. 
Do đây có thể biết thiên đường là do ý niệm biến ra, địa ngục cũng là do ý niệm 
biến ra, hiểu rõ học vấn trong cái đạo lý này thật to lớn, quan trọng nhất là điều 
tâm. Thân không phải lo vì thân là tùy tâm, tùy ý niệm mà biến hiện. Chúng ta 
phải chú trọng điều năng biến. Năng biến tương ưng với pháp tắc tự nhiên. Còn 
sở biến không quan trọng, sở biến thuận lý thành chương liền biến thành thế giới 
Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, thành khu vườn tốt đẹp thế gian, người người sinh 
hoạt đều hạnh phúc tràn đầy. Làm được hay không tùy thuộc bạn hiểu đạo lý 
trong đó, hiểu được cảnh giới diễn biến như thế nào? 
Cho nên khi Phật dạy chúng ta, thực tế ngài đem thế giới Hoa Tạng, thế giới 
Cực Lạc phổ cập đến tất cả thế gian, khiến tất cả thế gian đều biến thành thế 
giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng. Cách biến thế nào? Trước hết phải điều tâm. 
Thế giới Tây Phương Cực Lạc tốt đẹp đến như vậy vì lòng người ở đó tốt, kinh 
nói “các bậc thượng nhân cùng ở một nơi”. Nếu thế gian này của chúng ta, mỗi 
người đều là thượng thiện thì hoàn cảnh y báo của chúng ta ngày nay nhất định 
giống thế giới Cực Lạc. Tương tự, vì sao thế giới Hoa Tạng tốt đẹp đến như 
vậy? Vì người trong thế giới Hoa Tạng, mỗi mỗi đã đoạn kiến tư phiền não, trần 
sa phiền não; phá được mấy phẩm vô minh, cho nên thế giới đó tốt đẹp. 
Còn thế giới ngày nay của chúng ta vì sao không tốt? Tất cả chúng sanh tư 
tưởng kiến giải, lời nói tạo tác hoàn toàn trái ngược pháp tắc tự nhiên. Trong 
lòng nghĩ ra liền trái với pháp tắc tự nhiên, nên gọi là tà tri tà kiến, tạo mười ác 
nghiệp. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã nói, “chúng sanh Diêm Phù Đề 
khởi tâm động niệm đều là tội”. Tội nghiệp biến ra hoàn cảnh hiện tiền của chúng 
ta. Đặc biệt một hai năm gần đây, thiên tai nhân họa ở đâu cũng có. Một số đồng 
tu đến hỏi tôi, liệu có thể tránh khỏi hay không? Tôi nói không cách gì tránh khỏi. 
Nếu các vị muốn di dân, tìm một khu vực nào trên thế giới không bị tai nạn, thì 
tôi cũng xin nói, không hề có. Nơi nào con người không có tham sân si thì nơi đó 
chính là đất phước. Vậy bạn tìm thử xem, có nơi nào mà con người không tham 
sân si? Có nơi nào mà con người không tạo ác nghiệp? Bạn tìm được nơi này 
thì tốt. Chúng ta đều biết trên địa cầu không hề có, nên không thể tìm ra. Nhưng
thế giới Tây Phương Cực Lạc lại có. Vì vậy, người niệm Phật, người học Phật là 
người sáng suốt. 
Họ không sợ tai nạn, họ có thể tránh khỏi tai nạn. Tránh khỏi không phải tránh 
thân thể này không bị nạn. Thân gặp nạn hay không cũng không hề gì, vì thân 
không thể thường trụ trước sanh lão bệnh tử, việc này chúng ta phải triệt để giác 
ngộ. Tai nạn đến, chúng ta thấy rất bình thường, không chút lạ kỳ. Nghiệp nhân 
quả báo ngõ ngách ngọn nguồn, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo thì bạn 
còn gì mà khẩn trương. Cho nên ở cảnh giới này, đại nạn đến đầu cũng không 
khiếp sợ. Tâm định, tâm thanh tịnh thì bất luận tai nạn thế nào cũng có thể tiếp 
nhận. Thân thể bị hủy diệt trong tai nạn, nhưng tinh thần, Phật pháp gọi là “thần 
thức”, thế pháp gọi là “linh hồn” đi tìm một thân thể khác. Đó không phải là chết. 
Thân thể chúng ta có sanh diệt. Trong sanh diệt vẫn có cái “ta” không sanh diệt. 
Nói cách khác, thân này của ta sanh diệt nhưng thân không phải là ta. Nếu bạn 
nhận biết thần thức linh hồn là ta, thân không phải là ta thì coi như bạn đã nâng 
cao cảnh giới của chính mình. Thân chỉ là sở hữu của ta, cũng giống như mặc 
quần áo. Quần áo cũ rách, bạn sẽ đổi một bộ mới. Thân này hoại thì ta bỏ nó đi, 
lại đổi một thân khác. Bạn chân thật có chút công phu, không cần rất cao, bạn 
liền sanh tử tự tại. Sanh tử tự tại là xả thân thọ thân, giống như lột bỏ quần áo 
thay bộ quần áo khác. Người thế gian không biết sự việc này, thay quần áo 
nhưng lại cảm thấy khổ. Đặc biệt trẻ con, bảo nó đổi một bộ khác rất khó. Nó 
chạy đông chạy tây, không cam tâm, cảm thấy như cực hình. Còn người lớn thì 
không như vậy. Quần áo dơ phải giặt. Kiểu dáng không thích hợp thì đổi kiểu 
mới. Họ an vui xả thân thọ thân. 
Học Phật công phu xem sanh tử như thay bộ quần áo, không chút đau khổ, khẩn 
trương, khiếp sợ. Người như vậy xả thân thọ thân, khi thọ thân khác nhất định 
tốt đẹp hơn nhiều so với thân thể cũ, đó là thiện báo. Nếu khi xả thân, cảm thấy 
hoang mang, khiếp sợ, thì bạn sẽ đổi một thân khác xấu đi, đó là thân súc sanh, 
thân ngạ quỷ, khó có thể quay lại, giống như bạn bị thay đổi quần áo rách nát, 
khó coi. Học Phật có thể được chút thọ dụng này. Đây là thọ dụng nhỏ trong 
Phật pháp, không phải thọ dụng lớn. Vì sao? Bạn nhận biết thần thức là “ta”, 
nhưng thần thức vẫn không phải là ta. Chân thật ta chính là pháp tánh, thiền 
tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Kiến tánh thấy được chân ngã, tông môn gọi là 
“mặt mũi trước khi cha mẹ sanh ra”. Bạn nhận định thần thức là ta, không nhận 
cái thân này là ta thì bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, nhưng không rời khỏi 
sáu cõi luân hồi. Bạn nhất định được hưởng phước trời, sanh lên trên cõi trời. 
Cao minh hơn thì siêu việt sáu cõi, nâng cao lên pháp giới của thanh văn, duyên 
giác, Bồ tát. Trong mười pháp giới, pháp giới bốn thánh là không gian sinh hoạt 
của bạn, thù thắng hơn nhiều so với sáu cõi. 
Nếu bạn biết thần thức vẫn không phải là ta, vẫn là giả, tự tánh mới là ta, vậy thì 
công đức của bạn liền viên mãn. Bạn liền siêu việt mười pháp giới, đi đến thế 
giới Hoa Tạng, thân cận Tỳ Lô Giá Na Phật, làm bạn với bốn mươi mốt vị pháp 
thân đại sĩ; hoặc vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn siêu 
việt mười pháp giới. Đó là chân tướng sự thật. Phật xuất hiện ở thế gian muốn 
nói cho chúng ta nghe sự việc này, chân thật có thể “điều chúng sanh”. Cho nên 
chúng ta học Phật, hiện tại quan trọng nhất phải tu “tâm thanh tịnh”.
Đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ đưa ra nguyên tắc tu học: thanh tịnh, bình đẳng, 
giác. Ba nguyên tắc này nhắc chúng ta mọi nơi mọi lúc đối nhân xử thế tiếp vật, 
phải tu tâm thanh tịnh. Tất cả mọi người không nhiễm ô tâm tánh. Nếu trong đối 
xử mọi người, thuận với chính mình thì khởi ý niệm thương yêu, không thuận với 
chính mình thì sanh sân hận, đố kỵ, như vậy tâm của bạn bị ô nhiễm, không 
thanh tịnh. Cho nên tu hành là tu ở ngay đây, khi tất cả cảnh giới hiện tiền phải 
rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, 
bạn mới có được công phu chân thật. Hay nói cách khác, cảnh giới trước mắt rõ 
ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, đó là huệ. Trong lòng như như bất động, 
không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm không động niệm, đó là 
công phu. 
Chúng ta tu hành phải tu trong hoàn cảnh nhân sự, trong hoàn cảnh vật chất. 
Mỗi ngày sáu căn tiếp xúc tất cả người, vật, việc, ý niệm vừa khởi lên, cho dù 
niệm thiện hay ác đều là ô nhiễm. Ác niệm là ô nhiễm, thiện niệm cũng là ô 
nhiễm, nên khi ý niệm vừa khởi lên, câu “A Di Đà Phật” làm cho ý niệm này lắng 
xuống. Đó là phương pháp của Tịnh tông chúng ta dùng. Một câu Phật hiệu làm 
cho ý niệm lắng xuống, hoá giải hết ý niệm, tất cả vọng niệm thảy đều qui về câu 
A Di Đà Phật, đức hiệu trong tự tánh của chúng ta. A Di Đà Phật chính là chân 
như bổn tánh của chúng ta, đó là một câu Phạn ngữ, dịch sang ý nghĩa Trung 
Quốc là “Vô lượng giác”. Tất cả đều quy về vô lượng giác. Danh hiệu đạo sư của 
thế giới Tây Phương Cực Lạc là A Di Đà Phật, cho nên kinh Phật thường nói “tự 
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, đó là từ trên tâm tánh mà nói. 
Bạn phải biết niệm câu Phật hiệu này, đem tất cả ý niệm của bạn chuyển biến 
thành A Di Đà Phật. Trong tâm bạn, ngoài câu A Di Đà Phật, không có bất cứ tạp 
niệm nào. Có như thế tâm thanh tịnh của bạn mới hiện tiền, kinh Di Đà nói “Nhất 
tâm bất loạn”. “Niệm Phật tam muội”, “tam muội” là tiếng Phạn, ý nghĩa là “chánh 
thọ”, hưởng thụ bình thường. Ngày nay chúng ta hưởng thụ không bình thường. 
Còn hưởng thụ bình thường là vô niệm, “niệm mà không niệm, không niệm mà 
niệm”, đó là hưởng thụ bình thường. 
Cho nên tông chỉ giáo hoá chúng sanh của Phật, mục đích chính nhằm “điều 
chúng sanh tuyên diệu lý”. Diệu lý là chân tướng sự thật, cũng là “thật tướng các 
pháp”, chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Phật vì chúng ta nói rõ sự việc này để 
chúng ta hiểu rõ. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải chính mình khế 
nhập cảnh giới này, tự lợi công đức. Tuy nhiên, thế gian vẫn còn rất nhiều chúng 
sanh chưa giác ngộ, chúng ta không thể không quan tâm, Phật pháp gọi là “tự 
cho mình cao”. Phật không tán thán những người như vậy. Bạn tự độ, còn phải 
giúp đỡ người khác, đó là Bồ tát. 
“Trữ công đức, thị phước điền” 
Muốn hoá tha cần phải tự độ. Đối với chân tướng sư thật, bạn không thấu triệt, 
không hiểu rõ; tà kiến, phiền não, tập khí của chính mình chưa đoạn dứt thì làm 
sao có thể giúp người khác. Trên thực tế, chúng ta cũng từng thấy việc mượn 
danh để tư lợi, giả mượn Phật pháp tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, thỏa mãn 
dục vọng của riêng mình. Họ có thể nói khéo léo, giảng kinh có đầu có đuôi, 
cũng xây dựng đạo tràng trang nghiêm, cũng có không ít đồ chúng tu hành theo, 
thế nhưng những gì họ làm hoàn toàn trái ngược Phật pháp, vẫn cứ danh vọng 
lợi dưỡng, vẫn phải quấy nhân ngã, vẫn mỗi niệm xem nặng được mất.
Vì sao có lỗi lầm này? Vì họ không làm được hai câu trên, cho nên công đức liền 
biến thành phước đức, thậm chí công đức phước đức còn biến thành tội lỗi. Họ 
khuyên bảo mọi người tu phước, cùng xả tài tu phước. Khi mọi người xả tài, còn 
họ thì đựng đầy trong túi, phục vụ chính mình. Người xưa không như vậy. Người 
xưa hiểu xây dựng đạo tràng trang nghiêm, không phải chính mình hưởng thụ. 
Các vị tỉ mỉ quan sát những tòng lâm được xây dựng vào thời xưa, phòng ốc của 
trụ trì và chấp sự rất thô sơ. Do đây có thể biết đại chúng cúng dường để tu 
phước, nhưng chính họ không hưởng. Nói cách khác, ăn mặc ngủ nghỉ của họ 
không hề thay đổi. Đó là rõ lý, không tạo tội nghiệp. 
Hiện tại khi mọi người quyên mộ nhiều tiền, xây dựng đạo tràng lớn, trước tiên 
thường bố trí rất đẹp hoàn cảnh cư trú của chính mình, như vậy là tạo tội nghiệp. 
Xây dựng đạo tràng để có nơi làm đạo, nơi cúng cho chúng, không phải cúng 
dường chính mình. Nhà Phật từng nói “một hạt gạo của thí chủ nặng như núi Tu 
Di. Đời nay không liễu đạo, mang lông đội sừng để trả”. Lời nói này là thật, 
không phải giả. Bạn làm gì có phước báu lớn đến vậy, có thể hưởng thọ mười 
phương chúng sanh cúng dường. Chỉ có Phật và đại Bồ tát mới có phước báu 
này. Người mê hoặc điên đảo, hưởng phước báu không được vài năm, khi chết 
đều mơ mơ hồ hồ mà chết, chết rồi đi đâu? Tương lai vẫn không tránh khỏi phải 
trả nợ. 
Cho nên Phật dạy chúng ta “trữ công đức”, không phải phước đức. Trong công 
đức có phước đức, nhưng trong phước đức chưa chắc có công đức. Công đức 
do tu công mà có. Thí dụ chúng ta trì giới có công, bạn liền được định, định 
chính là đức. Tu định có công, trí tuệ khai, khai huệ là đức. Do đây mà biết, công 
là tu nhân, đức là quả báo. Tu nhân được quả là đạo lý nhất định. Chúng ta phải 
trữ công đức, tích công bồi đức. 
Làm thế nào để giữ được công đức? Chữ “trữ” này rất quan trọng. Trữ là tồn trữ, 
lưu kho, công đức của bạn mới có thể tích lũy. Nhà Phật nói: “lửa thiêu rừng 
công đức”. Công đức rất khó tồn trữ. Chỉ một đám lửa thì cháy sạch, đó là lửa 
sân hận. Vừa khởi tức giận, công đức đều hết. Bạn phải biết, cả đời này tu hành 
trữ được bao nhiêu công đức. Sau đó bạn nghĩ lại xem mình không khởi tức 
giận bắt đầu từ lúc nào. Nếu sáng sớm nay khởi lên một cơn giận chỉ có mấy giờ 
đồng hồ, công đức của đời quá khứ và đời này đã tu thảy đều cháy sạch, không 
còn gì cả. 
Người hiện tại nói đến công đức, thực ra đều hữu danh vô thực. Có cái tên của 
công đức, tu tên của công đức nhưng không tu công đức thật. Khi trong lòng 
không vui thì công đức hết. Phải biết thế gian yêu ma quỷ quái rất nhiều. Chúng 
chỉ sợ bạn tích công bồi đức nên thị hiện vô số cảnh giới, vô số nhân duyên 
nhằm phá hoại công đức của bạn. Thế nhưng bản thân họ không có năng lực 
phá hoại công đức của bạn, thậm chí bất cứ người nào cũng đều không cách gì 
phá hoại công đức của bạn được. Chỉ có chính mình phá hoại chính mình. Họ 
thúc đẩy bạn, khiến bạn khởi tức giận, khởi tâm sân hận. Nếu bạn nghe lời, quả 
nhiên khởi tức giận, khởi tâm sân hận thì coi như bạn đem công đức của mình 
thiêu hết sạch. Ma ở nơi đó liền vỗ tay vui mừng. 
Chúng ta hiểu rõ đạo lý thì nhất định phải đề cao cảnh giác. Tất cả thuận cảnh 
không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không khởi tâm sân hận thì công đức của 
bạn mới có thể giữ được. Phía trước hàng ma, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện
cho chúng ta xem, “dĩ định huệ lực, hàng phục ma oán”. Nếu bạn không có định, 
không có huệ, thì công đức của bạn không thể giữ được. Ở trong cảnh giới 
thường hay khởi tâm động niệm, tâm tùy theo cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, 
đó là tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tương lai chịu báo luân hồi. Cho nên 
chúng ta trong cuộc sống thường ngày phải rèn luyện. Rèn luyện chính là tu 
hành. 
Ngày trước sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, dễ bị cảnh giới bên 
ngoài xoay chuyển. Xem thấy ưa thích, chúng ta khởi lên tâm hoan hỉ, xem thấy 
không ưa thích chúng ta khởi tâm ghét bỏ, vậy là sai, phải tu sửa lại. Tu sửa thế 
nào? Thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không sanh tâm áo não, 
đó gọi là tu hành. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, 
tất cả chỉ là hình thức. Tu hành phải chân thật hữu dụng, phải dùng được ngay 
trong đời sống, đối diện với tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc thật khởi lên tác 
dụng, không còn bị cảnh giới này xoay chuyển, mới gọi là có công phu. Bạn ở 
niệm Phật đường niệm Phật mỗi ngày mười vạn danh hiệu Phật. Khi đối diện với 
cảnh giới, tâm còn bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, vậy thì như người xưa 
nói, “đau mồm rát họng chỉ uổng công”, bạn không có công phu, hoặc công phu 
của bạn là giả, không phải thật. 
Công phu phải trải qua sự khảo nghiệm, cùng ở với mọi người, cùng giao lưu với 
chúng sanh, cũng phải có biểu lộ. Nếu biểu lộ trên mặt giống tượng thần điêu 
khắc thì có thể hù chết người trong xã hội. Giao lưu với tất cả chúng sanh, tuy 
biểu hiện hỉ, nộ, ai, lạc nhưng phải là biểu diễn, không phải thật. Bên trong thanh 
tịnh vô nhiễm, như Vĩnh Gia từng nói “phân biệt diệc phi ý”. Ứng dụng ngay trong 
cuộc sống thường ngày phải hoạt bát, hiển thị Phật pháp đáng quý, viên dung, 
thọ dụng chân thật. Từng li từng tí không ô nhiễm, có định huệ. Đây gọi là công 
phu, bạn chân thật là trữ được công đức. 
“Thị phước điền”. Bạn còn phải tu phước. Tu phước quyết không phải vì chính 
mình mà vì chúng sanh. Không có phước báu làm sao độ chúng sanh. Cho nên 
thành Phật, Phật gọi là “nhị túc tôn”, túc đầy đủ, viên mãn. Nhị là hai loại, trí tuệ 
viên mãn và phước đức viên mãn. 
Phật biểu thị phước đức viên mãn. Có phước lớn mới có thể cho tất cả chúng 
sanh hưởng phước. Ngày nay chúng ta ngồi ở đạo tràng này hai giờ đồng hồ là 
hưởng phước báu của chư Phật. Mười phương chúng sanh xả tài, xả lao lực để 
được phước báu này cho chúng ta cùng hưởng. Chúng ta cũng phải học tập, có 
phước nhất định phải cho mọi người cùng hưởng, không nên hưởng riêng mình. 
Hưởng riêng là tạo nghiệp, còn cho mọi người hưởng gọi là tu phước. 
“Thị” chỉ ra những gì là phước điền. Có rất nhiều phước điền. Nói cách khác, cơ 
duyên tu phước quá rộng. Nhà Phật phước điền vô lượng, quy nạp thành ba loại 
lớn. 
Loại thứ nhất gọi là “Bi điền”, từ bi, lân mẫn. Tất cả chúng sanh trong mười pháp 
giới đều bần cùng khổ nạn, không phải chỉ người không có cơm ăn áo mặc, mà 
cả những người có phước báu, ở nơi phòng ốc rất tốt, đời sống dư giả. Loại 
người này không nghèo cùng nhưng cũng chẳng khác người không có cơm ăn 
áo mặc. Vậy họ nghèo ở chỗ nào? Nghèo cùng ở trí tuệ. Đời sống vật chất của 
họ có thể trải qua nhưng đời sống tinh thần rất khổ. Cho nên nghèo cùng có loại 
nghèo về vật chất, và nghèo về tinh thần, nghèo về đạo nghiệp, hay nghèo trí
tuệ. Phạm vi nghèo cũng quá rộng lớn. Chúng ta chỉ mới so sánh năng lực kỹ 
thuật với người khác rồi cho rằng nghèo cùng hay lạc hậu nhưng không biết 
phạm vi sâu rộng vô hạn của nghèo cùng. Bồ Tát thấy điều đó. Các ngài đại từ 
đại bi giúp đỡ chúng ta trồng phước. Phương pháp trồng phước điền cũng rất 
nhiều. Bạn phải có trí tuệ, mỗi giờ đều là giờ để tu phước, nơi nơi đều là chỗ để 
tu phước. Hiện tại người thế gian nghèo cùng, việc này người căn tánh trung hạ 
đều có thể quan sát rõ ràng. Chính mình phải biết làm thế nào cứu giúp chúng 
sanh khổ nạn nghèo cùng của thế giới. 
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 33) 
Pháp Sư Tịnh Không 
Loại thứ hai gọi là “Ân điền”, báo ân. Ai có ân với chúng ta? Trước tiên là cha 
mẹ, nhất định phải báo đáp. Báo đáp cha mẹ là trồng phước điền. Kế đến là thầy 
giáo. Sinh mạng của chúng ta được nhờ ở cha mẹ, còn trí tuệ của chúng ta, nhà 
Phật nói “pháp thân huệ mạng” là nhờ thầy giáo. Ân đức của thầy giáo cùng cha 
mẹ không hề khác. Trong cổ lễ Trung Quốc nói rất nhiều lý do vì sao thời hiện 
đại không có hiếu đạo. Cho nên sư đạo cũng không có. Sư đạo được xây dựng 
trên nền tảng của hiếu đạo. Phật pháp là sư đạo, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni 
Phật là “bổn sư”, thầy giáo sáng lập đầu tiên. Giáo dục Phật đà từ nơi ngài sáng 
lập, nên chúng ta gọi ngài là thầy giáo căn bản, người sáng lập đầu tiên. Mỗi 
niệm chúng ta đều không quên ngài. Trên giảng đường, chúng ta cúng dường 
tượng Phật, cúng dường hình tượng thầy giáo, ý nghĩa này chính là báo ân, 
không quên nguồn gốc. Chúng ta nơi đây làm công tác giảng giải, cùng với đồng 
tu học tập kinh điển, cũng giống như ở trước mặt Phật vậy. Phật Bồ Tát chứng 
minh cho chúng ta. Đó là báo ân, trồng phước điền. 
Ngoài thầy giáo cha mẹ, thì chư Phật Bồ Tát, tổ sư đại đức, tất cả thiện tri thức 
đều là ân điền. Mở rộng hơn, quốc gia có ân đức bảo hộ hoàn cảnh đời sống 
của chúng ta được an ninh. Tất cả chúng sanh có ân đức hỗ trợ hợp tác cúng 
dường đời sống thường ngày cho chúng ta, đây chính là kệ hồi hướng mà chúng 
ta vẫn đọc: “trên đền bốn ân nặng”. Tất cả chúng sanh đều có ân đức với chúng 
ta, đó là ân điền. 
Loại thứ ba là “Đức điền”. Chỉ riêng nêu ra Tam Bảo thì Phật Pháp Tăng không 
chỉ có ân đức với chúng ta, mà các ngài còn là ruộng công đức, nên gọi là “đức 
điền”. Đó là chuyên chỉ Tam Bảo. Tam Bảo có đại trí tuệ, đại đức, đại năng, giáo 
hoá chúng sanh. Muốn trồng phước điền, chúng ta phải đến những nơi này. Dù 
năng lực chúng ta không đạt đến nhưng không thể không có tâm. “Tâm thừa mà 
sức thiếu”, tâm không khởi vọng tưởng khống, mà phải chân thật. 
Hiện nay báo chí đăng tin, nạn nước rất nghiêm trọng. Năm xưa mỗi lần nạn 
nước, chúng ta luôn tận tâm tận lực quyên tiền giúp đỡ cư dân khu vực tai nạn. 
Năm nay khu vực tai nạn mở rộng, đồng thời lại bị ảnh hưởng kinh tế, khiến 
chúng ta không biết làm thế nào. Có phương pháp gì hoá giải tai nạn không? Có. 
Trị tận gốc chính là giáo hoá chúng sanh diệt trừ tham sân si; tu giới định huệ.
Việc này có lợi ích gì với thực tế? Người thế gian thường không tường tận. Rất 
nhiều tai biến có quan hệ mật thiết với lòng người. Kinh Phật thường hay nói: “y 
báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Vì sao chúng ta không nghe nói Thế Giới Tây 
Phương Cực Lạc có nạn lụt, hay thế giới Hoa Tạng có động đất? Nơi đó không 
có vì nơi đó không có nhân, thì họ làm gì bị những thứ này. 
Nước là từ lòng tham biến hiện ra, lòng tham con người ngày càng lớn thì nước 
sẽ càng nhiều. Lửa từ sân hận, địa chấn từ bất bình của lòng người. Chúng ta 
nói những lời này, người thông thường sẽ cho rằng không có chứng cứ khoa 
học nên không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận. Khoa học thực tế rất non nớt 
nên vẫn chưa đạt cảnh giới này. Đến khi đạt được cảnh giới này, chúng ta đã 
phải chịu khổ nạn vô cùng rồi, chờ họ thừa nhận có ích gì. Cho nên diệt trừ tham 
sân si, liền có thể tự nhiên tiêu trừ tai ách thế gian. Hiện tại chúng ta thường du 
lịch nước ngoài, mỗi quốc gia khu vực, lòng người tham sân si mỗi năm một 
tăng, thật đáng sợ. Tôi không hề nghe nói nơi nào đó, ý niệm tham sân si đã 
bình hoà, đã giảm; ngược lại, mỗi ngày đang gia tăng tốc độ. 
Lòng tham mang đến nạn nước, sân hận mang đến nạn lửa, ngu si mang đến 
gió bão, bất bình mang đến động đất; người hiện tại đều làm ra. Mỗi năm mỗi 
tăng, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước, “có nhân ắt có quả”. Người hiện 
tại thường vẫn không tin tưởng. 
Phật pháp còn nói: “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, không phải không có 
phương pháp trị phần nổi. Tài nguyên sức người của Trung Quốc đứng đầu thế 
giới, sức lao động nhiều đến vậy nhưng không hề được vận dụng tốt, để những 
sức lực này lãng phí, thật đáng tiếc. Cho nên ở công tác trị phần nổi, mỗi năm 
chúng ta có nạn nước, thì phải học Đại Vũ trị thuỷ, hiểu rõ địa hình, rồi dẫn đạo 
dòng nước từ phương hướng nào đó chảy về biển cả. Công cụ khoa học hiện 
đại tiến bộ hơn rất nhiều so với ngày trước, chúng ta có thể khai mương dẫn 
nước, mở rộng ao hồ. 
Lịch sử ghi chép, động đình từ trước là 800 dặm, còn hiện tại chưa đến 300 
dặm. Bạn phải biết hồ lớn khi nước lụt đến trở thành hồ chứa nước. Cho nên 
dọc theo sông dài hồ lớn, nhất định có phải nhiều hồ bạc của thiên nhiên. Chúng 
ta phải giữ gìn, phải dùng máy móc nạo vét sâu hơn và rộng hơn để sức chứa 
của nó nhiều hơn. Đồng thời bên cạnh khu vực sông, có thể dùng nhân công giữ 
đê, giảm thiểu nạn nước. Công trình thuỷ lợi vô cùng quan trọng, là kiến thiết cơ 
bản của quốc gia. Tương tự, đường giao thông, đường sắt, đường quốc lộ đều 
là kiến thiết cơ bản. 
Vì sao Hoa Kỳ duy trì cường thịnh đến như vậy? Vì họ xây dựng cơ bản quá tốt. 
Thế nhưng công trình thủy lợi Hoa Kỳ vẫn có chỗ chưa đủ. Bình thường khi khô 
hạn, tưới tiêu ruộng vườn, không chướng ngại nhà nông thu hoạch nông sản. 
Khi nước nhiều thì chứa nước, không đến nỗi tạo thành nạn lụt. Ngoài công trình 
cơ bản hiện tại, còn thêm công trình phát điện. Trên thế giới có rất nhiều nơi lợi 
dụng thuỷ lợi để phát điện. Trung Quốc có sông dài hồ lớn, cũng phải từ bề nổi 
mà làm. Khoảng sau năm đến mười năm, Trung Quốc vĩnh viễn sẽ không có nạn 
lụt, đó là đại công đức, đại bố thí. Nền tảng này xây dựng kiên cố thì toàn quốc 
đều phát triển. Không chỉ ở khu vực Duyên Hải mà ngay đến đất liền thảy đều 
phát triển. Do đây có thể biết, việc ở người làm. Chúng ta phải nghĩ vì chúng 
sanh tạo phước.
Lại nói đến hiện tại trước mắt, đại chúng hiện tiền chúng ta đối với bốn câu kinh 
này, nên làm thế nào để tu, làm thế nào thực tiễn ngay trong đời sống hiện tiền? 
Cư Sĩ Lâm là một đạo tràng trang nghiêm đúng pháp, mọi người công nhận, 
không phải cá nhân tôi tuỳ tiện nói. Chúng ta phát tâm đến đây nghe kinh, niệm 
Phật, chính là thực tiễn bốn câu kinh văn này. 
Nếu bạn muốn hỏi, chúng ta đến đây nghe kinh hai giờ đồng hồ, niệm Phật mấy 
giờ đồng hồ, với “điều chúng sanh, tuyên diệu lý” có liên quan gì? Giảng đường 
của Cư Sĩ Lâm mỗi ngày giảng kinh hai giờ. Chúng ta phát tâm để giờ giảng kinh 
mãi mãi không gián đoạn, đó là tuyên diệu lý. Đến nghe kinh là làm chúng ảnh 
hưởng cho mọi người, khiến người sơ học Phật thông thường dần dần nghe 
được, dần dần thấy học Phật có chỗ tốt đến như vậy, lợi ích nhiều như vậy. Còn 
nếu các vị cảm thấy Phật pháp rất hay, ở trong nhà tu cũng được, không cần 
phải đến thì nơi giảng kinh này liền trống vắng thưa thớt. Những người sơ học 
vừa nhìn thấy bèn chán nản, tín tâm sẽ không có. Họ nghĩ vị pháp sư này giảng 
không hay nên sẽ không đến. 
Người đến nghe kinh là Bồ Tát, là chúng ảnh hưởng, bất tri bất giác, ảnh hưởng 
đông đảo quần chúng trong xã hội, đó là trồng phước. Bạn nghe kinh ở nhà rất 
thuận tiện nhờ đường truyền internet liên thông. Thế nhưng, nghe kinh trong nhà 
chỉ có tự lợi, không thể lợi tha. Bạn không thể tạo ra sức ảnh hưởng. Còn đến 
nơi đây nghe kinh chính là lợi được hai bên. Chúng ta phải trồng phước điền, 
phải làm chúng ảnh hưởng. Tương tự, bạn ở nhà niệm Phật cũng tốt, nhưng vì 
sao phải đến nơi đây niệm? Vì để trang nghiêm đạo tràng, cũng là làm chúng 
ảnh hưởng. Cho nên trong đạo tràng, niệm Phật đường đều có Bồ Tát đang 
niệm, Phật đang niệm, thiên long quỷ thần đang ở niệm Phật đường niệm Phật 
rất nhiều. Như vậy là tu công đức, phước đức, không nhất thiết phải tốn tiền, chỉ 
cần có thời gian. Thậm chí bạn đến đây ăn một bữa cơm cũng là trồng phước. 
Đạo tràng tuyên dương Phật pháp, ăn cơm cũng tuyên dương. 
Cư Sĩ Lâm hiện nay là thế giới đệ nhất gia, mỗi ngày cúng dường ba bữa cơm, 
không cần tốn tiền. Tương lai còn có thôn Di Đà, đến nơi đây ở cũng không cần 
tốn tiền. Chỉ cần bạn chịu thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nơi đây là đạo 
tràng thành tựu cho người vãng sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta ở đây tu 
phước đặc biệt dễ dàng, không cần bỏ tiền nhiều, một đồng hai đồng đều là 
công đức hy hữu. Nhiều người đang ở đây thật tu thật làm, cho nên phước điền 
này là phước điền chân thật, công đức nơi đây cũng là công đức chân thật. 
“Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ” 
“Tam khổ” chỉ chúng sanh sáu đường, mở rộng thêm chút là hữu tình mười pháp 
giới. “Dĩ chư diệu dược” là pháp dược. Dược là thí dụ tất cả pháp Phật đã nói. 
Hiện tại trước mắt chúng ta, người thế gian khổ cùng cực. Nói cách khác, ngày 
nay chúng ta đang ở đêm trước của đại tai nạn. Tỉ mỉ quan sát, đại sư Ấn Quang 
ở đầu năm Dân quốc. Mọi người đều biết Ấn tổ là Bồ Tát Đại Thế Chí Thế Giới 
Tây Phương Cực Lạc tái sanh, một trong hai vị Bồ Tát trợ thủ cho Phật A Di Đà. 
Quan âm chủ đạo từ bi, Đại Thế Chí chủ đạo trí tuệ. Đó là một vị Bồ Tát có trí 
tuệ bậc nhất. Ngày trước tôi từng giới thiệu, trong Phật pháp Đại thừa, thông 
thường lấy Bồ Tát Văn Thù đại biểu cho trí tuệ, nhưng Bồ Tát Văn Thù biểu thị 
trí tuệ “học rộng nghe nhiều”, là trí tuệ phổ thông. Còn trí tuệ mà Bồ Tát Đại Thế 
Chí đại biểu là “một môn thâm nhập”. Hai vị đều rất hay. Trí tuệ của Bồ Tát Văn
Thù phải là người thượng căn lợi trí. Căn tánh thượng thượng mới có thể học, 
người hạ hạ căn thì không thể học được. Còn trí tuệ của Bồ Tát Đại Thế Chí đại 
biểu, “trùm cả ba căn, ngu ngôn đều thâu”. Người hạ hạ căn cũng có thể học, 
một môn thâm nhập. Một môn thông thì mỗi môn đều thông. Thành tựu của họ 
không khác gì với Bồ Tát Văn Thù, nhưng thủ pháp hoàn toàn không giống 
nhau, chúng ta phải hiểu ý này. 
Đại sư Ấn Quang thị hiện ở đầu năm Dân quốc. Ngài biết thế gian này sẽ có tai 
nạn. Dùng phương pháp gì để cứu? Phật pháp không được, vì mọi người không 
tin, cho rằng mê tín. Hơn nữa văn tự kinh điển trúc trắc, người thông thường 
không dễ gì hiểu. Dùng những đạo lý của nhà Nho để cứu thế gian còn không 
kịp. Nhà Nho gọi “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Nho Phật tuy tốt 
nhưng đều không cứu kịp. Đại sư bèn chọn lấy “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”, 
“Liễu Phàm Tứ Huấn”, “An Sĩ Toàn Thư”, dùng ba thứ này để cứu vãn xã hội 
hiện thực của chúng ta. Rất là đạo lý, trí tuệ chân thật. 
Nguyên lý của ba thứ này chính là nhân quả. Trong kiếp nạn sắp đến, mọi người 
không tin Nho, không tin Phật, không tin thánh hiền, tuỳ tiện làm càn. Đối với tình 
hình như vậy, chỉ duy nhất một cách là giúp họ thông suốt “Nhân quả báo ứng”. 
Cả đời đại sư cực lực đề xướng nhân quả. Ngài chọn lựa ra ba loại sách này. 
Mở sách ra xem, bản thân mỗi chúng ta cùng những người xung quanh có ai 
làm được một trong ba loại? Có câu nào bạn huỷ phạm? Chúng ta tỉ mỉ quan sát 
mới phát hiện có rất nhiều người gần như hoàn toàn phạm phải những tội hành 
nghiệp nhân đã nêu trong đó. Đa số người đều phạm, tạo thành cộng nghiệp 
chiêu cảm. 
Ngày nay toàn thế giới tai biến. Trước khi đại tai biến đến gần, chúng ta muốn 
tiêu diệt nó cũng không dễ dàng. Nhưng nếu muốn nó chậm lại hoặc giảm nhẹ 
một chút vẫn còn có thể làm được. Cách làm thế nào? Lòng người phải giác 
ngộ, hồi đầu. Mọi người biết lợi hại được mất, chân thật xả bỏ lợi ích của riêng 
mình. Phải quan tâm đến lợi ích của xã hội đại chúng. Trước tiên phải có ý thức 
như vậy, có quan niệm lý luận như vậy. Sau đó giảm nhẹ tham sân si mạn của 
chính mình, chú trọng luân lý đạo đức. Có như thế, kiếp nạn liền kéo chậm lại, 
vấn đề ở chuyển biến của lòng người. 
Ấn tổ dùng pháp dược để giúp chúng ta vượt qua ải quan trước mắt. Tín đồ Cơ 
Đốc phương Tây thường nói “1999 là ngày tàn của thế giới”. Lời nói này đã từ 
rất lâu. Chúng ta nghe cảm thấy không quá đáng chút nào. Nhìn vào dấu vết 
hiện tại, dường như năm tới không dễ gì vượt qua. Mấy năm gần đây vì sao tai 
nạn lần sau luôn kéo dài hơn lần trước, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần 
trước? Dường như là ý này. 
Thế nhưng, người học Phật chúng ta lại không thừa nhận câu “Ngày tàn thế 
giới”, vì sao? Thích Ca Mâu Ni Phật nói, “mạt pháp” của Phật là 9000 năm. Đó là 
từ nước ngoài mà tính, không tính từ Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ghi chép, 
Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến hôm nay là ba ngàn không trăm hai mươi mấy 
năm. Về sau còn chín ngàn năm nữa, ngày tháng còn dài. Cho nên thời nay 
không phải là “thế giới ngày tàn”, nhưng một chút tai nạn vẫn có thể có. 
Ngày trước tôi thân cận đại sư Chương Gia. Đại sư từng nói với tôi, thời kỳ mạt 
pháp 9000 năm, pháp vận của Phật cùng thế vận đều có cao thấp trồi sụt. Nói 
cách khác, có khi tốt, có khi xuống thấp. Như vậy có nghĩa là từ năm tới lùi về
sau có thể vận thế xuống thấp, nhưng không phải ngày tàn. Chúng ta hãy an 
tâm. Thế nhưng, chúng ta vẫn phải có sự chuẩn bị, nhất quyết đoạn ác tu thiện. 
Người khác làm hay không chúng ta không quan tâm, nhất định phải làm từ bản 
thân mình, đó là việc vô cùng quan trọng. Kinh Phật nói rõ ràng, trong cộng 
nghiệp có biệt nghiệp. Kinh Lăng Nghiêm nói “có cộng nghiệp, có biệt nghiệp”. 
Nếu biệt nghiệp của chúng ta thù thắng, trong cộng nghiệp vẫn có biệt báo, thì 
khi tai nạn lớn đến, chúng ta vẫn có thể tránh khỏi. Tránh khỏi không có nghĩa đi 
tìm nơi tránh nạn, tìm nơi để di dân, không cần thiết phải làm vậy. Làm vậy là 
không tin tưởng chính mình, lại tìm phiền não cho chính mình. 
Năm xưa tôi giảng kinh ở Hongkong. Thời điểm đó gần đến kế hoạch Anh trả lại 
Hongkong. Một số đồng tu HongKong nghĩ mọi cách để di dân. Tôi khuyến cáo 
họ, không cần thiết phải làm vậy. Tôi nói theo cách nghĩ và cách nhìn của mình, 
sau khi trở về, Hongkong nhất định còn tốt hơn so với thời kỳ người Anh thống 
trị, hà tất phải đi. Một số đồng tu không nghe lời, cố di dân ra nước ngoài. Họ 
bán sạch nhà cửa ở HongKong. Sau khi trở lại, đem tiền về HongKong nhưng 
không thể mua lại được, khổ nói không ra lời. Cho nên bất cứ tai nạn sắp đến, 
người có phước, tức tâm có định, thì quyết không khiếp sợ, không lo lắng, tâm 
vẫn định. Có định có huệ liền có thể khắc phục được khó khăn. Nó biến nhưng 
ta không biến, nó động nhưng ta không động, dù ở ải sanh tử chúng ta không 
thể tránh khỏi. Chúng ta sẽ sanh đến chỗ thiện, một nơi tốt nhất, không ở thế 
gian này. Đó chính là di dân. 
Chúng ta di dân đến thế giới chư Phật, phước địa chân thật. Có thời gian thì một 
ngày niệm thêm một ngày Phật. Ngay trong cuộc sống thường ngày phải dưỡng 
thiện tâm, thiện nguyện của chính mình. Nhất định phải nỗ lực chăm chỉ làm cho 
được “tâm không ác niệm”. Tiêu chuẩn thấp nhất mà Phật nói là Thập Thiện 
Nghiệp Đạo, “thân” không sát, đạo, dâm; “khẩu” không vọng ngữ, hai lưỡi, thêu 
dệt, ác khẩu; “ý” không tham sân si. Phải đoạn dứt. Từ sớm đến tối, từ mùng 
một đến ba mươi ngày, trong lòng nhất định không khởi ý niệm này. 
“Tâm không ác niệm, ý không tà tư”, cái gì là tà tư? Nhân ngã phải quấy là tà tư. 
Phàm hễ trái với lý luận kinh giáo Phật thì tất cả tư tưởng kiến giải đều là tà tư. 
Phải lấy tiêu chuẩn của Phật để nói, nhất định phải viễn ly kiến tư phiền não. 
Niệm niệm tâm này là niệm thiện. Ý niệm chí thiện chính là một câu Phật hiệu. 
Ngoài câu Phật hiệu, ý niệm gì cũng đều xả bỏ. Có như vậy thì mục tiêu phương 
hướng của đời sống chúng ta mới được xác định. Quyết cầu sanh Tịnh Độ, vãng 
sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta đi trên đại lộ, con đường mà tất cả chư Phật 
đã đi thì làm sao sai lầm được. 
Tai không nghe lời ác, không nghe thị phi. Bất luận người nào đến nói chuyện, 
chúng ta vẫn “A Di Đà Phật” cắt lời của họ. Tai không nên nghe, miệng không 
nói lời ác. Tiếp xúc qua lại với người, ít nói lời thừa, khuyên người niệm Phật. 
Nếu ghi nhớ những câu trong kinh văn thì có thể đọc thêm cho người nghe. Họ 
ưa thích thì sẽ tiếp tục nghe, còn không ưa thích thì cũng đã nghe rồi. 
Người mê học Phật, việc ở thế gian họ sẽ dần dần không hiểu. Khi việc thế gian 
không hiểu thì bạn liền rời khỏi thế gian này. Càng hiểu nhiều việc thế gian, bạn 
càng không thể rời khỏi, phiền não của bạn sẽ lớn. Đó là những việc xen tạp của 
thế gian, chúng ta không nên biết. Ưa thích biết, đều không rời khỏi luân hồi. 
Chúng ta phải hạ quyết tâm, không làm những việc này.
“Thân không tà hạnh”. Tốt nhất chúng ta nên lợi dụng thân thể khỏe mạnh để lạy 
Phật nhiều. Công đức lạy Phật rất lớn, hiệu quả lạy Phật rất thù thắng. Nếu mỗi 
ngày lạy một trăm lạy, vĩnh viễn không gián đoạn thì thân thể nhất định khỏe 
mạnh sống lâu, không bệnh tật. Dùng tâm thanh tịnh lạy Phật, dùng tâm cung 
kính lạy Phật; khi lạy Phật, không hề có bất cứ vọng niệm nào. Cứ như vậy tự 
nhiên sẽ cảm ứng tương thông, có cầu ắt có ứng. Đọc thuộc “Liễu Phàm Tứ 
Huấn”, tin sâu nhân quả, thấu suốt tường tận đối với sự thật lý luận của nhân 
duyên quả báo, thì sẽ liền biết làm thế nào trải qua ngày tháng trong cuộc sống 
thường ngày, làm thế nào đối nhân xử thế. Còn hai loại sách “Cảm Ứng Thiên” 
và “Âm Trắc Văn”, mỗi ngày đọc một lần. Thời khoá sớm tối của mình cần thêm 
vào, nỗ lực phản tỉnh, nỗ lực kiểm điểm, xem mình có phạm phải những điều đã 
nói trong sách hay không? Có tu học theo lời khuyên bảo hay không? Mỗi ngày y 
theo đây mà tu học, bạn có thể tu được ba trăm việc thiện, liền trở thành địa tiên, 
đó là tiên nhân của nhân gian. 
Có đồng tu đem điều này đến hỏi tôi. Tôi trả lời họ, ba trăm việc là ba trăm loại, 
bạn phải làm cho rõ ràng. Nếu nói ba trăm việc thiện rất dễ dàng, một ngày làm 
ba trăm việc thiện liền trở thành địa tiên? Thực chất là ba trăm loại việc thiện. 
Mỗi loại khi gặp thì phải làm được. Nhất định chăm chỉ nỗ lực y giáo phụng 
hành, đó đều là pháp lạc. Hiện tiền chúng ta, chúng sanh thời đại này, khu vực 
này là pháp dược rất hữu hiệu. Đại sư Ấn Quang khai mở cho chúng ta, càng 
nghĩ càng có đạo lý. Hy vọng đồng tu chúng ta đều lưu ý, tỉ mỉ kiểm điểm, y giáo 
phụng hành, tự nhiên liền có công đức lợi ích thù thắng. 
“THĂNG QUÁN ĐẢNH GIAI, THỌ BỒ ĐỀ KÝ, VI GIÁO BỒ TÁT, TÁC A XÀ 
LÊ, THƯỜNG TẬP TƯƠNG ƯNG, VÔ BIÊN CHƯ HẠNH, THÀNH THỤC BỒ 
TÁT, VÔ BIÊN THIỆN CĂN, VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT, HÀM CỘNG HỘ NIỆM” 
Đoạn kinh văn này tương ưng với nghi thức của thôn A Di Đà ở đoạn “thọ ký 
Phật hộ”. Chư Phật hộ niệm tu học Phật pháp, dạy bảo mục tiêu sau cùng đều 
không ngoài hy vọng chúng ta thành Phật ngay đời này. Hơn nữa còn làm Phật 
cứu cánh viên mãn. Tôi nghĩ các đồng tu, ngày trước tuy đã từng nghe kinh Vô 
Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cho đến các kinh luận đại thừa khác nhưng vẫn còn 
nghi hoặc, không tin tưởng, huống hồ tin sâu. Do nguyên nhân gì? Vì lý quá sâu, 
sự quá phức tạp, thường thức phàm phu chúng ta không thể lý giải nên không 
thể tin sâu. Đó là hiện tượng bình thường. 
Lần này ở Singapore, chúng ta hội hợp tại Cư Sĩ Lâm không giống như ngày của 
mười năm trước. Ngày nay chúng ta khởi giảng đại kinh. Chỉ có Đại Phương 
Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh mới nói một cách thấu triệt, tường tận. Đó là sự 
giúp đỡ rất lớn, khiến chúng ta không chỉ sanh khởi tín tâm mà còn tin sâu không 
hoài nghi. Đồng thời dành thời gian một ngày nói với các vị tường tận kinh Vô 
Lượng Thọ, cũng chính là thâm nhập Tịnh Độ, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín 
ở ngay đời này, đích thực thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn. Duyên phận 
hi hữu thù thắng như vậy quả đúng như kệ khai kinh đã nói “trăm ngàn vạn kiếp 
khó được gặp”. Cư sĩ Bành Tế Thanh cũng từng phát biểu, vô lượng kiếp đến 
nay một ngày hi hữu khó gặp. Hôm nay may mắn gặp được, hy vọng chúng ta 
biết trân trọng nhân duyên hy hữu này, cố gắng nắm giữ nó, thành tựu đạo 
nghiệp một đời. 
“Thăng quán đảnh giai, thọ Bồ Đề ký”
Đoạn kinh văn rất giống khẩu khí của mật tông. Không sai, đích thực là mật 
pháp. Như vậy “hiển, mật, tông, giáo” viên dung, trong kinh Vô Lượng Thọ, bao 
gồm giáo nghĩa của các tông các phái. Kinh văn không dài nhưng rất viên mãn. 
Vậy chúng ta có phải niệm chú, học mật hay không? Không cần thiết vì kinh này 
đều bao gồm hết, không kém khuyết thứ gì, đích thực là đại viên mãn giáo. 
“Quán đảnh” là nghi thức mật tông thọ ký. Thế nhưng mật tông quán đảnh phân 
ra rất nhiều giai đoạn. Ban đầu học Phật thọ tam quy thì thượng sư quán đảnh 
cho bạn. Bản thân tôi ban đầu học Phật thọ tam quy là nhờ đại sư Chương Gia 
truyền thụ, cũng nhận qua nghi thức quán đảnh, nhưng đó chỉ là hình thức. Rốt 
cuộc chúng ta không hiểu ý nghĩa chân thật của quán đảnh. Đại sư cũng không 
giảng giải tường tận cho chúng ta nghe. Trong nghi thức tuyệt nhiên không có 
giải thích rõ ràng, bởi vì người nhận quy y số lượng rất đông, thời gian rất thúc 
bách. Tôi thân cận đại sư nên khi có nghi vấn thì thỉnh giáo với ngài, nhờ ngài 
khai đạo. Nghi thức quán đảnh, quan trọng nhất là phải hiểu rõ nội dung của nó. 
“Mật Tạng ký sao” của Đại Tạng kinh có giải thích tỉ mỉ. “Quán” thí dụ cho đại bi 
hộ niệm, ngày nay chúng ta gọi là đại từ bi gia trì, đại từ bi hộ niệm, hoặc người 
thế gian thường nói “đại từ bi bảo hộ”. “Đảnh” là cao nhất, đầu của người là cao 
nhất. Đảnh đại biểu pháp môn cao nhất, pháp môn thù thắng nhất, đỉnh pháp 
trong tất cả pháp môn. 
Chúng ta liên kết hai chữ “quán đảnh” lại thì liền rõ được ý nghĩa. Phật dùng đại 
từ đại bi, đem đảnh pháp viên mãn thù thắng nhất truyền thụ cho chúng ta, đó 
gọi là quán đảnh. Không phải dùng một ít nước rảy vài giọt lên đầu của bạn thì 
gọi là quán đảnh. Quán đảnh như vậy không ích gì, chỉ là hình thức biểu pháp. 
Quan trọng là họ truyền pháp cho bạn, cái pháp này đương nhiên là đảnh pháp 
chí cao vô thượng. Bạn đạt pháp môn này nhất định được tất cả chư Phật hộ 
niệm, gia trì, giúp đỡ, khiến bạn khế nhập đảnh pháp, khế nhập pháp môn quả 
địa cứu cánh Như Lai, đó mới gọi là quán đảnh. Do đây có thể biết, quán đảnh 
trong hiển giáo của chúng ta quy y trên hình thức, thọ giới trên hình thức, đều 
không đủ tin cậy. Phật pháp phải nói đến thực chất, chân thật chịu làm. 
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 34) 
Pháp Sư Tịnh Không 
“Quán đảnh giai” thực tế chính là chỉ bổn kinh. Làm sao biết bổn kinh này là 
đảnh pháp. Lão cư sĩ Mai Quang Hy ở phía trước bổn hội tập kinh Vô Lượng 
Thọ, có một thiên lời tựa rất hay, viết rất dài. Lời tựa nhắc đến một đoạn, ông 
vận dụng ghi chép của đại đức xưa kể rằng, vào thời Tùy Đường, Phật pháp 
hưng thịnh nhất trong sử Phật giáo Trung Quốc, đó là thời đại hoàng kim của 
Phật giáo. Đại tiểu thừa Phật giáo, mười tông phái gần như đồng thời xuất hiện. 
Một số người xuất gia ưu tú từ nước ngoài đến Trung Quốc du học, đạt một số 
thành tựu đặc biệt như Nhật Bản, Hàn Quốc. Vào lúc đó Hàn Quốc chưa thống 
nhất, gọi là Tam Hàn. Phía nam Việt Nam cũng có rất nhiều cao tăng đại đức 
đến Trung Quốc du học. Thời điểm đó họ từng thảo luận tỉ mỉ và nghiên cứu 
phân tích, Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa giảng kinh hơn ba trăm hội, nói pháp
bốn mươi chín năm, nhưng bộ kinh nào biểu đạt đầy đủ cả thảy tính chất của 
Phật pháp? 
Những đại đức này gần như công nhận Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm 
kinh có thể đại biểu cả thảy Phật pháp, gọi là pháp luân căn bản. Họ còn dùng 
thí dụ để nói, tất cả kinh đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm. Phật pháp giống 
như một cây to, Hoa Nghiêm là gốc rễ. Ngoài ra, những điều Thế Tôn nói trong 
bốn mươi chín năm không ngoài cành lá trên thân cây đó. Cành lá không rời 
khỏi cội gốc, nên Hoa Nghiêm được gọi là pháp luân căn bản. Vậy Hoa Nghiêm 
chính là đảnh pháp. 
Thời đó người tu Tịnh Độ không ít, triều nhà Đường xuất hiện đại sư Thiện Đạo. 
Lịch sử Trung Quốc ghi chép, ngài là hoá thân của Phật A Di Đà. Lịch sử Trung 
Quốc cũng từng nói, có ba vị là Phật A Di Đà hoá thân mà chúng ta biết, còn 
những vị mà chúng ta không biết thì không thể tính đếm được. Vị thứ nhất là đại 
sư Thiện Đạo, vị thứ hai là pháp sư Vĩnh Minh Diên Thọ, vị thứ ba là Hòa 
Thượng Phong Can ở chùa Quốc Thanh. Ba vị này đã bộc lộ thân phận. Chúng 
ta nên biết, chư Phật Bồ Tát thị hiện ở thế gian rất hiếm khi bộc lộ thân phận, 
còn người không bộc lộ thân phận thì rất nhiều. Cho nên tôi khuyên các đồng tu 
phải sanh tâm cung kính đối với người. Không chừng bạn xem thường một 
người nào, thì người đó lại là Phật A Di Đà hoá thân, vậy coi như bạn đắc tội, 
còn có thể vãng sanh hay sao? Nói là nói như vậy, nhưng vãng sanh vẫn chiếu 
theo vãng sanh. Bạn đắc tội, Phật A Di Đà nhất định sẽ không trách cứ. Điều 
kiện vãng sanh là đầy đủ tín nguyện hạnh, chúng ta đối với tất cả mọi người phải 
bình đẳng cung kính mới là đúng pháp. 
Rất nhiều cao tăng đại đức Nhật Bản đều từng thân cận đại sư Thiện Đạo và 
đem Tịnh Độ tông truyền đến Nhật Bản, Hàn Quốc. Một ngôi chùa ở Nhật Bản 
tên gọi chùa Thiện Đạo ngày hôm nay được rất nhiều người đến. Thấy chùa, 
người ta liền biết ở đó tu Tịnh Độ nhờ tên huý của đại sư đặt cho chùa miếu. Họ 
rất cung kính đối với ngài. Tượng đắp của đại sư có khắp nơi trên Nhật Bản. 
Còn đệ tử Phật tịnh tông Trung Quốc chúng ta lại quên mất đại sư. Khi tham 
quan du lịch Nhật Bản, chúng ta gặp quang cảnh này liền sanh tâm hổ thẹn. 
Người ta tôn kính tổ sư chúng ta đến như vậy, thế mà chúng ta quên mất. 
Lại tỉ mỉ tìm hiểu Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đến sau cùng làm 
thế nào mới có thể viên mãn thành tựu, đạt đến đảnh pháp chân thật? Thì ra là 
pháp sau cùng nhất, Bồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương cầu sanh Cực 
Lạc. Những đệ tử Phật liền khẳng định kinh Vô Lượng Thọ là đảnh pháp, vì kinh 
Vô Lượng Thọ rút gọn kinh Hoa Nghiêm. Những cao tăng đại đức lúc đó nói, 
“Hoa Nghiêm” “Pháp Hoa” trên thực tế dẫn đạo bạn quay về Tịnh Độ. Cũng 
giống như chúng ta mở ra ba phần, “Hoa Nghiêm”, “Pháp Hoa” là phần tựa, kinh 
vãng sanh Tịnh Độ là phần chính, cụ thể là kinh Vô Lượng Thọ, và kinh A Di Đà 
là phần lưu thông. Cho nên trước nhà Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh mới nói, kinh 
Vô Lượng Thọ là quyển trung của Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là tiểu bổn của 
Hoa Nghiêm. Ba bộ kinh này kỳ thật là một bộ. Lời nói của Bành Tế Thanh 
không đơn giản. Nếu không vào được cảnh giới này thì ông không thể nói ra như 
vậy. 
Thông thường nói kinh Hoa Nghiêm, Vô Lượng Thọ, A Di Đà là đảnh pháp. 
Nguyên bản dịch của bổn kinh này rất nhiều. Từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc,
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3
Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3

More Related Content

What's hot

Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữThiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữHoàng Lý Quốc
 
Bốn khóa trình tu đạo thiên
Bốn khóa trình tu đạo thiênBốn khóa trình tu đạo thiên
Bốn khóa trình tu đạo thiênHoàng Lý Quốc
 
Lợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đườngLợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đườngHoàng Lý Quốc
 
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giảiBát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giảiHoàng Lý Quốc
 
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồiHoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồiHoàng Lý Quốc
 
Tiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thầnTiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thầnHoàng Lý Quốc
 
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangTinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangtung truong
 
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...Đỗ Bình
 
Nguồn suối trong tâm tánh tập 2
Nguồn suối trong tâm tánh   tập 2Nguồn suối trong tâm tánh   tập 2
Nguồn suối trong tâm tánh tập 2Hoàng Lý Quốc
 
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1Hoàng Lý Quốc
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)Phật Ngôn
 

What's hot (20)

Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữThiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
Thiên nhiên cổ phật đinh ninh tâm ngữ
 
Bốn khóa trình tu đạo thiên
Bốn khóa trình tu đạo thiênBốn khóa trình tu đạo thiên
Bốn khóa trình tu đạo thiên
 
Tâm không phóng dật
Tâm không phóng dậtTâm không phóng dật
Tâm không phóng dật
 
Lợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đườngLợi ích của việc thường trở về phật đường
Lợi ích của việc thường trở về phật đường
 
Quang minh trí tuệ
Quang minh trí tuệQuang minh trí tuệ
Quang minh trí tuệ
 
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giảiBát nhã ba la mật đa tâm kinh   chú giải
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh chú giải
 
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồiHoạt phật sư tôn từ huấn   mười năm rồi
Hoạt phật sư tôn từ huấn mười năm rồi
 
Tiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thầnTiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thần
 
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoangTinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
Tinh dovangsanhchanhnhan ps-dinhhoang
 
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật  “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
Kinh Ưu Bà Tắc Giới卍 Thiện Sinh bạch Phật “ Kính bạch Đức Thế Tôn , Ai là ng...
 
Nguồn suối trong tâm tánh tập 2
Nguồn suối trong tâm tánh   tập 2Nguồn suối trong tâm tánh   tập 2
Nguồn suối trong tâm tánh tập 2
 
Giao ancn cusi-3 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao ancn cusi-3 - THẦY THÍCH THÔNG LẠCGiao ancn cusi-3 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
Giao ancn cusi-3 - THẦY THÍCH THÔNG LẠC
 
15 Điều Phật Quy
15 Điều Phật Quy15 Điều Phật Quy
15 Điều Phật Quy
 
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1Nguồn suối trong tâm tánh   tập 1
Nguồn suối trong tâm tánh tập 1
 
Đại Đạo Tam Bảo
Đại Đạo Tam BảoĐại Đạo Tam Bảo
Đại Đạo Tam Bảo
 
LỜI KHAI THỊ CỦA TĂNG
LỜI KHAI THỊ CỦA TĂNGLỜI KHAI THỊ CỦA TĂNG
LỜI KHAI THỊ CỦA TĂNG
 
Lấy giới làm thầy
Lấy giới làm thầyLấy giới làm thầy
Lấy giới làm thầy
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 6 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
Su Ton Quy Cua Dao
Su Ton Quy Cua DaoSu Ton Quy Cua Dao
Su Ton Quy Cua Dao
 
Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 5 (Thích Thanh Từ)
 

Similar to Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3

[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬTtung truong
 
Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1
Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1
Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1Ngọa Long
 
Chính mình phải làm gương
Chính mình phải làm gươngChính mình phải làm gương
Chính mình phải làm gươngcamnanggiaoduc
 
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)Phật Ngôn
 
Phật học vấn đáp
Phật học vấn đápPhật học vấn đáp
Phật học vấn đápKien Thuc
 
Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)Phật Ngôn
 
17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sátLong NguyenThe
 
Truyen nhuc bo doan hoi 2
Truyen nhuc bo doan hoi 2Truyen nhuc bo doan hoi 2
Truyen nhuc bo doan hoi 2truyentranh
 
Batnhabalamatda httuthong
Batnhabalamatda httuthongBatnhabalamatda httuthong
Batnhabalamatda httuthongĐỗ Bình
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordNhân Quả Luân Hồi
 
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...Đỗ Bình
 
Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)
Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)
Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)Phật Ngôn
 
Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)Phật Ngôn
 
Những chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quảNhững chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quảHung Duong
 

Similar to Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3 (20)

Tâm không phóng dật)
Tâm không phóng dật)Tâm không phóng dật)
Tâm không phóng dật)
 
TÂM GIẢI THOÁT KHI CHỈ THẤY LỖI MÌNH - KHÔNG THẤY LỖI NGƯỜI
TÂM GIẢI THOÁT KHI CHỈ THẤY LỖI MÌNH - KHÔNG THẤY LỖI NGƯỜITÂM GIẢI THOÁT KHI CHỈ THẤY LỖI MÌNH - KHÔNG THẤY LỖI NGƯỜI
TÂM GIẢI THOÁT KHI CHỈ THẤY LỖI MÌNH - KHÔNG THẤY LỖI NGƯỜI
 
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
[KHAI THỊ]: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT- MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
 
Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1
Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1
Kinh đại thừa vô lượng thọ tap 1
 
Chính mình phải làm gương
Chính mình phải làm gươngChính mình phải làm gương
Chính mình phải làm gương
 
LỜI DẠY THẦY THÍCH NHẬT TỪ
LỜI DẠY THẦY THÍCH NHẬT TỪ LỜI DẠY THẦY THÍCH NHẬT TỪ
LỜI DẠY THẦY THÍCH NHẬT TỪ
 
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 7 (Thích Thanh Từ)
 
Phật học vấn đáp
Phật học vấn đápPhật học vấn đáp
Phật học vấn đáp
 
Tao duyengiaohoa 10428_updt
Tao duyengiaohoa 10428_updtTao duyengiaohoa 10428_updt
Tao duyengiaohoa 10428_updt
 
Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 4 (Thích Thanh Từ)
 
17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát17 7-22-kinh chiêm sát
17 7-22-kinh chiêm sát
 
Truyen nhuc bo doan hoi 2
Truyen nhuc bo doan hoi 2Truyen nhuc bo doan hoi 2
Truyen nhuc bo doan hoi 2
 
Batnhabalamatda httuthong
Batnhabalamatda httuthongBatnhabalamatda httuthong
Batnhabalamatda httuthong
 
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản WordGiảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
Giảng Kinh Lăng Nghiêm Quyển 7 | Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng | Bản Word
 
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
Này long vương , ông nên biết bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ tất cả khổ n...
 
Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)
Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)
Chơn Tâm Trực Thuyết (Thích Đắc Pháp)
 
Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)
Hoa Vô Ưu Tập 8 (Thích Thanh Từ)
 
430
430430
430
 
Những chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quảNhững chuyện nhân quả
Những chuyện nhân quả
 
430
430430
430
 

Kinh đại thừa vô lượng thọ tập 3

  • 1. KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 31) Pháp Sư Tịnh Không “Hoại chư dục trạm” . “Trạm” là thí dụ. Trước thành thị có tường thành, bên ngoài thành có hào giữ thành, hào gọi là trạm. Phật ở chỗ này đem phiền não thí dụ cho thành, đem dục vọng thí dụ cho hào giữ thành. Tất cả chúng sanh ở thế gian đều có dục vọng, cụ thể “ngũ dục” gồm năm loại dục vọng mãnh liệt: “tài, sắc, danh, thực, thùy”; “lục dục” gồm “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” còn gọi là lục trần. Những thứ này phải viễn ly, phải xả bỏ, hạ dục vọng của đời sống xuống mức thấp nhất thì đời sống của bạn liền được đại tự tại, ngay đời này chân thật hạnh phúc mỹ mãn. Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu được. Phật và học trò của ngài cũng làm được điều này, nên họ trải qua đời sống thong dong tự tại. Dưới mỗi gốc cây chỉ ngủ một đêm, nửa ngày ăn một bữa, không có gánh nặng nào. Trong khi người thế gian mê hoặc điên đảo, tham đắm năm dục sáu trần, nghĩ hết cách phải thành gia lập nghiệp, tại dựng cái nhà. Nhà là gì? Các vị xem thử kiểu dáng “nhà”, văn tự Trung Quốc, giống như chữ “hào”. Có một căn phòng nhỏ, trong phòng là chú heo nhỏ, đó chính là chữ nhà. Phật đầy đủ trí tuệ nên không làm việc này. “Nghiệp” là gì? là nghiệp chướng. Bạn còn phải lập nghiệp, chướng ngại “minh tâm kiến tánh”, chướng ngại thoát sanh tử, ra ba cõi. Gia nghiệp trói buộc, người giác ngộ phải biết xả bỏ nó. Vậy ngày nay, người xuất gia chúng ta có thật xuất gia hay không? Không. Họ ra khỏi nhà nhỏ, liền xây nhà to; xả bỏ nghiệp nhỏ, làm một đại nghiệp, khổ nói không ra lời. Cho nên phải tỉ mỉ tư duy, nghĩ xem khi còn ở đời, Phật đã dạy chúng ta như thế nào, tổ sư đại đức xưa nay dạy bảo chúng ta như thế nào. Khi Thế Tôn còn tại thế, không có đạo tràng. Tuy lúc tuổi già, một số quốc vương đại thần cúng dường tịnh xá, vườn rừng, thỉnh Phật ở đó giảng kinh nói pháp, đó chỉ là thỉnh Phật tạm trú, không hề tặng Phật Thích Ca Mâu Ni. Vườn rừng đạo tràng vẫn là của chính các tín đồ, họ vẫn có quyền sở hữu. Phật Thích Ca Mâu Ni cùng các đệ tử này chỉ có quyền sử dụng, chứ không có quyền sở hữu. Cũng như chúng ta ở nhà nghỉ vậy, chỉ đến ở vài ngày, nhưng ông chủ mới là người có quyền sở hữu. Lão hòa thượng tiền bối cũng từng nói, căn phòng này khi mưa xuống bị dột, người xuất gia thấy dột thì dọn qua nơi không dột. Bị dột nữa thì đi nơi khác. Sửa sang phòng ốc là việc của người chủ. Người tạm nghỉ không lo việc này. Loại cúng dường đó công đức chân thật. Ngày nay, một số tín đồ mua nhà cửa, cúng dường quyền sở hữu cho pháp sư. Pháp sư liền bước lên thòng lọng, thiệt hại càng to. Không phải bạn đang muốn xuất gia hay sao? Người ta kéo bạn trở lại thì bạn đã quay lại, rồi có một căn nhà, nhốt chết bạn, vĩnh viễn không thể thoát khỏi luân hồi. Tôi hy vọng đồng tu xuất gia chúng ta phải cảnh giác cao độ, quyết không để bị thiệt. Nếu như bạn muốn hỏi, “không có bất cứ thứ gì vẫn có thể thân tâm an ổn làm đạo sao?”. Cả đời tôi làm tấm gương cho các vị, cả đời tôi không có đạo tràng,
  • 2. đều ở đạo tràng của người khác. Cả đời này chẳng phải tự tại, an vui hay sao? Không có gia nghiệp càng tự tại, càng an vui. Nếu không có người quan tâm đến tôi, không thỉnh tôi giảng kinh, không có nơi để ở, thì tôi càng an vui không gì bằng. Tôi có thể lập tức đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được A Di Đà Phật tiếp dẫn. Vì các vị vẫn cúng dường, tìm tôi giảng kinh, nên tôi không còn cách nào khác, phải ở thêm vài ngày vậy, đó là sự thật. Dục vọng giảm xuống mức thấp nhất. Hiện tại tôi gần như không có dục vọng. Hoằng pháp lợi sanh là việc của các vị, không liên quan đến tôi. Tôi ở đây giảng kinh, các vị muốn lưu thành băng đĩa để truyền bá khắp nơi, lợi ích chúng sanh, đó là việc của các vị, không liên quan đến tôi. Từ trước giờ tôi không nghe không hỏi, đó không phải là việc của tôi. Ai thích làm gì thì làm. Tôi cũng không có bản quyền, không gởi quan cáo các vị về tác quyền. Chúng ta phải học người thông minh, phải biết những thứ này không là việc tốt, quyết không có chướng ngại, xả bỏ tất cả mới có thể được đại tự tại. Mấy ngày nay, một số đồng tu nói với tôi, họ nghe tôi giảng kinh thuyết pháp, đem nhà và gia nghiệp thảy đều buông bỏ để đến học Phật. Sự nghiệp vừa buông bỏ, không làm việc, không thu nhập, qua vài ngày đời sống trở thành vấn đề. Cả nhà kêu khổ, thân thích bạn bè xem thấy cho rằng người học Phật này bị ma ám, mê muội. Nghe xong, tôi thấy họ đã hiểu sai ý nghĩa lời tôi nói. Tôi không dạy như vậy. Kinh nói “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, thực tế không dễ dàng. Ý nghĩa lời tôi nói bạn còn hiểu sai thì làm sao có thể hiểu được ý của Như Lai? Trong kinh Phật dạy chúng ta buông bỏ là buông bỏ phiền não, buông bỏ dục vọng. Không bảo bạn buông bỏ công việc. Kinh luận đại thừa tiểu thừa, không có bài kinh nào Phật bảo bạn buông bỏ công việc. Nếu Phật bảo buông bỏ hết công việc thì công tác giảng kinh nói pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng buông bỏ. Chúng ta sẽ không có kinh nghe, thế gian không có Phật pháp. Việc không hề chướng ngại trên kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Ngại là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chính là nói phiền não, dục vọng. Cho nên, chướng ngại trên tâm lý phải buông bỏ. Trên sự không có chướng ngại. Không chỉ Phật không dạy buông bỏ công việc mà Phật còn dạy bạn làm việc chăm chỉ nỗ lực hơn người. Bạn muốn làm tốt hơn người khác, phải trở thành tấm gương để người khác soi theo. Sau cùng trong kinh Hoa Nghiêm nói đến năm mươi ba đồng tham, chẳng phải là thí dụ hay sao. Năm mươi ba vị đó không phải là Bồ tát mà là năm mươi ba vị Phật. Họ dùng thân đại sĩ để xuất hiện. Họ nội chứng, vẫn là thị hiện, không phải thật, đều là chư Phật Như Lai. Trên dấu vết có nam nữ già trẻ, các ngành nghề. Nhưng từ một nghề nghiệp nào đó, họ làm ra tấm gương tốt nhất. Cho nên Bồ Tát đạo tu ở đâu? chính ngay cuộc sống thường ngày của mình. Không hề rời khỏi đời sống. Nếu bạn nói, nhất định phải phát tâm, phải học Phật, phải tu hành chứng quả, phải xả bỏ việc nhà, thì nhất định phải xuất gia, nhưng xuất gia có thể thành Phật hay không? Xuất gia nếu không gặp duyên tốt, tạo tội nghiệp càng sâu, đọa a tỳ địa ngục càng nhanh, càng thê thảm. Chúng ta ở năm mươi ba vị đồng tham xem thấy, năm mươi ba vị Phật chính ngay trong đời sống của họ, trong nghề nghiệp của họ, mỗi mỗi đều thành tựu. Chúng ta phải giác ngộ. Những người đó đoạn tham sân si trong cuộc sống, xả bỏ dục vọng, thành tựu
  • 3. vô lượng pháp môn, thành tựu vô thượng Phật đạo, đó gọi là học Phật. Tuyệt nhiên không xả bỏ đi sự nghiệp của mình. Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện người xuất gia, một nghề nghiệp tu hành chứng quả có thể thành Phật. Cư sĩ Duy Ma cùng Thích Ca Mâu Ni Phật trong một thời đại, thị hiện tại gia thành Phật, có gia nghiệp, có vợ con, dù tại gia nhưng cũng thành tựu cứu cánh viên mãn quả Phật như nhau. Cho nên các vị phải biết, xuất gia là một hạnh trong ba trăm sáu mươi hạnh. Hạnh nghiệp này là giáo dục xã hội, một tính chất nghĩa vụ. Bạn có hứng thú đối với việc này thì có thể chọn lựa. Hạnh nghiệp này là hoàn toàn dốc hết nghĩa vụ, quyết không ham muốn báo đáp. Không nhận báo đáp, bạn mới thanh tịnh. Nếu bạn tự làm rất nhiều việc từ thiện xã hội thì hà tất phải làm người xuất gia cho phiền. Bạn có tiền có thế lực thì cứ làm. Còn cúng dường pháp sư và yêu cầu pháp sư làm từ thiện giúp, như thế chẳng phải phiền người khác hay sao. Thích Ca Mâu Ni Phật không bao giờ làm. Trong hàng đệ tử của Ngài có biết bao quốc vương đại thần, nhưng Ngài không bao giờ tiếp nhận cúng dường hay lời thỉnh mời làm giúp những việc từ thiện. Phật chỉ dạy cách làm và bạn phải tự làm. Phật không làm thay việc này cho bạn. Hiện tại người xuất gia phá giới phạm quy củ cũng vì tiếp nhận cúng dường của người tại gia, làm việc cho người tại gia. Nếu thông minh có trí tuệ, chúng ta không làm việc ngốc này. Hãy để họ tự làm, chúng ta mới có thể viên mãn tròn đầy bổn phận của mình. Không ít người đi khắp nơi cúng dường tăng, trở thành một phong tục. Nếu bạn không tiếp nhận thì bị mắng và quy kết không từ bi, không chịu để người gieo chút phước điền. Việc này thật bất đắc dĩ cho nên không cách gì. Chẳng hạn ở HongKong, tôi không thể không tiếp nhận. Sau khi tiếp nhận, tôi liền đưa đồng tu mang về, thảy giao cho cư sĩ Lý Mộc Nguyên làm Phật sự. Ở Đài Loan cũng nhận ít cúng dường. Vừa đúng lúc có pháp sư đến đại lục cứu tế. Tôi nghe nói đại lục nạn nước rất nghiêm trọng, nên thảy đều giao hết tiền cúng dường cho pháp sư đó. Tôi không hề nhìn qua bao nhiêu tiền bên trong. Nhiều bao đỏ mang đến lại cho đi, rất tự tại. Phải biết tham sân si mạn, năm dục sáu trần hại chúng ta đời đời kiếp kiếp không ngẩng đầu lên. Không phải chúng ta không có thiện căn, nếu không có thiện căn, bạn không thể ngồi đây đến hai giờ đồng hồ. Ngồi được hai giờ đồng hồ, chứng tỏ bạn có thiện căn, Phật duyên của bạn rất sâu, quá khứ đời đời kiếp kiếp thân cận chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát, tổ sư đại đức, nhưng vì sao bạn không thể vãng sanh, vì sao vẫn đọa vào sáu cõi sanh tử luân hồi? Vì phiền não của bạn chưa đoạn, dục vọng chưa xả hết, bạn thường hay nghĩ đến việc này, càng nghĩ càng đáng sợ, càng nghĩ càng thấy nghiêm trọng. Trong đời này chúng ta gặp Phật pháp, được cơ duyên thù thắng, thuận lợi vãng sanh, nhưng còn phải xem bạn có chịu đem phiền não dục vọng hạ xuống mức thấp nhất hay không. Xả bỏ và hạ thấp thì ngay đời này liền thành tựu. Nếu đời này vẫn bị tập khí lôi kéo, vẫn không buông bỏ, hay nói cách khác, đời này cũng giống y đời trước, chỉ kết được thiện duyên với Phật A Di Đà thì không thể đi được. Bạn lại uổng qua một đời nữa, nghĩ xem có đáng tiếc không. Kinh văn mở ra câu thứ nhất liền nói đến phiền não dục vọng, thế mới biết tính nghiêm trọng của nó. Vô lượng kiếp đến nay chúng ta đã bị hại thê thảm, vậy mà vẫn chưa chịu giác ngộ hay sao?
  • 4. “Tẩy trạc cấu uế” “Cấu” là phiền não chướng, “uế” là sở tri chướng, là vô minh, những thứ chúng ta phải kỳ rửa cho thật tinh sạch. Câu kinh này từ trên thí dụ mà nói, vậy phải dùng phương pháp gì để tẩy rửa? Lý luận trong kinh điển đại tiểu thừa cho chúng ta nhiều phương pháp phương tiện khéo léo tẩy rửa sở tri chướng và phiền não chướng. Tịnh tông Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta “gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục”, đó là phương pháp tốt, nhưng làm thế nào để gom nhiếp sáu căn? “Nhiếp” là thâu nhiếp. Phật dạy như vậy, thánh nhân thế gian cũng dạy chúng ta như vậy. Các vị đọc Tứ Thư, Mạnh tử đã nói ra ý này, “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ”. “Cầu kỳ phóng tâm” chính là “gom nhiếp sáu căn”. Tâm phàm phu chúng ta tùy theo sáu căn mà chạy rong bên ngoài, phan duyên sáu trần, nhãn duyên sắc, tai duyên tiếng, tâm hướng ra ngoài. Những thánh hiền thế xuất thế gian dạy bảo chúng ta phải gom nhiếp tâm đó lại. Mắt không duyên sắc trần, tai không duyên thinh trần, đó chính là học vấn, là công phu. Xã hội hiện đại rất phức tạp. Kinh Lăng Nghiêm nói “tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng”, Phật không quá đáng chút nào. Phàm hễ mê hoặc bạn thì đều là tà sư. Truyền hình đang dạy bạn, ca vũ đang dạy bạn, sáu căn của bạn tiếp xúc với cảnh giới đều đang dạy bạn tạo mười ác nghiệp, tăng thêm tham sân si mạn, mục đích kéo bạn vào a tỳ địa ngục, không dễ gì thoát khỏi. Bồ Tát Địa Tạng ở nơi đó khổ cực lắm mới kéo bạn từ địa ngục đi ra. Kéo ra chưa được mấy ngày, những ma vương bên ngoài thấy bạn lại tạo nhiều sự mê hoặc. Bạn vừa nắm lấy thì lập tức trở vào. Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh đã nói, Bồ tát Địa Tạng thấy bạn vừa ra khỏi, rồi đánh một vòng lại trở vào, “chúng sanh Diêm Phù Đề, cang cường nan hoá”. Do đó chúng ta phải ghi nhớ lời của Phật Bồ Tát, không nên rơi vào thòng lọng yêu ma quỷ quái. Phải hiểu được gom nhiếp sáu căn. Phàm hễ tà ác, tà thì không chánh, ác thì không thiện, nhất định phải biết nguyên lý. Người chân thật tu hành không nên xem truyền hình. Truyền hình thời đại hiện nay là dấu hiệu của ma vương. Bạn qua lại với nó thì phiền não sẽ to. Vô số chúng sanh trên thế giới này từ nhỏ đã kết giao mật thiết với nó, một ngày không rời khỏi. Chúng ta phải cảnh giác cao độ. Không chỉ đó là ma vương, tương lai e rằng càng hung hơn, tà ác hơn. Đường truyền internet không cách gì phòng bị. Nội dung trong đó quá tà ác. Internet là một công cụ rất tốt để ma vương lợi dụng. Chúng ta là đệ tử Phật, phải phát tâm dùng công cụ này tuyên dương chánh pháp. Trong số người thế gian, người có thiện căn vẫn rất nhiều, họ sẽ giác ngộ, quay đầu. Lần trước tôi đến HongKong, lão pháp sư Giác Quang gọi điện cho tôi. Ông vừa từ Seattle Hoa Kỳ trở về. Ông ấy có hai đạo tràng ở Seattle, nên mỗi năm phải đi về hai lần, mỗi lần mười mấy ngày. Ông bảo, ở Seattle ngày ngày ông đều nghe tôi giảng kinh. Tôi lấy làm lạ, làm sao tôi có thể giảng kinh ở Seattle? Thì ra trên truyền hình. Mỗi ngày ở Hoa Kỳ có thời gian một giờ đồng hồ phát sóng băng đĩa giảng. Ông xem thấy rất hoan hỉ, gọi điện nói với tôi. Ông nói từ trước đó, trên truyền hình cũng có một số tà sư nói pháp, mê hoặc người. Sau khi phát tiết mục này của tôi, những tiết mục đó liền rất ít, người xem cũng giảm. Ông báo tin cho tôi, rồi mời tôi ăn cơm.
  • 5. Cho nên, chúng ta phải cố gắng lợi dụng công cụ khoa học kỹ thuật. Ngạn ngữ thường nói “không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng đụng hàng”. Chúng ta dùng hàng thật, hàng tốt để tạo sự so sánh. Một số người có thiện căn tự biết chọn lựa. Do đó chúng ta phải xem trọng khoa học kỹ thuật, phải khéo lợi dụng nó mà đem chánh pháp của Phật, pháp thuần thiện của Phật truyền bá khắp thế giới. Mọi người đều biết kiếp nạn tai biến triền miên, vậy có thể hoá giải được không? Trên lý luận khẳng định có thể hoá giải. Kiếp nạn hình thành do tri kiến tà ác, hành vi tà ác, chúng sanh nghiệp lực trói buộc, ác nghiệp chiêu cảm. Hiện tại có rất nhiều người không tin điều này. Họ không tiếp nhận, nhưng những điều này đều là sự thật. Phật thường nói “mười pháp giới y chánh trang nghiêm, duy tâm sở hiện duy thức sở biến”, đó là nói rõ nguồn gốc của vũ trụ nhân sanh, do vậy mà đến. Lại nói với chúng ta “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, hữu tình có tưởng liền biến thành hữu tình thế gian, vô tình vô tưởng liền biến thành khí thế gian. Hữu tình thế gian cùng khí thế gian đồng một căn nguyên. Người học qua pháp tướng duy thức đều biết. Bốn phần của a lại da, hữu tình hữu tưởng kiến phần, vô tình vô tưởng tướng phần. Kiến phần tướng phần cùng đồng một tự chứng phần. Nếu chúng ta có thể đoạn tất cả tà ác, nỗ lực tu thiện thì nghiệp thiện thêm lớn, hoàn cảnh y báo liền chuyển, tai nạn tự nhiên cũng có thể tiêu trừ, hoặc chuyển biến, chân thật là “y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Tóm lại, người chân thật hiểu dụng công, biết dụng công thì không gì khác hơn “gom nhiếp sáu căn”. Người niệm Phật so với phương pháp Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói còn phải đơn giản hơn, có hiệu quả hơn. Dùng phương pháp một danh hiệu Phật gom nhiếp sáu căn, “nhất thanh Phật hiệu, nhất thanh tâm”, “nhất niệm tương ưng, nhất niệm Phật”. Ngay trong một niệm không có tà ác thì tương ưng; không có tà tư, không có ác niệm thì tương ưng. Niệm Phật vẫn khởi vọng tưởng, vẫn còn tham sân si mạn, vẫn có phải quấy nhân ngã, thì không tương ưng. Nói chung, những tri kiến thế tục này thảy đều không còn, tâm địa thanh tịnh mới tương ưng. “Hiển minh thanh bạch” “Thanh bạch” là thí dụ chân tâm bổn tánh, tự tánh. Loại bỏ hai chướng ngại, phiền não chướng và sở tri chướng thì tự tánh thanh bạch liền hiển lộ. Ngày nay tự tánh thanh bạch của chúng ta bị hai loại chướng này chướng ngại nên không thể hiển lộ. Như Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói “Bất dã phương tiện, tự đắc tâm khai”. “Hiển minh” chính là tự đắc tâm khai. Tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh”. Bốn chúng đồng tu chúng ta ngay đời này phải lấy đây làm mục tiêu. Tất cả cái khác đều giả, cái này là thật, tịnh tông gọi là “Nhất tâm bất loạn”. Bạn niệm Phật đến nhất tâm thì thành tựu của bạn là chân thật. Buổi tối hôm qua, một học sinh đến hỏi tôi, làm thế nào để học giảng kinh? Tôi hỏi anh ấy năm nay bao nhiêu tuổi? Anh trả lời hai mươi tám tuổi. Tôi bảo anh hãy chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ trong mười năm, đến ba mươi tám tuổi. Trong mười năm, không nên can dự đến các kinh điển khác, chỉ chuyên một môn. Khi một môn thâm nhập tâm của bạn liền định. Một bộ kinh được giảng trên dưới mười năm thì mỗi năm chí ít cũng phải giảng hai lần. Hy vọng trong mười năm, bộ kinh này được giảng từ đầu đến cuối ba mươi lần, thậm chí năm mươi lần càng tốt. Sau mười năm, chắc chắn bạn sẽ trở thành giảng sư hay
  • 6. nhất thế giới, là chuyên gia của kinh Vô Lượng Thọ. Bạn chính là Vô Lượng Thọ Phật sống, Vô Lượng Thọ Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ. Bạn liền có thể hóa độ tất cả chúng sanh thế giới. Còn nếu bạn muốn học cùng lúc hai ba bộ kinh thì sức mạnh của bạn sẽ bị phân tán, không thể thành tựu. Bạn có học mười bộ kinh thì bạn cũng chỉ là một nhà Phật học, không liên quan gì đến việc thoát sanh tử vượt ba cõi. Tương lai bạn chết như thế nào vẫn phải chết như thế đó, đáng luân hồi như thế nào vẫn phải luân hồi như thế đó. Bạn phải hiểu đạo lý và chân tướng sự thật này. Bạn cũng không nên học tôi. Hôm nay tôi giảng nơi đây, ngày mai tôi lại giảng Hoa Nghiêm, giảng cái này, cái kia. Nếu bạn học tôi thì thật đáng lo. Vì tôi bị ép không còn cách lựa chọn. Nếu có người giảng Hoa Nghiêm, tôi sẽ tuyệt đối không giảng Hoa Nghiêm nữa mà một đời chỉ chuyên giảng một bộ kinh. Nhưng sở dĩ tôi phải giảng nhiều như vậy vì không có người giảng. Tôi không còn cách nào nên mới làm vậy. Rất nhiều người nói, “Pháp sư à! Lưu lại bộ băng đĩa này đi, đây là một công trình thật to lớn”. Thế nhưng tôi hy sinh có mức độ khi một đời giảng nhiều bộ kinh. Hạ hạ phẩm vãng sanh là mức thấp nhất, tôi biết mình có thể vãng sanh ít nhất là bậc hạ hạ phẩm. Còn nếu hạ hạ phẩm vãng sanh bạn cũng không thể nắm chắc thì việc giảng nhiều bộ kinh nhất định không nên làm. Hãy nghe lời tôi khuyên, ngay trong một đời này chuyên giảng một bộ kinh, tương lai các vị vãng sanh sẽ là thượng thượng phẩm. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, phẩm vị của bạn sẽ cao hơn tôi nhiều. Năm xưa Đại sư Trí Giả ở đời cũng đã hi sinh rất lớn. Khi ngài sắp vãng sanh cõi phàm thánh đồng cư, học trò hỏi phẩm vị vãng sanh của ngài. Ngài nói: “nếu tôi không độ chúng, phẩm vị rất cao. Nhưng vì độ chúng, phải lo việc trụ trì, cho nên chỉ vãng sanh ở phẩm vị thứ năm”. Công phu của phẩm vị thứ năm không cao, tương đương với ngũ đình tâm vị trong tiểu thừa. Thị hiện này xả mình vì người, đó là việc rất khó được. Thế nhưng chính ngài phải nắm chắc mức độ thấp nhất để vãng sanh. Đó là từ bi chịu hi sinh chính mình. Một khi chấp nhận hi sinh, phẩm vị cũng không gì đáng tiếc. Còn nếu chính mình không nắm chắc được phần vãng sanh thì vạn nhất không nên làm. Đó là việc chính mình nhất định phải biết, quyết không làm trung gian. Bạn thông đạt các loại kinh luận, đều giảng được, tiếng tăm của bạn cao, vậy coi như xong. Tiếng tăm đó hại chết bạn. Bạn sẽ không bằng người chân thật cừ khôi, bậc đại thiện tri thức. Những người đó, bạn hỏi họ, thứ gì họ cũng không biết, chỉ biết một môn. Năm mươi ba tham trong Hoa Nghiêm chính là tấm gương như vậy. Khi Thiện Tài đến tham phỏng năm mươi ba vị thiện tri thức, họ ngay trong vô lượng pháp môn chỉ học một pháp môn, không học các pháp môn khác, chính mình khiêm tốn, tán thán người khác. Họ tự cho cái biết của mình rất có hạn, người khác biết nhiều hơn nên lại giới thiệu Thiện Tài Đồng Tử đến nơi khác tham phỏng. Chư Phật Bồ Tát đều làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta xem. Chúng ta phải giác ngộ. Ngạn ngữ Trung Quốc nói: “Chỉ cần công phu sâu, lo gì sắt không mài thành kim”. Chỉ cần bạn hạ công phu, làm gì không thể thành tựu vô thượng bồ đề. Ngay một đời này, chúng ta đích thực có thể chứng đắc, chỉ cần bạn thật chịu làm, chân thật buông bỏ phiền não, xả bỏ dục vọng, một lòng một dạ chuyên môn công phu minh tâm kiến tánh. Phải biết sau khi ngộ, tất cả thông đạt vô
  • 7. ngại. Giáo học thời xưa không chỉ là Phật pháp mà còn có giáo học của nhà Nho. Lão sư rất xem trọng ngộ tánh của học trò. Thời kỳ kháng chiến, trường học chúng tôi ở Quế Châu, lão sư vẫn xem trọng ngộ tánh của học trò. Học trò nào ngộ tánh cao, thầy giáo đặc biệt quan tâm, chăm sóc. Họ không truyền bá tri thức mà dùng phương tiện khéo léo giúp bạn khai ngộ, đó mới là giáo dục chân thật. Còn trường học hiện tại hoàn toàn truyền thụ tri thức, không chú trọng ngộ tánh, sai lầm to lớn. Sau khi ngộ, bạn không chỉ thông đạt pháp xuất thế gian, mà pháp thế gian cũng thông đạt. Có người hỏi những Bồ Tát này cùng phàm phu chúng ta đồng một a lại da thức không? Không sai, là như nhau. Họ lại hỏi, ngay trong giống nhau vì sao lại nói “khứ hậu lai tiên tác chủ công”? Trong giống có không giống. Thế Tôn ở kinh Lăng Nghiêm đem tâm tánh thí dụ cho đại hải. A lại da thức của mỗi chúng sanh thí dụ cho bọt nước. Mỗi người là một bọt nước, vậy những bọt nước trong biển lớn giống nhau hay khác nhau. Đều từ đại hải biến hiện ra. Khi bọt nước này của bạn trong bể thì không giống, bởi vì phạm vi của bạn rất hẹp. Bọt nước của bạn sau khi ra bể mới hoàn toàn giống nhau. Cho nên quả nhiên có thể chuyển thức thành trí. Trí tuệ khai thì tất cả chư Phật công đức trí tuệ đã tu vô lượng kiếp đều biến thành chính ta. Các ngài tu biến thành của ta, vì đồng một pháp thân, đồng một tự tánh, đồng một a lại da thức. Tương tự, vô lượng kiếp đã tu của ta cũng biến thành của người khác. “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc”, đến quả địa Như Lai Phật Phật như nhau, không hề khác. Hiểu rõ đạo lý này mới biết khai ngộ rất đáng quý. Sau khi ngộ, tất cả thông đạt, thế xuất thế gian pháp cũng thông đạt. Từ xưa đến nay thế xuất thế gian pháp, bậc thiện tri thức chân thật thương yêu chúng sanh đều chủ trương dạy bảo “một môn thâm nhập, huân tu lâu dài”, không hề dạy nhiều và tạp. Rất nhiều rất tạp chính là hại bạn, làm cho bạn hướng đến con đường danh lợi, không phải hướng đến học vấn chân thật. Học vấn chân thật không liên quan danh vọng lợi dưỡng. Có học vấn chân thật sẽ không còn truy cầu danh vọng lợi dưỡng. Bên cạnh đó, nếu có duyên có thể nhờ danh vọng lợi dưỡng giáo hoá chúng sanh, lợi ích chúng sanh, quyết không ham muốn danh vọng lợi dưỡng. Phải hiểu đạo lý này, phương châm tu học mới có thể nắm chắc thành tựu. KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 32) Pháp Sư Tịnh Không “ĐIỀU CHÚNG SANH, TUYÊN DIỆU LÝ, TRỮ CÔNG ĐỨC, THỊ PHƯỚC ĐIỀN, DĨ CHƯ PHÁP DƯỢC, CỨU LIỆU TAM KHỔ” Đoạn kinh văn đại ý “bi trí liệu khổ”. Kinh Phật nói tam giới đều khổ, đó là nói đến trời, nhân gian. Trong mấy năm gần đây, người hiện đại chúng ta cảm xúc rất sâu sắc cái khổ của nhân gian. Trên trời cũng vậy. Kinh Phật cho biết có hai mươi tám tầng trời, cũng rất khổ. Khổ vô lượng vô biên có thể được phân làm ba loại lớn “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. “Khổ khổ”, chữ khổ phía sau là danh từ, phía trước là động từ, ý nói quá nhiều quá rộng. Phật quy nạp thành tám loại, gọi là tám khổ, mục đích thuyết minh nói
  • 8. rõ khổ khổ. Trong đó có sanh lão bệnh tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng hội, ngũ ấm xí thạnh. Tôi sẽ không nói tỉ mỉ vì mất nhiều thời gian. Ngoài tám khổ giao nhau, còn có hoại khổ, đối với tất cả sắc tướng luôn biến hoại. Khi nó tồn tại, chúng ta cảm thấy tốt đẹp, đến khi biến hoại liền cảm thấy rất khổ. Sau cùng là hành khổ. Thí dụ như người thế gian thường nói “không thể trẻ mãi”, đây thuộc về hành khổ. Sát na đang thay đổi, xê dịch đều thuộc về hành khổ. Phật nói, trong dục giới có ba loại khổ này, rất khó vượt qua. Trời sắc giới không có khổ khổ, vì khống chế được dục, nên gọi là “thiểu dục tri túc”. Họ có trí tuệ, sức định, xả bỏ được tham ái hưởng thọ trong năm dục sáu trần, do đó họ không có khổ khổ. Người trời sắc giới là hoá sanh, cho nên họ cũng không có khổ sanh lão bệnh tử. Họ đều xả bỏ năm dục “tài, sắc, danh, thực, thuỳ”. Trong khi đó, cõi dục giới là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh chiếm đại đa số. Một điều khiến chúng ta khó tưởng tượng. Chúng ta có thể xả tài, xả sắc, con người vẫn chưa phải chết; danh có thể không cần, nhưng ăn thì không được. Có người nào chịu nổi không ăn, không ngủ? Thế nhưng, các vị phải biết, người trời sắc giới thiền định rất sâu, “thiền duyệt vi thực”. Cái ăn dùng để nuôi thân, nhưng nuôi thân không cần phải có thức ăn, đó là thiền định. Thiền định cũng là trạng thái tỉnh táo, không hôn trầm. Họ ở trong định năm dục, nhằm chứng minh cho chúng ta họ đều có thể xả được. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta nên tận khả năng hạ thấp lòng tham sân si xuống. Như thế mới tốt cho chính mình. Không chỉ giúp đỡ việc tu học, giúp bạn khai trí tuệ, mà còn giúp thân thể bạn khoẻ mạnh sống lâu, không dễ già yếu. Định huệ khởi lên tác dụng nhất định. Người sức định càng sâu, họ biết thân thể này phiền phức, chính là sắc tướng. Người trời sắc giới có thân thể, tuy không khổ khổ, nhưng họ có hoại khổ. Thân hình có ngày sẽ hoại đi. Hoàn cảnh lầu các cung điện cũng sẽ hủy diệt. Cho nên họ có hoại khổ. Hoại khổ bắt nguồn từ đâu? Từ thân. Vì có sắc tướng nên mới có hoại khổ. Người thông minh biết tiến thêm một bước, tức không cần đến thân. Sắc tướng cũng xả bỏ, tiến vào vô sắc giới. Vô sắc giới đương nhiên không có hoại khổ và khổ khổ, nhưng họ có hành khổ. Hành khổ chính là cảnh giới tốt nhưng không thể vĩnh viễn giữ gìn. Đó là tầng cao nhất trong tầng trời, không gì cao hơn. Họ không giữ gìn được thì liền phải hướng xuống đọa lạc, đây gọi là hành khổ. Phật nói tam giới thảy đều khổ. Kinh Pháp Hoa hình dung ba cõi như nhà lửa. Bên trong đã cháy thì không nơi nào an toàn. Chúng ta nhất định phải biết, trong sáu cõi chỉ có khổ, không có vui. Bạn nói vui nhưng cái vui đó là cái khổ tạm thời đình chỉ nên bạn cảm thấy vui. Kỳ thật đó là cái thấy sai lầm của bạn. Phật thí dụ, con người mỗi ngày không thể ít đi ba buổi cơm. Ăn no ba bữa liền cảm thấy an vui. Nếu một bữa không được ăn thì thấy rất khổ. Hai bữa không được ăn sẽ càng khổ hơn, có thể thấy khổ là thật. Cái thân này có gì tốt, có gì vui? Đã đến lúc phải trị. Không trị không được. Đây là chân tướng sự thật. Cho nên tỉ mỉ mà nghĩ, lời Phật nói mỗi câu đều chân thật. Phật xuất hiện ở thế gian nhằm giáo hoá chúng sanh. Ngài vì việc này mà đến. Tám tướng thành đạo, tướng thứ bảy là “chuyển pháp luân tướng” chính vì sự việc này. Đối tượng giáo dục là tất cả chúng sanh sáu cõi, mở rộng hơn nữa là chúng sanh chín pháp giới. Đoạn này nói lên nguyên tắc giáo học của ngài “điều chúng sanh, tuyên diệu lý”.
  • 9. “Điều chúng sanh, tuyên diệu lý” “Chúng sanh” ở đây là tất cả chúng sanh hữu tình, thuộc về động vật có cảm tình. Then chốt là chữ “điều”. Chúng sanh thân tâm không thể điều hòa. Bốn đại không hoà, trên sinh lý bạn liền đau bệnh. Tâm lý không hòa, bạn liền ưu tư phiền não. Cho nên nguyên tắc giáo học của Phật giúp chúng sanh cách điều tâm, điều thân. Tiêu chuẩn của điều là pháp tắc tự nhiên. Nếu thuận theo pháp tắc tự nhiên, thân tâm liền khoẻ mạnh. Pháp tắc của tự nhiên trong kinh Phật gọi là pháp tánh, Phật tánh tương ưng với thể tánh, đó gọi là điều thuận. Trái với thể tánh thì tất cả chúng sanh mê mất đi tự tánh. Cái tâm này là tư tưởng kiến giải của bạn, hoàn toàn trái với pháp tắc của tự nhiên nên chiêu cảm đến tất cả khổ nạn và những việc không vừa ý. Pháp tắc tự nhiên là gì? Kinh luận Phật nói rất nhiều, mọi người đều biết, thế nhưng thân tâm bạn vẫn cứ trái ngược với pháp tắc nên bạn không được thọ dụng của Phật pháp. Còn tương ưng với pháp tắc thì bạn liền được đại tự tại, liền có thọ dụng chân thật, hạnh phúc viên mãn. Pháp tắc này nói với chúng ta “tướng có thể không”. Nhà Phật nói “tướng có tánh không”. Tánh chính là thể. “Có” không phải thật có. Bát Nhã Tâm Kinh mọi người ngày ngày đều đọc, “có” gọi là diệu hữu, “không” gọi là chân không. “Diệu hữu phi hữu, chân không bất không”, cho nên trước chữ “không” thêm một chữ “chân”. Chân không ý nói tâm tánh của chúng ta. Tâm tánh biến hiện ra tướng, những tướng này gọi là diệu hữu. Sum la vạn tượng, bao gồm chính thân thể của chúng ta, bao gồm tất cả vạn tượng; cái vạn tượng này không thật. Kinh Kim Cang nói “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Hư vọng không thể nói không có tướng. Tướng là hư vọng vì tướng không thể tồn tại vĩnh hằng. Không chỉ tướng của mười pháp giới không thể tồn tại vĩnh hằng mà tướng của pháp giới nhất chân cũng không thể tồn tại. Thế nhưng chúng ta thấy những hiện tượng này vẫn tồn tại một khoảng thời gian, tướng tiếp nối tướng, như vậy mới hiểu rõ chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta sẽ không phân biệt đối với tướng, sẽ không chấp trước, vì nó là giả, mộng huyễn bào ảnh. Còn nếu bạn phân biệt thì bạn vọng tưởng, nếu chấp trước thì phiền não. Vọng tưởng phiền não do tự làm tự chịu. Kinh Hoa Nghiêm nói, tất cả hiện tượng tồn tại thời gian “khoảng sát na”. Kinh Nhân Vương nói, một khảy móng tay sáu mươi sát na. Một sát na có chín trăm lần sanh diệt, thời gian rất ngắn. Cũng như phim ảnh, trong máy chiếu là phim gốc, một giây đầu ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Trong một giây chiếu ra hai mươi bốn tấm. Phim gốc đó liên tục tướng tiếp nối tướng, chúng ta xem thấy như thật. Phật dùng cách nói này trên kinh Nhân Vương, “cái khảy móng tay của người khỏe mạnh”. Thân thể của đại lực sĩ rất khỏe mạnh nên khảy rất nhanh, một giây có thể khảy bốn lần. Bốn khảy móng tay nhân sáu mươi sát na, lại nhân tiếp cho chín trăm lần sanh diệt. Vậy tổng cộng có đến hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt. Trên phim ảnh, một giây có hai mươi bốn tấm phim gốc đã có thể lừa được bạn. Bạn liền cho đó là thật. Nhưng nếu một giây là hai trăm mười sáu ngàn tấm thì làm sao bạn biết nó là giả? Kinh Nhân Vương phương tiện nói. Các vị tỉ mỉ tư duy mới hiểu được lời Phật, mới thể hội phần nào câu “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như chớp”. “Hoa Nghiêm phẩm thập định” nói rõ ràng hơn, một sát
  • 10. na không chỉ chín trăm lần sanh diệt. Chúng ta đọc kinh Nhân Vương thấy rõ việc này. Phật Thích Ca Mâu Ni phương tiện nói, không phải nói chân thật. Nếu nói chân thật thì tốc độ còn nhanh hơn gấp nhiều lần. Phật nói rõ chân tướng sự thật của vũ trụ hiện tượng, sát na sanh diệt, Phật cũng đem hiện tượng này gọi là “bất sanh bất diệt”. Vì sao Phật nói tất cả sanh diệt của pháp tướng là bất sanh bất diệt? Vì tốc độ sanh diệt của nó quá nhanh, sanh diệt gần như đồng thời, cho nên gọi bất sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa Phật nói pháp. Chúng ta “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, nghĩ xem làm gì có pháp tướng tồn tại? Mười pháp giới y chánh trang nghiêm, bao gồm sáu cõi ba đường, căn bản không thể tồn tại, chân thật là mộng huyễn bào ảnh. Ấy thế mà tất cả chúng sanh mê ngay cảnh giới này, cho cảnh giới này là thật có. Từ đấy khởi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Thế là đem hiện tượng sát na sanh diệt chuyển biến. Cái tướng đó là sát na sanh diệt, sát na chuyển biến. Vậy dùng sức mạnh gì để chuyển biến hiện tượng này? Dùng ý niệm, chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ý niệm của bạn thiện, chuyển biến là cảnh giới thiện; ý niệm ác, chuyển biến là cảnh giới ác. Do đây có thể biết thiên đường là do ý niệm biến ra, địa ngục cũng là do ý niệm biến ra, hiểu rõ học vấn trong cái đạo lý này thật to lớn, quan trọng nhất là điều tâm. Thân không phải lo vì thân là tùy tâm, tùy ý niệm mà biến hiện. Chúng ta phải chú trọng điều năng biến. Năng biến tương ưng với pháp tắc tự nhiên. Còn sở biến không quan trọng, sở biến thuận lý thành chương liền biến thành thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, thành khu vườn tốt đẹp thế gian, người người sinh hoạt đều hạnh phúc tràn đầy. Làm được hay không tùy thuộc bạn hiểu đạo lý trong đó, hiểu được cảnh giới diễn biến như thế nào? Cho nên khi Phật dạy chúng ta, thực tế ngài đem thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc phổ cập đến tất cả thế gian, khiến tất cả thế gian đều biến thành thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng. Cách biến thế nào? Trước hết phải điều tâm. Thế giới Tây Phương Cực Lạc tốt đẹp đến như vậy vì lòng người ở đó tốt, kinh nói “các bậc thượng nhân cùng ở một nơi”. Nếu thế gian này của chúng ta, mỗi người đều là thượng thiện thì hoàn cảnh y báo của chúng ta ngày nay nhất định giống thế giới Cực Lạc. Tương tự, vì sao thế giới Hoa Tạng tốt đẹp đến như vậy? Vì người trong thế giới Hoa Tạng, mỗi mỗi đã đoạn kiến tư phiền não, trần sa phiền não; phá được mấy phẩm vô minh, cho nên thế giới đó tốt đẹp. Còn thế giới ngày nay của chúng ta vì sao không tốt? Tất cả chúng sanh tư tưởng kiến giải, lời nói tạo tác hoàn toàn trái ngược pháp tắc tự nhiên. Trong lòng nghĩ ra liền trái với pháp tắc tự nhiên, nên gọi là tà tri tà kiến, tạo mười ác nghiệp. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã nói, “chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm đều là tội”. Tội nghiệp biến ra hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta. Đặc biệt một hai năm gần đây, thiên tai nhân họa ở đâu cũng có. Một số đồng tu đến hỏi tôi, liệu có thể tránh khỏi hay không? Tôi nói không cách gì tránh khỏi. Nếu các vị muốn di dân, tìm một khu vực nào trên thế giới không bị tai nạn, thì tôi cũng xin nói, không hề có. Nơi nào con người không có tham sân si thì nơi đó chính là đất phước. Vậy bạn tìm thử xem, có nơi nào mà con người không tham sân si? Có nơi nào mà con người không tạo ác nghiệp? Bạn tìm được nơi này thì tốt. Chúng ta đều biết trên địa cầu không hề có, nên không thể tìm ra. Nhưng
  • 11. thế giới Tây Phương Cực Lạc lại có. Vì vậy, người niệm Phật, người học Phật là người sáng suốt. Họ không sợ tai nạn, họ có thể tránh khỏi tai nạn. Tránh khỏi không phải tránh thân thể này không bị nạn. Thân gặp nạn hay không cũng không hề gì, vì thân không thể thường trụ trước sanh lão bệnh tử, việc này chúng ta phải triệt để giác ngộ. Tai nạn đến, chúng ta thấy rất bình thường, không chút lạ kỳ. Nghiệp nhân quả báo ngõ ngách ngọn nguồn, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo thì bạn còn gì mà khẩn trương. Cho nên ở cảnh giới này, đại nạn đến đầu cũng không khiếp sợ. Tâm định, tâm thanh tịnh thì bất luận tai nạn thế nào cũng có thể tiếp nhận. Thân thể bị hủy diệt trong tai nạn, nhưng tinh thần, Phật pháp gọi là “thần thức”, thế pháp gọi là “linh hồn” đi tìm một thân thể khác. Đó không phải là chết. Thân thể chúng ta có sanh diệt. Trong sanh diệt vẫn có cái “ta” không sanh diệt. Nói cách khác, thân này của ta sanh diệt nhưng thân không phải là ta. Nếu bạn nhận biết thần thức linh hồn là ta, thân không phải là ta thì coi như bạn đã nâng cao cảnh giới của chính mình. Thân chỉ là sở hữu của ta, cũng giống như mặc quần áo. Quần áo cũ rách, bạn sẽ đổi một bộ mới. Thân này hoại thì ta bỏ nó đi, lại đổi một thân khác. Bạn chân thật có chút công phu, không cần rất cao, bạn liền sanh tử tự tại. Sanh tử tự tại là xả thân thọ thân, giống như lột bỏ quần áo thay bộ quần áo khác. Người thế gian không biết sự việc này, thay quần áo nhưng lại cảm thấy khổ. Đặc biệt trẻ con, bảo nó đổi một bộ khác rất khó. Nó chạy đông chạy tây, không cam tâm, cảm thấy như cực hình. Còn người lớn thì không như vậy. Quần áo dơ phải giặt. Kiểu dáng không thích hợp thì đổi kiểu mới. Họ an vui xả thân thọ thân. Học Phật công phu xem sanh tử như thay bộ quần áo, không chút đau khổ, khẩn trương, khiếp sợ. Người như vậy xả thân thọ thân, khi thọ thân khác nhất định tốt đẹp hơn nhiều so với thân thể cũ, đó là thiện báo. Nếu khi xả thân, cảm thấy hoang mang, khiếp sợ, thì bạn sẽ đổi một thân khác xấu đi, đó là thân súc sanh, thân ngạ quỷ, khó có thể quay lại, giống như bạn bị thay đổi quần áo rách nát, khó coi. Học Phật có thể được chút thọ dụng này. Đây là thọ dụng nhỏ trong Phật pháp, không phải thọ dụng lớn. Vì sao? Bạn nhận biết thần thức là “ta”, nhưng thần thức vẫn không phải là ta. Chân thật ta chính là pháp tánh, thiền tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Kiến tánh thấy được chân ngã, tông môn gọi là “mặt mũi trước khi cha mẹ sanh ra”. Bạn nhận định thần thức là ta, không nhận cái thân này là ta thì bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, nhưng không rời khỏi sáu cõi luân hồi. Bạn nhất định được hưởng phước trời, sanh lên trên cõi trời. Cao minh hơn thì siêu việt sáu cõi, nâng cao lên pháp giới của thanh văn, duyên giác, Bồ tát. Trong mười pháp giới, pháp giới bốn thánh là không gian sinh hoạt của bạn, thù thắng hơn nhiều so với sáu cõi. Nếu bạn biết thần thức vẫn không phải là ta, vẫn là giả, tự tánh mới là ta, vậy thì công đức của bạn liền viên mãn. Bạn liền siêu việt mười pháp giới, đi đến thế giới Hoa Tạng, thân cận Tỳ Lô Giá Na Phật, làm bạn với bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ; hoặc vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn siêu việt mười pháp giới. Đó là chân tướng sự thật. Phật xuất hiện ở thế gian muốn nói cho chúng ta nghe sự việc này, chân thật có thể “điều chúng sanh”. Cho nên chúng ta học Phật, hiện tại quan trọng nhất phải tu “tâm thanh tịnh”.
  • 12. Đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ đưa ra nguyên tắc tu học: thanh tịnh, bình đẳng, giác. Ba nguyên tắc này nhắc chúng ta mọi nơi mọi lúc đối nhân xử thế tiếp vật, phải tu tâm thanh tịnh. Tất cả mọi người không nhiễm ô tâm tánh. Nếu trong đối xử mọi người, thuận với chính mình thì khởi ý niệm thương yêu, không thuận với chính mình thì sanh sân hận, đố kỵ, như vậy tâm của bạn bị ô nhiễm, không thanh tịnh. Cho nên tu hành là tu ở ngay đây, khi tất cả cảnh giới hiện tiền phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, bạn mới có được công phu chân thật. Hay nói cách khác, cảnh giới trước mắt rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, đó là huệ. Trong lòng như như bất động, không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm không động niệm, đó là công phu. Chúng ta tu hành phải tu trong hoàn cảnh nhân sự, trong hoàn cảnh vật chất. Mỗi ngày sáu căn tiếp xúc tất cả người, vật, việc, ý niệm vừa khởi lên, cho dù niệm thiện hay ác đều là ô nhiễm. Ác niệm là ô nhiễm, thiện niệm cũng là ô nhiễm, nên khi ý niệm vừa khởi lên, câu “A Di Đà Phật” làm cho ý niệm này lắng xuống. Đó là phương pháp của Tịnh tông chúng ta dùng. Một câu Phật hiệu làm cho ý niệm lắng xuống, hoá giải hết ý niệm, tất cả vọng niệm thảy đều qui về câu A Di Đà Phật, đức hiệu trong tự tánh của chúng ta. A Di Đà Phật chính là chân như bổn tánh của chúng ta, đó là một câu Phạn ngữ, dịch sang ý nghĩa Trung Quốc là “Vô lượng giác”. Tất cả đều quy về vô lượng giác. Danh hiệu đạo sư của thế giới Tây Phương Cực Lạc là A Di Đà Phật, cho nên kinh Phật thường nói “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, đó là từ trên tâm tánh mà nói. Bạn phải biết niệm câu Phật hiệu này, đem tất cả ý niệm của bạn chuyển biến thành A Di Đà Phật. Trong tâm bạn, ngoài câu A Di Đà Phật, không có bất cứ tạp niệm nào. Có như thế tâm thanh tịnh của bạn mới hiện tiền, kinh Di Đà nói “Nhất tâm bất loạn”. “Niệm Phật tam muội”, “tam muội” là tiếng Phạn, ý nghĩa là “chánh thọ”, hưởng thụ bình thường. Ngày nay chúng ta hưởng thụ không bình thường. Còn hưởng thụ bình thường là vô niệm, “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”, đó là hưởng thụ bình thường. Cho nên tông chỉ giáo hoá chúng sanh của Phật, mục đích chính nhằm “điều chúng sanh tuyên diệu lý”. Diệu lý là chân tướng sự thật, cũng là “thật tướng các pháp”, chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Phật vì chúng ta nói rõ sự việc này để chúng ta hiểu rõ. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải chính mình khế nhập cảnh giới này, tự lợi công đức. Tuy nhiên, thế gian vẫn còn rất nhiều chúng sanh chưa giác ngộ, chúng ta không thể không quan tâm, Phật pháp gọi là “tự cho mình cao”. Phật không tán thán những người như vậy. Bạn tự độ, còn phải giúp đỡ người khác, đó là Bồ tát. “Trữ công đức, thị phước điền” Muốn hoá tha cần phải tự độ. Đối với chân tướng sư thật, bạn không thấu triệt, không hiểu rõ; tà kiến, phiền não, tập khí của chính mình chưa đoạn dứt thì làm sao có thể giúp người khác. Trên thực tế, chúng ta cũng từng thấy việc mượn danh để tư lợi, giả mượn Phật pháp tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, thỏa mãn dục vọng của riêng mình. Họ có thể nói khéo léo, giảng kinh có đầu có đuôi, cũng xây dựng đạo tràng trang nghiêm, cũng có không ít đồ chúng tu hành theo, thế nhưng những gì họ làm hoàn toàn trái ngược Phật pháp, vẫn cứ danh vọng lợi dưỡng, vẫn phải quấy nhân ngã, vẫn mỗi niệm xem nặng được mất.
  • 13. Vì sao có lỗi lầm này? Vì họ không làm được hai câu trên, cho nên công đức liền biến thành phước đức, thậm chí công đức phước đức còn biến thành tội lỗi. Họ khuyên bảo mọi người tu phước, cùng xả tài tu phước. Khi mọi người xả tài, còn họ thì đựng đầy trong túi, phục vụ chính mình. Người xưa không như vậy. Người xưa hiểu xây dựng đạo tràng trang nghiêm, không phải chính mình hưởng thụ. Các vị tỉ mỉ quan sát những tòng lâm được xây dựng vào thời xưa, phòng ốc của trụ trì và chấp sự rất thô sơ. Do đây có thể biết đại chúng cúng dường để tu phước, nhưng chính họ không hưởng. Nói cách khác, ăn mặc ngủ nghỉ của họ không hề thay đổi. Đó là rõ lý, không tạo tội nghiệp. Hiện tại khi mọi người quyên mộ nhiều tiền, xây dựng đạo tràng lớn, trước tiên thường bố trí rất đẹp hoàn cảnh cư trú của chính mình, như vậy là tạo tội nghiệp. Xây dựng đạo tràng để có nơi làm đạo, nơi cúng cho chúng, không phải cúng dường chính mình. Nhà Phật từng nói “một hạt gạo của thí chủ nặng như núi Tu Di. Đời nay không liễu đạo, mang lông đội sừng để trả”. Lời nói này là thật, không phải giả. Bạn làm gì có phước báu lớn đến vậy, có thể hưởng thọ mười phương chúng sanh cúng dường. Chỉ có Phật và đại Bồ tát mới có phước báu này. Người mê hoặc điên đảo, hưởng phước báu không được vài năm, khi chết đều mơ mơ hồ hồ mà chết, chết rồi đi đâu? Tương lai vẫn không tránh khỏi phải trả nợ. Cho nên Phật dạy chúng ta “trữ công đức”, không phải phước đức. Trong công đức có phước đức, nhưng trong phước đức chưa chắc có công đức. Công đức do tu công mà có. Thí dụ chúng ta trì giới có công, bạn liền được định, định chính là đức. Tu định có công, trí tuệ khai, khai huệ là đức. Do đây mà biết, công là tu nhân, đức là quả báo. Tu nhân được quả là đạo lý nhất định. Chúng ta phải trữ công đức, tích công bồi đức. Làm thế nào để giữ được công đức? Chữ “trữ” này rất quan trọng. Trữ là tồn trữ, lưu kho, công đức của bạn mới có thể tích lũy. Nhà Phật nói: “lửa thiêu rừng công đức”. Công đức rất khó tồn trữ. Chỉ một đám lửa thì cháy sạch, đó là lửa sân hận. Vừa khởi tức giận, công đức đều hết. Bạn phải biết, cả đời này tu hành trữ được bao nhiêu công đức. Sau đó bạn nghĩ lại xem mình không khởi tức giận bắt đầu từ lúc nào. Nếu sáng sớm nay khởi lên một cơn giận chỉ có mấy giờ đồng hồ, công đức của đời quá khứ và đời này đã tu thảy đều cháy sạch, không còn gì cả. Người hiện tại nói đến công đức, thực ra đều hữu danh vô thực. Có cái tên của công đức, tu tên của công đức nhưng không tu công đức thật. Khi trong lòng không vui thì công đức hết. Phải biết thế gian yêu ma quỷ quái rất nhiều. Chúng chỉ sợ bạn tích công bồi đức nên thị hiện vô số cảnh giới, vô số nhân duyên nhằm phá hoại công đức của bạn. Thế nhưng bản thân họ không có năng lực phá hoại công đức của bạn, thậm chí bất cứ người nào cũng đều không cách gì phá hoại công đức của bạn được. Chỉ có chính mình phá hoại chính mình. Họ thúc đẩy bạn, khiến bạn khởi tức giận, khởi tâm sân hận. Nếu bạn nghe lời, quả nhiên khởi tức giận, khởi tâm sân hận thì coi như bạn đem công đức của mình thiêu hết sạch. Ma ở nơi đó liền vỗ tay vui mừng. Chúng ta hiểu rõ đạo lý thì nhất định phải đề cao cảnh giác. Tất cả thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không khởi tâm sân hận thì công đức của bạn mới có thể giữ được. Phía trước hàng ma, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện
  • 14. cho chúng ta xem, “dĩ định huệ lực, hàng phục ma oán”. Nếu bạn không có định, không có huệ, thì công đức của bạn không thể giữ được. Ở trong cảnh giới thường hay khởi tâm động niệm, tâm tùy theo cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đó là tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tương lai chịu báo luân hồi. Cho nên chúng ta trong cuộc sống thường ngày phải rèn luyện. Rèn luyện chính là tu hành. Ngày trước sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, dễ bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Xem thấy ưa thích, chúng ta khởi lên tâm hoan hỉ, xem thấy không ưa thích chúng ta khởi tâm ghét bỏ, vậy là sai, phải tu sửa lại. Tu sửa thế nào? Thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không sanh tâm áo não, đó gọi là tu hành. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, tất cả chỉ là hình thức. Tu hành phải chân thật hữu dụng, phải dùng được ngay trong đời sống, đối diện với tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc thật khởi lên tác dụng, không còn bị cảnh giới này xoay chuyển, mới gọi là có công phu. Bạn ở niệm Phật đường niệm Phật mỗi ngày mười vạn danh hiệu Phật. Khi đối diện với cảnh giới, tâm còn bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, vậy thì như người xưa nói, “đau mồm rát họng chỉ uổng công”, bạn không có công phu, hoặc công phu của bạn là giả, không phải thật. Công phu phải trải qua sự khảo nghiệm, cùng ở với mọi người, cùng giao lưu với chúng sanh, cũng phải có biểu lộ. Nếu biểu lộ trên mặt giống tượng thần điêu khắc thì có thể hù chết người trong xã hội. Giao lưu với tất cả chúng sanh, tuy biểu hiện hỉ, nộ, ai, lạc nhưng phải là biểu diễn, không phải thật. Bên trong thanh tịnh vô nhiễm, như Vĩnh Gia từng nói “phân biệt diệc phi ý”. Ứng dụng ngay trong cuộc sống thường ngày phải hoạt bát, hiển thị Phật pháp đáng quý, viên dung, thọ dụng chân thật. Từng li từng tí không ô nhiễm, có định huệ. Đây gọi là công phu, bạn chân thật là trữ được công đức. “Thị phước điền”. Bạn còn phải tu phước. Tu phước quyết không phải vì chính mình mà vì chúng sanh. Không có phước báu làm sao độ chúng sanh. Cho nên thành Phật, Phật gọi là “nhị túc tôn”, túc đầy đủ, viên mãn. Nhị là hai loại, trí tuệ viên mãn và phước đức viên mãn. Phật biểu thị phước đức viên mãn. Có phước lớn mới có thể cho tất cả chúng sanh hưởng phước. Ngày nay chúng ta ngồi ở đạo tràng này hai giờ đồng hồ là hưởng phước báu của chư Phật. Mười phương chúng sanh xả tài, xả lao lực để được phước báu này cho chúng ta cùng hưởng. Chúng ta cũng phải học tập, có phước nhất định phải cho mọi người cùng hưởng, không nên hưởng riêng mình. Hưởng riêng là tạo nghiệp, còn cho mọi người hưởng gọi là tu phước. “Thị” chỉ ra những gì là phước điền. Có rất nhiều phước điền. Nói cách khác, cơ duyên tu phước quá rộng. Nhà Phật phước điền vô lượng, quy nạp thành ba loại lớn. Loại thứ nhất gọi là “Bi điền”, từ bi, lân mẫn. Tất cả chúng sanh trong mười pháp giới đều bần cùng khổ nạn, không phải chỉ người không có cơm ăn áo mặc, mà cả những người có phước báu, ở nơi phòng ốc rất tốt, đời sống dư giả. Loại người này không nghèo cùng nhưng cũng chẳng khác người không có cơm ăn áo mặc. Vậy họ nghèo ở chỗ nào? Nghèo cùng ở trí tuệ. Đời sống vật chất của họ có thể trải qua nhưng đời sống tinh thần rất khổ. Cho nên nghèo cùng có loại nghèo về vật chất, và nghèo về tinh thần, nghèo về đạo nghiệp, hay nghèo trí
  • 15. tuệ. Phạm vi nghèo cũng quá rộng lớn. Chúng ta chỉ mới so sánh năng lực kỹ thuật với người khác rồi cho rằng nghèo cùng hay lạc hậu nhưng không biết phạm vi sâu rộng vô hạn của nghèo cùng. Bồ Tát thấy điều đó. Các ngài đại từ đại bi giúp đỡ chúng ta trồng phước. Phương pháp trồng phước điền cũng rất nhiều. Bạn phải có trí tuệ, mỗi giờ đều là giờ để tu phước, nơi nơi đều là chỗ để tu phước. Hiện tại người thế gian nghèo cùng, việc này người căn tánh trung hạ đều có thể quan sát rõ ràng. Chính mình phải biết làm thế nào cứu giúp chúng sanh khổ nạn nghèo cùng của thế giới. KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 33) Pháp Sư Tịnh Không Loại thứ hai gọi là “Ân điền”, báo ân. Ai có ân với chúng ta? Trước tiên là cha mẹ, nhất định phải báo đáp. Báo đáp cha mẹ là trồng phước điền. Kế đến là thầy giáo. Sinh mạng của chúng ta được nhờ ở cha mẹ, còn trí tuệ của chúng ta, nhà Phật nói “pháp thân huệ mạng” là nhờ thầy giáo. Ân đức của thầy giáo cùng cha mẹ không hề khác. Trong cổ lễ Trung Quốc nói rất nhiều lý do vì sao thời hiện đại không có hiếu đạo. Cho nên sư đạo cũng không có. Sư đạo được xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo. Phật pháp là sư đạo, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là “bổn sư”, thầy giáo sáng lập đầu tiên. Giáo dục Phật đà từ nơi ngài sáng lập, nên chúng ta gọi ngài là thầy giáo căn bản, người sáng lập đầu tiên. Mỗi niệm chúng ta đều không quên ngài. Trên giảng đường, chúng ta cúng dường tượng Phật, cúng dường hình tượng thầy giáo, ý nghĩa này chính là báo ân, không quên nguồn gốc. Chúng ta nơi đây làm công tác giảng giải, cùng với đồng tu học tập kinh điển, cũng giống như ở trước mặt Phật vậy. Phật Bồ Tát chứng minh cho chúng ta. Đó là báo ân, trồng phước điền. Ngoài thầy giáo cha mẹ, thì chư Phật Bồ Tát, tổ sư đại đức, tất cả thiện tri thức đều là ân điền. Mở rộng hơn, quốc gia có ân đức bảo hộ hoàn cảnh đời sống của chúng ta được an ninh. Tất cả chúng sanh có ân đức hỗ trợ hợp tác cúng dường đời sống thường ngày cho chúng ta, đây chính là kệ hồi hướng mà chúng ta vẫn đọc: “trên đền bốn ân nặng”. Tất cả chúng sanh đều có ân đức với chúng ta, đó là ân điền. Loại thứ ba là “Đức điền”. Chỉ riêng nêu ra Tam Bảo thì Phật Pháp Tăng không chỉ có ân đức với chúng ta, mà các ngài còn là ruộng công đức, nên gọi là “đức điền”. Đó là chuyên chỉ Tam Bảo. Tam Bảo có đại trí tuệ, đại đức, đại năng, giáo hoá chúng sanh. Muốn trồng phước điền, chúng ta phải đến những nơi này. Dù năng lực chúng ta không đạt đến nhưng không thể không có tâm. “Tâm thừa mà sức thiếu”, tâm không khởi vọng tưởng khống, mà phải chân thật. Hiện nay báo chí đăng tin, nạn nước rất nghiêm trọng. Năm xưa mỗi lần nạn nước, chúng ta luôn tận tâm tận lực quyên tiền giúp đỡ cư dân khu vực tai nạn. Năm nay khu vực tai nạn mở rộng, đồng thời lại bị ảnh hưởng kinh tế, khiến chúng ta không biết làm thế nào. Có phương pháp gì hoá giải tai nạn không? Có. Trị tận gốc chính là giáo hoá chúng sanh diệt trừ tham sân si; tu giới định huệ.
  • 16. Việc này có lợi ích gì với thực tế? Người thế gian thường không tường tận. Rất nhiều tai biến có quan hệ mật thiết với lòng người. Kinh Phật thường hay nói: “y báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Vì sao chúng ta không nghe nói Thế Giới Tây Phương Cực Lạc có nạn lụt, hay thế giới Hoa Tạng có động đất? Nơi đó không có vì nơi đó không có nhân, thì họ làm gì bị những thứ này. Nước là từ lòng tham biến hiện ra, lòng tham con người ngày càng lớn thì nước sẽ càng nhiều. Lửa từ sân hận, địa chấn từ bất bình của lòng người. Chúng ta nói những lời này, người thông thường sẽ cho rằng không có chứng cứ khoa học nên không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận. Khoa học thực tế rất non nớt nên vẫn chưa đạt cảnh giới này. Đến khi đạt được cảnh giới này, chúng ta đã phải chịu khổ nạn vô cùng rồi, chờ họ thừa nhận có ích gì. Cho nên diệt trừ tham sân si, liền có thể tự nhiên tiêu trừ tai ách thế gian. Hiện tại chúng ta thường du lịch nước ngoài, mỗi quốc gia khu vực, lòng người tham sân si mỗi năm một tăng, thật đáng sợ. Tôi không hề nghe nói nơi nào đó, ý niệm tham sân si đã bình hoà, đã giảm; ngược lại, mỗi ngày đang gia tăng tốc độ. Lòng tham mang đến nạn nước, sân hận mang đến nạn lửa, ngu si mang đến gió bão, bất bình mang đến động đất; người hiện tại đều làm ra. Mỗi năm mỗi tăng, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước, “có nhân ắt có quả”. Người hiện tại thường vẫn không tin tưởng. Phật pháp còn nói: “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, không phải không có phương pháp trị phần nổi. Tài nguyên sức người của Trung Quốc đứng đầu thế giới, sức lao động nhiều đến vậy nhưng không hề được vận dụng tốt, để những sức lực này lãng phí, thật đáng tiếc. Cho nên ở công tác trị phần nổi, mỗi năm chúng ta có nạn nước, thì phải học Đại Vũ trị thuỷ, hiểu rõ địa hình, rồi dẫn đạo dòng nước từ phương hướng nào đó chảy về biển cả. Công cụ khoa học hiện đại tiến bộ hơn rất nhiều so với ngày trước, chúng ta có thể khai mương dẫn nước, mở rộng ao hồ. Lịch sử ghi chép, động đình từ trước là 800 dặm, còn hiện tại chưa đến 300 dặm. Bạn phải biết hồ lớn khi nước lụt đến trở thành hồ chứa nước. Cho nên dọc theo sông dài hồ lớn, nhất định có phải nhiều hồ bạc của thiên nhiên. Chúng ta phải giữ gìn, phải dùng máy móc nạo vét sâu hơn và rộng hơn để sức chứa của nó nhiều hơn. Đồng thời bên cạnh khu vực sông, có thể dùng nhân công giữ đê, giảm thiểu nạn nước. Công trình thuỷ lợi vô cùng quan trọng, là kiến thiết cơ bản của quốc gia. Tương tự, đường giao thông, đường sắt, đường quốc lộ đều là kiến thiết cơ bản. Vì sao Hoa Kỳ duy trì cường thịnh đến như vậy? Vì họ xây dựng cơ bản quá tốt. Thế nhưng công trình thủy lợi Hoa Kỳ vẫn có chỗ chưa đủ. Bình thường khi khô hạn, tưới tiêu ruộng vườn, không chướng ngại nhà nông thu hoạch nông sản. Khi nước nhiều thì chứa nước, không đến nỗi tạo thành nạn lụt. Ngoài công trình cơ bản hiện tại, còn thêm công trình phát điện. Trên thế giới có rất nhiều nơi lợi dụng thuỷ lợi để phát điện. Trung Quốc có sông dài hồ lớn, cũng phải từ bề nổi mà làm. Khoảng sau năm đến mười năm, Trung Quốc vĩnh viễn sẽ không có nạn lụt, đó là đại công đức, đại bố thí. Nền tảng này xây dựng kiên cố thì toàn quốc đều phát triển. Không chỉ ở khu vực Duyên Hải mà ngay đến đất liền thảy đều phát triển. Do đây có thể biết, việc ở người làm. Chúng ta phải nghĩ vì chúng sanh tạo phước.
  • 17. Lại nói đến hiện tại trước mắt, đại chúng hiện tiền chúng ta đối với bốn câu kinh này, nên làm thế nào để tu, làm thế nào thực tiễn ngay trong đời sống hiện tiền? Cư Sĩ Lâm là một đạo tràng trang nghiêm đúng pháp, mọi người công nhận, không phải cá nhân tôi tuỳ tiện nói. Chúng ta phát tâm đến đây nghe kinh, niệm Phật, chính là thực tiễn bốn câu kinh văn này. Nếu bạn muốn hỏi, chúng ta đến đây nghe kinh hai giờ đồng hồ, niệm Phật mấy giờ đồng hồ, với “điều chúng sanh, tuyên diệu lý” có liên quan gì? Giảng đường của Cư Sĩ Lâm mỗi ngày giảng kinh hai giờ. Chúng ta phát tâm để giờ giảng kinh mãi mãi không gián đoạn, đó là tuyên diệu lý. Đến nghe kinh là làm chúng ảnh hưởng cho mọi người, khiến người sơ học Phật thông thường dần dần nghe được, dần dần thấy học Phật có chỗ tốt đến như vậy, lợi ích nhiều như vậy. Còn nếu các vị cảm thấy Phật pháp rất hay, ở trong nhà tu cũng được, không cần phải đến thì nơi giảng kinh này liền trống vắng thưa thớt. Những người sơ học vừa nhìn thấy bèn chán nản, tín tâm sẽ không có. Họ nghĩ vị pháp sư này giảng không hay nên sẽ không đến. Người đến nghe kinh là Bồ Tát, là chúng ảnh hưởng, bất tri bất giác, ảnh hưởng đông đảo quần chúng trong xã hội, đó là trồng phước. Bạn nghe kinh ở nhà rất thuận tiện nhờ đường truyền internet liên thông. Thế nhưng, nghe kinh trong nhà chỉ có tự lợi, không thể lợi tha. Bạn không thể tạo ra sức ảnh hưởng. Còn đến nơi đây nghe kinh chính là lợi được hai bên. Chúng ta phải trồng phước điền, phải làm chúng ảnh hưởng. Tương tự, bạn ở nhà niệm Phật cũng tốt, nhưng vì sao phải đến nơi đây niệm? Vì để trang nghiêm đạo tràng, cũng là làm chúng ảnh hưởng. Cho nên trong đạo tràng, niệm Phật đường đều có Bồ Tát đang niệm, Phật đang niệm, thiên long quỷ thần đang ở niệm Phật đường niệm Phật rất nhiều. Như vậy là tu công đức, phước đức, không nhất thiết phải tốn tiền, chỉ cần có thời gian. Thậm chí bạn đến đây ăn một bữa cơm cũng là trồng phước. Đạo tràng tuyên dương Phật pháp, ăn cơm cũng tuyên dương. Cư Sĩ Lâm hiện nay là thế giới đệ nhất gia, mỗi ngày cúng dường ba bữa cơm, không cần tốn tiền. Tương lai còn có thôn Di Đà, đến nơi đây ở cũng không cần tốn tiền. Chỉ cần bạn chịu thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nơi đây là đạo tràng thành tựu cho người vãng sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta ở đây tu phước đặc biệt dễ dàng, không cần bỏ tiền nhiều, một đồng hai đồng đều là công đức hy hữu. Nhiều người đang ở đây thật tu thật làm, cho nên phước điền này là phước điền chân thật, công đức nơi đây cũng là công đức chân thật. “Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ” “Tam khổ” chỉ chúng sanh sáu đường, mở rộng thêm chút là hữu tình mười pháp giới. “Dĩ chư diệu dược” là pháp dược. Dược là thí dụ tất cả pháp Phật đã nói. Hiện tại trước mắt chúng ta, người thế gian khổ cùng cực. Nói cách khác, ngày nay chúng ta đang ở đêm trước của đại tai nạn. Tỉ mỉ quan sát, đại sư Ấn Quang ở đầu năm Dân quốc. Mọi người đều biết Ấn tổ là Bồ Tát Đại Thế Chí Thế Giới Tây Phương Cực Lạc tái sanh, một trong hai vị Bồ Tát trợ thủ cho Phật A Di Đà. Quan âm chủ đạo từ bi, Đại Thế Chí chủ đạo trí tuệ. Đó là một vị Bồ Tát có trí tuệ bậc nhất. Ngày trước tôi từng giới thiệu, trong Phật pháp Đại thừa, thông thường lấy Bồ Tát Văn Thù đại biểu cho trí tuệ, nhưng Bồ Tát Văn Thù biểu thị trí tuệ “học rộng nghe nhiều”, là trí tuệ phổ thông. Còn trí tuệ mà Bồ Tát Đại Thế Chí đại biểu là “một môn thâm nhập”. Hai vị đều rất hay. Trí tuệ của Bồ Tát Văn
  • 18. Thù phải là người thượng căn lợi trí. Căn tánh thượng thượng mới có thể học, người hạ hạ căn thì không thể học được. Còn trí tuệ của Bồ Tát Đại Thế Chí đại biểu, “trùm cả ba căn, ngu ngôn đều thâu”. Người hạ hạ căn cũng có thể học, một môn thâm nhập. Một môn thông thì mỗi môn đều thông. Thành tựu của họ không khác gì với Bồ Tát Văn Thù, nhưng thủ pháp hoàn toàn không giống nhau, chúng ta phải hiểu ý này. Đại sư Ấn Quang thị hiện ở đầu năm Dân quốc. Ngài biết thế gian này sẽ có tai nạn. Dùng phương pháp gì để cứu? Phật pháp không được, vì mọi người không tin, cho rằng mê tín. Hơn nữa văn tự kinh điển trúc trắc, người thông thường không dễ gì hiểu. Dùng những đạo lý của nhà Nho để cứu thế gian còn không kịp. Nhà Nho gọi “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Nho Phật tuy tốt nhưng đều không cứu kịp. Đại sư bèn chọn lấy “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”, “Liễu Phàm Tứ Huấn”, “An Sĩ Toàn Thư”, dùng ba thứ này để cứu vãn xã hội hiện thực của chúng ta. Rất là đạo lý, trí tuệ chân thật. Nguyên lý của ba thứ này chính là nhân quả. Trong kiếp nạn sắp đến, mọi người không tin Nho, không tin Phật, không tin thánh hiền, tuỳ tiện làm càn. Đối với tình hình như vậy, chỉ duy nhất một cách là giúp họ thông suốt “Nhân quả báo ứng”. Cả đời đại sư cực lực đề xướng nhân quả. Ngài chọn lựa ra ba loại sách này. Mở sách ra xem, bản thân mỗi chúng ta cùng những người xung quanh có ai làm được một trong ba loại? Có câu nào bạn huỷ phạm? Chúng ta tỉ mỉ quan sát mới phát hiện có rất nhiều người gần như hoàn toàn phạm phải những tội hành nghiệp nhân đã nêu trong đó. Đa số người đều phạm, tạo thành cộng nghiệp chiêu cảm. Ngày nay toàn thế giới tai biến. Trước khi đại tai biến đến gần, chúng ta muốn tiêu diệt nó cũng không dễ dàng. Nhưng nếu muốn nó chậm lại hoặc giảm nhẹ một chút vẫn còn có thể làm được. Cách làm thế nào? Lòng người phải giác ngộ, hồi đầu. Mọi người biết lợi hại được mất, chân thật xả bỏ lợi ích của riêng mình. Phải quan tâm đến lợi ích của xã hội đại chúng. Trước tiên phải có ý thức như vậy, có quan niệm lý luận như vậy. Sau đó giảm nhẹ tham sân si mạn của chính mình, chú trọng luân lý đạo đức. Có như thế, kiếp nạn liền kéo chậm lại, vấn đề ở chuyển biến của lòng người. Ấn tổ dùng pháp dược để giúp chúng ta vượt qua ải quan trước mắt. Tín đồ Cơ Đốc phương Tây thường nói “1999 là ngày tàn của thế giới”. Lời nói này đã từ rất lâu. Chúng ta nghe cảm thấy không quá đáng chút nào. Nhìn vào dấu vết hiện tại, dường như năm tới không dễ gì vượt qua. Mấy năm gần đây vì sao tai nạn lần sau luôn kéo dài hơn lần trước, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước? Dường như là ý này. Thế nhưng, người học Phật chúng ta lại không thừa nhận câu “Ngày tàn thế giới”, vì sao? Thích Ca Mâu Ni Phật nói, “mạt pháp” của Phật là 9000 năm. Đó là từ nước ngoài mà tính, không tính từ Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ghi chép, Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến hôm nay là ba ngàn không trăm hai mươi mấy năm. Về sau còn chín ngàn năm nữa, ngày tháng còn dài. Cho nên thời nay không phải là “thế giới ngày tàn”, nhưng một chút tai nạn vẫn có thể có. Ngày trước tôi thân cận đại sư Chương Gia. Đại sư từng nói với tôi, thời kỳ mạt pháp 9000 năm, pháp vận của Phật cùng thế vận đều có cao thấp trồi sụt. Nói cách khác, có khi tốt, có khi xuống thấp. Như vậy có nghĩa là từ năm tới lùi về
  • 19. sau có thể vận thế xuống thấp, nhưng không phải ngày tàn. Chúng ta hãy an tâm. Thế nhưng, chúng ta vẫn phải có sự chuẩn bị, nhất quyết đoạn ác tu thiện. Người khác làm hay không chúng ta không quan tâm, nhất định phải làm từ bản thân mình, đó là việc vô cùng quan trọng. Kinh Phật nói rõ ràng, trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Kinh Lăng Nghiêm nói “có cộng nghiệp, có biệt nghiệp”. Nếu biệt nghiệp của chúng ta thù thắng, trong cộng nghiệp vẫn có biệt báo, thì khi tai nạn lớn đến, chúng ta vẫn có thể tránh khỏi. Tránh khỏi không có nghĩa đi tìm nơi tránh nạn, tìm nơi để di dân, không cần thiết phải làm vậy. Làm vậy là không tin tưởng chính mình, lại tìm phiền não cho chính mình. Năm xưa tôi giảng kinh ở Hongkong. Thời điểm đó gần đến kế hoạch Anh trả lại Hongkong. Một số đồng tu HongKong nghĩ mọi cách để di dân. Tôi khuyến cáo họ, không cần thiết phải làm vậy. Tôi nói theo cách nghĩ và cách nhìn của mình, sau khi trở về, Hongkong nhất định còn tốt hơn so với thời kỳ người Anh thống trị, hà tất phải đi. Một số đồng tu không nghe lời, cố di dân ra nước ngoài. Họ bán sạch nhà cửa ở HongKong. Sau khi trở lại, đem tiền về HongKong nhưng không thể mua lại được, khổ nói không ra lời. Cho nên bất cứ tai nạn sắp đến, người có phước, tức tâm có định, thì quyết không khiếp sợ, không lo lắng, tâm vẫn định. Có định có huệ liền có thể khắc phục được khó khăn. Nó biến nhưng ta không biến, nó động nhưng ta không động, dù ở ải sanh tử chúng ta không thể tránh khỏi. Chúng ta sẽ sanh đến chỗ thiện, một nơi tốt nhất, không ở thế gian này. Đó chính là di dân. Chúng ta di dân đến thế giới chư Phật, phước địa chân thật. Có thời gian thì một ngày niệm thêm một ngày Phật. Ngay trong cuộc sống thường ngày phải dưỡng thiện tâm, thiện nguyện của chính mình. Nhất định phải nỗ lực chăm chỉ làm cho được “tâm không ác niệm”. Tiêu chuẩn thấp nhất mà Phật nói là Thập Thiện Nghiệp Đạo, “thân” không sát, đạo, dâm; “khẩu” không vọng ngữ, hai lưỡi, thêu dệt, ác khẩu; “ý” không tham sân si. Phải đoạn dứt. Từ sớm đến tối, từ mùng một đến ba mươi ngày, trong lòng nhất định không khởi ý niệm này. “Tâm không ác niệm, ý không tà tư”, cái gì là tà tư? Nhân ngã phải quấy là tà tư. Phàm hễ trái với lý luận kinh giáo Phật thì tất cả tư tưởng kiến giải đều là tà tư. Phải lấy tiêu chuẩn của Phật để nói, nhất định phải viễn ly kiến tư phiền não. Niệm niệm tâm này là niệm thiện. Ý niệm chí thiện chính là một câu Phật hiệu. Ngoài câu Phật hiệu, ý niệm gì cũng đều xả bỏ. Có như vậy thì mục tiêu phương hướng của đời sống chúng ta mới được xác định. Quyết cầu sanh Tịnh Độ, vãng sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta đi trên đại lộ, con đường mà tất cả chư Phật đã đi thì làm sao sai lầm được. Tai không nghe lời ác, không nghe thị phi. Bất luận người nào đến nói chuyện, chúng ta vẫn “A Di Đà Phật” cắt lời của họ. Tai không nên nghe, miệng không nói lời ác. Tiếp xúc qua lại với người, ít nói lời thừa, khuyên người niệm Phật. Nếu ghi nhớ những câu trong kinh văn thì có thể đọc thêm cho người nghe. Họ ưa thích thì sẽ tiếp tục nghe, còn không ưa thích thì cũng đã nghe rồi. Người mê học Phật, việc ở thế gian họ sẽ dần dần không hiểu. Khi việc thế gian không hiểu thì bạn liền rời khỏi thế gian này. Càng hiểu nhiều việc thế gian, bạn càng không thể rời khỏi, phiền não của bạn sẽ lớn. Đó là những việc xen tạp của thế gian, chúng ta không nên biết. Ưa thích biết, đều không rời khỏi luân hồi. Chúng ta phải hạ quyết tâm, không làm những việc này.
  • 20. “Thân không tà hạnh”. Tốt nhất chúng ta nên lợi dụng thân thể khỏe mạnh để lạy Phật nhiều. Công đức lạy Phật rất lớn, hiệu quả lạy Phật rất thù thắng. Nếu mỗi ngày lạy một trăm lạy, vĩnh viễn không gián đoạn thì thân thể nhất định khỏe mạnh sống lâu, không bệnh tật. Dùng tâm thanh tịnh lạy Phật, dùng tâm cung kính lạy Phật; khi lạy Phật, không hề có bất cứ vọng niệm nào. Cứ như vậy tự nhiên sẽ cảm ứng tương thông, có cầu ắt có ứng. Đọc thuộc “Liễu Phàm Tứ Huấn”, tin sâu nhân quả, thấu suốt tường tận đối với sự thật lý luận của nhân duyên quả báo, thì sẽ liền biết làm thế nào trải qua ngày tháng trong cuộc sống thường ngày, làm thế nào đối nhân xử thế. Còn hai loại sách “Cảm Ứng Thiên” và “Âm Trắc Văn”, mỗi ngày đọc một lần. Thời khoá sớm tối của mình cần thêm vào, nỗ lực phản tỉnh, nỗ lực kiểm điểm, xem mình có phạm phải những điều đã nói trong sách hay không? Có tu học theo lời khuyên bảo hay không? Mỗi ngày y theo đây mà tu học, bạn có thể tu được ba trăm việc thiện, liền trở thành địa tiên, đó là tiên nhân của nhân gian. Có đồng tu đem điều này đến hỏi tôi. Tôi trả lời họ, ba trăm việc là ba trăm loại, bạn phải làm cho rõ ràng. Nếu nói ba trăm việc thiện rất dễ dàng, một ngày làm ba trăm việc thiện liền trở thành địa tiên? Thực chất là ba trăm loại việc thiện. Mỗi loại khi gặp thì phải làm được. Nhất định chăm chỉ nỗ lực y giáo phụng hành, đó đều là pháp lạc. Hiện tiền chúng ta, chúng sanh thời đại này, khu vực này là pháp dược rất hữu hiệu. Đại sư Ấn Quang khai mở cho chúng ta, càng nghĩ càng có đạo lý. Hy vọng đồng tu chúng ta đều lưu ý, tỉ mỉ kiểm điểm, y giáo phụng hành, tự nhiên liền có công đức lợi ích thù thắng. “THĂNG QUÁN ĐẢNH GIAI, THỌ BỒ ĐỀ KÝ, VI GIÁO BỒ TÁT, TÁC A XÀ LÊ, THƯỜNG TẬP TƯƠNG ƯNG, VÔ BIÊN CHƯ HẠNH, THÀNH THỤC BỒ TÁT, VÔ BIÊN THIỆN CĂN, VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT, HÀM CỘNG HỘ NIỆM” Đoạn kinh văn này tương ưng với nghi thức của thôn A Di Đà ở đoạn “thọ ký Phật hộ”. Chư Phật hộ niệm tu học Phật pháp, dạy bảo mục tiêu sau cùng đều không ngoài hy vọng chúng ta thành Phật ngay đời này. Hơn nữa còn làm Phật cứu cánh viên mãn. Tôi nghĩ các đồng tu, ngày trước tuy đã từng nghe kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cho đến các kinh luận đại thừa khác nhưng vẫn còn nghi hoặc, không tin tưởng, huống hồ tin sâu. Do nguyên nhân gì? Vì lý quá sâu, sự quá phức tạp, thường thức phàm phu chúng ta không thể lý giải nên không thể tin sâu. Đó là hiện tượng bình thường. Lần này ở Singapore, chúng ta hội hợp tại Cư Sĩ Lâm không giống như ngày của mười năm trước. Ngày nay chúng ta khởi giảng đại kinh. Chỉ có Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh mới nói một cách thấu triệt, tường tận. Đó là sự giúp đỡ rất lớn, khiến chúng ta không chỉ sanh khởi tín tâm mà còn tin sâu không hoài nghi. Đồng thời dành thời gian một ngày nói với các vị tường tận kinh Vô Lượng Thọ, cũng chính là thâm nhập Tịnh Độ, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín ở ngay đời này, đích thực thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn. Duyên phận hi hữu thù thắng như vậy quả đúng như kệ khai kinh đã nói “trăm ngàn vạn kiếp khó được gặp”. Cư sĩ Bành Tế Thanh cũng từng phát biểu, vô lượng kiếp đến nay một ngày hi hữu khó gặp. Hôm nay may mắn gặp được, hy vọng chúng ta biết trân trọng nhân duyên hy hữu này, cố gắng nắm giữ nó, thành tựu đạo nghiệp một đời. “Thăng quán đảnh giai, thọ Bồ Đề ký”
  • 21. Đoạn kinh văn rất giống khẩu khí của mật tông. Không sai, đích thực là mật pháp. Như vậy “hiển, mật, tông, giáo” viên dung, trong kinh Vô Lượng Thọ, bao gồm giáo nghĩa của các tông các phái. Kinh văn không dài nhưng rất viên mãn. Vậy chúng ta có phải niệm chú, học mật hay không? Không cần thiết vì kinh này đều bao gồm hết, không kém khuyết thứ gì, đích thực là đại viên mãn giáo. “Quán đảnh” là nghi thức mật tông thọ ký. Thế nhưng mật tông quán đảnh phân ra rất nhiều giai đoạn. Ban đầu học Phật thọ tam quy thì thượng sư quán đảnh cho bạn. Bản thân tôi ban đầu học Phật thọ tam quy là nhờ đại sư Chương Gia truyền thụ, cũng nhận qua nghi thức quán đảnh, nhưng đó chỉ là hình thức. Rốt cuộc chúng ta không hiểu ý nghĩa chân thật của quán đảnh. Đại sư cũng không giảng giải tường tận cho chúng ta nghe. Trong nghi thức tuyệt nhiên không có giải thích rõ ràng, bởi vì người nhận quy y số lượng rất đông, thời gian rất thúc bách. Tôi thân cận đại sư nên khi có nghi vấn thì thỉnh giáo với ngài, nhờ ngài khai đạo. Nghi thức quán đảnh, quan trọng nhất là phải hiểu rõ nội dung của nó. “Mật Tạng ký sao” của Đại Tạng kinh có giải thích tỉ mỉ. “Quán” thí dụ cho đại bi hộ niệm, ngày nay chúng ta gọi là đại từ bi gia trì, đại từ bi hộ niệm, hoặc người thế gian thường nói “đại từ bi bảo hộ”. “Đảnh” là cao nhất, đầu của người là cao nhất. Đảnh đại biểu pháp môn cao nhất, pháp môn thù thắng nhất, đỉnh pháp trong tất cả pháp môn. Chúng ta liên kết hai chữ “quán đảnh” lại thì liền rõ được ý nghĩa. Phật dùng đại từ đại bi, đem đảnh pháp viên mãn thù thắng nhất truyền thụ cho chúng ta, đó gọi là quán đảnh. Không phải dùng một ít nước rảy vài giọt lên đầu của bạn thì gọi là quán đảnh. Quán đảnh như vậy không ích gì, chỉ là hình thức biểu pháp. Quan trọng là họ truyền pháp cho bạn, cái pháp này đương nhiên là đảnh pháp chí cao vô thượng. Bạn đạt pháp môn này nhất định được tất cả chư Phật hộ niệm, gia trì, giúp đỡ, khiến bạn khế nhập đảnh pháp, khế nhập pháp môn quả địa cứu cánh Như Lai, đó mới gọi là quán đảnh. Do đây có thể biết, quán đảnh trong hiển giáo của chúng ta quy y trên hình thức, thọ giới trên hình thức, đều không đủ tin cậy. Phật pháp phải nói đến thực chất, chân thật chịu làm. KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 34) Pháp Sư Tịnh Không “Quán đảnh giai” thực tế chính là chỉ bổn kinh. Làm sao biết bổn kinh này là đảnh pháp. Lão cư sĩ Mai Quang Hy ở phía trước bổn hội tập kinh Vô Lượng Thọ, có một thiên lời tựa rất hay, viết rất dài. Lời tựa nhắc đến một đoạn, ông vận dụng ghi chép của đại đức xưa kể rằng, vào thời Tùy Đường, Phật pháp hưng thịnh nhất trong sử Phật giáo Trung Quốc, đó là thời đại hoàng kim của Phật giáo. Đại tiểu thừa Phật giáo, mười tông phái gần như đồng thời xuất hiện. Một số người xuất gia ưu tú từ nước ngoài đến Trung Quốc du học, đạt một số thành tựu đặc biệt như Nhật Bản, Hàn Quốc. Vào lúc đó Hàn Quốc chưa thống nhất, gọi là Tam Hàn. Phía nam Việt Nam cũng có rất nhiều cao tăng đại đức đến Trung Quốc du học. Thời điểm đó họ từng thảo luận tỉ mỉ và nghiên cứu phân tích, Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa giảng kinh hơn ba trăm hội, nói pháp
  • 22. bốn mươi chín năm, nhưng bộ kinh nào biểu đạt đầy đủ cả thảy tính chất của Phật pháp? Những đại đức này gần như công nhận Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh có thể đại biểu cả thảy Phật pháp, gọi là pháp luân căn bản. Họ còn dùng thí dụ để nói, tất cả kinh đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm. Phật pháp giống như một cây to, Hoa Nghiêm là gốc rễ. Ngoài ra, những điều Thế Tôn nói trong bốn mươi chín năm không ngoài cành lá trên thân cây đó. Cành lá không rời khỏi cội gốc, nên Hoa Nghiêm được gọi là pháp luân căn bản. Vậy Hoa Nghiêm chính là đảnh pháp. Thời đó người tu Tịnh Độ không ít, triều nhà Đường xuất hiện đại sư Thiện Đạo. Lịch sử Trung Quốc ghi chép, ngài là hoá thân của Phật A Di Đà. Lịch sử Trung Quốc cũng từng nói, có ba vị là Phật A Di Đà hoá thân mà chúng ta biết, còn những vị mà chúng ta không biết thì không thể tính đếm được. Vị thứ nhất là đại sư Thiện Đạo, vị thứ hai là pháp sư Vĩnh Minh Diên Thọ, vị thứ ba là Hòa Thượng Phong Can ở chùa Quốc Thanh. Ba vị này đã bộc lộ thân phận. Chúng ta nên biết, chư Phật Bồ Tát thị hiện ở thế gian rất hiếm khi bộc lộ thân phận, còn người không bộc lộ thân phận thì rất nhiều. Cho nên tôi khuyên các đồng tu phải sanh tâm cung kính đối với người. Không chừng bạn xem thường một người nào, thì người đó lại là Phật A Di Đà hoá thân, vậy coi như bạn đắc tội, còn có thể vãng sanh hay sao? Nói là nói như vậy, nhưng vãng sanh vẫn chiếu theo vãng sanh. Bạn đắc tội, Phật A Di Đà nhất định sẽ không trách cứ. Điều kiện vãng sanh là đầy đủ tín nguyện hạnh, chúng ta đối với tất cả mọi người phải bình đẳng cung kính mới là đúng pháp. Rất nhiều cao tăng đại đức Nhật Bản đều từng thân cận đại sư Thiện Đạo và đem Tịnh Độ tông truyền đến Nhật Bản, Hàn Quốc. Một ngôi chùa ở Nhật Bản tên gọi chùa Thiện Đạo ngày hôm nay được rất nhiều người đến. Thấy chùa, người ta liền biết ở đó tu Tịnh Độ nhờ tên huý của đại sư đặt cho chùa miếu. Họ rất cung kính đối với ngài. Tượng đắp của đại sư có khắp nơi trên Nhật Bản. Còn đệ tử Phật tịnh tông Trung Quốc chúng ta lại quên mất đại sư. Khi tham quan du lịch Nhật Bản, chúng ta gặp quang cảnh này liền sanh tâm hổ thẹn. Người ta tôn kính tổ sư chúng ta đến như vậy, thế mà chúng ta quên mất. Lại tỉ mỉ tìm hiểu Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đến sau cùng làm thế nào mới có thể viên mãn thành tựu, đạt đến đảnh pháp chân thật? Thì ra là pháp sau cùng nhất, Bồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương cầu sanh Cực Lạc. Những đệ tử Phật liền khẳng định kinh Vô Lượng Thọ là đảnh pháp, vì kinh Vô Lượng Thọ rút gọn kinh Hoa Nghiêm. Những cao tăng đại đức lúc đó nói, “Hoa Nghiêm” “Pháp Hoa” trên thực tế dẫn đạo bạn quay về Tịnh Độ. Cũng giống như chúng ta mở ra ba phần, “Hoa Nghiêm”, “Pháp Hoa” là phần tựa, kinh vãng sanh Tịnh Độ là phần chính, cụ thể là kinh Vô Lượng Thọ, và kinh A Di Đà là phần lưu thông. Cho nên trước nhà Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh mới nói, kinh Vô Lượng Thọ là quyển trung của Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là tiểu bổn của Hoa Nghiêm. Ba bộ kinh này kỳ thật là một bộ. Lời nói của Bành Tế Thanh không đơn giản. Nếu không vào được cảnh giới này thì ông không thể nói ra như vậy. Thông thường nói kinh Hoa Nghiêm, Vô Lượng Thọ, A Di Đà là đảnh pháp. Nguyên bản dịch của bổn kinh này rất nhiều. Từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc,