1. KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 31)
Pháp Sư Tịnh Không
“Hoại chư dục trạm”
. “Trạm” là thí dụ. Trước thành thị có tường thành, bên ngoài thành có hào giữ
thành, hào gọi là trạm. Phật ở chỗ này đem phiền não thí dụ cho thành, đem dục
vọng thí dụ cho hào giữ thành. Tất cả chúng sanh ở thế gian đều có dục vọng,
cụ thể “ngũ dục” gồm năm loại dục vọng mãnh liệt: “tài, sắc, danh, thực, thùy”;
“lục dục” gồm “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” còn gọi là lục trần. Những thứ
này phải viễn ly, phải xả bỏ, hạ dục vọng của đời sống xuống mức thấp nhất thì
đời sống của bạn liền được đại tự tại, ngay đời này chân thật hạnh phúc mỹ
mãn. Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu được. Phật và học trò của ngài cũng làm được
điều này, nên họ trải qua đời sống thong dong tự tại. Dưới mỗi gốc cây chỉ ngủ
một đêm, nửa ngày ăn một bữa, không có gánh nặng nào.
Trong khi người thế gian mê hoặc điên đảo, tham đắm năm dục sáu trần, nghĩ
hết cách phải thành gia lập nghiệp, tại dựng cái nhà. Nhà là gì? Các vị xem thử
kiểu dáng “nhà”, văn tự Trung Quốc, giống như chữ “hào”. Có một căn phòng
nhỏ, trong phòng là chú heo nhỏ, đó chính là chữ nhà. Phật đầy đủ trí tuệ nên
không làm việc này. “Nghiệp” là gì? là nghiệp chướng. Bạn còn phải lập nghiệp,
chướng ngại “minh tâm kiến tánh”, chướng ngại thoát sanh tử, ra ba cõi. Gia
nghiệp trói buộc, người giác ngộ phải biết xả bỏ nó. Vậy ngày nay, người xuất
gia chúng ta có thật xuất gia hay không? Không. Họ ra khỏi nhà nhỏ, liền xây
nhà to; xả bỏ nghiệp nhỏ, làm một đại nghiệp, khổ nói không ra lời. Cho nên phải
tỉ mỉ tư duy, nghĩ xem khi còn ở đời, Phật đã dạy chúng ta như thế nào, tổ sư đại
đức xưa nay dạy bảo chúng ta như thế nào.
Khi Thế Tôn còn tại thế, không có đạo tràng. Tuy lúc tuổi già, một số quốc vương
đại thần cúng dường tịnh xá, vườn rừng, thỉnh Phật ở đó giảng kinh nói pháp, đó
chỉ là thỉnh Phật tạm trú, không hề tặng Phật Thích Ca Mâu Ni. Vườn rừng đạo
tràng vẫn là của chính các tín đồ, họ vẫn có quyền sở hữu. Phật Thích Ca Mâu
Ni cùng các đệ tử này chỉ có quyền sử dụng, chứ không có quyền sở hữu. Cũng
như chúng ta ở nhà nghỉ vậy, chỉ đến ở vài ngày, nhưng ông chủ mới là người
có quyền sở hữu. Lão hòa thượng tiền bối cũng từng nói, căn phòng này khi
mưa xuống bị dột, người xuất gia thấy dột thì dọn qua nơi không dột. Bị dột nữa
thì đi nơi khác. Sửa sang phòng ốc là việc của người chủ. Người tạm nghỉ không
lo việc này. Loại cúng dường đó công đức chân thật.
Ngày nay, một số tín đồ mua nhà cửa, cúng dường quyền sở hữu cho pháp sư.
Pháp sư liền bước lên thòng lọng, thiệt hại càng to. Không phải bạn đang muốn
xuất gia hay sao? Người ta kéo bạn trở lại thì bạn đã quay lại, rồi có một căn
nhà, nhốt chết bạn, vĩnh viễn không thể thoát khỏi luân hồi. Tôi hy vọng đồng tu
xuất gia chúng ta phải cảnh giác cao độ, quyết không để bị thiệt.
Nếu như bạn muốn hỏi, “không có bất cứ thứ gì vẫn có thể thân tâm an ổn làm
đạo sao?”. Cả đời tôi làm tấm gương cho các vị, cả đời tôi không có đạo tràng,
2. đều ở đạo tràng của người khác. Cả đời này chẳng phải tự tại, an vui hay sao?
Không có gia nghiệp càng tự tại, càng an vui. Nếu không có người quan tâm đến
tôi, không thỉnh tôi giảng kinh, không có nơi để ở, thì tôi càng an vui không gì
bằng. Tôi có thể lập tức đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được A Di Đà Phật
tiếp dẫn. Vì các vị vẫn cúng dường, tìm tôi giảng kinh, nên tôi không còn cách
nào khác, phải ở thêm vài ngày vậy, đó là sự thật. Dục vọng giảm xuống mức
thấp nhất. Hiện tại tôi gần như không có dục vọng. Hoằng pháp lợi sanh là việc
của các vị, không liên quan đến tôi. Tôi ở đây giảng kinh, các vị muốn lưu thành
băng đĩa để truyền bá khắp nơi, lợi ích chúng sanh, đó là việc của các vị, không
liên quan đến tôi. Từ trước giờ tôi không nghe không hỏi, đó không phải là việc
của tôi. Ai thích làm gì thì làm. Tôi cũng không có bản quyền, không gởi quan
cáo các vị về tác quyền.
Chúng ta phải học người thông minh, phải biết những thứ này không là việc tốt,
quyết không có chướng ngại, xả bỏ tất cả mới có thể được đại tự tại. Mấy ngày
nay, một số đồng tu nói với tôi, họ nghe tôi giảng kinh thuyết pháp, đem nhà và
gia nghiệp thảy đều buông bỏ để đến học Phật. Sự nghiệp vừa buông bỏ, không
làm việc, không thu nhập, qua vài ngày đời sống trở thành vấn đề. Cả nhà kêu
khổ, thân thích bạn bè xem thấy cho rằng người học Phật này bị ma ám, mê
muội. Nghe xong, tôi thấy họ đã hiểu sai ý nghĩa lời tôi nói. Tôi không dạy như
vậy. Kinh nói “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, thực tế không dễ dàng. Ý
nghĩa lời tôi nói bạn còn hiểu sai thì làm sao có thể hiểu được ý của Như Lai?
Trong kinh Phật dạy chúng ta buông bỏ là buông bỏ phiền não, buông bỏ dục
vọng. Không bảo bạn buông bỏ công việc. Kinh luận đại thừa tiểu thừa, không có
bài kinh nào Phật bảo bạn buông bỏ công việc. Nếu Phật bảo buông bỏ hết công
việc thì công tác giảng kinh nói pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng buông bỏ.
Chúng ta sẽ không có kinh nghe, thế gian không có Phật pháp. Việc không hề
chướng ngại trên kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”.
Ngại là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chính là nói phiền não, dục
vọng. Cho nên, chướng ngại trên tâm lý phải buông bỏ. Trên sự không có
chướng ngại. Không chỉ Phật không dạy buông bỏ công việc mà Phật còn dạy
bạn làm việc chăm chỉ nỗ lực hơn người. Bạn muốn làm tốt hơn người khác,
phải trở thành tấm gương để người khác soi theo.
Sau cùng trong kinh Hoa Nghiêm nói đến năm mươi ba đồng tham, chẳng phải
là thí dụ hay sao. Năm mươi ba vị đó không phải là Bồ tát mà là năm mươi ba vị
Phật. Họ dùng thân đại sĩ để xuất hiện. Họ nội chứng, vẫn là thị hiện, không phải
thật, đều là chư Phật Như Lai. Trên dấu vết có nam nữ già trẻ, các ngành nghề.
Nhưng từ một nghề nghiệp nào đó, họ làm ra tấm gương tốt nhất. Cho nên Bồ
Tát đạo tu ở đâu? chính ngay cuộc sống thường ngày của mình. Không hề rời
khỏi đời sống. Nếu bạn nói, nhất định phải phát tâm, phải học Phật, phải tu hành
chứng quả, phải xả bỏ việc nhà, thì nhất định phải xuất gia, nhưng xuất gia có
thể thành Phật hay không? Xuất gia nếu không gặp duyên tốt, tạo tội nghiệp
càng sâu, đọa a tỳ địa ngục càng nhanh, càng thê thảm. Chúng ta ở năm mươi
ba vị đồng tham xem thấy, năm mươi ba vị Phật chính ngay trong đời sống của
họ, trong nghề nghiệp của họ, mỗi mỗi đều thành tựu. Chúng ta phải giác ngộ.
Những người đó đoạn tham sân si trong cuộc sống, xả bỏ dục vọng, thành tựu
3. vô lượng pháp môn, thành tựu vô thượng Phật đạo, đó gọi là học Phật. Tuyệt
nhiên không xả bỏ đi sự nghiệp của mình.
Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện người xuất gia, một nghề nghiệp tu hành chứng
quả có thể thành Phật. Cư sĩ Duy Ma cùng Thích Ca Mâu Ni Phật trong một thời
đại, thị hiện tại gia thành Phật, có gia nghiệp, có vợ con, dù tại gia nhưng cũng
thành tựu cứu cánh viên mãn quả Phật như nhau. Cho nên các vị phải biết, xuất
gia là một hạnh trong ba trăm sáu mươi hạnh. Hạnh nghiệp này là giáo dục xã
hội, một tính chất nghĩa vụ. Bạn có hứng thú đối với việc này thì có thể chọn lựa.
Hạnh nghiệp này là hoàn toàn dốc hết nghĩa vụ, quyết không ham muốn báo
đáp. Không nhận báo đáp, bạn mới thanh tịnh.
Nếu bạn tự làm rất nhiều việc từ thiện xã hội thì hà tất phải làm người xuất gia
cho phiền. Bạn có tiền có thế lực thì cứ làm. Còn cúng dường pháp sư và yêu
cầu pháp sư làm từ thiện giúp, như thế chẳng phải phiền người khác hay sao.
Thích Ca Mâu Ni Phật không bao giờ làm. Trong hàng đệ tử của Ngài có biết
bao quốc vương đại thần, nhưng Ngài không bao giờ tiếp nhận cúng dường hay
lời thỉnh mời làm giúp những việc từ thiện. Phật chỉ dạy cách làm và bạn phải tự
làm. Phật không làm thay việc này cho bạn.
Hiện tại người xuất gia phá giới phạm quy củ cũng vì tiếp nhận cúng dường của
người tại gia, làm việc cho người tại gia. Nếu thông minh có trí tuệ, chúng ta
không làm việc ngốc này. Hãy để họ tự làm, chúng ta mới có thể viên mãn tròn
đầy bổn phận của mình. Không ít người đi khắp nơi cúng dường tăng, trở thành
một phong tục. Nếu bạn không tiếp nhận thì bị mắng và quy kết không từ bi,
không chịu để người gieo chút phước điền. Việc này thật bất đắc dĩ cho nên
không cách gì. Chẳng hạn ở HongKong, tôi không thể không tiếp nhận. Sau khi
tiếp nhận, tôi liền đưa đồng tu mang về, thảy giao cho cư sĩ Lý Mộc Nguyên làm
Phật sự. Ở Đài Loan cũng nhận ít cúng dường. Vừa đúng lúc có pháp sư đến
đại lục cứu tế. Tôi nghe nói đại lục nạn nước rất nghiêm trọng, nên thảy đều giao
hết tiền cúng dường cho pháp sư đó. Tôi không hề nhìn qua bao nhiêu tiền bên
trong. Nhiều bao đỏ mang đến lại cho đi, rất tự tại.
Phải biết tham sân si mạn, năm dục sáu trần hại chúng ta đời đời kiếp kiếp
không ngẩng đầu lên. Không phải chúng ta không có thiện căn, nếu không có
thiện căn, bạn không thể ngồi đây đến hai giờ đồng hồ. Ngồi được hai giờ đồng
hồ, chứng tỏ bạn có thiện căn, Phật duyên của bạn rất sâu, quá khứ đời đời kiếp
kiếp thân cận chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát, tổ sư đại đức, nhưng vì sao
bạn không thể vãng sanh, vì sao vẫn đọa vào sáu cõi sanh tử luân hồi? Vì phiền
não của bạn chưa đoạn, dục vọng chưa xả hết, bạn thường hay nghĩ đến việc
này, càng nghĩ càng đáng sợ, càng nghĩ càng thấy nghiêm trọng. Trong đời này
chúng ta gặp Phật pháp, được cơ duyên thù thắng, thuận lợi vãng sanh, nhưng
còn phải xem bạn có chịu đem phiền não dục vọng hạ xuống mức thấp nhất hay
không. Xả bỏ và hạ thấp thì ngay đời này liền thành tựu. Nếu đời này vẫn bị tập
khí lôi kéo, vẫn không buông bỏ, hay nói cách khác, đời này cũng giống y đời
trước, chỉ kết được thiện duyên với Phật A Di Đà thì không thể đi được. Bạn lại
uổng qua một đời nữa, nghĩ xem có đáng tiếc không. Kinh văn mở ra câu thứ
nhất liền nói đến phiền não dục vọng, thế mới biết tính nghiêm trọng của nó. Vô
lượng kiếp đến nay chúng ta đã bị hại thê thảm, vậy mà vẫn chưa chịu giác ngộ
hay sao?
4. “Tẩy trạc cấu uế”
“Cấu” là phiền não chướng, “uế” là sở tri chướng, là vô minh, những thứ chúng
ta phải kỳ rửa cho thật tinh sạch. Câu kinh này từ trên thí dụ mà nói, vậy phải
dùng phương pháp gì để tẩy rửa? Lý luận trong kinh điển đại tiểu thừa cho
chúng ta nhiều phương pháp phương tiện khéo léo tẩy rửa sở tri chướng và
phiền não chướng. Tịnh tông Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta “gom nhiếp sáu
căn, tịnh niệm tương tục”, đó là phương pháp tốt, nhưng làm thế nào để gom
nhiếp sáu căn? “Nhiếp” là thâu nhiếp. Phật dạy như vậy, thánh nhân thế gian
cũng dạy chúng ta như vậy. Các vị đọc Tứ Thư, Mạnh tử đã nói ra ý này, “Học
vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ”. “Cầu kỳ phóng tâm” chính là “gom
nhiếp sáu căn”. Tâm phàm phu chúng ta tùy theo sáu căn mà chạy rong bên
ngoài, phan duyên sáu trần, nhãn duyên sắc, tai duyên tiếng, tâm hướng ra
ngoài. Những thánh hiền thế xuất thế gian dạy bảo chúng ta phải gom nhiếp tâm
đó lại. Mắt không duyên sắc trần, tai không duyên thinh trần, đó chính là học
vấn, là công phu.
Xã hội hiện đại rất phức tạp. Kinh Lăng Nghiêm nói “tà sư thuyết pháp như cát
sông Hằng”, Phật không quá đáng chút nào. Phàm hễ mê hoặc bạn thì đều là tà
sư. Truyền hình đang dạy bạn, ca vũ đang dạy bạn, sáu căn của bạn tiếp xúc với
cảnh giới đều đang dạy bạn tạo mười ác nghiệp, tăng thêm tham sân si mạn,
mục đích kéo bạn vào a tỳ địa ngục, không dễ gì thoát khỏi. Bồ Tát Địa Tạng ở
nơi đó khổ cực lắm mới kéo bạn từ địa ngục đi ra. Kéo ra chưa được mấy ngày,
những ma vương bên ngoài thấy bạn lại tạo nhiều sự mê hoặc. Bạn vừa nắm lấy
thì lập tức trở vào. Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh đã nói, Bồ tát Địa Tạng
thấy bạn vừa ra khỏi, rồi đánh một vòng lại trở vào, “chúng sanh Diêm Phù Đề,
cang cường nan hoá”. Do đó chúng ta phải ghi nhớ lời của Phật Bồ Tát, không
nên rơi vào thòng lọng yêu ma quỷ quái. Phải hiểu được gom nhiếp sáu căn.
Phàm hễ tà ác, tà thì không chánh, ác thì không thiện, nhất định phải biết nguyên
lý. Người chân thật tu hành không nên xem truyền hình. Truyền hình thời đại
hiện nay là dấu hiệu của ma vương. Bạn qua lại với nó thì phiền não sẽ to. Vô số
chúng sanh trên thế giới này từ nhỏ đã kết giao mật thiết với nó, một ngày không
rời khỏi. Chúng ta phải cảnh giác cao độ. Không chỉ đó là ma vương, tương lai e
rằng càng hung hơn, tà ác hơn. Đường truyền internet không cách gì phòng bị.
Nội dung trong đó quá tà ác. Internet là một công cụ rất tốt để ma vương lợi
dụng. Chúng ta là đệ tử Phật, phải phát tâm dùng công cụ này tuyên dương
chánh pháp. Trong số người thế gian, người có thiện căn vẫn rất nhiều, họ sẽ
giác ngộ, quay đầu.
Lần trước tôi đến HongKong, lão pháp sư Giác Quang gọi điện cho tôi. Ông vừa
từ Seattle Hoa Kỳ trở về. Ông ấy có hai đạo tràng ở Seattle, nên mỗi năm phải đi
về hai lần, mỗi lần mười mấy ngày. Ông bảo, ở Seattle ngày ngày ông đều nghe
tôi giảng kinh. Tôi lấy làm lạ, làm sao tôi có thể giảng kinh ở Seattle? Thì ra trên
truyền hình. Mỗi ngày ở Hoa Kỳ có thời gian một giờ đồng hồ phát sóng băng đĩa
giảng. Ông xem thấy rất hoan hỉ, gọi điện nói với tôi. Ông nói từ trước đó, trên
truyền hình cũng có một số tà sư nói pháp, mê hoặc người. Sau khi phát tiết mục
này của tôi, những tiết mục đó liền rất ít, người xem cũng giảm. Ông báo tin cho
tôi, rồi mời tôi ăn cơm.
5. Cho nên, chúng ta phải cố gắng lợi dụng công cụ khoa học kỹ thuật. Ngạn ngữ
thường nói “không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng đụng hàng”. Chúng ta dùng
hàng thật, hàng tốt để tạo sự so sánh. Một số người có thiện căn tự biết chọn
lựa. Do đó chúng ta phải xem trọng khoa học kỹ thuật, phải khéo lợi dụng nó mà
đem chánh pháp của Phật, pháp thuần thiện của Phật truyền bá khắp thế giới.
Mọi người đều biết kiếp nạn tai biến triền miên, vậy có thể hoá giải được không?
Trên lý luận khẳng định có thể hoá giải. Kiếp nạn hình thành do tri kiến tà ác,
hành vi tà ác, chúng sanh nghiệp lực trói buộc, ác nghiệp chiêu cảm. Hiện tại có
rất nhiều người không tin điều này. Họ không tiếp nhận, nhưng những điều này
đều là sự thật. Phật thường nói “mười pháp giới y chánh trang nghiêm, duy tâm
sở hiện duy thức sở biến”, đó là nói rõ nguồn gốc của vũ trụ nhân sanh, do vậy
mà đến. Lại nói với chúng ta “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, hữu tình có tưởng
liền biến thành hữu tình thế gian, vô tình vô tưởng liền biến thành khí thế gian.
Hữu tình thế gian cùng khí thế gian đồng một căn nguyên. Người học qua pháp
tướng duy thức đều biết. Bốn phần của a lại da, hữu tình hữu tưởng kiến phần,
vô tình vô tưởng tướng phần. Kiến phần tướng phần cùng đồng một tự chứng
phần. Nếu chúng ta có thể đoạn tất cả tà ác, nỗ lực tu thiện thì nghiệp thiện thêm
lớn, hoàn cảnh y báo liền chuyển, tai nạn tự nhiên cũng có thể tiêu trừ, hoặc
chuyển biến, chân thật là “y báo tùy theo chánh báo chuyển”.
Tóm lại, người chân thật hiểu dụng công, biết dụng công thì không gì khác hơn
“gom nhiếp sáu căn”. Người niệm Phật so với phương pháp Bồ Tát Đại Thế Chí
đã nói còn phải đơn giản hơn, có hiệu quả hơn. Dùng phương pháp một danh
hiệu Phật gom nhiếp sáu căn, “nhất thanh Phật hiệu, nhất thanh tâm”, “nhất
niệm tương ưng, nhất niệm Phật”. Ngay trong một niệm không có tà ác thì tương
ưng; không có tà tư, không có ác niệm thì tương ưng. Niệm Phật vẫn khởi vọng
tưởng, vẫn còn tham sân si mạn, vẫn có phải quấy nhân ngã, thì không tương
ưng. Nói chung, những tri kiến thế tục này thảy đều không còn, tâm địa thanh
tịnh mới tương ưng.
“Hiển minh thanh bạch”
“Thanh bạch” là thí dụ chân tâm bổn tánh, tự tánh. Loại bỏ hai chướng ngại,
phiền não chướng và sở tri chướng thì tự tánh thanh bạch liền hiển lộ. Ngày nay
tự tánh thanh bạch của chúng ta bị hai loại chướng này chướng ngại nên không
thể hiển lộ. Như Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói “Bất dã phương tiện, tự đắc tâm
khai”.
“Hiển minh” chính là tự đắc tâm khai. Tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh”. Bốn
chúng đồng tu chúng ta ngay đời này phải lấy đây làm mục tiêu. Tất cả cái khác
đều giả, cái này là thật, tịnh tông gọi là “Nhất tâm bất loạn”. Bạn niệm Phật đến
nhất tâm thì thành tựu của bạn là chân thật.
Buổi tối hôm qua, một học sinh đến hỏi tôi, làm thế nào để học giảng kinh? Tôi
hỏi anh ấy năm nay bao nhiêu tuổi? Anh trả lời hai mươi tám tuổi. Tôi bảo anh
hãy chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ trong mười năm, đến ba mươi tám tuổi.
Trong mười năm, không nên can dự đến các kinh điển khác, chỉ chuyên một
môn. Khi một môn thâm nhập tâm của bạn liền định. Một bộ kinh được giảng
trên dưới mười năm thì mỗi năm chí ít cũng phải giảng hai lần. Hy vọng trong
mười năm, bộ kinh này được giảng từ đầu đến cuối ba mươi lần, thậm chí năm
mươi lần càng tốt. Sau mười năm, chắc chắn bạn sẽ trở thành giảng sư hay
6. nhất thế giới, là chuyên gia của kinh Vô Lượng Thọ. Bạn chính là Vô Lượng Thọ
Phật sống, Vô Lượng Thọ Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ. Bạn liền có thể hóa
độ tất cả chúng sanh thế giới.
Còn nếu bạn muốn học cùng lúc hai ba bộ kinh thì sức mạnh của bạn sẽ bị phân
tán, không thể thành tựu. Bạn có học mười bộ kinh thì bạn cũng chỉ là một nhà
Phật học, không liên quan gì đến việc thoát sanh tử vượt ba cõi. Tương lai bạn
chết như thế nào vẫn phải chết như thế đó, đáng luân hồi như thế nào vẫn phải
luân hồi như thế đó. Bạn phải hiểu đạo lý và chân tướng sự thật này.
Bạn cũng không nên học tôi. Hôm nay tôi giảng nơi đây, ngày mai tôi lại giảng
Hoa Nghiêm, giảng cái này, cái kia. Nếu bạn học tôi thì thật đáng lo. Vì tôi bị ép
không còn cách lựa chọn. Nếu có người giảng Hoa Nghiêm, tôi sẽ tuyệt đối
không giảng Hoa Nghiêm nữa mà một đời chỉ chuyên giảng một bộ kinh. Nhưng
sở dĩ tôi phải giảng nhiều như vậy vì không có người giảng. Tôi không còn cách
nào nên mới làm vậy. Rất nhiều người nói, “Pháp sư à! Lưu lại bộ băng đĩa này
đi, đây là một công trình thật to lớn”. Thế nhưng tôi hy sinh có mức độ khi một
đời giảng nhiều bộ kinh. Hạ hạ phẩm vãng sanh là mức thấp nhất, tôi biết mình
có thể vãng sanh ít nhất là bậc hạ hạ phẩm. Còn nếu hạ hạ phẩm vãng sanh bạn
cũng không thể nắm chắc thì việc giảng nhiều bộ kinh nhất định không nên làm.
Hãy nghe lời tôi khuyên, ngay trong một đời này chuyên giảng một bộ kinh,
tương lai các vị vãng sanh sẽ là thượng thượng phẩm. Đến thế giới Tây Phương
Cực Lạc, phẩm vị của bạn sẽ cao hơn tôi nhiều.
Năm xưa Đại sư Trí Giả ở đời cũng đã hi sinh rất lớn. Khi ngài sắp vãng sanh cõi
phàm thánh đồng cư, học trò hỏi phẩm vị vãng sanh của ngài. Ngài nói: “nếu tôi
không độ chúng, phẩm vị rất cao. Nhưng vì độ chúng, phải lo việc trụ trì, cho nên
chỉ vãng sanh ở phẩm vị thứ năm”. Công phu của phẩm vị thứ năm không cao,
tương đương với ngũ đình tâm vị trong tiểu thừa. Thị hiện này xả mình vì người,
đó là việc rất khó được. Thế nhưng chính ngài phải nắm chắc mức độ thấp nhất
để vãng sanh. Đó là từ bi chịu hi sinh chính mình. Một khi chấp nhận hi sinh,
phẩm vị cũng không gì đáng tiếc. Còn nếu chính mình không nắm chắc được
phần vãng sanh thì vạn nhất không nên làm. Đó là việc chính mình nhất định
phải biết, quyết không làm trung gian.
Bạn thông đạt các loại kinh luận, đều giảng được, tiếng tăm của bạn cao, vậy coi
như xong. Tiếng tăm đó hại chết bạn. Bạn sẽ không bằng người chân thật cừ
khôi, bậc đại thiện tri thức. Những người đó, bạn hỏi họ, thứ gì họ cũng không
biết, chỉ biết một môn. Năm mươi ba tham trong Hoa Nghiêm chính là tấm
gương như vậy. Khi Thiện Tài đến tham phỏng năm mươi ba vị thiện tri thức, họ
ngay trong vô lượng pháp môn chỉ học một pháp môn, không học các pháp môn
khác, chính mình khiêm tốn, tán thán người khác. Họ tự cho cái biết của mình rất
có hạn, người khác biết nhiều hơn nên lại giới thiệu Thiện Tài Đồng Tử đến nơi
khác tham phỏng. Chư Phật Bồ Tát đều làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta
xem. Chúng ta phải giác ngộ.
Ngạn ngữ Trung Quốc nói: “Chỉ cần công phu sâu, lo gì sắt không mài thành
kim”. Chỉ cần bạn hạ công phu, làm gì không thể thành tựu vô thượng bồ đề.
Ngay một đời này, chúng ta đích thực có thể chứng đắc, chỉ cần bạn thật chịu
làm, chân thật buông bỏ phiền não, xả bỏ dục vọng, một lòng một dạ chuyên
môn công phu minh tâm kiến tánh. Phải biết sau khi ngộ, tất cả thông đạt vô
7. ngại. Giáo học thời xưa không chỉ là Phật pháp mà còn có giáo học của nhà
Nho. Lão sư rất xem trọng ngộ tánh của học trò. Thời kỳ kháng chiến, trường
học chúng tôi ở Quế Châu, lão sư vẫn xem trọng ngộ tánh của học trò. Học trò
nào ngộ tánh cao, thầy giáo đặc biệt quan tâm, chăm sóc. Họ không truyền bá tri
thức mà dùng phương tiện khéo léo giúp bạn khai ngộ, đó mới là giáo dục chân
thật. Còn trường học hiện tại hoàn toàn truyền thụ tri thức, không chú trọng ngộ
tánh, sai lầm to lớn. Sau khi ngộ, bạn không chỉ thông đạt pháp xuất thế gian,
mà pháp thế gian cũng thông đạt.
Có người hỏi những Bồ Tát này cùng phàm phu chúng ta đồng một a lại da thức
không? Không sai, là như nhau. Họ lại hỏi, ngay trong giống nhau vì sao lại nói
“khứ hậu lai tiên tác chủ công”? Trong giống có không giống. Thế Tôn ở kinh
Lăng Nghiêm đem tâm tánh thí dụ cho đại hải. A lại da thức của mỗi chúng sanh
thí dụ cho bọt nước. Mỗi người là một bọt nước, vậy những bọt nước trong biển
lớn giống nhau hay khác nhau. Đều từ đại hải biến hiện ra. Khi bọt nước này của
bạn trong bể thì không giống, bởi vì phạm vi của bạn rất hẹp. Bọt nước của bạn
sau khi ra bể mới hoàn toàn giống nhau. Cho nên quả nhiên có thể chuyển thức
thành trí. Trí tuệ khai thì tất cả chư Phật công đức trí tuệ đã tu vô lượng kiếp đều
biến thành chính ta. Các ngài tu biến thành của ta, vì đồng một pháp thân, đồng
một tự tánh, đồng một a lại da thức. Tương tự, vô lượng kiếp đã tu của ta cũng
biến thành của người khác. “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc”, đến quả địa Như
Lai Phật Phật như nhau, không hề khác.
Hiểu rõ đạo lý này mới biết khai ngộ rất đáng quý. Sau khi ngộ, tất cả thông đạt,
thế xuất thế gian pháp cũng thông đạt. Từ xưa đến nay thế xuất thế gian pháp,
bậc thiện tri thức chân thật thương yêu chúng sanh đều chủ trương dạy bảo
“một môn thâm nhập, huân tu lâu dài”, không hề dạy nhiều và tạp. Rất nhiều rất
tạp chính là hại bạn, làm cho bạn hướng đến con đường danh lợi, không phải
hướng đến học vấn chân thật. Học vấn chân thật không liên quan danh vọng lợi
dưỡng. Có học vấn chân thật sẽ không còn truy cầu danh vọng lợi dưỡng. Bên
cạnh đó, nếu có duyên có thể nhờ danh vọng lợi dưỡng giáo hoá chúng sanh, lợi
ích chúng sanh, quyết không ham muốn danh vọng lợi dưỡng. Phải hiểu đạo lý
này, phương châm tu học mới có thể nắm chắc thành tựu.
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 32)
Pháp Sư Tịnh Không
“ĐIỀU CHÚNG SANH, TUYÊN DIỆU LÝ, TRỮ CÔNG ĐỨC, THỊ PHƯỚC ĐIỀN,
DĨ CHƯ PHÁP DƯỢC, CỨU LIỆU TAM KHỔ”
Đoạn kinh văn đại ý “bi trí liệu khổ”. Kinh Phật nói tam giới đều khổ, đó là nói đến
trời, nhân gian. Trong mấy năm gần đây, người hiện đại chúng ta cảm xúc rất
sâu sắc cái khổ của nhân gian. Trên trời cũng vậy. Kinh Phật cho biết có hai
mươi tám tầng trời, cũng rất khổ. Khổ vô lượng vô biên có thể được phân làm ba
loại lớn “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”.
“Khổ khổ”, chữ khổ phía sau là danh từ, phía trước là động từ, ý nói quá nhiều
quá rộng. Phật quy nạp thành tám loại, gọi là tám khổ, mục đích thuyết minh nói
8. rõ khổ khổ. Trong đó có sanh lão bệnh tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng hội,
ngũ ấm xí thạnh. Tôi sẽ không nói tỉ mỉ vì mất nhiều thời gian. Ngoài tám khổ
giao nhau, còn có hoại khổ, đối với tất cả sắc tướng luôn biến hoại. Khi nó tồn
tại, chúng ta cảm thấy tốt đẹp, đến khi biến hoại liền cảm thấy rất khổ. Sau cùng
là hành khổ. Thí dụ như người thế gian thường nói “không thể trẻ mãi”, đây
thuộc về hành khổ. Sát na đang thay đổi, xê dịch đều thuộc về hành khổ.
Phật nói, trong dục giới có ba loại khổ này, rất khó vượt qua. Trời sắc giới không
có khổ khổ, vì khống chế được dục, nên gọi là “thiểu dục tri túc”. Họ có trí tuệ,
sức định, xả bỏ được tham ái hưởng thọ trong năm dục sáu trần, do đó họ
không có khổ khổ. Người trời sắc giới là hoá sanh, cho nên họ cũng không có
khổ sanh lão bệnh tử. Họ đều xả bỏ năm dục “tài, sắc, danh, thực, thuỳ”. Trong
khi đó, cõi dục giới là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh chiếm đại đa số.
Một điều khiến chúng ta khó tưởng tượng. Chúng ta có thể xả tài, xả sắc, con
người vẫn chưa phải chết; danh có thể không cần, nhưng ăn thì không được. Có
người nào chịu nổi không ăn, không ngủ? Thế nhưng, các vị phải biết, người trời
sắc giới thiền định rất sâu, “thiền duyệt vi thực”. Cái ăn dùng để nuôi thân, nhưng
nuôi thân không cần phải có thức ăn, đó là thiền định. Thiền định cũng là trạng
thái tỉnh táo, không hôn trầm. Họ ở trong định năm dục, nhằm chứng minh cho
chúng ta họ đều có thể xả được. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta nên tận khả năng
hạ thấp lòng tham sân si xuống. Như thế mới tốt cho chính mình. Không chỉ giúp
đỡ việc tu học, giúp bạn khai trí tuệ, mà còn giúp thân thể bạn khoẻ mạnh sống
lâu, không dễ già yếu.
Định huệ khởi lên tác dụng nhất định. Người sức định càng sâu, họ biết thân thể
này phiền phức, chính là sắc tướng. Người trời sắc giới có thân thể, tuy không
khổ khổ, nhưng họ có hoại khổ. Thân hình có ngày sẽ hoại đi. Hoàn cảnh lầu các
cung điện cũng sẽ hủy diệt. Cho nên họ có hoại khổ. Hoại khổ bắt nguồn từ đâu?
Từ thân. Vì có sắc tướng nên mới có hoại khổ. Người thông minh biết tiến thêm
một bước, tức không cần đến thân. Sắc tướng cũng xả bỏ, tiến vào vô sắc giới.
Vô sắc giới đương nhiên không có hoại khổ và khổ khổ, nhưng họ có hành khổ.
Hành khổ chính là cảnh giới tốt nhưng không thể vĩnh viễn giữ gìn. Đó là tầng
cao nhất trong tầng trời, không gì cao hơn. Họ không giữ gìn được thì liền phải
hướng xuống đọa lạc, đây gọi là hành khổ.
Phật nói tam giới thảy đều khổ. Kinh Pháp Hoa hình dung ba cõi như nhà lửa.
Bên trong đã cháy thì không nơi nào an toàn. Chúng ta nhất định phải biết, trong
sáu cõi chỉ có khổ, không có vui. Bạn nói vui nhưng cái vui đó là cái khổ tạm thời
đình chỉ nên bạn cảm thấy vui. Kỳ thật đó là cái thấy sai lầm của bạn. Phật thí
dụ, con người mỗi ngày không thể ít đi ba buổi cơm. Ăn no ba bữa liền cảm thấy
an vui. Nếu một bữa không được ăn thì thấy rất khổ. Hai bữa không được ăn sẽ
càng khổ hơn, có thể thấy khổ là thật. Cái thân này có gì tốt, có gì vui? Đã đến
lúc phải trị. Không trị không được. Đây là chân tướng sự thật.
Cho nên tỉ mỉ mà nghĩ, lời Phật nói mỗi câu đều chân thật. Phật xuất hiện ở thế
gian nhằm giáo hoá chúng sanh. Ngài vì việc này mà đến. Tám tướng thành
đạo, tướng thứ bảy là “chuyển pháp luân tướng” chính vì sự việc này. Đối tượng
giáo dục là tất cả chúng sanh sáu cõi, mở rộng hơn nữa là chúng sanh chín
pháp giới. Đoạn này nói lên nguyên tắc giáo học của ngài “điều chúng sanh,
tuyên diệu lý”.
9. “Điều chúng sanh, tuyên diệu lý”
“Chúng sanh” ở đây là tất cả chúng sanh hữu tình, thuộc về động vật có cảm
tình. Then chốt là chữ “điều”. Chúng sanh thân tâm không thể điều hòa. Bốn đại
không hoà, trên sinh lý bạn liền đau bệnh. Tâm lý không hòa, bạn liền ưu tư
phiền não. Cho nên nguyên tắc giáo học của Phật giúp chúng sanh cách điều
tâm, điều thân. Tiêu chuẩn của điều là pháp tắc tự nhiên. Nếu thuận theo pháp
tắc tự nhiên, thân tâm liền khoẻ mạnh. Pháp tắc của tự nhiên trong kinh Phật gọi
là pháp tánh, Phật tánh tương ưng với thể tánh, đó gọi là điều thuận. Trái với thể
tánh thì tất cả chúng sanh mê mất đi tự tánh. Cái tâm này là tư tưởng kiến giải
của bạn, hoàn toàn trái với pháp tắc của tự nhiên nên chiêu cảm đến tất cả khổ
nạn và những việc không vừa ý.
Pháp tắc tự nhiên là gì? Kinh luận Phật nói rất nhiều, mọi người đều biết, thế
nhưng thân tâm bạn vẫn cứ trái ngược với pháp tắc nên bạn không được thọ
dụng của Phật pháp. Còn tương ưng với pháp tắc thì bạn liền được đại tự tại,
liền có thọ dụng chân thật, hạnh phúc viên mãn. Pháp tắc này nói với chúng ta
“tướng có thể không”. Nhà Phật nói “tướng có tánh không”. Tánh chính là thể.
“Có” không phải thật có. Bát Nhã Tâm Kinh mọi người ngày ngày đều đọc, “có”
gọi là diệu hữu, “không” gọi là chân không. “Diệu hữu phi hữu, chân không bất
không”, cho nên trước chữ “không” thêm một chữ “chân”. Chân không ý nói tâm
tánh của chúng ta. Tâm tánh biến hiện ra tướng, những tướng này gọi là diệu
hữu. Sum la vạn tượng, bao gồm chính thân thể của chúng ta, bao gồm tất cả
vạn tượng; cái vạn tượng này không thật.
Kinh Kim Cang nói “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Hư vọng không thể nói
không có tướng. Tướng là hư vọng vì tướng không thể tồn tại vĩnh hằng. Không
chỉ tướng của mười pháp giới không thể tồn tại vĩnh hằng mà tướng của pháp
giới nhất chân cũng không thể tồn tại. Thế nhưng chúng ta thấy những hiện
tượng này vẫn tồn tại một khoảng thời gian, tướng tiếp nối tướng, như vậy mới
hiểu rõ chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta sẽ không
phân biệt đối với tướng, sẽ không chấp trước, vì nó là giả, mộng huyễn bào ảnh.
Còn nếu bạn phân biệt thì bạn vọng tưởng, nếu chấp trước thì phiền não. Vọng
tưởng phiền não do tự làm tự chịu.
Kinh Hoa Nghiêm nói, tất cả hiện tượng tồn tại thời gian “khoảng sát na”. Kinh
Nhân Vương nói, một khảy móng tay sáu mươi sát na. Một sát na có chín trăm
lần sanh diệt, thời gian rất ngắn. Cũng như phim ảnh, trong máy chiếu là phim
gốc, một giây đầu ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Trong một giây chiếu ra
hai mươi bốn tấm. Phim gốc đó liên tục tướng tiếp nối tướng, chúng ta xem thấy
như thật. Phật dùng cách nói này trên kinh Nhân Vương, “cái khảy móng tay của
người khỏe mạnh”. Thân thể của đại lực sĩ rất khỏe mạnh nên khảy rất nhanh,
một giây có thể khảy bốn lần. Bốn khảy móng tay nhân sáu mươi sát na, lại nhân
tiếp cho chín trăm lần sanh diệt. Vậy tổng cộng có đến hai trăm mười sáu ngàn
lần sanh diệt. Trên phim ảnh, một giây có hai mươi bốn tấm phim gốc đã có thể
lừa được bạn. Bạn liền cho đó là thật. Nhưng nếu một giây là hai trăm mười sáu
ngàn tấm thì làm sao bạn biết nó là giả?
Kinh Nhân Vương phương tiện nói. Các vị tỉ mỉ tư duy mới hiểu được lời Phật,
mới thể hội phần nào câu “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như
sương cũng như chớp”. “Hoa Nghiêm phẩm thập định” nói rõ ràng hơn, một sát
10. na không chỉ chín trăm lần sanh diệt. Chúng ta đọc kinh Nhân Vương thấy rõ
việc này. Phật Thích Ca Mâu Ni phương tiện nói, không phải nói chân thật. Nếu
nói chân thật thì tốc độ còn nhanh hơn gấp nhiều lần. Phật nói rõ chân tướng sự
thật của vũ trụ hiện tượng, sát na sanh diệt, Phật cũng đem hiện tượng này gọi
là “bất sanh bất diệt”. Vì sao Phật nói tất cả sanh diệt của pháp tướng là bất
sanh bất diệt? Vì tốc độ sanh diệt của nó quá nhanh, sanh diệt gần như đồng
thời, cho nên gọi bất sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa Phật nói pháp.
Chúng ta “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, nghĩ xem làm gì có pháp tướng
tồn tại? Mười pháp giới y chánh trang nghiêm, bao gồm sáu cõi ba đường, căn
bản không thể tồn tại, chân thật là mộng huyễn bào ảnh. Ấy thế mà tất cả chúng
sanh mê ngay cảnh giới này, cho cảnh giới này là thật có. Từ đấy khởi lên vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Thế là đem hiện tượng sát na sanh diệt chuyển
biến. Cái tướng đó là sát na sanh diệt, sát na chuyển biến. Vậy dùng sức mạnh
gì để chuyển biến hiện tượng này? Dùng ý niệm, chính là vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước. Ý niệm của bạn thiện, chuyển biến là cảnh giới thiện; ý niệm ác,
chuyển biến là cảnh giới ác.
Do đây có thể biết thiên đường là do ý niệm biến ra, địa ngục cũng là do ý niệm
biến ra, hiểu rõ học vấn trong cái đạo lý này thật to lớn, quan trọng nhất là điều
tâm. Thân không phải lo vì thân là tùy tâm, tùy ý niệm mà biến hiện. Chúng ta
phải chú trọng điều năng biến. Năng biến tương ưng với pháp tắc tự nhiên. Còn
sở biến không quan trọng, sở biến thuận lý thành chương liền biến thành thế giới
Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, thành khu vườn tốt đẹp thế gian, người người sinh
hoạt đều hạnh phúc tràn đầy. Làm được hay không tùy thuộc bạn hiểu đạo lý
trong đó, hiểu được cảnh giới diễn biến như thế nào?
Cho nên khi Phật dạy chúng ta, thực tế ngài đem thế giới Hoa Tạng, thế giới
Cực Lạc phổ cập đến tất cả thế gian, khiến tất cả thế gian đều biến thành thế
giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng. Cách biến thế nào? Trước hết phải điều tâm.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc tốt đẹp đến như vậy vì lòng người ở đó tốt, kinh
nói “các bậc thượng nhân cùng ở một nơi”. Nếu thế gian này của chúng ta, mỗi
người đều là thượng thiện thì hoàn cảnh y báo của chúng ta ngày nay nhất định
giống thế giới Cực Lạc. Tương tự, vì sao thế giới Hoa Tạng tốt đẹp đến như
vậy? Vì người trong thế giới Hoa Tạng, mỗi mỗi đã đoạn kiến tư phiền não, trần
sa phiền não; phá được mấy phẩm vô minh, cho nên thế giới đó tốt đẹp.
Còn thế giới ngày nay của chúng ta vì sao không tốt? Tất cả chúng sanh tư
tưởng kiến giải, lời nói tạo tác hoàn toàn trái ngược pháp tắc tự nhiên. Trong
lòng nghĩ ra liền trái với pháp tắc tự nhiên, nên gọi là tà tri tà kiến, tạo mười ác
nghiệp. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã nói, “chúng sanh Diêm Phù Đề
khởi tâm động niệm đều là tội”. Tội nghiệp biến ra hoàn cảnh hiện tiền của chúng
ta. Đặc biệt một hai năm gần đây, thiên tai nhân họa ở đâu cũng có. Một số đồng
tu đến hỏi tôi, liệu có thể tránh khỏi hay không? Tôi nói không cách gì tránh khỏi.
Nếu các vị muốn di dân, tìm một khu vực nào trên thế giới không bị tai nạn, thì
tôi cũng xin nói, không hề có. Nơi nào con người không có tham sân si thì nơi đó
chính là đất phước. Vậy bạn tìm thử xem, có nơi nào mà con người không tham
sân si? Có nơi nào mà con người không tạo ác nghiệp? Bạn tìm được nơi này
thì tốt. Chúng ta đều biết trên địa cầu không hề có, nên không thể tìm ra. Nhưng
11. thế giới Tây Phương Cực Lạc lại có. Vì vậy, người niệm Phật, người học Phật là
người sáng suốt.
Họ không sợ tai nạn, họ có thể tránh khỏi tai nạn. Tránh khỏi không phải tránh
thân thể này không bị nạn. Thân gặp nạn hay không cũng không hề gì, vì thân
không thể thường trụ trước sanh lão bệnh tử, việc này chúng ta phải triệt để giác
ngộ. Tai nạn đến, chúng ta thấy rất bình thường, không chút lạ kỳ. Nghiệp nhân
quả báo ngõ ngách ngọn nguồn, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo thì bạn
còn gì mà khẩn trương. Cho nên ở cảnh giới này, đại nạn đến đầu cũng không
khiếp sợ. Tâm định, tâm thanh tịnh thì bất luận tai nạn thế nào cũng có thể tiếp
nhận. Thân thể bị hủy diệt trong tai nạn, nhưng tinh thần, Phật pháp gọi là “thần
thức”, thế pháp gọi là “linh hồn” đi tìm một thân thể khác. Đó không phải là chết.
Thân thể chúng ta có sanh diệt. Trong sanh diệt vẫn có cái “ta” không sanh diệt.
Nói cách khác, thân này của ta sanh diệt nhưng thân không phải là ta. Nếu bạn
nhận biết thần thức linh hồn là ta, thân không phải là ta thì coi như bạn đã nâng
cao cảnh giới của chính mình. Thân chỉ là sở hữu của ta, cũng giống như mặc
quần áo. Quần áo cũ rách, bạn sẽ đổi một bộ mới. Thân này hoại thì ta bỏ nó đi,
lại đổi một thân khác. Bạn chân thật có chút công phu, không cần rất cao, bạn
liền sanh tử tự tại. Sanh tử tự tại là xả thân thọ thân, giống như lột bỏ quần áo
thay bộ quần áo khác. Người thế gian không biết sự việc này, thay quần áo
nhưng lại cảm thấy khổ. Đặc biệt trẻ con, bảo nó đổi một bộ khác rất khó. Nó
chạy đông chạy tây, không cam tâm, cảm thấy như cực hình. Còn người lớn thì
không như vậy. Quần áo dơ phải giặt. Kiểu dáng không thích hợp thì đổi kiểu
mới. Họ an vui xả thân thọ thân.
Học Phật công phu xem sanh tử như thay bộ quần áo, không chút đau khổ, khẩn
trương, khiếp sợ. Người như vậy xả thân thọ thân, khi thọ thân khác nhất định
tốt đẹp hơn nhiều so với thân thể cũ, đó là thiện báo. Nếu khi xả thân, cảm thấy
hoang mang, khiếp sợ, thì bạn sẽ đổi một thân khác xấu đi, đó là thân súc sanh,
thân ngạ quỷ, khó có thể quay lại, giống như bạn bị thay đổi quần áo rách nát,
khó coi. Học Phật có thể được chút thọ dụng này. Đây là thọ dụng nhỏ trong
Phật pháp, không phải thọ dụng lớn. Vì sao? Bạn nhận biết thần thức là “ta”,
nhưng thần thức vẫn không phải là ta. Chân thật ta chính là pháp tánh, thiền
tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Kiến tánh thấy được chân ngã, tông môn gọi là
“mặt mũi trước khi cha mẹ sanh ra”. Bạn nhận định thần thức là ta, không nhận
cái thân này là ta thì bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, nhưng không rời khỏi
sáu cõi luân hồi. Bạn nhất định được hưởng phước trời, sanh lên trên cõi trời.
Cao minh hơn thì siêu việt sáu cõi, nâng cao lên pháp giới của thanh văn, duyên
giác, Bồ tát. Trong mười pháp giới, pháp giới bốn thánh là không gian sinh hoạt
của bạn, thù thắng hơn nhiều so với sáu cõi.
Nếu bạn biết thần thức vẫn không phải là ta, vẫn là giả, tự tánh mới là ta, vậy thì
công đức của bạn liền viên mãn. Bạn liền siêu việt mười pháp giới, đi đến thế
giới Hoa Tạng, thân cận Tỳ Lô Giá Na Phật, làm bạn với bốn mươi mốt vị pháp
thân đại sĩ; hoặc vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn siêu
việt mười pháp giới. Đó là chân tướng sự thật. Phật xuất hiện ở thế gian muốn
nói cho chúng ta nghe sự việc này, chân thật có thể “điều chúng sanh”. Cho nên
chúng ta học Phật, hiện tại quan trọng nhất phải tu “tâm thanh tịnh”.
12. Đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ đưa ra nguyên tắc tu học: thanh tịnh, bình đẳng,
giác. Ba nguyên tắc này nhắc chúng ta mọi nơi mọi lúc đối nhân xử thế tiếp vật,
phải tu tâm thanh tịnh. Tất cả mọi người không nhiễm ô tâm tánh. Nếu trong đối
xử mọi người, thuận với chính mình thì khởi ý niệm thương yêu, không thuận với
chính mình thì sanh sân hận, đố kỵ, như vậy tâm của bạn bị ô nhiễm, không
thanh tịnh. Cho nên tu hành là tu ở ngay đây, khi tất cả cảnh giới hiện tiền phải
rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm,
bạn mới có được công phu chân thật. Hay nói cách khác, cảnh giới trước mắt rõ
ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, đó là huệ. Trong lòng như như bất động,
không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm không động niệm, đó là
công phu.
Chúng ta tu hành phải tu trong hoàn cảnh nhân sự, trong hoàn cảnh vật chất.
Mỗi ngày sáu căn tiếp xúc tất cả người, vật, việc, ý niệm vừa khởi lên, cho dù
niệm thiện hay ác đều là ô nhiễm. Ác niệm là ô nhiễm, thiện niệm cũng là ô
nhiễm, nên khi ý niệm vừa khởi lên, câu “A Di Đà Phật” làm cho ý niệm này lắng
xuống. Đó là phương pháp của Tịnh tông chúng ta dùng. Một câu Phật hiệu làm
cho ý niệm lắng xuống, hoá giải hết ý niệm, tất cả vọng niệm thảy đều qui về câu
A Di Đà Phật, đức hiệu trong tự tánh của chúng ta. A Di Đà Phật chính là chân
như bổn tánh của chúng ta, đó là một câu Phạn ngữ, dịch sang ý nghĩa Trung
Quốc là “Vô lượng giác”. Tất cả đều quy về vô lượng giác. Danh hiệu đạo sư của
thế giới Tây Phương Cực Lạc là A Di Đà Phật, cho nên kinh Phật thường nói “tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, đó là từ trên tâm tánh mà nói.
Bạn phải biết niệm câu Phật hiệu này, đem tất cả ý niệm của bạn chuyển biến
thành A Di Đà Phật. Trong tâm bạn, ngoài câu A Di Đà Phật, không có bất cứ tạp
niệm nào. Có như thế tâm thanh tịnh của bạn mới hiện tiền, kinh Di Đà nói “Nhất
tâm bất loạn”. “Niệm Phật tam muội”, “tam muội” là tiếng Phạn, ý nghĩa là “chánh
thọ”, hưởng thụ bình thường. Ngày nay chúng ta hưởng thụ không bình thường.
Còn hưởng thụ bình thường là vô niệm, “niệm mà không niệm, không niệm mà
niệm”, đó là hưởng thụ bình thường.
Cho nên tông chỉ giáo hoá chúng sanh của Phật, mục đích chính nhằm “điều
chúng sanh tuyên diệu lý”. Diệu lý là chân tướng sự thật, cũng là “thật tướng các
pháp”, chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Phật vì chúng ta nói rõ sự việc này để
chúng ta hiểu rõ. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải chính mình khế
nhập cảnh giới này, tự lợi công đức. Tuy nhiên, thế gian vẫn còn rất nhiều chúng
sanh chưa giác ngộ, chúng ta không thể không quan tâm, Phật pháp gọi là “tự
cho mình cao”. Phật không tán thán những người như vậy. Bạn tự độ, còn phải
giúp đỡ người khác, đó là Bồ tát.
“Trữ công đức, thị phước điền”
Muốn hoá tha cần phải tự độ. Đối với chân tướng sư thật, bạn không thấu triệt,
không hiểu rõ; tà kiến, phiền não, tập khí của chính mình chưa đoạn dứt thì làm
sao có thể giúp người khác. Trên thực tế, chúng ta cũng từng thấy việc mượn
danh để tư lợi, giả mượn Phật pháp tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, thỏa mãn
dục vọng của riêng mình. Họ có thể nói khéo léo, giảng kinh có đầu có đuôi,
cũng xây dựng đạo tràng trang nghiêm, cũng có không ít đồ chúng tu hành theo,
thế nhưng những gì họ làm hoàn toàn trái ngược Phật pháp, vẫn cứ danh vọng
lợi dưỡng, vẫn phải quấy nhân ngã, vẫn mỗi niệm xem nặng được mất.
13. Vì sao có lỗi lầm này? Vì họ không làm được hai câu trên, cho nên công đức liền
biến thành phước đức, thậm chí công đức phước đức còn biến thành tội lỗi. Họ
khuyên bảo mọi người tu phước, cùng xả tài tu phước. Khi mọi người xả tài, còn
họ thì đựng đầy trong túi, phục vụ chính mình. Người xưa không như vậy. Người
xưa hiểu xây dựng đạo tràng trang nghiêm, không phải chính mình hưởng thụ.
Các vị tỉ mỉ quan sát những tòng lâm được xây dựng vào thời xưa, phòng ốc của
trụ trì và chấp sự rất thô sơ. Do đây có thể biết đại chúng cúng dường để tu
phước, nhưng chính họ không hưởng. Nói cách khác, ăn mặc ngủ nghỉ của họ
không hề thay đổi. Đó là rõ lý, không tạo tội nghiệp.
Hiện tại khi mọi người quyên mộ nhiều tiền, xây dựng đạo tràng lớn, trước tiên
thường bố trí rất đẹp hoàn cảnh cư trú của chính mình, như vậy là tạo tội nghiệp.
Xây dựng đạo tràng để có nơi làm đạo, nơi cúng cho chúng, không phải cúng
dường chính mình. Nhà Phật từng nói “một hạt gạo của thí chủ nặng như núi Tu
Di. Đời nay không liễu đạo, mang lông đội sừng để trả”. Lời nói này là thật,
không phải giả. Bạn làm gì có phước báu lớn đến vậy, có thể hưởng thọ mười
phương chúng sanh cúng dường. Chỉ có Phật và đại Bồ tát mới có phước báu
này. Người mê hoặc điên đảo, hưởng phước báu không được vài năm, khi chết
đều mơ mơ hồ hồ mà chết, chết rồi đi đâu? Tương lai vẫn không tránh khỏi phải
trả nợ.
Cho nên Phật dạy chúng ta “trữ công đức”, không phải phước đức. Trong công
đức có phước đức, nhưng trong phước đức chưa chắc có công đức. Công đức
do tu công mà có. Thí dụ chúng ta trì giới có công, bạn liền được định, định
chính là đức. Tu định có công, trí tuệ khai, khai huệ là đức. Do đây mà biết, công
là tu nhân, đức là quả báo. Tu nhân được quả là đạo lý nhất định. Chúng ta phải
trữ công đức, tích công bồi đức.
Làm thế nào để giữ được công đức? Chữ “trữ” này rất quan trọng. Trữ là tồn trữ,
lưu kho, công đức của bạn mới có thể tích lũy. Nhà Phật nói: “lửa thiêu rừng
công đức”. Công đức rất khó tồn trữ. Chỉ một đám lửa thì cháy sạch, đó là lửa
sân hận. Vừa khởi tức giận, công đức đều hết. Bạn phải biết, cả đời này tu hành
trữ được bao nhiêu công đức. Sau đó bạn nghĩ lại xem mình không khởi tức
giận bắt đầu từ lúc nào. Nếu sáng sớm nay khởi lên một cơn giận chỉ có mấy giờ
đồng hồ, công đức của đời quá khứ và đời này đã tu thảy đều cháy sạch, không
còn gì cả.
Người hiện tại nói đến công đức, thực ra đều hữu danh vô thực. Có cái tên của
công đức, tu tên của công đức nhưng không tu công đức thật. Khi trong lòng
không vui thì công đức hết. Phải biết thế gian yêu ma quỷ quái rất nhiều. Chúng
chỉ sợ bạn tích công bồi đức nên thị hiện vô số cảnh giới, vô số nhân duyên
nhằm phá hoại công đức của bạn. Thế nhưng bản thân họ không có năng lực
phá hoại công đức của bạn, thậm chí bất cứ người nào cũng đều không cách gì
phá hoại công đức của bạn được. Chỉ có chính mình phá hoại chính mình. Họ
thúc đẩy bạn, khiến bạn khởi tức giận, khởi tâm sân hận. Nếu bạn nghe lời, quả
nhiên khởi tức giận, khởi tâm sân hận thì coi như bạn đem công đức của mình
thiêu hết sạch. Ma ở nơi đó liền vỗ tay vui mừng.
Chúng ta hiểu rõ đạo lý thì nhất định phải đề cao cảnh giác. Tất cả thuận cảnh
không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không khởi tâm sân hận thì công đức của
bạn mới có thể giữ được. Phía trước hàng ma, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện
14. cho chúng ta xem, “dĩ định huệ lực, hàng phục ma oán”. Nếu bạn không có định,
không có huệ, thì công đức của bạn không thể giữ được. Ở trong cảnh giới
thường hay khởi tâm động niệm, tâm tùy theo cảnh giới bên ngoài xoay chuyển,
đó là tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tương lai chịu báo luân hồi. Cho nên
chúng ta trong cuộc sống thường ngày phải rèn luyện. Rèn luyện chính là tu
hành.
Ngày trước sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, dễ bị cảnh giới bên
ngoài xoay chuyển. Xem thấy ưa thích, chúng ta khởi lên tâm hoan hỉ, xem thấy
không ưa thích chúng ta khởi tâm ghét bỏ, vậy là sai, phải tu sửa lại. Tu sửa thế
nào? Thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không sanh tâm áo não,
đó gọi là tu hành. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật,
tất cả chỉ là hình thức. Tu hành phải chân thật hữu dụng, phải dùng được ngay
trong đời sống, đối diện với tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc thật khởi lên tác
dụng, không còn bị cảnh giới này xoay chuyển, mới gọi là có công phu. Bạn ở
niệm Phật đường niệm Phật mỗi ngày mười vạn danh hiệu Phật. Khi đối diện với
cảnh giới, tâm còn bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, vậy thì như người xưa
nói, “đau mồm rát họng chỉ uổng công”, bạn không có công phu, hoặc công phu
của bạn là giả, không phải thật.
Công phu phải trải qua sự khảo nghiệm, cùng ở với mọi người, cùng giao lưu với
chúng sanh, cũng phải có biểu lộ. Nếu biểu lộ trên mặt giống tượng thần điêu
khắc thì có thể hù chết người trong xã hội. Giao lưu với tất cả chúng sanh, tuy
biểu hiện hỉ, nộ, ai, lạc nhưng phải là biểu diễn, không phải thật. Bên trong thanh
tịnh vô nhiễm, như Vĩnh Gia từng nói “phân biệt diệc phi ý”. Ứng dụng ngay trong
cuộc sống thường ngày phải hoạt bát, hiển thị Phật pháp đáng quý, viên dung,
thọ dụng chân thật. Từng li từng tí không ô nhiễm, có định huệ. Đây gọi là công
phu, bạn chân thật là trữ được công đức.
“Thị phước điền”. Bạn còn phải tu phước. Tu phước quyết không phải vì chính
mình mà vì chúng sanh. Không có phước báu làm sao độ chúng sanh. Cho nên
thành Phật, Phật gọi là “nhị túc tôn”, túc đầy đủ, viên mãn. Nhị là hai loại, trí tuệ
viên mãn và phước đức viên mãn.
Phật biểu thị phước đức viên mãn. Có phước lớn mới có thể cho tất cả chúng
sanh hưởng phước. Ngày nay chúng ta ngồi ở đạo tràng này hai giờ đồng hồ là
hưởng phước báu của chư Phật. Mười phương chúng sanh xả tài, xả lao lực để
được phước báu này cho chúng ta cùng hưởng. Chúng ta cũng phải học tập, có
phước nhất định phải cho mọi người cùng hưởng, không nên hưởng riêng mình.
Hưởng riêng là tạo nghiệp, còn cho mọi người hưởng gọi là tu phước.
“Thị” chỉ ra những gì là phước điền. Có rất nhiều phước điền. Nói cách khác, cơ
duyên tu phước quá rộng. Nhà Phật phước điền vô lượng, quy nạp thành ba loại
lớn.
Loại thứ nhất gọi là “Bi điền”, từ bi, lân mẫn. Tất cả chúng sanh trong mười pháp
giới đều bần cùng khổ nạn, không phải chỉ người không có cơm ăn áo mặc, mà
cả những người có phước báu, ở nơi phòng ốc rất tốt, đời sống dư giả. Loại
người này không nghèo cùng nhưng cũng chẳng khác người không có cơm ăn
áo mặc. Vậy họ nghèo ở chỗ nào? Nghèo cùng ở trí tuệ. Đời sống vật chất của
họ có thể trải qua nhưng đời sống tinh thần rất khổ. Cho nên nghèo cùng có loại
nghèo về vật chất, và nghèo về tinh thần, nghèo về đạo nghiệp, hay nghèo trí
15. tuệ. Phạm vi nghèo cũng quá rộng lớn. Chúng ta chỉ mới so sánh năng lực kỹ
thuật với người khác rồi cho rằng nghèo cùng hay lạc hậu nhưng không biết
phạm vi sâu rộng vô hạn của nghèo cùng. Bồ Tát thấy điều đó. Các ngài đại từ
đại bi giúp đỡ chúng ta trồng phước. Phương pháp trồng phước điền cũng rất
nhiều. Bạn phải có trí tuệ, mỗi giờ đều là giờ để tu phước, nơi nơi đều là chỗ để
tu phước. Hiện tại người thế gian nghèo cùng, việc này người căn tánh trung hạ
đều có thể quan sát rõ ràng. Chính mình phải biết làm thế nào cứu giúp chúng
sanh khổ nạn nghèo cùng của thế giới.
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 33)
Pháp Sư Tịnh Không
Loại thứ hai gọi là “Ân điền”, báo ân. Ai có ân với chúng ta? Trước tiên là cha
mẹ, nhất định phải báo đáp. Báo đáp cha mẹ là trồng phước điền. Kế đến là thầy
giáo. Sinh mạng của chúng ta được nhờ ở cha mẹ, còn trí tuệ của chúng ta, nhà
Phật nói “pháp thân huệ mạng” là nhờ thầy giáo. Ân đức của thầy giáo cùng cha
mẹ không hề khác. Trong cổ lễ Trung Quốc nói rất nhiều lý do vì sao thời hiện
đại không có hiếu đạo. Cho nên sư đạo cũng không có. Sư đạo được xây dựng
trên nền tảng của hiếu đạo. Phật pháp là sư đạo, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni
Phật là “bổn sư”, thầy giáo sáng lập đầu tiên. Giáo dục Phật đà từ nơi ngài sáng
lập, nên chúng ta gọi ngài là thầy giáo căn bản, người sáng lập đầu tiên. Mỗi
niệm chúng ta đều không quên ngài. Trên giảng đường, chúng ta cúng dường
tượng Phật, cúng dường hình tượng thầy giáo, ý nghĩa này chính là báo ân,
không quên nguồn gốc. Chúng ta nơi đây làm công tác giảng giải, cùng với đồng
tu học tập kinh điển, cũng giống như ở trước mặt Phật vậy. Phật Bồ Tát chứng
minh cho chúng ta. Đó là báo ân, trồng phước điền.
Ngoài thầy giáo cha mẹ, thì chư Phật Bồ Tát, tổ sư đại đức, tất cả thiện tri thức
đều là ân điền. Mở rộng hơn, quốc gia có ân đức bảo hộ hoàn cảnh đời sống
của chúng ta được an ninh. Tất cả chúng sanh có ân đức hỗ trợ hợp tác cúng
dường đời sống thường ngày cho chúng ta, đây chính là kệ hồi hướng mà chúng
ta vẫn đọc: “trên đền bốn ân nặng”. Tất cả chúng sanh đều có ân đức với chúng
ta, đó là ân điền.
Loại thứ ba là “Đức điền”. Chỉ riêng nêu ra Tam Bảo thì Phật Pháp Tăng không
chỉ có ân đức với chúng ta, mà các ngài còn là ruộng công đức, nên gọi là “đức
điền”. Đó là chuyên chỉ Tam Bảo. Tam Bảo có đại trí tuệ, đại đức, đại năng, giáo
hoá chúng sanh. Muốn trồng phước điền, chúng ta phải đến những nơi này. Dù
năng lực chúng ta không đạt đến nhưng không thể không có tâm. “Tâm thừa mà
sức thiếu”, tâm không khởi vọng tưởng khống, mà phải chân thật.
Hiện nay báo chí đăng tin, nạn nước rất nghiêm trọng. Năm xưa mỗi lần nạn
nước, chúng ta luôn tận tâm tận lực quyên tiền giúp đỡ cư dân khu vực tai nạn.
Năm nay khu vực tai nạn mở rộng, đồng thời lại bị ảnh hưởng kinh tế, khiến
chúng ta không biết làm thế nào. Có phương pháp gì hoá giải tai nạn không? Có.
Trị tận gốc chính là giáo hoá chúng sanh diệt trừ tham sân si; tu giới định huệ.
16. Việc này có lợi ích gì với thực tế? Người thế gian thường không tường tận. Rất
nhiều tai biến có quan hệ mật thiết với lòng người. Kinh Phật thường hay nói: “y
báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Vì sao chúng ta không nghe nói Thế Giới Tây
Phương Cực Lạc có nạn lụt, hay thế giới Hoa Tạng có động đất? Nơi đó không
có vì nơi đó không có nhân, thì họ làm gì bị những thứ này.
Nước là từ lòng tham biến hiện ra, lòng tham con người ngày càng lớn thì nước
sẽ càng nhiều. Lửa từ sân hận, địa chấn từ bất bình của lòng người. Chúng ta
nói những lời này, người thông thường sẽ cho rằng không có chứng cứ khoa
học nên không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận. Khoa học thực tế rất non nớt
nên vẫn chưa đạt cảnh giới này. Đến khi đạt được cảnh giới này, chúng ta đã
phải chịu khổ nạn vô cùng rồi, chờ họ thừa nhận có ích gì. Cho nên diệt trừ tham
sân si, liền có thể tự nhiên tiêu trừ tai ách thế gian. Hiện tại chúng ta thường du
lịch nước ngoài, mỗi quốc gia khu vực, lòng người tham sân si mỗi năm một
tăng, thật đáng sợ. Tôi không hề nghe nói nơi nào đó, ý niệm tham sân si đã
bình hoà, đã giảm; ngược lại, mỗi ngày đang gia tăng tốc độ.
Lòng tham mang đến nạn nước, sân hận mang đến nạn lửa, ngu si mang đến
gió bão, bất bình mang đến động đất; người hiện tại đều làm ra. Mỗi năm mỗi
tăng, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước, “có nhân ắt có quả”. Người hiện
tại thường vẫn không tin tưởng.
Phật pháp còn nói: “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, không phải không có
phương pháp trị phần nổi. Tài nguyên sức người của Trung Quốc đứng đầu thế
giới, sức lao động nhiều đến vậy nhưng không hề được vận dụng tốt, để những
sức lực này lãng phí, thật đáng tiếc. Cho nên ở công tác trị phần nổi, mỗi năm
chúng ta có nạn nước, thì phải học Đại Vũ trị thuỷ, hiểu rõ địa hình, rồi dẫn đạo
dòng nước từ phương hướng nào đó chảy về biển cả. Công cụ khoa học hiện
đại tiến bộ hơn rất nhiều so với ngày trước, chúng ta có thể khai mương dẫn
nước, mở rộng ao hồ.
Lịch sử ghi chép, động đình từ trước là 800 dặm, còn hiện tại chưa đến 300
dặm. Bạn phải biết hồ lớn khi nước lụt đến trở thành hồ chứa nước. Cho nên
dọc theo sông dài hồ lớn, nhất định có phải nhiều hồ bạc của thiên nhiên. Chúng
ta phải giữ gìn, phải dùng máy móc nạo vét sâu hơn và rộng hơn để sức chứa
của nó nhiều hơn. Đồng thời bên cạnh khu vực sông, có thể dùng nhân công giữ
đê, giảm thiểu nạn nước. Công trình thuỷ lợi vô cùng quan trọng, là kiến thiết cơ
bản của quốc gia. Tương tự, đường giao thông, đường sắt, đường quốc lộ đều
là kiến thiết cơ bản.
Vì sao Hoa Kỳ duy trì cường thịnh đến như vậy? Vì họ xây dựng cơ bản quá tốt.
Thế nhưng công trình thủy lợi Hoa Kỳ vẫn có chỗ chưa đủ. Bình thường khi khô
hạn, tưới tiêu ruộng vườn, không chướng ngại nhà nông thu hoạch nông sản.
Khi nước nhiều thì chứa nước, không đến nỗi tạo thành nạn lụt. Ngoài công trình
cơ bản hiện tại, còn thêm công trình phát điện. Trên thế giới có rất nhiều nơi lợi
dụng thuỷ lợi để phát điện. Trung Quốc có sông dài hồ lớn, cũng phải từ bề nổi
mà làm. Khoảng sau năm đến mười năm, Trung Quốc vĩnh viễn sẽ không có nạn
lụt, đó là đại công đức, đại bố thí. Nền tảng này xây dựng kiên cố thì toàn quốc
đều phát triển. Không chỉ ở khu vực Duyên Hải mà ngay đến đất liền thảy đều
phát triển. Do đây có thể biết, việc ở người làm. Chúng ta phải nghĩ vì chúng
sanh tạo phước.
17. Lại nói đến hiện tại trước mắt, đại chúng hiện tiền chúng ta đối với bốn câu kinh
này, nên làm thế nào để tu, làm thế nào thực tiễn ngay trong đời sống hiện tiền?
Cư Sĩ Lâm là một đạo tràng trang nghiêm đúng pháp, mọi người công nhận,
không phải cá nhân tôi tuỳ tiện nói. Chúng ta phát tâm đến đây nghe kinh, niệm
Phật, chính là thực tiễn bốn câu kinh văn này.
Nếu bạn muốn hỏi, chúng ta đến đây nghe kinh hai giờ đồng hồ, niệm Phật mấy
giờ đồng hồ, với “điều chúng sanh, tuyên diệu lý” có liên quan gì? Giảng đường
của Cư Sĩ Lâm mỗi ngày giảng kinh hai giờ. Chúng ta phát tâm để giờ giảng kinh
mãi mãi không gián đoạn, đó là tuyên diệu lý. Đến nghe kinh là làm chúng ảnh
hưởng cho mọi người, khiến người sơ học Phật thông thường dần dần nghe
được, dần dần thấy học Phật có chỗ tốt đến như vậy, lợi ích nhiều như vậy. Còn
nếu các vị cảm thấy Phật pháp rất hay, ở trong nhà tu cũng được, không cần
phải đến thì nơi giảng kinh này liền trống vắng thưa thớt. Những người sơ học
vừa nhìn thấy bèn chán nản, tín tâm sẽ không có. Họ nghĩ vị pháp sư này giảng
không hay nên sẽ không đến.
Người đến nghe kinh là Bồ Tát, là chúng ảnh hưởng, bất tri bất giác, ảnh hưởng
đông đảo quần chúng trong xã hội, đó là trồng phước. Bạn nghe kinh ở nhà rất
thuận tiện nhờ đường truyền internet liên thông. Thế nhưng, nghe kinh trong nhà
chỉ có tự lợi, không thể lợi tha. Bạn không thể tạo ra sức ảnh hưởng. Còn đến
nơi đây nghe kinh chính là lợi được hai bên. Chúng ta phải trồng phước điền,
phải làm chúng ảnh hưởng. Tương tự, bạn ở nhà niệm Phật cũng tốt, nhưng vì
sao phải đến nơi đây niệm? Vì để trang nghiêm đạo tràng, cũng là làm chúng
ảnh hưởng. Cho nên trong đạo tràng, niệm Phật đường đều có Bồ Tát đang
niệm, Phật đang niệm, thiên long quỷ thần đang ở niệm Phật đường niệm Phật
rất nhiều. Như vậy là tu công đức, phước đức, không nhất thiết phải tốn tiền, chỉ
cần có thời gian. Thậm chí bạn đến đây ăn một bữa cơm cũng là trồng phước.
Đạo tràng tuyên dương Phật pháp, ăn cơm cũng tuyên dương.
Cư Sĩ Lâm hiện nay là thế giới đệ nhất gia, mỗi ngày cúng dường ba bữa cơm,
không cần tốn tiền. Tương lai còn có thôn Di Đà, đến nơi đây ở cũng không cần
tốn tiền. Chỉ cần bạn chịu thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nơi đây là đạo
tràng thành tựu cho người vãng sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta ở đây tu
phước đặc biệt dễ dàng, không cần bỏ tiền nhiều, một đồng hai đồng đều là
công đức hy hữu. Nhiều người đang ở đây thật tu thật làm, cho nên phước điền
này là phước điền chân thật, công đức nơi đây cũng là công đức chân thật.
“Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ”
“Tam khổ” chỉ chúng sanh sáu đường, mở rộng thêm chút là hữu tình mười pháp
giới. “Dĩ chư diệu dược” là pháp dược. Dược là thí dụ tất cả pháp Phật đã nói.
Hiện tại trước mắt chúng ta, người thế gian khổ cùng cực. Nói cách khác, ngày
nay chúng ta đang ở đêm trước của đại tai nạn. Tỉ mỉ quan sát, đại sư Ấn Quang
ở đầu năm Dân quốc. Mọi người đều biết Ấn tổ là Bồ Tát Đại Thế Chí Thế Giới
Tây Phương Cực Lạc tái sanh, một trong hai vị Bồ Tát trợ thủ cho Phật A Di Đà.
Quan âm chủ đạo từ bi, Đại Thế Chí chủ đạo trí tuệ. Đó là một vị Bồ Tát có trí
tuệ bậc nhất. Ngày trước tôi từng giới thiệu, trong Phật pháp Đại thừa, thông
thường lấy Bồ Tát Văn Thù đại biểu cho trí tuệ, nhưng Bồ Tát Văn Thù biểu thị
trí tuệ “học rộng nghe nhiều”, là trí tuệ phổ thông. Còn trí tuệ mà Bồ Tát Đại Thế
Chí đại biểu là “một môn thâm nhập”. Hai vị đều rất hay. Trí tuệ của Bồ Tát Văn
18. Thù phải là người thượng căn lợi trí. Căn tánh thượng thượng mới có thể học,
người hạ hạ căn thì không thể học được. Còn trí tuệ của Bồ Tát Đại Thế Chí đại
biểu, “trùm cả ba căn, ngu ngôn đều thâu”. Người hạ hạ căn cũng có thể học,
một môn thâm nhập. Một môn thông thì mỗi môn đều thông. Thành tựu của họ
không khác gì với Bồ Tát Văn Thù, nhưng thủ pháp hoàn toàn không giống
nhau, chúng ta phải hiểu ý này.
Đại sư Ấn Quang thị hiện ở đầu năm Dân quốc. Ngài biết thế gian này sẽ có tai
nạn. Dùng phương pháp gì để cứu? Phật pháp không được, vì mọi người không
tin, cho rằng mê tín. Hơn nữa văn tự kinh điển trúc trắc, người thông thường
không dễ gì hiểu. Dùng những đạo lý của nhà Nho để cứu thế gian còn không
kịp. Nhà Nho gọi “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Nho Phật tuy tốt
nhưng đều không cứu kịp. Đại sư bèn chọn lấy “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”,
“Liễu Phàm Tứ Huấn”, “An Sĩ Toàn Thư”, dùng ba thứ này để cứu vãn xã hội
hiện thực của chúng ta. Rất là đạo lý, trí tuệ chân thật.
Nguyên lý của ba thứ này chính là nhân quả. Trong kiếp nạn sắp đến, mọi người
không tin Nho, không tin Phật, không tin thánh hiền, tuỳ tiện làm càn. Đối với tình
hình như vậy, chỉ duy nhất một cách là giúp họ thông suốt “Nhân quả báo ứng”.
Cả đời đại sư cực lực đề xướng nhân quả. Ngài chọn lựa ra ba loại sách này.
Mở sách ra xem, bản thân mỗi chúng ta cùng những người xung quanh có ai
làm được một trong ba loại? Có câu nào bạn huỷ phạm? Chúng ta tỉ mỉ quan sát
mới phát hiện có rất nhiều người gần như hoàn toàn phạm phải những tội hành
nghiệp nhân đã nêu trong đó. Đa số người đều phạm, tạo thành cộng nghiệp
chiêu cảm.
Ngày nay toàn thế giới tai biến. Trước khi đại tai biến đến gần, chúng ta muốn
tiêu diệt nó cũng không dễ dàng. Nhưng nếu muốn nó chậm lại hoặc giảm nhẹ
một chút vẫn còn có thể làm được. Cách làm thế nào? Lòng người phải giác
ngộ, hồi đầu. Mọi người biết lợi hại được mất, chân thật xả bỏ lợi ích của riêng
mình. Phải quan tâm đến lợi ích của xã hội đại chúng. Trước tiên phải có ý thức
như vậy, có quan niệm lý luận như vậy. Sau đó giảm nhẹ tham sân si mạn của
chính mình, chú trọng luân lý đạo đức. Có như thế, kiếp nạn liền kéo chậm lại,
vấn đề ở chuyển biến của lòng người.
Ấn tổ dùng pháp dược để giúp chúng ta vượt qua ải quan trước mắt. Tín đồ Cơ
Đốc phương Tây thường nói “1999 là ngày tàn của thế giới”. Lời nói này đã từ
rất lâu. Chúng ta nghe cảm thấy không quá đáng chút nào. Nhìn vào dấu vết
hiện tại, dường như năm tới không dễ gì vượt qua. Mấy năm gần đây vì sao tai
nạn lần sau luôn kéo dài hơn lần trước, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần
trước? Dường như là ý này.
Thế nhưng, người học Phật chúng ta lại không thừa nhận câu “Ngày tàn thế
giới”, vì sao? Thích Ca Mâu Ni Phật nói, “mạt pháp” của Phật là 9000 năm. Đó là
từ nước ngoài mà tính, không tính từ Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ghi chép,
Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến hôm nay là ba ngàn không trăm hai mươi mấy
năm. Về sau còn chín ngàn năm nữa, ngày tháng còn dài. Cho nên thời nay
không phải là “thế giới ngày tàn”, nhưng một chút tai nạn vẫn có thể có.
Ngày trước tôi thân cận đại sư Chương Gia. Đại sư từng nói với tôi, thời kỳ mạt
pháp 9000 năm, pháp vận của Phật cùng thế vận đều có cao thấp trồi sụt. Nói
cách khác, có khi tốt, có khi xuống thấp. Như vậy có nghĩa là từ năm tới lùi về
19. sau có thể vận thế xuống thấp, nhưng không phải ngày tàn. Chúng ta hãy an
tâm. Thế nhưng, chúng ta vẫn phải có sự chuẩn bị, nhất quyết đoạn ác tu thiện.
Người khác làm hay không chúng ta không quan tâm, nhất định phải làm từ bản
thân mình, đó là việc vô cùng quan trọng. Kinh Phật nói rõ ràng, trong cộng
nghiệp có biệt nghiệp. Kinh Lăng Nghiêm nói “có cộng nghiệp, có biệt nghiệp”.
Nếu biệt nghiệp của chúng ta thù thắng, trong cộng nghiệp vẫn có biệt báo, thì
khi tai nạn lớn đến, chúng ta vẫn có thể tránh khỏi. Tránh khỏi không có nghĩa đi
tìm nơi tránh nạn, tìm nơi để di dân, không cần thiết phải làm vậy. Làm vậy là
không tin tưởng chính mình, lại tìm phiền não cho chính mình.
Năm xưa tôi giảng kinh ở Hongkong. Thời điểm đó gần đến kế hoạch Anh trả lại
Hongkong. Một số đồng tu HongKong nghĩ mọi cách để di dân. Tôi khuyến cáo
họ, không cần thiết phải làm vậy. Tôi nói theo cách nghĩ và cách nhìn của mình,
sau khi trở về, Hongkong nhất định còn tốt hơn so với thời kỳ người Anh thống
trị, hà tất phải đi. Một số đồng tu không nghe lời, cố di dân ra nước ngoài. Họ
bán sạch nhà cửa ở HongKong. Sau khi trở lại, đem tiền về HongKong nhưng
không thể mua lại được, khổ nói không ra lời. Cho nên bất cứ tai nạn sắp đến,
người có phước, tức tâm có định, thì quyết không khiếp sợ, không lo lắng, tâm
vẫn định. Có định có huệ liền có thể khắc phục được khó khăn. Nó biến nhưng
ta không biến, nó động nhưng ta không động, dù ở ải sanh tử chúng ta không
thể tránh khỏi. Chúng ta sẽ sanh đến chỗ thiện, một nơi tốt nhất, không ở thế
gian này. Đó chính là di dân.
Chúng ta di dân đến thế giới chư Phật, phước địa chân thật. Có thời gian thì một
ngày niệm thêm một ngày Phật. Ngay trong cuộc sống thường ngày phải dưỡng
thiện tâm, thiện nguyện của chính mình. Nhất định phải nỗ lực chăm chỉ làm cho
được “tâm không ác niệm”. Tiêu chuẩn thấp nhất mà Phật nói là Thập Thiện
Nghiệp Đạo, “thân” không sát, đạo, dâm; “khẩu” không vọng ngữ, hai lưỡi, thêu
dệt, ác khẩu; “ý” không tham sân si. Phải đoạn dứt. Từ sớm đến tối, từ mùng
một đến ba mươi ngày, trong lòng nhất định không khởi ý niệm này.
“Tâm không ác niệm, ý không tà tư”, cái gì là tà tư? Nhân ngã phải quấy là tà tư.
Phàm hễ trái với lý luận kinh giáo Phật thì tất cả tư tưởng kiến giải đều là tà tư.
Phải lấy tiêu chuẩn của Phật để nói, nhất định phải viễn ly kiến tư phiền não.
Niệm niệm tâm này là niệm thiện. Ý niệm chí thiện chính là một câu Phật hiệu.
Ngoài câu Phật hiệu, ý niệm gì cũng đều xả bỏ. Có như vậy thì mục tiêu phương
hướng của đời sống chúng ta mới được xác định. Quyết cầu sanh Tịnh Độ, vãng
sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta đi trên đại lộ, con đường mà tất cả chư Phật
đã đi thì làm sao sai lầm được.
Tai không nghe lời ác, không nghe thị phi. Bất luận người nào đến nói chuyện,
chúng ta vẫn “A Di Đà Phật” cắt lời của họ. Tai không nên nghe, miệng không
nói lời ác. Tiếp xúc qua lại với người, ít nói lời thừa, khuyên người niệm Phật.
Nếu ghi nhớ những câu trong kinh văn thì có thể đọc thêm cho người nghe. Họ
ưa thích thì sẽ tiếp tục nghe, còn không ưa thích thì cũng đã nghe rồi.
Người mê học Phật, việc ở thế gian họ sẽ dần dần không hiểu. Khi việc thế gian
không hiểu thì bạn liền rời khỏi thế gian này. Càng hiểu nhiều việc thế gian, bạn
càng không thể rời khỏi, phiền não của bạn sẽ lớn. Đó là những việc xen tạp của
thế gian, chúng ta không nên biết. Ưa thích biết, đều không rời khỏi luân hồi.
Chúng ta phải hạ quyết tâm, không làm những việc này.
20. “Thân không tà hạnh”. Tốt nhất chúng ta nên lợi dụng thân thể khỏe mạnh để lạy
Phật nhiều. Công đức lạy Phật rất lớn, hiệu quả lạy Phật rất thù thắng. Nếu mỗi
ngày lạy một trăm lạy, vĩnh viễn không gián đoạn thì thân thể nhất định khỏe
mạnh sống lâu, không bệnh tật. Dùng tâm thanh tịnh lạy Phật, dùng tâm cung
kính lạy Phật; khi lạy Phật, không hề có bất cứ vọng niệm nào. Cứ như vậy tự
nhiên sẽ cảm ứng tương thông, có cầu ắt có ứng. Đọc thuộc “Liễu Phàm Tứ
Huấn”, tin sâu nhân quả, thấu suốt tường tận đối với sự thật lý luận của nhân
duyên quả báo, thì sẽ liền biết làm thế nào trải qua ngày tháng trong cuộc sống
thường ngày, làm thế nào đối nhân xử thế. Còn hai loại sách “Cảm Ứng Thiên”
và “Âm Trắc Văn”, mỗi ngày đọc một lần. Thời khoá sớm tối của mình cần thêm
vào, nỗ lực phản tỉnh, nỗ lực kiểm điểm, xem mình có phạm phải những điều đã
nói trong sách hay không? Có tu học theo lời khuyên bảo hay không? Mỗi ngày y
theo đây mà tu học, bạn có thể tu được ba trăm việc thiện, liền trở thành địa tiên,
đó là tiên nhân của nhân gian.
Có đồng tu đem điều này đến hỏi tôi. Tôi trả lời họ, ba trăm việc là ba trăm loại,
bạn phải làm cho rõ ràng. Nếu nói ba trăm việc thiện rất dễ dàng, một ngày làm
ba trăm việc thiện liền trở thành địa tiên? Thực chất là ba trăm loại việc thiện.
Mỗi loại khi gặp thì phải làm được. Nhất định chăm chỉ nỗ lực y giáo phụng
hành, đó đều là pháp lạc. Hiện tiền chúng ta, chúng sanh thời đại này, khu vực
này là pháp dược rất hữu hiệu. Đại sư Ấn Quang khai mở cho chúng ta, càng
nghĩ càng có đạo lý. Hy vọng đồng tu chúng ta đều lưu ý, tỉ mỉ kiểm điểm, y giáo
phụng hành, tự nhiên liền có công đức lợi ích thù thắng.
“THĂNG QUÁN ĐẢNH GIAI, THỌ BỒ ĐỀ KÝ, VI GIÁO BỒ TÁT, TÁC A XÀ
LÊ, THƯỜNG TẬP TƯƠNG ƯNG, VÔ BIÊN CHƯ HẠNH, THÀNH THỤC BỒ
TÁT, VÔ BIÊN THIỆN CĂN, VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT, HÀM CỘNG HỘ NIỆM”
Đoạn kinh văn này tương ưng với nghi thức của thôn A Di Đà ở đoạn “thọ ký
Phật hộ”. Chư Phật hộ niệm tu học Phật pháp, dạy bảo mục tiêu sau cùng đều
không ngoài hy vọng chúng ta thành Phật ngay đời này. Hơn nữa còn làm Phật
cứu cánh viên mãn. Tôi nghĩ các đồng tu, ngày trước tuy đã từng nghe kinh Vô
Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cho đến các kinh luận đại thừa khác nhưng vẫn còn
nghi hoặc, không tin tưởng, huống hồ tin sâu. Do nguyên nhân gì? Vì lý quá sâu,
sự quá phức tạp, thường thức phàm phu chúng ta không thể lý giải nên không
thể tin sâu. Đó là hiện tượng bình thường.
Lần này ở Singapore, chúng ta hội hợp tại Cư Sĩ Lâm không giống như ngày của
mười năm trước. Ngày nay chúng ta khởi giảng đại kinh. Chỉ có Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh mới nói một cách thấu triệt, tường tận. Đó là sự
giúp đỡ rất lớn, khiến chúng ta không chỉ sanh khởi tín tâm mà còn tin sâu không
hoài nghi. Đồng thời dành thời gian một ngày nói với các vị tường tận kinh Vô
Lượng Thọ, cũng chính là thâm nhập Tịnh Độ, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín
ở ngay đời này, đích thực thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn. Duyên phận
hi hữu thù thắng như vậy quả đúng như kệ khai kinh đã nói “trăm ngàn vạn kiếp
khó được gặp”. Cư sĩ Bành Tế Thanh cũng từng phát biểu, vô lượng kiếp đến
nay một ngày hi hữu khó gặp. Hôm nay may mắn gặp được, hy vọng chúng ta
biết trân trọng nhân duyên hy hữu này, cố gắng nắm giữ nó, thành tựu đạo
nghiệp một đời.
“Thăng quán đảnh giai, thọ Bồ Đề ký”
21. Đoạn kinh văn rất giống khẩu khí của mật tông. Không sai, đích thực là mật
pháp. Như vậy “hiển, mật, tông, giáo” viên dung, trong kinh Vô Lượng Thọ, bao
gồm giáo nghĩa của các tông các phái. Kinh văn không dài nhưng rất viên mãn.
Vậy chúng ta có phải niệm chú, học mật hay không? Không cần thiết vì kinh này
đều bao gồm hết, không kém khuyết thứ gì, đích thực là đại viên mãn giáo.
“Quán đảnh” là nghi thức mật tông thọ ký. Thế nhưng mật tông quán đảnh phân
ra rất nhiều giai đoạn. Ban đầu học Phật thọ tam quy thì thượng sư quán đảnh
cho bạn. Bản thân tôi ban đầu học Phật thọ tam quy là nhờ đại sư Chương Gia
truyền thụ, cũng nhận qua nghi thức quán đảnh, nhưng đó chỉ là hình thức. Rốt
cuộc chúng ta không hiểu ý nghĩa chân thật của quán đảnh. Đại sư cũng không
giảng giải tường tận cho chúng ta nghe. Trong nghi thức tuyệt nhiên không có
giải thích rõ ràng, bởi vì người nhận quy y số lượng rất đông, thời gian rất thúc
bách. Tôi thân cận đại sư nên khi có nghi vấn thì thỉnh giáo với ngài, nhờ ngài
khai đạo. Nghi thức quán đảnh, quan trọng nhất là phải hiểu rõ nội dung của nó.
“Mật Tạng ký sao” của Đại Tạng kinh có giải thích tỉ mỉ. “Quán” thí dụ cho đại bi
hộ niệm, ngày nay chúng ta gọi là đại từ bi gia trì, đại từ bi hộ niệm, hoặc người
thế gian thường nói “đại từ bi bảo hộ”. “Đảnh” là cao nhất, đầu của người là cao
nhất. Đảnh đại biểu pháp môn cao nhất, pháp môn thù thắng nhất, đỉnh pháp
trong tất cả pháp môn.
Chúng ta liên kết hai chữ “quán đảnh” lại thì liền rõ được ý nghĩa. Phật dùng đại
từ đại bi, đem đảnh pháp viên mãn thù thắng nhất truyền thụ cho chúng ta, đó
gọi là quán đảnh. Không phải dùng một ít nước rảy vài giọt lên đầu của bạn thì
gọi là quán đảnh. Quán đảnh như vậy không ích gì, chỉ là hình thức biểu pháp.
Quan trọng là họ truyền pháp cho bạn, cái pháp này đương nhiên là đảnh pháp
chí cao vô thượng. Bạn đạt pháp môn này nhất định được tất cả chư Phật hộ
niệm, gia trì, giúp đỡ, khiến bạn khế nhập đảnh pháp, khế nhập pháp môn quả
địa cứu cánh Như Lai, đó mới gọi là quán đảnh. Do đây có thể biết, quán đảnh
trong hiển giáo của chúng ta quy y trên hình thức, thọ giới trên hình thức, đều
không đủ tin cậy. Phật pháp phải nói đến thực chất, chân thật chịu làm.
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 34)
Pháp Sư Tịnh Không
“Quán đảnh giai” thực tế chính là chỉ bổn kinh. Làm sao biết bổn kinh này là
đảnh pháp. Lão cư sĩ Mai Quang Hy ở phía trước bổn hội tập kinh Vô Lượng
Thọ, có một thiên lời tựa rất hay, viết rất dài. Lời tựa nhắc đến một đoạn, ông
vận dụng ghi chép của đại đức xưa kể rằng, vào thời Tùy Đường, Phật pháp
hưng thịnh nhất trong sử Phật giáo Trung Quốc, đó là thời đại hoàng kim của
Phật giáo. Đại tiểu thừa Phật giáo, mười tông phái gần như đồng thời xuất hiện.
Một số người xuất gia ưu tú từ nước ngoài đến Trung Quốc du học, đạt một số
thành tựu đặc biệt như Nhật Bản, Hàn Quốc. Vào lúc đó Hàn Quốc chưa thống
nhất, gọi là Tam Hàn. Phía nam Việt Nam cũng có rất nhiều cao tăng đại đức
đến Trung Quốc du học. Thời điểm đó họ từng thảo luận tỉ mỉ và nghiên cứu
phân tích, Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa giảng kinh hơn ba trăm hội, nói pháp
22. bốn mươi chín năm, nhưng bộ kinh nào biểu đạt đầy đủ cả thảy tính chất của
Phật pháp?
Những đại đức này gần như công nhận Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
kinh có thể đại biểu cả thảy Phật pháp, gọi là pháp luân căn bản. Họ còn dùng
thí dụ để nói, tất cả kinh đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm. Phật pháp giống
như một cây to, Hoa Nghiêm là gốc rễ. Ngoài ra, những điều Thế Tôn nói trong
bốn mươi chín năm không ngoài cành lá trên thân cây đó. Cành lá không rời
khỏi cội gốc, nên Hoa Nghiêm được gọi là pháp luân căn bản. Vậy Hoa Nghiêm
chính là đảnh pháp.
Thời đó người tu Tịnh Độ không ít, triều nhà Đường xuất hiện đại sư Thiện Đạo.
Lịch sử Trung Quốc ghi chép, ngài là hoá thân của Phật A Di Đà. Lịch sử Trung
Quốc cũng từng nói, có ba vị là Phật A Di Đà hoá thân mà chúng ta biết, còn
những vị mà chúng ta không biết thì không thể tính đếm được. Vị thứ nhất là đại
sư Thiện Đạo, vị thứ hai là pháp sư Vĩnh Minh Diên Thọ, vị thứ ba là Hòa
Thượng Phong Can ở chùa Quốc Thanh. Ba vị này đã bộc lộ thân phận. Chúng
ta nên biết, chư Phật Bồ Tát thị hiện ở thế gian rất hiếm khi bộc lộ thân phận,
còn người không bộc lộ thân phận thì rất nhiều. Cho nên tôi khuyên các đồng tu
phải sanh tâm cung kính đối với người. Không chừng bạn xem thường một
người nào, thì người đó lại là Phật A Di Đà hoá thân, vậy coi như bạn đắc tội,
còn có thể vãng sanh hay sao? Nói là nói như vậy, nhưng vãng sanh vẫn chiếu
theo vãng sanh. Bạn đắc tội, Phật A Di Đà nhất định sẽ không trách cứ. Điều
kiện vãng sanh là đầy đủ tín nguyện hạnh, chúng ta đối với tất cả mọi người phải
bình đẳng cung kính mới là đúng pháp.
Rất nhiều cao tăng đại đức Nhật Bản đều từng thân cận đại sư Thiện Đạo và
đem Tịnh Độ tông truyền đến Nhật Bản, Hàn Quốc. Một ngôi chùa ở Nhật Bản
tên gọi chùa Thiện Đạo ngày hôm nay được rất nhiều người đến. Thấy chùa,
người ta liền biết ở đó tu Tịnh Độ nhờ tên huý của đại sư đặt cho chùa miếu. Họ
rất cung kính đối với ngài. Tượng đắp của đại sư có khắp nơi trên Nhật Bản.
Còn đệ tử Phật tịnh tông Trung Quốc chúng ta lại quên mất đại sư. Khi tham
quan du lịch Nhật Bản, chúng ta gặp quang cảnh này liền sanh tâm hổ thẹn.
Người ta tôn kính tổ sư chúng ta đến như vậy, thế mà chúng ta quên mất.
Lại tỉ mỉ tìm hiểu Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đến sau cùng làm
thế nào mới có thể viên mãn thành tựu, đạt đến đảnh pháp chân thật? Thì ra là
pháp sau cùng nhất, Bồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương cầu sanh Cực
Lạc. Những đệ tử Phật liền khẳng định kinh Vô Lượng Thọ là đảnh pháp, vì kinh
Vô Lượng Thọ rút gọn kinh Hoa Nghiêm. Những cao tăng đại đức lúc đó nói,
“Hoa Nghiêm” “Pháp Hoa” trên thực tế dẫn đạo bạn quay về Tịnh Độ. Cũng
giống như chúng ta mở ra ba phần, “Hoa Nghiêm”, “Pháp Hoa” là phần tựa, kinh
vãng sanh Tịnh Độ là phần chính, cụ thể là kinh Vô Lượng Thọ, và kinh A Di Đà
là phần lưu thông. Cho nên trước nhà Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh mới nói, kinh
Vô Lượng Thọ là quyển trung của Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là tiểu bổn của
Hoa Nghiêm. Ba bộ kinh này kỳ thật là một bộ. Lời nói của Bành Tế Thanh
không đơn giản. Nếu không vào được cảnh giới này thì ông không thể nói ra như
vậy.
Thông thường nói kinh Hoa Nghiêm, Vô Lượng Thọ, A Di Đà là đảnh pháp.
Nguyên bản dịch của bổn kinh này rất nhiều. Từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc,