Ba giải pháp vốn cấp bách
   cho thị trường von
1. Cho phép thế chấp bất động
       sản tại NHTM nước ngoài
•   Trong hoàn cảnh hiện tại, khi thị trường bất động sản trong nước thiếu vốn mà các
    nước phát triển vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu thì giải pháp vốn
    quan trọng nhất phải được xác định là luồng vốn tín dụng từ các ngân hàng nước
    ngoài. Pháp luật nước ta hiện nay chưa cho phép thực hiện cơ chế thế chấp này vì
    chưa thể công nhận quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân nước ngoài không phải
    là nhà đầu tư vào VN.
•   Việc thế chấp thì dễ nhưng quan trọng hơn là giải quyết bất động sản thế chấp thế
    nào khi người vay tiền không có khả năng trả được nợ đã vay. Việc đổi mới pháp luật
    này không chỉ cần thiết nhằm tạo vốn mạnh hơn cho thị trường bất động sản mà còn
    đáp ứng cho nhu cầu mở rộng thị trường chứng khoán nước ta hay mở rộng cơ chế
    mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp lớn nước ngoài tham gia.
•   Bản chất của vấn đề là xây dựng được chế độ sử dụng đất đai tại VN đối với người
    sử dụng đất là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nếu quá chặt, người nước ngoài sẽ
    không muốn tham gia vì họ không muốn nắm đằng lưỡi trong các quan hệ về đất đai;
    nếu quá lỏng, có thể dẫn tới hệ quả là tư bản lớn nước ngoài tham gia đầu cơ đất tại
    VN. Xây dựng khung pháp luật này là phức tạp nhưng dù sớm hay muộn chúng ta
    vẫn phải làm khi đất nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
    Thương mại Thế giới (WTO). Việc đổi mới pháp luật theo hướng này cần thực hiện
    ngay trong năm 2011 để giải quyết sớm bài toán vốn cho thị trường bất động sản
    nước ta.
“Động viên” vốn đầu tư từ
            nguồn FDI
• Gần đây, nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới
  thị trường bất động sản nhà ở đầy tiềm năng của VN.
  Đây là một giải pháp vốn quan trọng. Để tạo thuận lợi
  cho giải pháp vốn này, một mặt cần ưu đãi về tiếp cận
  đất đai cho các đầu tư nước ngoài, nhưng mặt khác
  cũng cần phải tìm cách nâng cao hiệu quả đầu tư của
  FDI vào thị trường bất động sản nhà ở. Chúng ta đều
  biết rằng hầu hết các dự án đầu tư FDI vào bất động sản
  nhà ở đều sử dụng “miếng võ” huy động vốn từ người
  tiêu dùng như các nhà đầu tư trong nước đang làm. Cơ
  chế nhà đầu tư nước ngoài cũng tham gia “mua bán nhà
  trên giấy” thì đó không phải là giải pháp vốn từ nguồn
  FDI. Các nhà đầu tư nước ngoài phải đưa tiền thực vào
  đầu tư, không được tạo lợi nhuận bằng chính vốn huy
  động từ người tiêu dùng trong nước.
3. Hoàn chỉnh cơ chế “mua bán
          nhà trên giấy”
• Trên thực tế, cơ chế “mua bán nhà trên giấy” là một giải pháp vốn
  rất quan trọng nhưng luôn tiềm ẩn các rủi ro trong triển khai. Đó là
  những rủi ro về chất lượng, về tiến độ, về giá trị, về thủ tục cấp giấy
  chứng nhận. Nghị định số 71/2010/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành
  Luật Nhà ở đã đưa ra một số quy định nhằm khắc phục một số rủi
  ro đối với cơ chế này nhưng vẫn chưa bảo đảm thực sự không còn
  rủi ro.
• Chính vì vậy, cần tạo một cơ chế đảm bảo giao dịch bằng các dịch
  vụ tài chính và đảm bảo chất lượng, tiến độ với sự tham gia giám
  sát của cộng đồng những người góp vốn. Mặt khác, cần có quy định
  cụ thể về điều kiện được thực hiện cơ chế này đối với các nhà đầu
  tư trong nước cũng như ngoài nước để vừa tạo được công bằng
  trong môi trường kinh doanh bất động sản mà vừa sử dụng được
  nhiều nhất vốn đầu tư từ nguồn vốn FDI.
•
Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng và những

                 định hướng phát triển

• I) Đặt vấn đề:
• Thực tế ở nước ta trong giới khoa học kinh tế nói chung
  và chuyên ngành tài chính - tiền tệ nói riêng đang tồn tại
  một số quan niệm không trùng khớp nhau về thị trường
  vốn và thị trường tài chính. Một số người quan niệm
  rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường vốn ngắn hạn
  và thị trường vốn dài hạn; trong đó thị trường vốn dài
  hạn là thị trường chứng khoán. Một số khác thì cho
  rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường tiền tệ và thị
  trường tài chính; trong đó, thị trường tài chính là thị
  trường chứng khoán...
•
• Dù quan niệm nào đi nữa, thì nó vẫn phải bao gồm thị
  trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn. Vì vậy,
  nếu quan niệm thị trường tài chính bao gồm thị trường
  vốn ngắn hạn và thị trường vốn trung hạn, thì thị trường
  tiền tệ và thị trường chứng khoán chính là hai bộ phận
  thị trường đó. Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế,
  chuyển sang phát triển theo cơ chế thị trường, nhanh
  chóng hội nhập khu vực và quốc tế, Đảng và Chính phủ
  ta đã chú trọng phát triển cả thị trường tiền tệ và thị
  trường chứng khoán ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
  trước, từ khi hai Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và
  công ty tài chính có hiệu lực thi hành tháng 5-1990.
•
I) Về thực trạng phát triển thị
              trường tiền tệ
•   Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại
    Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân
    hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín
    dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư... Tuy
    nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín
    phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu
    như chỉ có các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh
    Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm...
•   Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở các
    công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó,
    dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước
    chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân
    hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái
    chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường
    mở, lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị
    trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng.
•   Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều
    chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các TCTD.
    Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho
    vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động
    vốn.
• Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất
  của các TCTD trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ
  nét.
• Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính,
  đặc biệt là các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách
  tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới
  phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương
  mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt
  động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích
  cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị
  trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị
  trường tiền tệ phát triển.
III) Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy

                                                động vốn:
•    Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chứctrung gian tài chính trong việc
     thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau:
•    - Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng thẻ... Tính đến nay trong cả
     nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các
     chủ thể.
•    - Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa các TCTD cạnh tranh thu hút
     tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính
     viễn thông, điện lực...
•    - Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa các TCTD và Công ty
     dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách
     hàng, một số ngân hàng thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là
     tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi
     suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính
     theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng...
•    - Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên,
     lãi suất hấp dẫn.
•    Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sôi động trên thị trường thu hút tiền gửi và thị trường huy động
     vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu
     hút tiền gửi, huy động vốn.
•    Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là chưa thu hút được tối đa tiền gửi
     không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán
     qua ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng,
     tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho
     các TCTD.

Thi truong von 1

  • 1.
    Ba giải phápvốn cấp bách cho thị trường von
  • 2.
    1. Cho phépthế chấp bất động sản tại NHTM nước ngoài • Trong hoàn cảnh hiện tại, khi thị trường bất động sản trong nước thiếu vốn mà các nước phát triển vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu thì giải pháp vốn quan trọng nhất phải được xác định là luồng vốn tín dụng từ các ngân hàng nước ngoài. Pháp luật nước ta hiện nay chưa cho phép thực hiện cơ chế thế chấp này vì chưa thể công nhận quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân nước ngoài không phải là nhà đầu tư vào VN. • Việc thế chấp thì dễ nhưng quan trọng hơn là giải quyết bất động sản thế chấp thế nào khi người vay tiền không có khả năng trả được nợ đã vay. Việc đổi mới pháp luật này không chỉ cần thiết nhằm tạo vốn mạnh hơn cho thị trường bất động sản mà còn đáp ứng cho nhu cầu mở rộng thị trường chứng khoán nước ta hay mở rộng cơ chế mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp lớn nước ngoài tham gia. • Bản chất của vấn đề là xây dựng được chế độ sử dụng đất đai tại VN đối với người sử dụng đất là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nếu quá chặt, người nước ngoài sẽ không muốn tham gia vì họ không muốn nắm đằng lưỡi trong các quan hệ về đất đai; nếu quá lỏng, có thể dẫn tới hệ quả là tư bản lớn nước ngoài tham gia đầu cơ đất tại VN. Xây dựng khung pháp luật này là phức tạp nhưng dù sớm hay muộn chúng ta vẫn phải làm khi đất nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc đổi mới pháp luật theo hướng này cần thực hiện ngay trong năm 2011 để giải quyết sớm bài toán vốn cho thị trường bất động sản nước ta.
  • 3.
    “Động viên” vốnđầu tư từ nguồn FDI • Gần đây, nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới thị trường bất động sản nhà ở đầy tiềm năng của VN. Đây là một giải pháp vốn quan trọng. Để tạo thuận lợi cho giải pháp vốn này, một mặt cần ưu đãi về tiếp cận đất đai cho các đầu tư nước ngoài, nhưng mặt khác cũng cần phải tìm cách nâng cao hiệu quả đầu tư của FDI vào thị trường bất động sản nhà ở. Chúng ta đều biết rằng hầu hết các dự án đầu tư FDI vào bất động sản nhà ở đều sử dụng “miếng võ” huy động vốn từ người tiêu dùng như các nhà đầu tư trong nước đang làm. Cơ chế nhà đầu tư nước ngoài cũng tham gia “mua bán nhà trên giấy” thì đó không phải là giải pháp vốn từ nguồn FDI. Các nhà đầu tư nước ngoài phải đưa tiền thực vào đầu tư, không được tạo lợi nhuận bằng chính vốn huy động từ người tiêu dùng trong nước.
  • 4.
    3. Hoàn chỉnhcơ chế “mua bán nhà trên giấy” • Trên thực tế, cơ chế “mua bán nhà trên giấy” là một giải pháp vốn rất quan trọng nhưng luôn tiềm ẩn các rủi ro trong triển khai. Đó là những rủi ro về chất lượng, về tiến độ, về giá trị, về thủ tục cấp giấy chứng nhận. Nghị định số 71/2010/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở đã đưa ra một số quy định nhằm khắc phục một số rủi ro đối với cơ chế này nhưng vẫn chưa bảo đảm thực sự không còn rủi ro. • Chính vì vậy, cần tạo một cơ chế đảm bảo giao dịch bằng các dịch vụ tài chính và đảm bảo chất lượng, tiến độ với sự tham gia giám sát của cộng đồng những người góp vốn. Mặt khác, cần có quy định cụ thể về điều kiện được thực hiện cơ chế này đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước để vừa tạo được công bằng trong môi trường kinh doanh bất động sản mà vừa sử dụng được nhiều nhất vốn đầu tư từ nguồn vốn FDI. •
  • 5.
    Thị trường tàichính Việt Nam: Thực trạng và những định hướng phát triển • I) Đặt vấn đề: • Thực tế ở nước ta trong giới khoa học kinh tế nói chung và chuyên ngành tài chính - tiền tệ nói riêng đang tồn tại một số quan niệm không trùng khớp nhau về thị trường vốn và thị trường tài chính. Một số người quan niệm rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn; trong đó thị trường vốn dài hạn là thị trường chứng khoán. Một số khác thì cho rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường tài chính; trong đó, thị trường tài chính là thị trường chứng khoán... •
  • 6.
    • Dù quanniệm nào đi nữa, thì nó vẫn phải bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn. Vì vậy, nếu quan niệm thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn trung hạn, thì thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chính là hai bộ phận thị trường đó. Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang phát triển theo cơ chế thị trường, nhanh chóng hội nhập khu vực và quốc tế, Đảng và Chính phủ ta đã chú trọng phát triển cả thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, từ khi hai Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực thi hành tháng 5-1990. •
  • 7.
    I) Về thựctrạng phát triển thị trường tiền tệ • Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư... Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm... • Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng. • Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn.
  • 8.
    • Công cụđiều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét. • Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển.
  • 9.
    III) Về thựctrạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn: • Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chứctrung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau: • - Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng thẻ... Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể. • - Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa các TCTD cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực... • - Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa các TCTD và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số ngân hàng thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng... • - Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn. • Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sôi động trên thị trường thu hút tiền gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút tiền gửi, huy động vốn. • Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là chưa thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng, tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các TCTD.