Đây là cuốn sách duy nhất của Osho mà tôi đã đọc nói
về quá khứ của Người theo những lời như vậy. Người đã mô tả thời gian và mối liên quan của nó tới cả kiếp sống trước đây của Người và các biến cố trong cuộc đời hiện tại của Người. Người mô tả tiến trình chết, Trung ấm Tây Tạng, và tái sinh, không theo những lời thông thường của bàn tán và giả thuyết trí tuệ mà dưới dạng kinh nghiệm cá nhân riêng của Người, của người biết.
Đây là cuốn sách duy nhất của Osho mà tôi đã đọc nói
về quá khứ của Người theo những lời như vậy. Người đã mô tả thời gian và mối liên quan của nó tới cả kiếp sống trước đây của Người và các biến cố trong cuộc đời hiện tại của Người. Người mô tả tiến trình chết, Trung ấm Tây Tạng, và tái sinh, không theo những lời thông thường của bàn tán và giả thuyết trí tuệ mà dưới dạng kinh nghiệm cá nhân riêng của Người, của người biết.
Este documento describe diferentes niveles de conocimiento, el conocimiento vulgar y el conocimiento científico. Explica que el conocimiento vulgar se basa en la experiencia cotidiana mientras que el conocimiento científico utiliza métodos sistemáticos y verificables. También resume los pasos del método científico, incluyendo la observación, preguntas, hipótesis, experimentación y conclusiones. Finalmente, discute conceptos como teoría, ley y principio en relación con el conocimiento científico.
This document lists 6 major cities in the United Kingdom and Ireland. It includes Dublin and Belfast from Ireland as well as London, Glasgow, Edinburgh, and Cardiff from different areas of the United Kingdom.
A London landmark in its own right, with a history stretching back to the Edwardian era, our hotel sees heritage and elegance with a contemporary twist.
In an enviable, iconic location with breathtaking park views, our intimate hotel oozes boutique charm, from our personalised service to the unique character embedded in the building itself.
At the Hilton London Hyde Park you’ll feel special, in our intimate hotel reserved for a select few.
Hilton London Hyde Park is much more than a place to stay. It’s a place to experience the city in ways that will inspire and surprise you.
Hilton London Hyde Park – Boutique Edwardian Charm
This seminar report discusses mining big data from Twitter using a Twitter analyzer tool. The report outlines the current status of big data analysis, which is challenging with normal data mining tools. The report proposes developing a Twitter analyzer application to more efficiently analyze large amounts of Twitter data. The application would connect to a database and allow users to view influence analysis and results to determine the effectiveness of social media strategies. Future enhancements could expand the tool to predict outcomes beyond box office revenues.
El método Dalcroze es un método educativo desarrollado por Émile Jaques-Dalcroze que utiliza la música y el movimiento para desarrollar la coordinación mente-cuerpo, el sentido del ritmo y la expresión musical. Se basa en tres pilares: euritmia, solfeo e improvisación. El objetivo es despertar el sentido artístico a través de ejercicios rítmicos que entrenan la atención, la inteligencia y la sensibilidad.
Capstone Business School presentation on Hilton International. The group performed extensive research on the Hotels & Lodging industry, presenting their findings and recommendations in front of a various business professionals.
Introduction to Microsoft SQL Server 2008 R2 Analysis ServiceQuang Nguyễn Bá
The document discusses SQL Server 2008 R2 Analysis Services and provides an overview of its key components including OLAP, multidimensional data analysis using dimensions and hierarchies, and how it utilizes a dimensional data warehouse with fact and dimension tables to store and retrieve data for analysis. It also explains how Analysis Services provides scalable and extensible solutions for analytics and delivers pervasive business insights.
Cuốn sách này nội dung viết về quan điểm y học hiện đại nhưng nội dung rất gần gũi, dễ hiểu. Tác phẩm như một cuốn sách giáo khoa có những luận điểm y học rõ ràng và được chứng minh cụ thể. Phương pháp lập luận với những dẫn chứng sinh động, khéo léo.
Trình bày: Phạm Hồng Chương, ngày 04.08.2022
Quan niệm về cái chết
Vòng luân hồi
Diễn trình của sự chết
Ý nghĩa của cái chết
Những việc có thể làm cho người sắp chết được ra đi nhẹ nhàng
Chuẩn bị cho cái chết tốt đẹp.
---
Chuỗi chương trình giới thiệu minh triết nội môn đến cộng đồng do nhóm Việt Nam trường Morya Federation và nhóm PSSM Anapanasati đồng tổ chức, Hè 2022.
Link tải các bài trình bày (pdf): https://tinyurl.com/GTMTTL2022
Link playlist của chuỗi chương trình: https://tinyurl.com/playlistGTMTTL2022
The document discusses the history and evolution of chocolate production. It details how cocoa beans are harvested and fermented before being dried, roasted, and ground into chocolate liquor. The liquor is then further processed through conching and tempering to produce smooth chocolate for consumption.
The document discusses the history and development of chocolate over centuries. It details how cocoa beans were first used by Mesoamerican cultures before being introduced to Europe. Chocolate then evolved from a luxury good to a mass-produced confection as production methods advanced and it became commercially available on a larger scale.
This document is the introduction to a book about how to change the world. The author notes that while they are not an expert, the world is full of experts yet still faces major problems. The introduction questions what humanity's purpose is and whether current problems are inevitable. It encourages taking an observer perspective to understand society without political or economic biases and to question what we take for granted. The author aims to help readers see the world with fresh eyes in order to enable meaningful change.
Muốn tìm hiểu địa chỉ phá thai an toàn ở Đà Nẵng? Xem ngay bài viết này để biết thông tin về các cơ sở phá thai đáng tin cậy, chuyên nghiệp tại khu vực này.
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG CHO BỆNH LOÉT DẠ DÀY TÁ TRÀN...TBFTTH
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG CHO BỆNH LOÉT DẠ DÀY – TÁ TRÀNG 2020
Người dịch: BS Văn Viết Thắng
Tóm lược: Hiệp hội tiêu hóa Nhật Bản đã sửa đổi hướng dẫn lâm sàng lần 3 về bệnh loét dạ dày – tá tràng năm 2020 và tạo một phiên bản tiếng Anh. Hướng dẫn được sửa đổi gồm 9 nội dung: dịch tễ học, xuất huyết dạ dày và tá tràng do loét, liệu pháp không diệt trừ, loét do thuốc, không nhiễm H. Pylori, và loét do NSAID, loét trên dạ dày còn lại, điều trị bằng phẫu thuật và điều trị bảo tồn cho thủng và hẹp. phương pháp điều trị khác nhau dựa trên biến chứng của loét. Ở bệnh nhân loét do NSAID, các thuốc NSAID được ngưng và sử dụng thuốc chống loét. Nếu NSAID không thể ngưng sử dụng, loét sẽ được điều trị bằng thuốc ức chế bơm proton. Vonoprazon và kháng sinh được khuyến cáo là lựa chọn hàng đầu cho diệt trừ HP, và PPIs hoặc Vonoprazan kết hợp kháng sinh được khuyến cáo là điều trị hàng thứ 2. Bệnh nhân không sử dụng NSAIDs và có Hp âm tính thì nghĩ đến loét dạ dày tá tràng tự phát. Chiến lược để dự phòng loét dạ dày tá tràng do NSAID và Aspirin liều thấp được trình bày trong hướng dẫn này. Cách thức điều trị khác nhau phụ thuộc vào việc đồng thời sử dụng NSAIDs hoặc Aspirin liều thấp với tiền sử loét hoặc xuất huyết tiêu hóa trước đây. Ở bệnh nhân có tiền sử loét có sử dụng NSAIDs, PPIs có hoặc không Celecoxib được khuyến cáo và sử dụng. Vonoprazon được đề nghị để dự phòng loét tái phát. Ở bệnh nhân có tiền sử loét có uống aspirin liều thấp, PPIs hoặc Vonoprazon được khuyến cáo và điều trị bằng kháng histamine H2 được đề nghị đề dự phòng loét tái phát.
Giới thiệu
Năm 2009, hiệp hội tiêu hóa Nhật Bản đã cho ra đời hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng về bệnh loét dạ dày tá tràng. Hướng dẫn này được sửa đổi vào năm 2015 và lần nữa vào năm 2020. Trong số 90 câu hỏi trong hướng dẫn trước đó, có những câu hỏi có kết luận rõ ràng, và có những câu hỏi phải phụ thuộc vào kết quả của những nghiên cứu trong tương lai, chúng được giải đáp và sửa đổi trong hướng dẫn này. Vì thế, hướng dẫn sửa đổi này bao gồm 9 nội dung (28 câu hỏi lâm sàng và 1 câu hỏi giải đáp trong nghiên cứu gần đây), bao gồm, cũng là lần đầu tiên về dịch tễ học và ổ loét dạ dày – tá tràng còn tổn tại. Cả dịch tễ học và phương pháp điều trị bảo tồn cho thủng và hẹp trong các câu hỏi nền tảng. Dự phòng xuất huyết do loét dạ dày – tá tràng ở bệnh nhân uống thuốc kháng tiểu cầu và điều trị loét tá tràng do thiếu máu cục bộ đã được them vào câu hỏi lâm sàng và câu hỏi cần trả lời trong tương lai.
Tìm kiếm tài liệu trên thư viện Medline và Cochrane đã được thực hiện về tài liệu liên quan đến các câu hỏi lâm sàng đăng tải từ năm 1983 đến tháng 10 năm 2018, và cơ sở dữ liệu Igaku Chuo Zasshi được tìm kiếm về dữ liệu đăng tải từ 1983 đến tháng 10 năm 2018. Hướng dẫn này được phát triển sử dụng hệ thống thẩm định, phát triển và đánh giá khuyến cáo (GRADE). Chất lượng bằng chứng được chia thành các mức A (cao), B (trung bình), C (thấp) và D (rất thấp). Độ mạnh khuyến cáo
2. 1
Bệnh mờ non nước áng mây trời
Phải chăng không bệnh là hy hữu?
Nên mộng xuân hồng phải tả tơi!
Một nhà thơ nào đó đã đặc tả bệnh khổ, một trong ba nỗi khổ
lớn nhất của nhân sinh, đầy hình tượng mà cũng vô hình
chân thực. Thực vậy, già, bệnh, chết là ba cửa ải phải qua của
đời người, mà trong đó bệnh khổ mang tính quyết định. Nếu
già mà tỉnh táo, khỏe mạnh, chết mà nhẹ nhàng, thanh thản
thì cũng không phải là điều đáng sợ; chỉ có bệnh khổ dày vò
thân tâm, khiến chúng ta cầu sống không được, muốn chết
không xong mới là điều đáng sợ nhất. Thế nên có người bảo:
“Tôi không sợ chết, chỉ cần khi chết ra đi nhẹ nhàng, không bị
bệnh tật hành hạ đau đớn.”
Nhưng thực ra, sợ chết vốn là bản năng, chấp ngã của con
người. Dù lúc bình thời mình có hiểu vô thường và nói cứng
bao nhiêu, nhưng khi đối diện cái chết, trước nỗi đau đớn dày
vò, cũng như nghiệp lực quá khứ quấy nhiễu, nếu bình thời
không có công phu đắc lực, thử hỏi mấy ai là có thể không hốt
hoảng sợ hãi, trước vọng tưởng “cái ta” sắp mất của mình?
Thực đúng, như những gì mà Thiền sư Quy Sơn đã nói: “Một
mai nằm bệnh ở giường, các khổ trói trăn bức bách, sớm
chiều lo nghĩ, tâm ý bàng hoàng, đường trước mịt mờ, không
biết về đâu? Lúc đó mới biết ăn năn, như khát mới mong đào
giếng, chỉ hận sớm chẳng lo tu, đến già nhiều điều lầm lỗi.
Lâm chung rối loạn, lưu luyến bàng hoàng.”
3. 2
“Sinh từ đâu đến, chết đi về đâu?” Đây là câu hỏi mà phần lớn
chúng ta vẫn mê mờ không rõ. Thế nhưng khi còn khỏe
mạnh, chúng ta lại không biết dùng thời gian và năng lực quý
báu để tìm câu giải đáp; đợi đến bệnh nặng sắp chết mới
bàng hoàng lo sợ, thử hỏi lúc ấy có kịp không?
Trong các thứ bệnh, có lẽ ung thư là căn bệnh mà người ta sợ
hãi nhất vì mọi người đều nghĩ đây là một thứ bệnh nan y
chưa có thuốc đặc trị, ai vướng phải nó như vướng phải án tử
hình, nhất định sẽ bị tra khảo, hành hạ đến chết.
Duyên lành thay, đức Phật và các vị thiện tri thức đã chỉ cho
chúng ta một con đường thấu thóat: đó là quán chiếu bản
chất vô thường, vô ngã của nhân sinh, sửa đổi tư tưởng và
cách sống của mình, phát huy nguồn ánh sáng vô lượng
trong tự tâm, soi sáng cho mình và người trong cõi đời tăm
tối. Lại thêm, chỉ cần có tâm sám hối, có niềm tin chắc chắn
mở rộng tâm mình đón nhận ánh sáng nhiếp thọ của đức
Phật A Di Đà và mười phương chư Phật, chúng ta sẽ thể
nghiệm được sức Phật thực không thể nghĩ bàn, sức niệm
Phật cũng không thể nghĩ bàn, có thể chuyển hóa bệnh khổ
thành an vui, biến đổi Ta bà thành Tịnh độ. Hành trạng sống
quên mình, chết an nhiên của các vị cao tăng, đại đức và
những ai chân thực niệm Phật là bằng chứng đầy sức thuyết
phục cho khả năng vi diệu, bất khả từ nghì của Phật pháp.
4. 3
Cũng như vậy, hành giả Tịnh độ đủ lòng tín nguyện, biết rõ và
chắc nẻo về của mình: “Hiện tại sống an lạc, tương lai sinh
Cực Lạc.”
Do đó, bệnh khổ không phải là không có lối thoát, chẳng qua
chúng ta có biết cách thoát cũng như đủ niềm tin và công phu
để thoát hay không. Cho nên:
Nếu biết giữ tâm mình không bệnh
Tử sinh nhìn lại chỉ trò chơi!
“Thân bệnh mà tâm không bệnh,” đây không phải là câu nói
suông mà đã được chứng thực qua cuộc đời của Pháp sư Đạo
Chứng. Pháp sư là một vị chuyên trị ung bướu trước kia, sau
đó trở thành bệnh nhân ung thư, và cuối cùng xuất gia tu
hành, thắng vượt bệnh khổ. Với bi nguyện giúp đời, Pháp sư
đã dấn thân vào nẻo khổ , cùng an ủi, khích lệ và chỉ dẫn cho
những ai cùng trong cảnh ngộ. Quyển sách này này chính là
ghi lại những lời giảng dạy vô giá của Pháp sư. Trên con
đường nhân sinh, nhiều gập ghềnh lại lắm hầm hố chông gai
này, thử hỏi đã bao lần chúng ta vấp ngã? Có kẻ bỏ cuộc, có
người tự đứng lên, song phần lớn là phải nhờ thiện tri thức
dìu đỡ.
Như các vị Thiền sư trong quá khứ, Pháp sư Đạo Chứng là
một vị thiện tri thức vĩ đại của bệnh nhân ung thư trong thời
hiện đại. Người đã dìu đỡ chúng sinh vượt qua vũng tối sợ
hãi trước cửa ải bệnh khổ, tìm ra nguồn sáng nơi đức Phật Vô
Lượng Quang. Người cũng lấy thân mình làm gương, thị hiện
5. 4
thân bệnh mà tâm không bệnh, dùng trí tuệ từ bi và phong
thái tự tại giữa bệnh khổ để an ủi, khích lệ và chỉ dạy chúng ta
thấy được bản chất nhân sinh, phát huy ánh sáng sinh mệnh,
nhằm soi rọi và sưởi ấm cho mình và người. Quả thực như
Pháp sư nói: Chúng ta không thể quyết định chiều dài của
sinh mệnh, nhưng chúng ta có thể quyết định chiều rộng và
chiều sâu của sinh mệnh. Cho nên, học sống một ngày là biết
ơn một ngày, học sống một hôm có ý nghĩa một hôm. Vì vậy:
Cho dù ngày mai tận thế,
Đêm nay sen vẫn trồng
Đem lòng gió mát trăng thanh
Xưng tán A Di Đà Phật.
Quyển sách này còn bao gồm các bài chia sẻ tâm đắc của các
giáo sư, tiến sĩ hay bác sĩ. Đây đều là những vị có kinh nghiệm
bệnh khổ và chiến thắng bệnh tật, vì tất cả từng là bệnh nhân
ung thư! Song nhờ biết chuyển hóa tâm niệm, thay đổi cách
sống, phát huy tiềm năng sinh mệnh, mà có vị sống đến hơn
ba mươi năm sau khi bác sĩ tuyên án tử trong vòng sáu
tháng! Quan trọng hơn nữa, họ đã tìm được dòng sinh mệnh
vô tận trong đời sống hữu hạn, phong thái tự tại, biết ơn và vị
tha giữa thế giới vô thường. Điều này khiến chúng ta càng tin
tưởng vào sự vi diệu của Chánh pháp, tiềm năng vô tận của
sinh mệnh và sức gia hộ không thể nghĩ bàn của chư Phật!
Mỗi dòng trong nguyên tác là một chuỗi châu ngọc vô giá,
đem lại nguồn an ủi và khích lệ vô biên cho người đọc. Mỗi tư
tưởng của tác giả là một nguồn ánh sánh thanh tịnh, soi rọi
6. 5
thân tâm chúng ta khiến mê lầm tan biến, còn lại tâm mát mẻ
sáng trong. Chúng ta có thể cảm nhận trí tuệ và tâm từ bi của
Pháp sư đã đem lại niềm tin và an lạc cho mình ngay trong
giây phút hiện tại.
Cho nên, quyển sách này là thiện tri thức cho những ai đang
sống trong bệnh khổ, là thuốc diệu Già Đà trị lành bệnh tật cả
hai mặt thân tâm, là ánh sáng xua tan vũng tối sợ hãi, là nhịp
cầu cảm thông giữa chư Phật và chúng sinh, là chỗ quay về
nương tựa cho những tâm hồn bơ vơ, lạc lõng. Bút giả đã
đem tâm chí thành, tri ân để dịch tác phẩm này. Cầu nguyện
chư Phật gia hộ dịch phẩm có thể chuyên chở nguyên vẹn
tâm từ bi, trí tuệ của Pháp sư và các vị thiện tri thức đến với
người đọc. Cũng như cầu nguyện những ai có duyên đọc
được, bệnh khổ sẽ tiêu trừ, tăng trưởng niềm tin, tìm được
ánh sáng vô tận của sinh mệnh và ý nghĩa đích thực của nhân
sinh, để sống những tháng ngày thực sự an lạc và hữu ích.
CHỮA TRỊ BỆNH UNG THƯ
Ung thư được định nghĩa như là sự tăng sinh tế bào vô tổ
chức, tiết ra chất làm đau, lấn ép sự sống của chủ thể, cuối
cùng khiến cho chủ thể chết trong đau đớn. Thật ra ung thư
có nhiều loại, ung thư máu, ung thư các tạng phủ, ung thư
xương, ung thư mô… Các loại ung thư có thể di chuyển qua
lại, biến thể lẫn lộn, loại này biến thành loại kia, làm phát sinh
loại kia. Ung thư phổi có thể thành ung thư gan, ung thư máu
có thể thành ung thư xương vân vân…
7. 6
Ung thư là một trong tứ chứng nan y đời xưa, Phong Lao Cổ
Lại, và tiếp tục là bệnh nan y của đời nay mặc dù y học rất
tiến bộ. Ngày nay tốc độc phát bệnh ung thư lên đến chóng
mặt. Bệnh viện ung bướu tiếp nhận bệnh tràn ngập. Bệnh
nhân nằm khắp nơi la liệt vật vã.
Một người vợ bị ung thư, người chồng bán sạch các thứ để
chữa trị. Đứa con gái thương mẹ lén lấy giấy chủ quyền nhà
chồng cầm cố, đến khi nhà bị phát mãi chồng mới biết và lập
tức li dị. Cả nhà nằm vật vờ đói khổ trong bệnh viện, vừa
mong được chữa trị, vừa ăn xin.ư
Một bác sĩ có kinh nghiệm chữa trị ung thư suốt 25 năm đã
nói rằng, nếu vướng bệnh ung thư, ông sẽ về nhà nằm chờ
chết chứ không uống thuốc của bệnh viện, mặc dù ông là
người kê đơn thuốc cho bệnh nhân ung thư hằng ngày. Lý do
ông đưa ra là hầu hết bệnh viện chỉ cấp thuốc giảm đau, mà
thuốc giảm đau thì khiến cho bệnh phát triển mạnh hơn. Còn
thuốc trị ung thư thì làm hư xương khiến cho ung thư lập tức
tràn vào xương thành ung thư xương liền. Ông cũng bảo rất
nhiều người xin ra nước ngoài chữa bệnh, nhưng chẳng nơi
nào giỏi hơn nơi nào trong việc chữa bệnh ung thư. Thuốc
nào bên Mỹ có thì VN cũng có cả. Bệnh nhân sang Quảng đông
TQ, hoặc sang Singapore rồi cũng chết y hệt như bệnh nhân ở
VN.
Ông cũng nói bệnh ung thư là bệnh cực kỳ khó hiểu. Có khi
người bệnh đang đi đứng bình thường, bỗng lăn đùng ra chết.
8. 7
Có khi bệnh bỗng nhiên khỏi. Có khi nằm bao nhiêu năm vẫn
chưa chết.
Thường thì một người bệnh sẽ kéo theo cả nhà rơi vào nguy
khốn đói khổ vì bao nhiêu tiền đổ vào chữa bệnh cũng chẳng
ăn thua. Người bệnh càng ham sống thì càng giết chết cả nhà.
Thời đại hôm nay được cho là môi trường bị nhiễm độc nặng
nên bệnh ung thư phát sinh rất mạnh. Những thức ăn uống
đầy hóa chất (được cho phép trong định mức) đều là thủ
phạm gây ung thư. Nguồn không khí bẩn thỉu cũng là nguyên
nhân ung thư. Dòng sông nhiễm đầy thuốc bảo vệ thực vật
cũng gây ung thư. Thực phẩm có nguồn gốc động vật nhiễm
đầy độc tố cũng gây ung thư. Thực phẩm lấy từ thực vật cũng
thấm đầy độc tố, và cũng gây ung thư. Phóng xạ cường độ cao
cũng gây ung thư…
Bây giờ ta nhìn bệnh ung thư qua nhãn quan tâm linh một
chút để thấy thêm một khía cạnh thú vị của loại bệnh hiểm ác
này. Không riêng gì bệnh ung thư, rất nhiều bệnh có nguồn
gốc tâm linh, mà tâm linh thì bị gán cho là phản khoa học, là
mê tín, không được quan tâm xử lý.
Ví dụ bệnh tự kỷ Autism của trẻ em. Trẻ bị bệnh tự kỷ không
nói, hoặc nói rất ít. Trẻ khép mình trong thế giới riêng của
mình, không để ý mọi người bên ngoài. Đôi khi trẻ được gán
cho là thiên tài vì có thể làm những bài toán khó hoặc biết
nhiều chuyện lạ lùng.
9. 8
Nguyên nhân bệnh tự kỷ là do khi trẻ còn nằm nôi, chưa biết
nói, vùng não ngôn ngữ chưa kịp phát triển do chưa đủ thời
gian tiếp xúc với con người, trẻ đã bị vài vong tiếp cận trước.
Các vong này xâm nhập rất sâu vào nội tâm của trẻ, chơi đùa
với trẻ, tiếp xúc với trẻ bằng ngôn ngữ tâm linh trực tiếp,
không qua ngôn từ. Trẻ bị dẫn dụ bởi sự tiếp xúc này, tiếp
nhận loại ngôn ngữ này, não chỉ đón nhận loại ngôn ngữ tâm
linh này, rồi bộ não của trẻ không còn phát triển vùng ngôn
ngữ của con người được nữa. Đến khi tuổi lớn lên một chút,
não hết thời gian để phát triển, và vĩnh viễn vùng ngôn ngữ bị
tê liệt luôn. Trẻ sẽ tiếp tục sống mà không nói gì vì không
hiểu người chung quanh nói gì, vì có muốn nói cũng không
biết nói. Trẻ có thể tiếp tục bị các vong bao vây chơi đùa, nên
trẻ nhìn vào ta thấy trẻ cứ như chơi đùa một mình, nhưng
thật ra là đang chơi với vong.
Nếu đó là các vong giỏi, vong sẽ cho trẻ biết nhiều chuyện mà
trẻ không thể biết, người chung quanh khó thể biết. Trẻ đưa
ra kết quả do vong mách, mọi người hết sức khâm phục và
gán cho trẻ là thiên tài. Nếu vong rời bỏ ra đi, đứa trẻ ở lại sẽ
ngớ ngẩn cả đời vì không còn ai để tiếp xúc, và cũng không
hiểu những người đang sống bên cạnh mình.
Nếu vong bỏ đi sớm, trẻ còn thời gian để phát triển vùng não
ngôn ngữ thì trẻ sẽ nói được bập bẹ sau một thời gian bắt
đầu quay sang tiếp xúc với người sống. Nếu vong bám theo
riết thì trẻ hoàn toàn im lặng cách biệt với thế giới loài người.
10. 9
Vì vậy, khi trẻ vừa chào đời, cha mẹ phải hết sức bảo vệ
không cho các vong đến gần trẻ, xâm nhập vào nội tâm của
trẻ. Cha mẹ mà buông lỏng, ít kề cận bảo vệ, không cầu
nguyện thần thánh gia hộ, trẻ sẽ dễ bị vong quấy phá hoặc
xâm nhập nội tâm gây bệnh tự kỷ. Khi con trẻ vừa sinh ra, cha
mẹ phải đem đến chùa xin cầu phúc cho trẻ, nhờ Bồ Tát thủ
hộ giữ gìn cho trẻ để các vong đừng gây tác hại cho trẻ. Lâu
lâu lại phải mang trẻ đến cầu nguyện trở lại. Nếu tại nhà có
bàn thờ Phật thì mỗi ngày phải lễ Phật tụng kinh cầu nguyện
bình an cho trẻ.
Bệnh tự kỷ Autism có yếu tố tâm linh khó hiểu là thế.
Bệnh ung thư cũng vậy, cũng có yêu tố tâm linh.
Chung quanh ta có rất nhiều vong của chúng sinh, có vong
của loài người, có vong của loài thú, thậm chí có vong của các
loài động vật nhỏ bé. Các vong đó luôn khát khao tìm sự sống,
tìm miếng ăn, tìm sự tồn tại.Để có được sự sống, các vong đó
hay tìm cách sống ký sinh vào chủ thể còn sống như con
người và một số cầm thú khác. Không phải lúc nào các vong
đó cũng ký sinh được, gắn vong của mình vào người sống
được. Chỉ một số người bị Nghiệp phải trả, xuất hiện một
vùng yếu ớt thiếu sức bảo vệ, lập tức các vong bám vào sống
ký sinh.
Kể từ khi bám vào sống ký sinh được rồi, các vong bây giờ
giống như có một phần thân thể của người bệnh, lấy một
phần thân thể của người bệnh làm thân thể của mình. Nếu
11. 10
các vong đó yếu ớt thì bám vật vờ rồi bị thân thể của con
người gạt ra. Nếu các vong đó là loại mạnh thì chúng cạnh
tranh sự sống với chủ thể, chúng khiến mô tế bào phát sinh
hỗn loạn.
Thông thường thì không phải một u bướu ung thư chỉ có một
vong, mà thật sự là nhiều vong bám theo nhung nhúc như
đám giòi bọ vậy, trông rất khiếp.
Ta dùng hóa trị hoặc xạ tri để diệt tế bào ung thư nhưng
không đuổi được các vong đó ra khỏi cơ thể, chúng lập tức
chuyển qua mô khác để chiếm lấy sự sống của con người tiếp
tục, và ta gọi là Di Căn. Một số nhà ngoại cảm có khả năng
nhìn thấy hình thù các vong của các loài chúng sinh đó bám
vào khối u, dính trong khối u, nhầy nhụa lúc nhúc ghê gớm.
Trong truyện tích đạo Phật có ghi chép một sự kiện u bướu
kỳ lạ. Ngài Ngộ Đạt bị u hình mặt người, đút thịt vào biết ăn
luôn. Sau này mới vỡ ra rằng đó là vong của một người thù
oán ngày xưa nhập vào đầu gối sống ký sinh để trả thù, tạo
thành khối u kỳ quái khủng khiếp. Đó là trường hợp ung thư
do vong một con người bám vào. Những trường hợp khác là
do vong của nhiều chúng sinh bé bé bám vào xâu xé giành
giật.
Vì ung thư là bệnh có tính tâm linh rất cao nên thuốc thang
không hết, mà phải do sám hối tu hành làm thiện mới hóa
giải được. Ai ỷ giàu đổ tiền ra chữa bệnh khắp thế giới cũng
chết. Chỉ có sám hối thiết tha những nghiệp chướng ngày xưa,
12. 11
cộng với đem tiền cúng chùa, bố thí người nghèo, làm các
việc nghĩa, thì mới hóa giải được nghiệp mà hết bệnh ung
thư. Khi người bệnh đã sám hối đủ, cơ thể toát ra một kháng
lực xua đuổi các vong ký sinh ra khỏi cơ thể khiến cho khối u
ngưng phát triển, trở lại ổn định theo gene của con người sắp
xếp.
Đã đó rất nhiều người đau khổ vì ung thư, nhưng khi nghe lời
khuyên của Tăng Ni, về nhà chuyên cần lạy Phật sám hối, vậy
mà bệnh tình thuyên giảm rõ rệt, sống vui khỏe trở lại.
Ta nên đặt tay vào khối u mà tụng kinh hoặc trì chú của PHật,
nói chuyện với khối u, khuyên khối u quy y Phật PHáp Tăng,
rải lòng từ bi với khối u, cầu cho khối u siêu thoát. Vậy mà
khối u sẽ dần dần biến mất. Nếu là ung thu máu, ung thư
xương, ung thư phổi, ung thư gan… thì ta cứ lạy Phật sám hối
mãi, cũng sẽ hết. Ta chỉ nên hỗ trợ bằng thuốc thảo mộc mà
thôi, đừng dùng hóa dược phản ứng phụ nguy hiểm hơn.
Người bệnh ung thư nên ăn chay để không chiêu oán thù với
chúng sinh thêm nữa. Người này cũng nên đem cả cuộc đời
còn lại của mình mà phụng sự cho mọi người, cho đất nước,
cho thế giới, vì xem như mình đã chết rồi, bây giờ cuộc sống
thêm này là của trời đất, không phải của mình nữa.
Xin cầu nguyện cho pháp giới chúng sinh tiêu tai kiết
tường và giác ngộ.
THƯỢNG TỌA THÍCH CHÂN QUANG
13. 12
Có một sinh viên người Australia được chẩn đoán là bị
ung thư. Cô đang cầu nguyện theo nghi thức của Phật
giáo và trì tụng thần chú White Tara. Bạn bè của cô đã
viết thư cho ngài Lama Zopa Rinpoche, nhờ ngài hướng
dẫn cách thức cầu nguyện và các phương pháp tu tập. Sau
đây là nội dung lời khuyên từ ngài Lama Zopa Rinpoche.
Andrea thân mến,
Con mang trong mình căn bệnh này là một sự tịnh hoá vĩ đại,
không chỉ cho bản thân con mà còn cho vô số chúng sanh
trong địa ngục, trong ngạ quỷ, súc sanh, trong loài người, loài
trời và a-tu-la.
Con nên trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, càng nhiều càng tốt,
cùng với sự quán chiếu mạnh mẽ về lòng từ bi và ánh sáng
của Đức Phật.
Bên cạnh đó, con nên trì tụng thần chú Kim Cang Tát Đỏa
(Vajrasattva), quán chiếu rằng, Bồ-tát Kim Cang Tát Đảo sẽ
làm cho mọi thứ được thanh tịnh, như là bệnh tật, các thế lực
nguy hại, nghiệp bất thiện và những chướng ngại được tiêu
trừ. Với thần chú Hum Om Vajrasattva, quán chiếu rằng cơ
thể của con nằm trong bản chất của ánh sáng, và ánh sáng từ
trong cơ thể thiêng liêng của Bồ-tát chiếu ra làm thanh tịnh
cơ thể của con. Hãy quán chiếu theo cách này để thanh lọc
thân tâm.
Đồng thời, con nên phóng sanh các loài động vật, như cá,
chim… Nếu thực hiện việc phóng sanh này ở Kathmandu,
Nepal thì rất tốt, vì tại đấy con có thể đưa các sinh vật ấy
nhiễu quanh tháp Swayambhunath và tháp Boudha, rồi sau
14. 13
đó thả chúng trở về với môi trường tự nhiên. Nếu không thì
hãy phóng sanh theo sự hướng dẫn của thầy: Con có thể làm
lễ phóng sanh tại trung tâm tu tập của mình, với nhiều vật
thiêng liêng ở trên bàn. Bưng các sinh vật nhiễu quanh bàn,
chú nguyện vào trong nước rồi rải nước lên các sinh vật, sau
đó đem thả chúng.
Nếu con có thể thọ lãnh và hành trì Bát quan trai giới thì rất
là tốt. Bát quan trai giới tạo ra động lực để đạt được giác ngộ
cho tất cả chúng sinh. Tám giới ấy cũng chính là nhân tố tạo
ra sự giải thoát, giác ngộ và hạnh phúc cho hiện tại lẫn tương
lai; và đấy cũng là nhân tố để cứu vớt tất cả chúng sanh từ
biển luân hồi đau khổ, giải thoát cho họ khỏi đại dương sinh
tử. Hành trì giới luật có thể làm được tất cả những điều đó!
Điều tốt nhất là sự chín
muồi của nghiệp bất thiện
có thể được sử dụng cho
niềm hạnh phúc, không chỉ
cho hạnh phúc trong đời
này mà cho cả đời sau, giải
thoát khỏi vòng luân hồi và
được giác ngộ. Nó có thể
được sử dụng cho sự giác ngộ tối hậu. Trên thực tế thì điều
đó khó diễn ra, nhưng nếu chúng ta có thể trải nghiệm nó với
tâm bồ-đề, nó sẽ trở thành nhân tố của sự giác ngộ và giải
thoát cho vô lượng chúng sinh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, người, trời và a-tu-la thoát khỏi sanh tử luân hồi. Nó
đem đến hạnh phúc lớn lao nhất và trở nên ý nghĩa nhất.
15. 14
Không có gì vĩ đai hơn khi chịu thay căn bệnh này đối cho tất
cả chúng sinh với tâm bồ-đề – không chỉ cho gia đình của
mình mà còn đối với vô số chúng sinh – nhằm giúp họ được
hạnh phúc, đưa họ đến với sự giác ngộ. Hãy tâm niệm rằng,
con đã nhận tất cả khổ đau của chúng sinh và những nghiệp
bất thiện, bao gồm cả bệnh ung thư, thay cho vô số chúng
sinh đang đau khổ và sẽ chết. Vì vậy, bằng việc nhận lãnh
những đau khổ của chúng sanh, bao gồm cả bệnh ung thư của
họ, con sẽ nhận được tất cả các lợi ích như đã đề cập ở trên,
cộng với tất cả phần còn lại của những đau khổ và nguyên
nhân của chúng. Lợi ích sẽ lớn hơn, lớn hơn vô số lần. Con sẽ
trải nghiệm những hạt nhân của sự giác ngộ và sẽ tạo ra điều
này cho vô số chúng sinh.
Vì vậy, mỗi ngày, mỗi giờ, càng nhiều càng tốt, hãy tâm niệm
như thế. Nếu trước đây con đã từng phát nguyện nhận tất cả
những khổ đau và những nguyên nhân khổ đau của tất cả
chúng sanh, ban tặng tất cả niềm hạnh phúc và phước đức
của bản thân đến tất cả chúng sanh, thì hãy nghĩ rằng: “Bây
giờ tôi đạt được thành công lớn nhất, bằng cách thọ nhận
những đau khổ của chúng sinh và tôi đang chịu đau khổ thay
cho tất cả chúng sinh”. Hãy cố gắng dũng cảm để suy nghĩ
theo cách này, càng nhiều càng tốt.
Giúp cho vô số chúng sinh trong mỗi quốc độ có hạnh phúc
vô song của sự giác ngộ, không còn đau khổ, là điều thực sự
làm cho cuộc sống của con có ý nghĩa. Mỗi khi con nghĩ đến
điều đó thì sẽ giúp con tịnh hóa những nghiệp tiêu cực từ vô
thỉ kiếp, không chỉ giới hạn trong một vài kiếp sống. Nhờ đó
mà căn bệnh ung thư và nguyên nhân của nó được tịnh hóa
16. 15
dần, và mỗi lần tư duy như thế là con đang gieo vô số hạt
nhân của sự giác ngộ. Nếu con nhận lấy khổ đau do bệnh ung
thư của một chúng sinh hoặc tất cả sự đau khổ của một chúng
sinh, đấy là những hạt nhân để đạt được giác ngộ, hạnh phúc
vô song, và là thành công lớn nhất vượt lên trên tất cả những
thành công của cuộc sống.
Tại vì có vô số chúng sinh trong địa ngục, ngạ quỷ và những
chúng sanh trong không trung, cho nên tạo ra bảy loại trong
vô số hạt nhân đưa đến sự giác ngộ. Việc nhận lãnh bệnh ung
thư của một người tạo một hạt nhân của sự giác ngộ, nhận
lãnh nhiều đau khổ của một chúng sinh thì tạo ra rất nhiều
hạt nhân cho sự giác ngộ. Cho nên điều đó rất là tuyệt vời và
hạnh phúc nhất.
Do vậy, ngay cả khi chúng ta qua đời thì không thể nào bị
thác sanh vào các cõi thấp hơn. Thay vào đó, chúng ta sẽ
được tái sinh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, và theo
ngài Kyabje Trijang Rinpoche, chúng ta có thể đạt được giác
ngộ. Hoặc là ở trong cảnh giới Shambala và Heruka thanh
tịnh, chúng ta có thể được giác ngộ. Ít nhất, chúng ta sẽ được
sự tái sinh ở cảnh giới cao hơn, hoặc tái sinh làm một người
hoàn hảo, gặp gỡ những người bạn có đạo đức, thực hành
giáo pháp, sống một cuộc sống an lạc và hạnh phúc hơn
nhiều.
Ngài Geshe Chekawa, tác giả của cuốn sách Bảy điểm huấn
luyện tâm, luôn phát nguyện được tái sinh trong địa ngục để
làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Khi ngài sắp viên tịch tại nơi
ẩn dật của mình, ngài nhìn thấy các cõi tịnh độ và ngài nói với
vị tu sĩ trẻ bên cạnh rằng: “Tôi đã không đạt được những điều
17. 16
mong ước của mình vì tôi được tái sinh trong một cõi tịnh độ.
Tôi đã không thành công!”. Ngài cảm thấy sự hối tiếc này như
là tâm dũng mãnh của một vị Bồ-tát. Đó không phải là một lời
giả dối, vì ngài thực sự muốn được tái sinh trong địa ngục.
Thầy dừng lại ở đây. Thầy hy vọng con hiểu lá thư của thầy.
Hãy viết thư cho thầy, để thầy có thể hiểu những điều đang
diễn ra với con.
Với tình yêu thương rộng lớn nhất và những lời cầu nguyện,
Lama Zopa Rinpoche
NGHIỆP BỆNH UNG THƯ
Bệnh tật là một trong bốn nỗi khổ (sinh, lão, bệnh, tử)
mà chúng sinh sinh ra trong thân xác người phải chịu.
Hiện nay, có rất nhiều chứng bệnh lạ mà y học hoàn toàn
chịu bó tay.
Theo Kinh Nhân quả thì người mang nhiều bệnh hay bị chết
yểu đều do từ nguyên nhân sát sanh mà chịu quả. Bệnh ung
thư là một trong những trọng bệnh cướp đi mạng sống con
người thể hiện rất rõ tính sát sanh của nghiệp.
Nghiệp sát tạo ra chết yểu và mang nhiều chứng bệnh
Kinh Địa tạng Bồ Tát Bản nguyện nêu rõ: Này Bốn ông Thiên
vương Ngài Địa Tạng Bồ Tát nếu gặp kẻ sát hại loài sanh vật,
thời ngày dạy rõ quả báo vì ương luỵ đời trước mà phải chết
yểu ….Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa chém. Chặt giết hại
sinh vật thời ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng
18. 17
lẫn nhau….Những chúng sanh trong cõi Diêm phù đề từ nơi
thân khẩu ý tạo ác kết quả trăm nghìn muôn sự báo ứng như
thế.
Mỗi một loại bệnh đều có những dấu hiệu và tiến trình của
căn bệnh khác nhau. Nhưng có lẽ căn bệnh ung thư là một
trong những trọng bệnh có diễn tiến gần nhất trong việc trả
nghiệp sát của chúng sinh.
Quan sát những dấu hiệu từ lúc bắt đầu cho đến lúc người
bệnh mất ta thấy, Đầu tiên là sắc mặt thâm đen, nếu nhìn
được từ trường xung quanh cơ thể sẽ thấy chuyến sang mầu
xám khói. Hào quang bị rút lại. Lòng mắt trắng lộ ra. Người
bệnh cảm thấy mệt mỏi không muốn làm gì. Tính tính trở nên
khó chịu và thể trọng người tự nhiên sút ký không rõ nguyên
nhân.Khi căn bệnh xẩy đến, người bệnh sụt ký từng ngày, mất
máu liên tục và người ngày một gầy yếu đi cứ như một sức
mạnh vô hình nào đó đang ăn thịt, ăn máu của người bệnh.
Sức mạnh vô hình đó chính là khối u ác tính ngày một lớn lên
do hút máu, ăn thịt người bệnh.
Khi người bệnh sắp ra đi thì bắt đầu cảm thấy đau đớn vô
cùng, như có ai đang xẻ thịt lột da mình và cuối cùng người
bệnh gần như chỉ còn da bọc xương. Thật là đau xót. Bất kỳ
cơ quan nào trên cơ thể con người đều có thể bị ung thư. Các
dấu hiệu và tiến trình xẩy ra không có sự khác biệt nhiều.
Theo y học hiện đại thì nguyên nhân của bệnh ung thư chính
là sự tương tác giữa các yếu tố chủ thể của gien với các tác
19. 18
nhân bên ngoài như điều kiện môi trường, chế độ sinh hoạt
ăn uống….Thành công nhất đối với y học hiện nay không phải
là tìm ra phương thuốc chữa bệnh ung thư mà họ đã tìm ra
nguyên nhân gây ra căn bệnh ung thư đó chính là sự sắp xếp
sai lệch của chuỗi AND trong cơ thể con người. Sự sắp xếp sai
lệch đó khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ phát triển thành gien
đột biến, sản sinh ra các tế bào lạ nhiễu loạn, phá hoại các tế
bào lành và hình thành những khối u còn gọi là u ác tính.
Như vậy, sự biến di của các gien là nguyên nhân cơ bản hình
thành các khối u ác tính, môi trường và chế độ ăn uống chỉ là
những điều kiện thích hợp cho sự phát triển của những tế
bào lạ. Để dễ hiểu hơn ta có thể đưa ví dụ : Không phải 100%
người hút thuốc lá đều bị ung thư phổi. Chỉ có những người
mang gien biến dị này thì mới mắc bệnh ung thư phổi. Như
vậy , hút thuốc lá chỉ là điều kiện, hay duyên để cho ung thư
bộc phát.
Một con người sinh ra, nếu mang gien đột biến này thì khó có
thể tránh khỏi mắc phải căn bệnh nan y này. Nếu người đó
giữa gìn cẩn thận, ăn uống điều độ có cuộc sống lành mạnh
thì chỉ khi nào cơ thể suy yếu hoặc khi về già căn bệnh mới
bộc phát. Còn với những người có cuộc sống bừa bãi thì ngay
từ trẻ đã mắc bệnh ung thư do tạo điều kiện cho u ác tính bộc
phát sớm. Cơ sở khoa học này là một minh chứng khá thuyết
phục cho quan điểm của Phật giáo khi nói về nghiệp sát là
nguyên nhân chính gây ra những căn bệnh nan y tạo nên sự
chết yểu của con người.
20. 19
Theo quan điểm Phật giáo, chúng sinh sinh ra trong thân
người là do nghiệp dẫn dắt. Nghĩa là sinh ra để thọ quả báo,
trả nợ những gì mà họ đã gieo nhân trong kiếp trước. Ngay
sau khi nhập thai, đứa trẻ sẽ chọn lấy những gien của bố, của
mẹ phù hợp với nghiệp của mình. Những gien đó được sắp
xếp theo một trình tự nhất định (sắp xếp của chuỗi AND) để
hình thành nên thân tướng, cơ thế vật chất con người.
Cơ thể Béo, gầy, cao thấp…gần như đã được quy định ngay
trong sự sắp xếp của chuỗi gien AND khi đứa trẻ mới sinh ra.
Ở Tây Tạng người ta con nhìn được thể vía của một đứa trẻ
mới sinh ra. Nghĩa là nhìn được hình dạng khi đứa trẻ đã là
người trưởng thành.
Trong lời thuyết giảng của Pháp Sư Tịnh Không có đoạn:
Thân tướng con người từ khi sinh ra cho đến lúc 40 tuổi chịu
sự chi phối của nghiệp kiếp trước. Sau 40 tuổi cho đến lúc
chết thì chịu sự chi phối của kiếp hiện tại.
Sức khoẻ và bệnh tật của con người cũng vậy. Chuỗi gien
AND cũng quy định sức khoẻ và một số loại bệnh mà con
người dễ và sẽ mắc phải trong cuộc sống sau này. Vì nhân
gieo khác nhau nên nên kết qủa cũng muôn nghìn trùng sự
báo ứng.
Trong Kinh nhân quả - Phật nói Kinh Nghiệp báo sai biệt cho
Trưởng Gia Thủ Ca những người chết yểu, hay mang nhiều
bệnh là do những nhân như sau: Mười nghiệp bị quả báo chết
yểu.
21. 20
1. Tự mình sát sanh.
2. Bảo người sát sanh.
3. Khen ngợi sự giết.
4. Thấy giết vui sướng.
5. Đối với người oán ghét thì muốn tiêu diệt.
6. Thấy người oán của mình bị tiêu diệt rồi trong lòng
sung sướng.
7. Làm hư thai tạng của người khác.
8. Dạy người hủy hoại (thai tạng).
9. Xây dựng miếu thờ trời để giết hại chúng sanh.
10. Dạy người đánh nhau để hai bên bị tàn hại.
Mười nghiệp bị quả báo nhiều bệnh.
1. Thích đánh đập tất cả chúng sanh.
2. Khuyên người đánh đập
3. Khen ngợi sự đánh đập.
4. Thấy đánh đập thì hoan hỷ.
5. Làm não loạn cha mẹ khiến cha mẹ buồn rầu.
22. 21
6. Não loạn Thánh Hiền.
7. Thấy người oán của mình bị bệnh khổ, trong lòng vô
cùng vui sướng.
8. Thấy người oán của mình lành bệnh, trong lòng
không vui.
9. Đối với bệnh của kẻ oán thù, cho không đúng thuốc
trị bệnh.
10. Đồ ăn cách đêm khó tiêu lại ăn vào.
Từ những nhân trên ta có thể suy luận một chút, do tự tay sát
sanh hoặc ủng hộ người sát sanh… mà những oan gia trái chủ
đã đòi mạng bằng cách tác động vào chuỗi AND của con
người khi nhập thai tái sinh. Sự tác động này đã tạo sự sắp
xếp sai lệch chuỗi AND và chính điều đó khi gặp điều kiện
thích hợp những tế bào ung thư sẽ phát triển.
Nợ máu phải trả bằng máu, nợ thịt phải trả bằng thịt. Khi con
người mắc chứng bệnh này chẳng ai lấy máu lấy thịt của
mình cả. Chính khối u trong cơ thể mình tự ăn mình. Có lẽ đó
chính là các oan gia trái chủ đã đến đòi nợ.
Nhìn cảnh giết chóc sinh vật dã man, người ta liên tưởng đến
những bệnh nhân bị hành hạ đau đớn mất máu,thịt trong
tương lai. Đó là chưa kể đến những con vật sau khi lên được
thân người sẽ tiến hành những cuộc thảm sát ghê gớm đến
mức nào. Lịch sử loài người đã chứng kiến không biến bao
23. 22
nhiêu cuộc thảm sát. Theo Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thì nghiệp sát
chính là nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh hiện nay.
Kinh Ðại Niết Bàn có đoạn: Tất cả chúng sinh đều có Phật
tánh, nhưng bị vô lượng phiền nảo che phủ nên chúng sinh
chẳng nhậnthấy được. Ðối tượng chúng sinh trong giới cấm
sát sinh của đạo Phật đó là loại hữu tình chúng sinh, tức là
những chúng sinh có hệ thần kinh, có tình cảm, biết cảm giác
(đua đớn và vui sướng) như người và các loài động vật trên
bộ, dưới nước và trên không…Từ những thú vật lớn như voi,
hổ cho đến những con và nhỏ bé như kiến, sâu trùng…Ðức
Phật nó, Phật tánh của chúng sinh ở trong thân ngũ ấm, nếu
sát hại ngũ ấm gọi là sát sanh. Chúng ta cũng nên biết rằng
nếu một ai đó làm đau đớn hay hủy mạng sống của chúng ta
thì chúng ta cũng oán hận, cũng đau đớn như vậy.
Nhiều người mắc bệnh nan y thường được mọi người khuyến
nên niệm Phật. Nếu phước tốt thì khỏi bệnh, nếu không vượt
qua được thì hy vọng có thể về Tây Phương Cực lạc hoặc
không bị đoạ vào ba đường ác đạo.
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như một số nước châu Á khác ảnh
hưởng nhiều tư tưởng Phật giáo. Không chỉ những người
theo Phật mà cả người dân bình thường cũng dùng câu niệm
Nam mô A Di Đà Phật thay cho lời chào khi gặp nhau. Khi tâm
không bình yên hay lúc bệnh tật họ cũng niệm Phật để trấn
an tinh thần. A Di Đà Phật trở thành câu niệm ăn sâu vào
trong tâm thức của người dân.
24. 23
Nhiều người mắc bệnh nan y thường được mọi người khuyến
nên niệm Phật. Nếu phước tốt thì khỏi bệnh, nếu không vượt
qua được thì hy vọng có thể về Tây Phương Cực lạc hoặc
không bị đoạ vào ba đường ác đạo.
Thực tế có không ít người đã thoát khỏi các căn bệnh nan y
nhờ niệm Phật. Chuyển tế bào từ ác tính sang lành tính. Cơ cở
của sự chuyển hoá này vẫn được cho là bí ẩn, huyền diệu
không thể giải thích được. Nhưng không phải ai cũng có được
sự may mắn đó. Nhiều người nghi ngờ về sự hiệu nghiệm của
nó. Có người còn cho đó là mê tín dị đoan không có một cơ sở
khoa học nào.
Để mọi người hiểu rõ thêm về sự vi diệu, bất khả tư nghì của
câu niệm đại thần chú A Di Đà Phật, tôi xin được đi sâu thêm
vào phần này.
Qua những điều phân tích ở phần một, ta thấy rõ cơ sở bệnh
tật của con người trong kiếp hiện tại trừ những bệnh cảm
cúm thông thường do thời tiết, chế độ ăn uống…thì đều có
nguyên nhân từ những hành vi tác tạo trong quá khứ. Muốn
thay đổi được quả báo trong đời này con người phải tác động
vào những nhân đã gieo trước đây.
Tư tưởng của nhiều đạo giáo cho rằng, con người sinh ra đều
có một số mệnh nhất định (có thể do trời định). Bộ Kinh dịch
Trung quốc cũng đã đoán số mệnh này thông qua tứ trụ
(năm, tháng, ngày, giờ) sinh của con người. Nho giáo, Khổng
giáo… đều cho rằng số mệnh con người là khó thay đổi, nó
được quy định như một sự việc bất biến mà con người phải
tuân theo.
25. 24
Quan điểm Phật giáo không cho là như vậy. Con người sinh ra
có số mệnh, nhưng không bất biến, vẫn có thể thay đổi mệnh
của mình bằng việc tác động vào quy luật nhân quả. Vì sao
vậy ? Vì chữ mệnh có thể hiểu là đồng nghĩa với chữ nghiệp.
Nghiệp chính là những hành vi từ thân, khẩu, ý tạo nhân
chính cho con người đã gieo từ các kiếp trước, đến kiếp nay
bắt đầu trổ quả.
Người ta có thể tác động thay đổi nhân bằng cách: Làm thui
chột, thêm vào hay bới đi… những gì mà con người đã gieo
trước đây.
Dựa trên cơ sở này mà Phật giáo đã sử dụng các phương cách
tác động vào nhân trong quá khứ đó là trì tụng Kinh Chú, lạy
Phật sám hối nghiệp chướng, không sát sinh, an chay, phóng
sinh các loại sinh vật…
Ba tông phái chính của Phật giáo hiện nay là Mật tông, Thiền
tông, Tịnh độ đều có các phương cách tịnh, trừ tiêu nghiệp
chướng cho các để tử của mình. Vì nếu không tiêu được
nghiệp thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong tiến trình giải
thoát.
Trì tụng Chú, Sám hối Lạy Phật để tiêu nghiệp là một phương
pháp khoa học có cơ sở theo quy luật nhân quả của Pháp
giới (vũ trụ).
Thế giới chúng ta đang sống là thế giới vật chất Vật chất có
quy luật của vật chất. Trong vũ trụ bao la này không chỉ có
một cảnh giới mà ta đang sống Trong tam thiên đại thiên thế
26. 25
giới có đến 10 cảnh giới khác nhau (Phật, Bồ Tát, Bích Chi
Phật, A la hán, Trời, A tu la, người, súc vật, ngạ quỷ, địa ngực).
Những cảnh giới đó cũng có các chuyển động theo quy luật
khác nhau. Sự tương tác giữa các cảnh giới hay còn gọi là cảm
ứng đạo giao giữa con người với các cõi giới khác không theo
quy luật vật lý thông thường.
Thế giới tâm linh chịu sự vận hành theo quy luật của pháp
giới vũ trụ. Nhiều các hiện tượng thuộc về thế giới tâm linh
khoa học vật chất không thể giải thích được. Nhưng không
phải vì thế mà nói nó là mê tín dị đoan, hoang tưởng và
không có cơ sở ….
Trì tụng Kinh Chú Phật thuộc về thế giới tâm linh. Có rất
nhiều bài Chú vi diệu vô cùng. Nó có thể thay đổi được tâm
thức, nghiệp thức và đạt được sự linh ứng không thể nghĩ
bàn. Câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật là một câu đại thần chú
bất khả tư nghì. Nếu dùng tâm để niệm bạn sẽ thấy nó như
một thần lực dẹp được vọng niệm trong đầu.
Khi người niệm đến nhất tâm bất loạn. Niệm mà không niệm,
không niệm mà niệm thì thế giới Chư Phật thập phương cùng
niệm với bạn. Lúc đó cảm giác an lạc xuất hiện một cách diệu
nghiệm. Như vậy, niệm Phật và Sám hối nghiệp chướng hoàn
toàn có cơ sở để chuyển nghiệp, biến khối u ác tính thành
khối u xơ lành tính. Chỉ có những người có niềm tin sâu vào
Phật giáo sẽ hiểu được.
Niệm Phật, sám hối… phát tâm cầu nguyện được vãng sanh
về Cực lạc quốc sau khi rời bỏ báo thân thuộc về pháp môn
27. 26
Tịnh độ Tông. Ba bộ Kinh chính trong pháp môn Tịnh Độ là
Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng thọ và Kinh Quán Vô Lượng
Thọ. Kinh Quán Vô Lượng Thọ là bộ kinh còn có tên là Tịnh
Trừ Nghiệp Chướng Sanh Chư Phật tiền.
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có đoạn: Ðức Phật bảo Tôn
giả A Nan:" Nầy A Nan! Ông thọ trì lời Phật vì đời vị lai tất cả
đại chúng, những người muốn thoát khổ, mà nói pháp quán
địa ấy. Nếu người quán địa ấy thì trừ được tội sanh tử trong
tám mươi ức kiếp, bỏ thân hiện tại, đời khác quyết định thọ
sanh quốc độ thanh tịnh, tâm được không nghi.
…Trong quốc độ Cực Lạc diệu bửu ấy, mỗi mỗi khu vực có
năm trăm ức lầu báu….Trong các âm thanh ấy đều diễn nói
niệm Phật, niệm pháp, niệm Tỳ Kheo Tăng. … Nếu thấy như
vậy thì trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, sau khi
mạng chung, quyết định sanh nước Cực Lạc.
Ngày nay các đệ tự của Phật đã dùng câu niệm Phật A Di Đà
để diệt vọng tưởng và tịnh, trừ nghiệp vãng sanh về Tây
Phương Cực lạc. Câu Niệm A Di Đà Phật đã trở thành một câu
thần chú bất khả tư nghì mà chỉ có những người trì tụng nó
một cách tinh tấn mới hiểu được công năng của nó.
Trong các điển tích của Phật giáo cũng như những câu
chuyện có thật trong lịch sử có rất nhiều chuyện kể về nhiều
người thông qua lá số tử vi đoán biết được số mệnh chết yểu
của mình. Họ đã an chay niệm Phật sám hối nghiệp chướng
phóng sinh làm công đức mà tăng tuổi thọ của mình. Khổng
Minh (được cho là thánh nhân) sau một trận đánh hoả công
bắt Mạnh Hoạch chết hàng vô số sinh mạng. Ông hiều rằng
28. 27
sau trận đánh này tuổi thọ của ông sẽ giảm đi 10 năm. Cuối
cùng ông chết vì lao lực kiệt sức ở 55 tuổi.
Thực tế câu niệm Nam Mô A Mi Đà Phật có công năng rất lớn
và rất hiệu nghiệm trong việc thay đổi tâm thức chuyển
nghiệp chữa bệnh. Nhưng không phải ai cũng có thể thành
công khi niệm Phật hiệu này. Nó cũng khó như việc nhiều
người niệm Phật nhưng không phải ai cũng vãng sanh được
về thế giới Tây Phương Cực lạc. 48 đại nguyện của đức Phật A
Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ là tuyệt đối xác thực, vấn đề
người niệm Phật có đạt đến mức nhất tâm bất loạn hay
không và có thành tâm chí nguyện hay không.
Để kết thúc bài viết tôi xin được đưa lời khai thi của Pháp sư
Tịnh Không khi nói về ý nghĩa của công phu niệm Phật. “Thế
nào gọi là niệm Phật? Ý nghĩa của chữ niệm theo cách chiết tự
là: ở trên có chữ kim, ở dưới có chữ tâm. Như vậy có nghĩa là
gì? Là cái tâm hiện tại vậy. Trong nhà Phật nói một niệm hiện
tiền, cái tâm một niệm hiện tiền đó là niệm. Trong cái tâm một
niệm hiện tiền này có đầy đủ: chân thành – thanh tịnh – bình
đẳng – chánh giác – từ bi; Có cả nhìn sâu – buông xả – tự tại –
tuỳ duyên, đó gọi là niệm Phật. Như vậy, mười điều chân chánh
là Phật. Vì sao gọi là chân thành? Bởi vì trong chân thành có
thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, cho đến nhìn sâu,
buông xả, tự tại, tuỳ duyên, niệm Phật. Cho nên, trong một điều
có đủ chín điều còn lại, kinh Hoa nghiêm nói: một tức nhiều,
nhiều tức một, một và nhiều không phải hai; kinh Duy ma nói:
bất nhị pháp môn.”
www.phattuvietnam.net/4/tamlinh/index.8.html
29. 28
PHÁP SƯ ĐẠO CHỨNG GIẢNG VỀ NIỆM PHẬT CHUYỂN
HÓA TẾ BÀO UNG THƯ
Vướng phải bệnh ung thư hay bệnh nan y nào khác, phải
làm cách nào đây?
Giả sử bạn là một người tin Phật, niệm Phật đã đến trình độ
tâm an nhiên, hoan hỷ thì không cần phải nói gì nữa. Còn
như bạn chưa chuẩn bị gì cả, mà bỗng nhiên phát hiện ra
mình mắc bệnh ung thư, hay một căn bệnh nan y nào khác,
nên trong lòng đau khổ, cuộc sống đầy lo lắng bất an, không
biết phải làm cách nào, vậy chúng ta có thể an ủi, khích lệ lẫn
nhau.
Tôi vốn là một bác sĩ trị bệnh ung thư, mà lại trở thành bệnh
nhân ung thư! Có thể vì lý do này, bạn cho rằng tôi là một bác
sĩ vừa dở lại vừa dốt, bản thân còn lo chưa xong, thì nói chi
làm được việc gì.
Vâng, quả thực là như vậy! Rất nhiều người cười tôi. Tôi cũng
cảm thấy bản thân mình đáng cười, một người bác sĩ ngu dốt!
Song thực ra, trên đời này, chẳng có một bác sĩ nào mà không
mắc bệnh. Càng tìm không ra một bác sĩ nào có thể bảo đảm
rằng mình không bệnh, không chết!
Cho nên, kinh nghiệm mà bản thân tôi trải qua, tuy có một
chút đáng cười, song nếu như bạn từ bi không chê bỏ, xin thử
kiên nhẫn lắng nghe. Cho dù là vài tờ báo cũ rách, cũng có thể
giúp bạn gói chiếc bình hoa xinh đẹp, quý giá của mình, bảo
30. 29
vệ khiến nó không đến nỗi bị va vỡ; một ngọn nến với ánh
sáng mờ nhạt mà lúc bình thường không đáng chú ý, lại có
thể giúp bạn vượt qua một đêm gió bão, tối tăm, lúc không có
điện.
Xin bạn hãy xem tôi như vài tờ báo cũ rách, giúp bạn bảo vệ
chiếc bình hoa quý giá của mình. Tôi cũng rất sẵn lòng làm
một ngọn nến nhỏ, bầu bạn với bạn trong một đêm mưa bão
tối tăm, thiếu ánh đèn soi sáng trong cuộc đời! Đường núi
gập ghềnh tăm tối, nguyện cùng nhau kết bạn đồng hành.
Những năm gần đây, thường có một số bạn mắc bệnh ung
thư, do thấy các giáo sư ở Liên Xã Đài Trung lần lượt xuất
bản những quyển sách nhỏ được ghi lại từ băng giảng của tôi,
nên rất muốn mời tôi cùng thảo luận, học tập, và chia sẻ với
nhau những trăn trở hay tâm đắc của mình sau khi mắc phải
căn bệnh này.
Phần lớn những ai muốn tìm đến tôi, đều là những người đã
từng chịu khổ đau, đày ải: Khổ vì bệnh tật hành hạ ; khổ vì
quá trình trị liệu; khổ vì những người bên cạnh không thông
cảm; khổ vì bản thân lo sợ ám ảnh bởi cái chết; thậm chí có
người còn khổ vì bị người thân, hay người yêu hắt hủi, ruồng
bỏ!
Khi người ta đau khổ, ai cũng hy vọng có người có thể hiểu và
thông cảm nỗi khổ trong lòng mình. Lúc sợ hãi đến nỗi giá
lạnh cả tay chân, ai cũng kỳ vọng có đôi bàn tay Phật ấm áp,
vĩ đại đến cứu độ kịp thời. Lúc vượt qua một đọan đường núi
31. 30
gập ghềnh trong đêm đen, nếu có bạn đồng hành, mình luôn
cảm thấy dễ đi hơn nhiều. Chỉ mong trong lúc bạn đau khổ, lo
buồn, tôi có thể trở thành một người bạn đồng hành, cùng
nhau vượt qua đọan đường nhân sinh nhiều gập ghềnh và
đen tối này! Thoát vòng sợ hãi, hết lòng phụng sự. Học sống
một ngày, biết ơn một ngày; học sống một hôm, biết vui một
hôm. Chúng ta đều là những con người giống nhau, biết khóc,
biết cười, biết đau, biết khổ. Dòng máu ai cũng đỏ, nước mắt
của ai cũng mặn! Cho nên, khi gặp phải cảnh khốn khó phải
bó tay, ai mà không khỏi lo lắng, sợ hãi? Khi biết được trong
thân có một cái bướu “ác tính”, không biết nó sẽ hành hạ
mình như thế nào, hiếm có ai mà không lo sợ! Khi biết rằng
mình sắp chết, lại không biết chết rồi sẽ đi về đâu, ai lại
không lo sợ, bàng hoàng?
Tôi rất biết ơn sự dạy dỗ của chư Phật, Bồ tát, sư trưởng, cha
mẹ và các vị thiện tri thức, đã giúp tôi thoát ra khỏi vũng tối
sợ hãi này. Tôi cũng biết ơn tất cả bệnh nhân trong bệnh viện
trước kia, đã thị hiện dạy cho tôi rất nhiều bài học. Tôi đã học
được làm cách nào để sống qua những ngày tháng như thế
này, và học sống một ngày là biết ơn một ngày; học sống một
hôm là biết vui một hôm.
Tôi cũng từng rất đau khổ; đau khổ đến mức không còn cách
nào chịu đựng được nữa! Nhưng dựa vào đức tin, tôi đã tìm
lại được những ngày tháng biết ơn và an lạc. Đã từng có
người nghe đến đây lắc đầu bảo: Chúng tôi trước khi mắc
bệnh đâu có đức tin như vậy; cũng không biết Phật là gì, làm
sao mà có tâm biết ơn; Lo sợ đến chết đi được, làm sao mà
32. 31
thanh thản như bác sĩ! Xin bác sĩ hãy nói những điều thực
dụng đối với chúng tôi, đừng dính dáng đến kinh Phật, hay
những thuật ngữ khó hiểu.
Cũng từng có bệnh nhân bảo: Tôi hiện giờ còn tâm trí đâu mà
nghiên cứu kinh Phật. Trong lòng lo lắng, mỗi ngày tôi đều
tra cứu tài liệu y học, song càng xem lại càng sợ hãi! Có người
khuyên nên đọc kinh Phật, nhưng tâm tôi luôn rối rắm, đọc
thứ gì cũng không vô!
Những lời nói này đã phản ánh thực đúng tâm trạng khốn
khó của tất cả người bệnh nói chung.
Bản thân tôi không có công phu, cũng không có tư cách, khả
năng giảng nói kinh Phật. Tôi chỉ có một số kinh nghiệm qua
sự thấy nghe của mình, từ đó rút ra được những bài học và
sức mạnh bổ ích, giúp mình tháo gỡ những vướng mắc trong
tâm. Tuy những kinh nghiệm này rất nghèo nàn, song cũng có
thể chia sẻ cùng bạn. Biết đâu căn cơ của bạn tốt, nhờ đó mà
có thể sống vui vẻ, thanh thản hơn tôi nhiều!
Vui vẻ không buồn lo, nên gọi là Phật.
Tôi rất thích lời giải thích Phật là gì của một vị Thiền sư. Đó là
Ngài Đạo Tín. Ngài bảo: Vui vẻ không buồn lo, nên gọi là Phật.
Trước hết, tôi xin kể ra đây một câu chuyện, hy vọng bạn có
thể cảm nhận được đạo lý chứa đựng trong đó. Lúc tôi còn là
sinh viên ở Học Viện Y Học, năm thứ hai phải học môn giải
33. 32
phẫu, nghiên cứu cấu tạo toàn bộ xương người. Ví dụ, miếng
xương nào có những lỗ gì, có những mạch máu và dây thần
kinh nào đi qua lỗ đó…, đều phải ghi nhớ kỹ không được sai
sót. Thi rất là khó, không ít sinh viên bị rớt ở môn này. Tháng
muời năm đó có kỳ nghỉ lễ, tôi tranh thủ thời gian trở về quê
ở Đài Nam vài ngày. Nhưng sau kỳ nghỉ là kỳ thi, cho nên tuy
về quê, tôi vẫn đem xương sọ theo học. Chúng tôi học đều
dùng xương sọ người thật. Tôi đem cái xương sọ và vài
nhánh xương tương đối phức tạp, đựng trong một túi xách
đơn giản, ôm trước ngực, cùng mọi người chen nhau bước
lên xe lửa trở về quê. Lúc đó, tôi chen tới chen lui trong dòng
người đông đảo. Không ai biết trong túi đựng gì, nên ai cũng
thản nhiên và không có chuyện gì xảy ra. Sau này Theo Cảnh
Đừc Truyền Đăng Lục, Tứ Tổ Đạo Tín Khai thị cho Pháp Dung,
hay còn được gọi là Lại Dung (ông Pháp Dung lười):
“Đi đứng nằm ngồi, chạm mặt gặp duyên đều là diệu dụng
của Phật”. (T51, no. 2076, p.227, a26-27) Dịch giả chú. 6tôi
mới biết, nếu lúc đó mình đưa xương sọ và mấy khúc xương
ra cho mọi người thấy, rồi bảo đó là xương thật, có lẽ không
ai dám đứng gần, không chừng còn nhường chỗ cho mình
ngồi nữa!
Thực ra, lúc đó tôi cảm thấy việc này rất bình thường. Bởi vì
cha tôi là bác sĩ, trong nhà ai cũng nghĩ đó là công cụ để dạy
học mà thôi. Hôm sau có một ngừơi chị họ lớn hơn tôi hai
tuổi đến chơi.Chị trông thấy tôi ngồi cầm xương sọ, đối chiếu
với hình vẽ trên sách, đọc lẫm nhẫm tiếng Latin, nên hiếu kỳ
đến chơi. Chị tươi cười cùng xem với tôi, lại còn cầm xương
34. 33
sọ lên, đùa bảo: “À, thì ra hai con mắt là hai cái lỗ sâu hoắm,
còn lỗ mũi lại bằng phẳng, trông thực dễ thương!”
Chị vừa xem vừa cười. Không biết lúc đó nghĩ sao tôi lại nói:
“Những người này hiến xương cho chúng ta nghiên cứu, để
sau này mình có thể cứu người, cho nên phải tỏ lòng kính
trọng và biết ơn…”
Tôi còn chưa nói xong, chị bỗng thét lên một tiếng, quăng
xương sọ đang cầm trên tay ra thực xa, khóc mếu máo, trách
tôi: “Sao không nói sớm đó là xương người thật?”
Tôi vội vã xin lỗi, rồi đi nhặt lại xương sọ. Tôi nhìn thấy mặt
chị xám xanh, nước mắt ràn rụa, đang ngồi run rẩy bên cạnh
đàn dương cầm. Chị lại nhìn đôi tay của mình, một đôi tay
vừa sờ qua xương người chết! Dường như chị rất ghê sợ nó,
không biết phải làm sao! Bỏ đi không được, để đó lại thì ghê!
Tôi thấy vậy mới nói: “Xin lỗi, thì ra chị không biết đó là
xương người thật. Nhưng không phải lúc nãy chị đã xem rất
hứng thú hay sao? Xương người cũng không có gì đáng sợ!
Tụi em mỗi ngày phải ở chung với xương người đễ nghiên
cứu. Chỉ cần có tâm cung kính là được.”
Tôi lại còn phải nói nhiều và rất nhiều để an ủi chị. Sau đó chị
mới hết khóc, cười nói vui vẻ trở lại. Nhưng từ đó về sau, chị
không còn dám sờ đến mấy khúc xương này nữa!
Vì sao tôi phải kể lể dài dòng như vậy?
35. 34
Bởi vì câu chuyện này đã cho bản thân tôi một bài học lớn.
Đó là: con người thực ra đều sống với thế giới “quan
niệm” của mình! Sọ người trước đó và sau không có gì khác
nhau, nhưng thái độ tâm lý của chị tôi lại thay đổi một trời
một vực! Thì ra, trước đó chị cho rằng nó chỉ là cái xương sọ
giả, một công cụ dạy học làm bằng nhựa, nên không chút sợ
hãi, lại thích thú vưa xem vừa cười. Sau đó chị lại cho rằng:
“Thì ra đây là xương của người chết, thực là kinh khủng!” cho
nên mới sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch, vội quăng chiếc sọ
đó ra xa!
Cho dù là xương sọ thực, nếu trong quan niệm của mình cho
nó là giả, thì cũng không có gì đáng sợ; ta có thể chơi đùa với
nó một cách tự nhiên, vui vẻ. Khi mà trong quan niệm, ta lại
đem xương sọ người đơn thuần liên tưởng đến những câu
chuyện ma quỷ mà lúc nhỏ mình bị hù dọa hay tưởng tượng,
thì nó sẽ trở thành một thứ hết sức kinh khủng!
Đối với người không có liên tưởng viễn vông, xương người là
thứ rất bình thường, bởi vì tất cả chúng ta ai cũng có một bộ!
Bộ xương của mình được bao bọc bên ngoài bởi lớp thịt da,
chẳng phải rất bình thường, không có chút gì đáng sợ hay
sao?
Nhưng người chị họ của tôi khi nghĩ nó là giả, thì vui đùa hết
sức tự nhiên; đến khi biết nó là xương người, lại sợ đến phát
khóc, trống ngực đánh dồn dập. Đây là chị bị “quan niệm” và
óc tưởng tượng quá đáng của mình khống chế mới khiến như
vậy.
36. 35
Chúng ta không nên cười chị. Vì thực ra mình cũng không
khác gì. Chúng ta đều bị một số quan niệm và óc tưởng tượng
lừa dối. Đây có thể gọi là: Sắc chẳng mê người, người tự mê;
xương không đáng sợ, người tự sợ!
Có rất nhiều lời nói, bản thân nó không làm người ta giận,
nhưng người nghe lại tự mình nổi giận. Cũng vậy, ung thư
không làm người ta sợ, mà người ta lại tự sợ. Cái sợ này, có
thể khiến người đang không việc gì mà tim bỗng đập dồn
dập, vốn khỏe mạnh mà lập tức suy sụp cả người!
Trạng thái tâm lý, ý niệm có tính quyết định, có sức mạnh
không thể nghĩ bàn. Khi tôi còn làm việc trong bệnh viện,
từng phát hiện một sự thật như sau. Bệnh nhân ung thư trị
liệu bằng phóng xạ hay hoá chất, do đó huyết cầu của họ phần
lớn sẽ giảm. Nói chung, người bệnh vốn không biết số lượng
huyết cầu mình bao nhiêu, và số lượng nhiều ít có ý nghĩa
như thế nào, nhưng họ đều quan niệm sốhuyết cầu càng giảm
thì càng không tốt. Bệnh viện có tiêu chuẩn, số lượng huyết
cầu giảm đến mức độ nào thì phải tạm ngưng điều trị. Có một
số người bệnh vì bạch huyết cầu giảm thấp, nên tạm thời
nghỉ ngơi vài ngày.
Khi họ ở nhà cảm thấy sức khoẻ khá hơn, liền trở lại bệnh
viện tái khám. Phần lớn những người này đều cho rằng huyết
cầu của mình nhất định sẽ tăng lên. Nên khi bước vào phòng
khám, họ thường tươi cười và nói với tôi: “Mấy hôm nay khá
lên nhiều lắm, lại ăn ngon miệng!” Họ cũng vui vẻ đi thử máu
lại, rồi đem phiếu xét nghiệm về cho tôi xem. Lúc tôi đang coi
37. 36
pjiếu xét nghiệm, người bệnh đều hỏi: “Bạch huyết cầu của
tôi bao nhiêu?” Nếu như tôi nói ra số liệu thực sự ghi trên
phiếu, có thấp hơn so với lần trước, là điều mà họ không ngờ
đến, thì dường như vẻ mặt ai cũng trầm xuống, tay chân như
thoát lực, giọng nói yếu ớt: “Sao lại thấp nhưvậy?” Một lát
nữa, họ có thể còn suy sụp đến mức không đủ sức đi về nhà!
Chúng ta thử nghĩ xem, cũng là một thân này, mà trước sau
chỉ có một giây mà đã khác nhau như trời vực! Chỉ cần nghe
đến con số huyết cầu mà người ta không ngờ đến, thì tâm liền
thất vọng và lo lắng! Tình trạng sức khoẻ mà trước đây mình
cho là đã khá hơn bỗng lập tức trở nên suy sụp, yếu đuối! Nó
phác tác còn nhanh hơn bất cứ thuốc độc nào!
Từ chỗ này chúng ta có thể nhận ra một đạo lý. Đó là tâm
niệm của con người có tính quyết định và sức mạnh không
thể nghĩ bàn!
Tâm lý ảnh hưởng đến công năng miễn dịch.
Thí nghiệm khoa học cho thấy, sự thay đổi trạng thái tâm lý
quả thực có thể sinh ra một số vật chất ảnh hưởng đến sinh
lý. Ví dụ lúc chúng ta nóng giận, trong cơ thể sẽ sinh ra độc tố
rất giống hay tương đồng với nọc rắn. May mà gan của con
người có công năng giải độc, nên những chất độc do nóng
giận sinh ra này không đến nỗi khiến chúng ta mất mạng!
Nếu công năng giải độc của ai yếu kém, hoặc cao huyết áp,
hay người mắc bệnh tim, thì chất độc do nóng giận gây ra đủ
để làm người đó mất mạng. Cho nên, việc “giải độc” triệt để
38. 37
cần phải ngay “tâm niệm” của mình mà hạ thủ công phu. Tâm
niệm thay đổi, thân thể cũng thay đổi theo.
Viện Nghiên Cứu Ung Thư Quốc Gia ở Mỹ có một công trình
nghiên cứu cho thấy: Nhà nghiên cứu có thể đoán trước đúng
một trăm phần trăm người bệnh có chiến thắng được bệnh
ung thư trong vòng từ một đến hai tháng hay không. Điều mà
khoa học căn cứ không phải là khối u lớn hay nhỏ hay mọc ở
chỗ nào, cũng không phải căn cứ vào kết quả xét nghiệm theo
máy móc, càng không phải là số liệu có được từ kết quả thử
máu, mà hoàn toàn căn cứ vào “trạng thái tâm lý” của người
bệnh! Tâm mới chính là gốc rễ của vấn đề.
Có đến hàng ngàn công trình nghiên cứu cho thấy, do chịu áp
lực nên khiến cho tuyến ngực teo lại, có nghĩa là công năng
miễn dịch trở nên suy yếu. Theo kết quả thí nghiệm, những
trạng thái tâm lý xấu như nóng giận, lo buồn v.v…. đều có thể
đưa đến sự suy yếu công năng miễn dịch, khiến dễ sinh bệnh
ung thư và các bệnh truyền nhiễm khác, cũng như khiến việc
điều trị mất đi công hiệu. (Bởi vì cần phải thông qua công
năng miễn dịch của bản thân người bệnh, thì việc trị liệu mới
có hiệu quả).
Điều này cho thấy, tâm niệm có sức mạnh vô cùng. Cho nên
cần phải đem tâm niệm của mình chuyển thành tâm niệm
Phật. Phật chính là tâm sáng suốt, an vui, không có lo buồn.
Nếu niệm Phật, tâm tự nhiên sẽ trởnên sáng suốt, an lạc và có
sức mạnh. Tâm niệm Phật thì vừa có thể buông xả những áp
39. 38
lực, vừa có thể tránh được những độc tố sinh ra bởi những
tâm lý xấu, lại vừa tăng trưởng sức miễn dịch.
Chúng ta cần phải biết rằng, áp lực là do tâm mình tự “tiếp
nhận” lấy. Chỉ có những việc mà mình quá quan tâm, vướng
mắc, mới có sức đè nặng lên tâm lý. Nếu thay đổi tâm niệm,
không nghĩ rằng đó là gánh nặng, thì sức ép tự nhiên không
còn tồn tại và mình cũng không phải “tiếp nhận” lấy gánh
nặng này. Nếu chúng ta quyết tâm chỉ tiếp nhận ánh sáng của
Phật (niệm Phật), thì không còn có tâm nào để tiếp nhận
gánh nặng tâm lý đó nữa. Cho nên cần phải luyện tập: “Nhận
hay không nhận là do tự tâm mình quyết định.”
Vạn pháp do tâm tạo, niệm Phật an vui nhất.
Nghiên cứu khoa học cho thấy, khi người ta vui vẻ, bộ não sẽ
tiết ra chất hoá học, như chất Endorphins và Enkephalins.
Chất Endorphins giúp tăng sản lượng tế bào T (lymphocyte),
giống như tăng thêm số lượng cảnh vệ, hay quân đội. Còn
chất Enkephalins giúp tế bào T tăng thêm sức mạnh để chiến
thắng tế bào ung thư, đồng thời giúp tế bào T trở nên linh
hoạt, có hiệu quả hơn.
Cho nên “tâm niệm” chính là vị tổng chỉ huy của đội quân
miễn dịch. Đây là kết quả thực nghiệm khoa học, cũng là
chứng minh lời đức Phật dạy: “Vạn pháp duy tâm tạo.”
Người niệm Phật nguyện sinh về thế giới Cực Lạc, chính là
nguyện: Không có các khổ, chỉ hưởng an lạc; hay nói khác đi,
40. 39
chính là nguyện khiến tâm luôn ở trong trạng thái an lạc, vui
vẻ. Phật A Di Đà còn được gọi là Phật Hoan Hỉ Quang, nên
thường niệm Phật chính là thường hoan hỉ, thường tạo ra tất
cả những chất tăng thêm sức miễn dịch. Cho nên đức Phật
được xưng là Vô Thượng Y Vương, tức là vị Thầy thuốc vua
của tất cảthầy thuốc! Còn hoan hỉ niệm Phật chính là thuốc bổ
tốt nhất!
Một tử tù bị lời nói, óc tưởng tượng doạ chết.
Nhà tâm lý học từng làm một thí nghiệm đối với một người
tử tù như sau. Họ bịt mắt một người tử tội và để anh nằm
trên một chiếc giường, rồi bảo: “Chúng tôi sẽ cắt đứt gân máu
nơi cổ tay anh, máu sẽ chảy ra từng giọt, từng giọt… Đến khi
máu chảy hết, anh sẽ chết!”
Nói xong, họ giả vờ dùng một vật gì đó gạch mạnh lên cổ tay
anh ta, song thực ra không có rách da. Kế đó nhà tâm lý lại
dùng nước mà nhiệt độ tương đồng với nhiệt độ máu, nhễu
từng giọt, từng giọt lên tay anh ta, khiến anh có cảm giác thực
sự là dòng máu ấm của mình đang chảy. Họ lại dùng một
chiếc thùng thiếc đặt phía 8dưới cánh tay để hứng nước,
khiến anh nghe được tiếng tí tách như máu đang nhỏ. Họ lại
bảo: “Máu của anh đang chảy ra từng giọt một, chảy một lát
sẽ hết máu. Bây giờ chỉ còn lại vài phút, thời gian sắp đến
rồi!”
Quả nhiên thời gian vừa đến, người tử tù đã thực sự chết đi vì
sợ!
41. 40
Thực ra, anh chẳng có chảy một giọt máu nào, cũng không bị
rách một chút da, mà hoàn toàn bị lời nói và cảnh tưởng
tượng lừa dối mà chết đi tức tưởi. Đây là một thí nghiệm
tương đối tàn nhẫn, chúng ta tạm gác qua vấn đề này có nhân
đạo hay không, nhưng nó đã chỉ ra một sự thực: Tâm niệm và
lòng tin có thể quyết định vận mệnh của chúng ta! Người tử
tội này có thể bảo là một vị Bồ tát! Tuy rằng anh ta bị dọa sợ
đến chết, nhưng kết quả cuộc thí nghiệm này giúp chúng ta
phần nào hiểu và tin được đạo lý “tất cả do tâm tạo” của nhà
Phật. Tôi thường kể cho người bệnh nghe về cuộc thí nghiệm
này. Trước đó họ rất lo lắng, buồn khổ, nhưng sau khi thực sự
hiểu được đạo lý này, họ biết rằng có thể dùng tâm niệm
mình để thay đổi vận mệnh. Cho nên, họ không còn tự dọa lấy
mình, dùng óc tưởng tượng hành hạ bản thân, oan uổng rước
lấy lo sợ, đau khổ.
Khơi dậy lòng tin, tế bào sẽ phấn chấn, an vui.
Tôi còn nhớ, lúc nhỏ đã đọc qua một bài tập đọc, được phiên
dịch từ tiếng nước ngoài. Sau khi đọc xong, tôi cảm động đến
mức rơi lệ, mãi đến bây giờ vẫn còn ấn tượng rất sâu đậm.
Bài văn kể lại câu chuyện một người bệnh nặng, cảm thấy
mình sắp chết. Mỗi ngày người đó nằm trên giường bệnh
nhìn ra cửa sổ. Lúc đó mùa thu sắp qua, chuẩn bị bước vào
mùa đông. Mùa đông ở nước ngoài rất lạnh, lá cây rơi rụng
trơ trụi.
42. 41
Người bệnh nhìn lá rụng trong lòng rất cảm thương. Một
hôm, người bệnh nằm mơ thấy có người bảo: “Khi những
chiếc lá trên cây bên ngoài cửa sổ hoàn toàn rụng hết, sinh
mệnh của anh cũng sẽ kết thúc.” Khi tỉnh dậy, nhớ đến giấc
mộng đêm qua, anh càng bi quan. Mỗi ngày anh nhìn những
chiếc lá rơi rụng mà lòng thấp thỏm âu lo, sức khoẻ sa sút.
Thực vậy, mỗi một chiếc lá rụng là tăng thêm một phần sợ
hãi, và giảm đi một phần sức khoẻ của anh.
Có một vị bác sĩ nhân hậu đến thăm, nhận thấy vẻ bi thương
của anh mới dọ hỏi và biết được đầu đuôi câu chuyện. Nghe
xong, vị bác sĩ này nghĩ cách giúp đỡ. Sắp đến ngày có tuyết
rơi, một buổi tối trời nổi cơn gió mạnh, giá rét căm căm,
dường như tất cả những chiếc lá trên cây đều rơi rụng cả.
Trong đêm tối người bệnh tuy không trông thấy bên ngoài,
nhưng trong lòng đoan chắc rằng không còn chiếc lá nào trên
cành, trong tâm hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng sáng sớm hôm
sau, người bác sĩ nhân hậu đó lại đến, chỉ cội cây ngoài cửa sổ
và bảo: “Anh xem, lá trên cây đều rơi rụng cả, song có một
cành lá vẫn còn kia. Cơn gió mạnh tối qua dù có hung dữ đến
đâu, cũng không làm nó rơi rụng. Đây thực là một phép mầu.
Điều này cho thấy bệnh tình của anh nhất định cũng gặp
được phép mầu, sẽ bình phục trở lại!”
Người bệnh nhìn ra ngoài khung cửa sổ, quả nhiên lá cây đều
rụng sạch, chỉ còn lại những cành cây trơ trụi, khẳng khiu.
Nhưng kỳ lạ sao, nếu nhìn kỹ, vẫn còn vài chiếc lá nguyên vẹn
trên một cành cây. Nhìn thấy cảnh này, lại nghe lời bác sĩ
43. 42
khích lệ, tinh thần anh phấn chấn trở lại, cả người sung
sướng, không bao lâu hết bệnh, trở lại bình thường.
Các bạn có biết vì sao câu chuyện này khiến tôi cảm động và
có ấn tượng sâu sắc hay không? Bởi vì những chiếc lá còn lại
trên cành trải qua cơn giông bão, chính được vị bác sĩ đó vào
lúc giữa đêm leo lên cây, tìm cách dán chặt chúng vào cành,
nhằm để an ủi, khích lệ, giúp người bệnh có niềm tin, hy
vọng, và vui vẻsống. Những chiếc lá không rụng này tuy giả,
nhưng lòng tin của người bệnh là thực, và sức mạnh của nó
sinh ra cũng là sự thực! Từ thực tế này, chúng ta có thể hiểu
được “niềm tin” có sức mạnh mang tính quyết định! Chúng ta
có thể quyết định thời gian còn lại của đời mình phải sống an
lạc, vui vẻ, không bị bệnh tật ảnh hưởng! Đây là điều không ai
có thể ngăn cản được chúng ta!
Bào thai là khối u lớn nhất trong cơ thể. Tôi từng đọc qua một
câu trong sách y học về khoa phụ sản: “Thai nhi là khối u lớn
nhất trong cơ thể!”
Quả thực, thai nhi trong bụng mẹ phân hoá, càng lúc càng lớn,
người mẹ không thể nào khống chế được. Ngay cả nhóm máu
của thai nhi cũng có thể khác với mẹ. Người mang thai là
người mang trong người một sinh mệnh khác mà mình
không thể khống chế. Trong sách còn bảo đó là khối u lớn
nhất trong thân thể con người! Nhưng tâm lý của người mẹ
lại không sợ hãi, phần lớn còn rất vui sướng. Đây là vì người
mẹ nhìn thấy phần lớn người có mang đều không sao cả, cho
nên tự nhiên không sợ hãi. Giá như, nhóm những người mắc
44. 43
bệnh ung thư như chúng ta ai cũng có thể sống vui vẻ, an lạc
thì những người sau này mắc căn bệnh này cũng không có lo
lắng, sợ hãi. Không ai quy định mắc bệnh ung thư là phải sầu
thương ủ rủ, buồn khổ khóc lóc. Chúng ta có thể phấn chấn
tinh thần, sống một cách thoải mái, tự tại.
Bài học từ cây đu đủ.
Chỗ tôi ở có trồng một cây đu đủ. Cây đu đủ này từng là vị bác
sĩ và cũng là thầy của tôi. Sao lại nói như vậy? Có một dạo, dạ
dày và ruột của tôi bị khối u ung thư bức ép, cho nên ăn uống
đều khó khăn, người trở nên gầy ốm. Một hôm tôi tình cờ
trông thấy cây đu đủ này. Thực vô cùng kinh ngạc! Thân cây
đu đủ còn nhỏ hơn ống quyển chân tôi, chỉ lớn hơn bắp tay
của tôi một chút. Lại nữa, nó cũng không cao, có thể nói đó là
một cây đu đủ vừa thấp lại vừa nhỏ. Nhưng trên thân của nó
lại trổ ra rất nhiều trái, đeo bám đến mấy lớp, ít lắm cũng
hơn ba mươi trái! Mỗi trái đu đủ đều lớn hơn khối u ung thư
của tôi. Nhưng cây đu đủ này không vì những trái vừa nhiều,
vừa to, vừa nặng trên thân mà ngã xuống! Thậm chí nó còn
mọc rất thẳng, không nghiêng một chút nào. Tôi nhìn nó mà
lòng vô cùng xúc động trước sức sống kiên cường, nên bất
giác nước mắt lưng tròng, tỏ lòng tôn kính bảo: “Đu đủ ơi,
ngươi thực là vị thầy của ta, ta sẽ học hỏi nơi ngươi.”
Muốn thực sự học được như cây đu đủ cũng không phải là
điều dễ dàng. Nhưng chúng ta chẳng lẽ lại không bằng cây đu
đủ vừa thấp vừa bé đó sao? Lẽ nào chúng ta lại yếu đuối như
vậy? Từng có một vị dược sĩ trẻ tuổi mắc bệnh ung thư rất bi
45. 44
quan và cuộc sống của cô cũng trở nên ảm đạm như ngày tận
thế! Song thực ra cô không đến nỗi gì cho lắm. Nếu không nói
ra, bạn cũg không biết cô ta mắc bệnh. Bên ngoài cô mập mạp
hồng hào, sắc mặt cũng không đến đỗi, nhưng bởi vì tinh thần
cô ta rất khổ, nên giáo sư Viện Y Học đưa cô đến tìm tôi để
cùng khích lệ lẫn nhau. Lúc cô đến, tôi đưa cô đi thăm cây đu
đủ, nói với cô về bài học mà cây đu đủđã dạy cho tôi. Cô nghe
xong cảm động đến rơi nước mắt. Chúng tôi cùng nhau chắp
tay hướng về cây đu đủ tỏlòng kính trọng, phát tâm học tập
đức tính kiên cường của nó. Trái đu đủ mọc từ thân cây ra, đã
có thể mọc ra thì cũng có thể gánh vác! Bướu từ thân chúng
ta mọc ra, thì chúng ta cũng có thể chịu đựng, xử lý thoả
đáng. Đây là niềm tin căn bản!
Tiềm năng cơ thể con người là vô tận. Thân thể của chúng ta
vốn chỉ là một cái trứng thụ tinh bé tí trong lòng mẹ, thế mà
nó đã phát triển thành đủ mọi giác quan. Những giác quan
này tự mình lớn lên và đều có công năng khác nhau, có thể
nói đó là một điều không thể nghĩ bàn! Cho dù bạn không
quan tâm đến, da thịt bạn vẫn đổi mới mỗi ngày. Người
không học ngành y có lẽ không biết rằng trong thân mình có
những cơ quan nào. Nhưng tuy bạn không biết, chúng từnhỏ
vẫn giúp bạn làm rất nhiều việc tốt. Tiềm lực của chúng thật
vô cùng. Trước đây, tôi được nghe thầy Tiêu Vũ Dung giảng
Phật Pháp. Người dạy chúng tôi phải có tâm biết ơn đối với
cơ thể. Ngài đã nói đến một việc rất lý thú. Đó là lúc chúng ta
dùng cơm, chén đũa dính dầu mỡ nếu không dùng nước rửa
chén để rửa thì không sao sạch được. Nhưng dạ dày và ruột
chúng ta ăn biết bao nhiêu thứ dầu mỡ mà trước giờ mình
46. 45
đâu có cần nước rửa chén hay bất cứ thuốc tẩy rửa nào! Ruột
và dạ dày tự nó biết xử lý mà không cần chúng ta dạy dỗ, can
thiệp! Vậy bạn nói xem, có phải chúng ta có được một thân
thểrất giỏi giang, rất khéo léo hay không? Nó thực sự có Phật
tánh, lại còn có đầy đủ tiềm năng lớn mạnh trong đó.
Cho nên chúng ta phải gắng sức khai phát, vận dụng tiềm
năng này, mà không phải chỉ biết trách móc, chà đạp nó.
Thông thường, người ta hay: lúc chưa bệnh sống bê bối, vô
độ, đó là chà đạp thân thể; lúc có bệnh lại trách móc nó!
Ông chủ nên có lòng từ bi và biết ơn.
Bạn thấy, tim của mình đã đập không ngừng từ nhỏ. Lúc
chúng ta ngủ nó cũng không ngủ, vẫn tiếp tục đập, chưa từng
xin chúng ta nghỉ phép một ngày, cũng như chưa từng có
đình công! Nói ra, chúng rất cực khổ. Hiện nay, tuyệt đối tìm
không ra một nhân viên nào làm việc hết lòng, hết sức như
vậy. Cho nên khi các cơ quan trong thân mình thỉnh thỏang
có mệt, có bệnh, chúng ta cũng nên cảm thông nỗi cực khổ mà
đối xử với chúng với thái độ từ bi và biết ơn, cũng như cho
chúng có cơ hội điều chỉnh và khôi phục. Chúng ta không nên
một mực trách móc, bài xích, dường như có mối thù không
đội trời chung với chúng, cần phải lập tức cắt bỏ, quyết phải
tiêu diệt không chút lưu tình! Nếu bướu mọc nơi mà mình
không thể cắt, không thể tiêu diệtngay lập tức, thì mình lại lo
sợ, bực bội, trách móc. Chúng ta thử nghĩ: Giả như bình
thường có một ông chủ đối với nhân viên của mình không
chút quan tâm, giúp đỡ, một khi nhân viên có chút gì sai lầm,
47. 46
lại muốn lập tức khai trừ! Bạn bảo xem ông chủ đó có quá
đáng hay không? Tin rằng ông chủ mà như vậy thì nhân viên
đều phản lại!
Một ngày trước và sau khi phát hiện ung thư.
Chúng ta thử nghĩ xem, một ngày trước khi phát hiện ra ung
bướu, thì khối u đó vẫn tồn tại trong thân, vả lại kích thước
lớn nhỏ vẫn giống nhau. Lúc ấy, mình mang khối u đi khắp
nơi, làm việc và cười nói với mọi người. Vậy tại sao một khi
trong đầu mình có ý niệm: “Tôi mắc bệnh ung thư,” thì thế
giới trở nên mưa gió, tối tăm, không còn cười tươi được nữa!
Chúng ta ai cũng biết, mỗi người khi sinh ra đều chú định sẵn
có ngày sinh mệnh kết thúc. Đây không phải là điều mà khi
mắc bệnh ung thư mới biết. Nếu mình vì sinh mệnh sẽ kết
thúc mà lo sợ, thì lẽ ra từ khi sinh ra đã bắt đầu lo sợ rồi, mà
không phải đợi khi bị tuyên bố là mắc bệnh ung thư mới lo
sợ!
Có thể chuyển hóa tế bào sai lầm.
Thực ra tế bào ung thư vốn cũng là những tế bào tốt, như
những công dân tốt, trong thân thể của ta. Do phải chịu bức
ép, tổn thương, đả kích nên chúng mới bất đắc dĩ thay đổi,
phân hóa thành những tế bào sai lầm. Những tế bào sai lầm
này sẽ bị thân thể chúng ta quản chế. Bởi vì thân thể của
chúng ta giống như một tổ chức xã hội, nó có hệ thống cảnh
sát, đối với những tế bào mọc sai, thì bạch huyết cầu,
lymphocyte của chúng ta có công năng phát hiện, quản chế và
48. 47
điều chỉnh. Giả sử lúc thể lực chúng ta suy yếu, cuộc sống
không điều độ, thì 10 công năng của hệ thống cảnh sát (hệ
thống miễn dịch) sẽ trở nên suy yếu, khiến những tế bào mọc
sai không được điều chỉnh, không biết cải đổi lỗi lầm. Chính
những tế bào sai lầm này lại sinh ra những tế bào sai lầm đời
thứ hai. Cứ như vậy tiếp tục sinh sản, dần dà chúng sẽ biến
thành một đòan thể tự phát triển, đây chính là “ung bướu.”
Điều này giống như một đứa trẻ tốt, nhưng gặp phải hoàn
cảnh xấu, thì nó cũng bị ảnh hưởng, tâm lý tốt sẽ dần dần
thay đổi, trở nên xấu tính, rồi đi gia nhập băng đảng, chiếm
cứ địa bàn, gây gỗ đánh nhau. Đây giống như là ung bướu.
Nhưng ngược lại, đứa bé biến chất thành xấu đó cũng có thể
trở lại người tốt! Chỉ cần chúng ta hiểu biết, giúp nó loại bỏ
những nguyên nhân, điều kiện khiến nó hư đốn. Đối với đứa
bé đó, có người chủ trương cứ giết phứt đi là giải quyết được
vấn đề. Song giết nó đi rồi sau đó có thực sự đã giải quyết
được vấn đề hay không? Nếu hoàn cảnh xấu của toàn xã hội
không thay đổi, thì sau này những đứa trẻ tốt khác cũng lại
trở thành những đứa bé xấu. Vậy rốt cuộc phải giết đến mức
độ nào đây?
Đứa bé trở nên xấu là có nguyên nhân. Chúng ta cần phải
hiểu rõ và loại trừ nguyên nhân đó, đồng thời cảm hoá, thì
đứa trẻ sẽ trở nên tốt. Tế bào chúng ta cũng giống như vậy,
không phải chỉ cần giải phẫu, giết sạch tất cả là được!
49. 48
Những người thuộc băng đảng có thể sửa đổi tu thành Phật,
thì tế bào ung thư cũng có thể chuyển hoá thành tế bào lành
mạnh.
Tôi từng quen biết một số người xuất thân từ băng đảng, lại
còn giao tiếp với họ rất vui vẻ. Tôi cũng tôn trọng họ. Họ
không phải đều là xấu cả, thậm chí có người còn rất ưu tú,
biết nhạy cảm với việc thiện. Chẳng qua trong một lúc nào đó
do nhân duyên không tốt, họ có mối khổ tâm bất đắc dĩ, nhất
thời không thể giải quyết, nên đã đi một bước sai lầm. Nếu có
ai thực sự cảm thông cho lập trường và mối khổ tâm của họ,
thì trong một niệm họ cũng có thể trở lại là người tốt. Sau khi
Phật tánh thiện lương của họ được khai phát, thậm chí họ còn
vượt qua một số người bình thường. Chúng ta biết rằng nhân
duyên là cái có thể thay đổi. Tế bào cũng giống như vậy, có
thể biến thành xấu, mà cũng có thể trở nên tốt. Tế bào ung
thư có thể trở thành tế bào bình thường.
Y học có một thí nghiệm về việc cấy nuôi tế bào ung thư. Lúc
mà điều kiện được khống chế tốt, quả thực có thể khiến tế
bào ung thư trở nên bình thường, rồi biến thành tế bào tốt.
Chúng ta cần phải lắng lòng lại để phản tỉnh về nguyên nhân
khiến những tế bào này trở nên xấu, rồi cố gắng dứt trừ
nguyên nhân đó. Khi nhân duyên thay đổi, tế bào có thể trở
nên tốt, hay ít ra chúng cũng không phát triển thêm. Một sinh
mệnh khác, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta. Huống chi là
tế bào trong tự thể.Chúng ta thử nghĩ xem, tế bào ung thư của
mình có lớn như con mèo nhỏ hay không? Con chó hay con
mèo nhỏ là một sinh mệnh khác, là một nhóm tế bào khác.
50. 49
Giả như một con chó nhỏ hay con mèo nhỏ leo lên mình
chúng ta, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta, huống chi ung
bướu là một nhóm tế bào trong thân thể của mình. Nó lại còn
nhỏ hơn con chó nhỏ, hay con mèo nhỏ. Vậy chúng ta có nhất
thiết phải sợ nó không? Cho dù gặp phải rắn độc cũng không
nhất thiết phải sợ! Ung bướu cũng chưa chắc gây cho chúng
ta tai hại gì! Rắn mắt kính còn có thể cảm nhận lòng thành
sám hối niệm Phật, huống chi là tế bào của mình.
Chúng tôi có một vị thầy, là người hết sức chân thật. Một hôm
vị thầy đó đi xe máy trên đường núi, do nhìn không rõ, thấy
một sợi dây nằm vắt ngang qua đường, liền cho xe cán qua
phần đuôi của nó. Lúc đó mới phát hiện đó là con rắn, một
con rắn mắt kính rất độc! Thầy không vì sợ mà cho xe chạy
luôn. Thầy bước xuống xe, khởi tâm từ bi, xem con rắn có bị
thương hay không. Con rắn lúc mới bị cán qua, liền vươn cao
đầu và phần thân trên ngó thầy, xem chừng rất hung dữ, như
là định xông tới. Thầy lúc đó không suy nghĩ gì cả, liền quỳ
xuống chắp tay hướng về con rắn đảnh lễ như là lễ Phật, sám
hối sự sơ suất của mình, sau đó còn niệm Phật cho con rắn.
Con rắn đó thấy như vậy, dường nhưthực sự hiểu được ý của
thầy, liền cúi đầu xuống nằm im, sau đó từ từ bò đi khỏi.
Chúng ta xem, một chúng sinh được gọi là rắn độc, còn cảm
thông được tâm niệm từ bi mà thay đổi thái độ và hành vi,
huống chi là một số tế bào bất đắc dĩ phải trở nên xấu trên
thân chúng ta. Thực ra, năng lượng những tế bào nhỏ này rất
yếu, sức ảnh hưởng của nó cũng không là bao. Chúng ta có
một thân thể to lớn hơn nhiều, thì tâm niệm, năng lượng và
sức ảnh hưởng cũng to lớn hơn nhiều. Về mặt lý luận, chúng
51. 50
ta lẽ ra có thể là thay đổi những tế bào nhỏ này mới đúng. Chỉ
cần khéo léo vận dụng tâm niệm này mạnh mẽ, phát huy sức
ảnh hưởng tốt đẹp, thì chúng ta có thể thay đổi những tế bào
ung thư nhỏ này. Huống chi chúng ta còn có Phật tánh rộng
lớn vô biên và Phật lực bất khả tư nghì.
Không cần phải sợ. Cần phải biết, dù chúng ta mắc bệnh ung
thư vào thời kỳ nào, thì tế bào ung thư cũng không nhiều
bằng tế bào lành mạnh. Thân thể chúng ta có bao nhiêu tế
bào tốt? Có khoảng sáu mươi ngàn tỷ(60.000.000.000.000) tế
bào tốt! Đây là một lực lượng vô cùng hùng hậu.Vậy tại sao lại
bị một nhóm tế bào do nhân duyên xấu biến thành bệnh hoạn
đánh bại? Về mặt lý luận, đây là điều không thể có được. Trừ
khi nào tất cả tế bào lành mạnh đều bị sợ hãi đến mức không
thể phấn chấn, phản kháng! Chúng ta có thể dùng một ví dụ
để nhận ra lý này. Như một ngôi làng có rất nhiều thanh niên
khỏe mạnh. Một hôm có một tên cướp đến đó giết sạch tất cả.
Các vị nghĩ xem điều này có hợp lý không? Chẳng lẽ những
thanh niên đó đều ngủ mê cả sao? Hay là đều sợ đến mức tay
chân thóat lực? Phải biết thanh niên là người, mà tên cướp
cũng là người, vì sao thanh niên phải khiếp sợ tên cướp đến
như vậy? Tên cướp không sợ thanh niên, mà thanh niên lại
sợ tên cướp, đây là điều hoàn toàn vô lý!
Có một em bé chỉ mới ba tuổi được người hỏi: “Giá như bị
người xấu bắt, định giết chết, thì em làm sao?” Em nghe xong,
dõng dạc trả lời: “Thì cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật cho hắn
nghe!”
52. 51
Em bé đó đã biết vận dụng sức mạnh và trí tuệ vốn có của
Phật tánh! Tên cướp cũng có Phật tánh, nên vẫn có thể phát
tâm từ bi và được cảm hoá. Thực ra, làm ăn cướp chỉ trong
một niệm. “Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật” cũng trong
một niệm! Cho nên chúng ta có thể tập hợp sức mạnh hùng
hậu của sáu mươi ngàn tỷ tếbào lành mạnh để cảm hoá, cải
thiện tế bào xấu, ít ra cũng không bị nó ảnh hưởng, nên có thể
sống một cách an lạc!
Tâm niệm và quan niệm quyết định vận mệnh và hạnh phúc
của chúng ta. Chúng ta có thể quan sát bản thân, giả như gặp
chuyện bất như ý hay sợ hãi, có phải tim mình đập nhanh và
mạnh lên không? Dạ dày chúng ta cũng đau thắt như sắp đi
vệ sinh, tay chân trở nên giá lạnh, thậm chí có người còn run
rẩy, đổ mồ hôi lạnh!
Xin hỏi, chúng ta có từng suy nghĩ điều gì khiến tim mình đập
nhanh, tay chân run rẩy không?
Một niệm thay đổi, sáu mươi ngàn tỷ tế bào cũng thay đổi.
Trước đây, lúc chúng tôi thi môn giải phẫu học trong Y Học
Viện, mọi người đều rất hồi hộp lo lắng, bởi vì phải vừa trả lời
đề thi treo trên tử thi, vừa phải chạy quanh bàn mổ. Có một vị
đồng học cảm khái bảo: “lạ quá, hai chân cứ phát run, không
biết đây là do dây thần kinh nào khống chế, mà muốn dừng
run cũng không được!”
Mọi người có nhận ra không: Chỉ một tin tức đưa đến khiến
mình thay đổi tâm niệm là sáu mươi ngàn tỷ tế bào liền thay
53. 52
đổi theo! Môi đang từ màu hồng liền chuyển sang màu xám
xịt, cả người cũng nổi gai ốc!
Có phải chúng ta thường dùng những tâm niệm áp lực, không
vui này để bức ép sáu mươi ngàn tỷ tế bào tốt của mình. Hèn
chi mà có một số tế bào nổi loạn! Giá như biết rằng sinh
mệnh tạm thời này có lúc phải kết thúc, chúng ta sẽ biết trân
trọng nó, sống một cách thong dong, tự tại, từ bi và hoan hỉ!
Vậy chúng ta có nên tự làm cho thân tâm mình chịu áp lực,
khiến phải đau khổ đến lúc chết hay không?
Cấp trên từ bi hoan hỉ, nhân viên mới vui vẻ hết lòng!
Chúng ta thử nghĩ: Nếu cấp trên biết quan tâm và cảm thông,
có phải chúng ta sẽ vui vẻ hết lòng làm việc? Còn gặp phải cấp
trên hà khắc, bữa nào cũng nổi giận, trách cứ, đòi đuổi việc
nhân viên, thì đương nhiên không ai hết lòng làm việc, thậm
chí còn cố ý quấy rối, phản kháng, khiến cấp trên bị tổn thất!
Tình hình tế bào toàn thân của chúng ta cũng giống như vậy.
Chúng là nhân viên của chúng ta. Là ông chủ, lẽ ra chúng ta
nên dùng tâm niệm từ bi, an vui để khiến cho mỗi tế bào
hoan hỉ làm tốt công việc và được đượm nhuần sức sống.
Chúng ta nên để cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi để tái tạo sức
làm việc, máu huyết lưu thông để tiếp tế dưỡng khí và dưỡng
chất một cách đầy đủ. Chúng ta thử nghĩa xem: khi chúng ta
cảm thấy hoan hỉ và có tâm niệm tốt lành, thì có phải toàn
thân đều cảm thấy thơ thới dễ chịu hay không? Chúng ta
niệm Phật, niệm Pháp chính là đem tâm niệm của mình đặt
54. 53
vào trong trạng thái năng lượng cao nhất, từ bi hỉ xả thanh
tịnh nhất. Trạng thái tâm niệm này sẽ sinh ra hiệu quả an ủi
và khích lệ từng tế bào một trong cơ thể!
Niệm Phật chính là cách vận dụng tâm niệm quý báu của
mình một cách tốt đẹp nhất!
Niệm Phật là môn trị liệu bằng âm ba vi diệu nhất, nhằm khai
thác khả năng trị liệu tự nhiên của Phật tánh.
Bản thân tôi niệm Phật không có thành tựu gì đặc biệt. Bởi vì
sự hiểu biết của tôi rất cạn cợt, còn về phương diện thực
hành thì cũng không được tinh tấn, thiết thực bằng người
khác. Nhưng tôi có một kinh nghiệm nhỏ như sau. Đó là khi
niệm Phật lập tức trong miệng tiết ra chất dịch rất ngọt,
khiến cả ngày dù không uống nước cũng không cảm thấy
khát, nên dù niệm Phật ra tiếng suốt buổi cũng không bị khan
giọng, có lúc còn cảm thấy cả lục phủ ngũ tạng của mình đều
mát mẻ, dường như mỗi tế bào đều hoan hỉ.
Trên thế giới không có ai bắt buộc tôi phải niệm Phật; càng
không có ai quy định mỗi ngày tôi phải niệm bao nhiêu câu
Phật. Nhưng tôi cảm thấy niệm Phật thân tâm thực sảng
khoái, thư thới, vượt hơn bất cứ sựhưởng thụ nào. Vì vậy tôi
chọn lựa niệm Phật. Làn sóng tâm niệm Phật và làn sóng âm
thanh niệm Phật khiến toàn thân chúng ta chấn động một
cách vi diệu, dường như xoa bóp cho tất cả tế bào. Việc xoa
bóp này rất nhẹêm, rất tinh tế, khiến cho các tế bào trong
trạng thái dễ chịu có thể phát huy công năng tốt nhất. Sự
55. 54
rung động tinh tế, vi diệu này, chỉ có khi nào thân tâm của
mình buông thỏng, thư thới mới có thể nhận được tương đối
rõ ràng. Giới y học và âm nhạc từng cùng nhau nghiên cứu
việc dùng âm nhạc để trị liệu.
Những loại âm nhạc khác nhau có khả năng trị liệu khác
nhau. Đây là điều mà các nhà khoa học đã chứng minh được
qua thực nghiệm. Khi chúng ta mở rộng tấm lòng, toàn thân
buông thư và niệm Phật theo âm vận nhất định, thì tin rằng
còn hiệu quả hơn so với những âm nhạc bình thường. Bởi vì
trong danh hiệu Phật đã hàm chứa tâm từ vi vĩ đại và trí tuệ
thâm sâu cứu độ chúng sinh của đức Phật. Đồng thời, danh
hiệu Phật cũng khai phát ánh sáng và năng lực công đức Phật
tánh vốn có bên trong chúng ta! Năng lực công đức này
đương nhiên cũng bao gồm năng lực trị liệu tâm bệnh và
thân bệnh!
Chúng ta niệm Phật có thể khai phát và hiển lộ năng lượng
Phật tánh sẵn có nơi chính mình, giải quyết được rất nhiều
vấn đề. Phật là người đã khai phát và hiển lộ năng lượng Phật
tánh của mình đến mức viên mãn. Khi chúng ta niệm danh
hiệu Phật, Ngài cũng sẽ theo bản thệ nguyện của mình mà
đến hướng dẫn, giúp chúng ta đạt đến cảnh giới vĩnh viễn an
vui, không còn lo buồn!
Vọng tưởng chấp trước là rác bẩn!
“Vui vẻ không buồn lo, gọi là Phật.” Trước đây khi còn ở Học
Viện Y Học, chúng tôi đã từng thảo luận qua câu này. Có một