Axit uric là sản phẩm cuối cùng của quá trình thoái biến purine. Là một acid yếu nên thường bị ion hóa thành muối urate hòa tan trong huyết tương .Đại đa số tồn tại dưới dạng monosodium urate
Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...
Acid urid
1. Acid uric và bệnh gout
1.CHUYỂN HOÁ PURIN VÀ SỰ TẠO THÀNH ACID URIC
Axit uric là sản phẩm cuối cùng của quá trình thoái biến purine. Là một acid yếu nên
thường bị ion hóa thành muối urate hòa tan trong huyết tương .Đại đa số tồn tại dưới
dạng monosodium urate. Giới hạn hoà tan của muối urat khoảng 6,8 mg/dl ở nhiệt
độ 37 0C.Ở nồng độ cao hơn các tinh thể urate sẽ bị kết tủa. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp các tinh thể urate không bị kết tủa, phải chăng do ảnh hưởng của một số
chất hòa tan trong huyết thanh.
Phần lớn acid uric trong máu ở dạng tự do, chỉ khoảng <4% gắn với protein huyết
thanh.
Nồng độ axit uric máu trung bình ở nam: 5,1 ± 1,0 mg/dl (420 μmol/lít) nữ 4,0 ±
1mg/dl (360 μmol/lít). Khi nồng độ axit uric máu vượt qua giới hạn trên được coi là có
tăng axit uric. Bình thường quá trình tổng hợp và bài tiết axit uric ở trạng thái cân
bằng. Tổng lượng axit uric trong cơ thể có khoảng 1200 mg (ở nam), 600 mg (ở nữ)
Khoảng 2/3 tổng lượng acid uric được tổng hợp mới và cũng với số lượng tương tự
đào thải chủ yếu qua thận.
Trong nước tiểu, acid uric hòa tan dễ dàng hơn trong nước. pH nước tiểu ảnh
hưởng lớn đến sự hòa tan acid uric, bình thường lượng acid uric thải qua nước tiểu
là trên 800 mg/ngày. Do vậy, pH càng kiềm càng thuận lợi cho việc thải acid uric và
ngươc lại nước tiểu càng toan thì khó khăn cho việc đào thải acid uric.
- pH 5,0: Acid uric bảo hòa với nồng độ từ 390-900 μmol/L
- pH 7,0: Acid uric bảo hòa với nồng độ từ 9480-12000 μmol/L
CẤU TẠO ACID URIC
cấu tạo của acid uric
2. Acid uric và bệnh gout
SƠ ĐỒ TÓM TẮT QUÁ TRÌNH TỔNG HỢP ACID URIC Ở NGƢỜI
Sơ đồ chuyển hoá purine (theo Segmilla, Rosenblsom Kelley: 1967).
Sơ đồ chuyển hoá purine (theo Segmilla, Rosenblsom Kelley: 1967).
1: Amidophoribosyl ferase.
2: Hypoxanthine- Guanine phospho ribosyl Transferase.
3: Phosphoribosyl-Pyrophosphat Synthetase- (PRPP Synthetase).
4: Adenine-Phosphoribosyl transferase.
5: Adenosine deaminase.
6: Purine-Nucleoside Phosphorylase.
7: Nucleotidase.
8: Xanthine oxydase.
2. NGUYÊN NHÂN VÀ PHÂN LOẠI TĂNG ACID URIC MÁU:
Tăng axit uric máu có thể do:
+ Tăng tổng hợp axit uric máu: có thể do ăn nhiều thức ăn có chứa purin, tăng tổng
hợp purin nội sinh, tăng thoái biến nucleotite hoặc phối hợp.
+ Giảm bài tiết axit uric qua thận: có thể do giảm lọc ở cầu thận, giảm tiết urat ở ống
thận hoặc phối hợp.
+ Phối hợp 2 nguyên nhân kể trên.
2.1. Tăng tổng hợp axit uric:
+ Tăng axit uric máu tiên phát:
– Không rõ nguyên nhân.
– Thiếu HGPRT (một phần hay toàn bộ).
– Tăng hoạt tính men PRPP synthetase.
+ Tăng axit uric máu thứ phát:
– Ăn quá nhiều thức ăn có purine.
– Tăng tái tạo nucleotite.
– Tăng thoái hoá ATP.
– Bệnh dự trữ glycogen.
– Bệnh cơ nặng.
2.2. Giảm bài tiết axit uric:
3. Acid uric và bệnh gout
+ Tăng axit uric máu tiên phát.
Không rõ nguyên nhân.
+ Tăng axit uric máu thứ phát:
. Suy thận.
. Ức chế bài tiết urat ở ống thận.
. Tăng tái hấp thu urat ở ống thận.
+ Cơ chế chưa xác định rõ:
. Tăng huyết áp
. Cường chức năng tuyến cận giáp
. Một số thuốc làm tăng axit uric máu (cyclosporine, pyrazinamide, ethambutol, liều
thấp aspirin).
. Bệnh thận do nhiễm độc chì.
2.3. Tăng axit uric máu do nguyên nhân phối hợp:
+ Lạm dụng rượu.
+ Thiếu oxy và giảm bão hoà oxy tổ chức.
+ Thiếu hụt glucose-6-phosphatase.
+ Thiếu hụt fructose-1-phosphate-aldolase.
2.4. Các quan niệm mới về gen
Tại Anh quốc, số người mắc phải bệnh gút đã tăng hàng năm và nguyên nhân
được cho là vì họ ăn uống không điều độ.Tuy nhiên, một cuộc thử nghiệm gene trên
một mẫu hơn 12 ngàn người, được công bố trên tạp chí Nature Genetics, đã phát
hiện rằng một gene có thể là nguyên nhân đã đưa đến sự gia tăng này.
Các nhà nghiên cứu thuộc đơn vị MRC Human Genetics Unit, tại thành phố
Edinburgh, nói rằng gene này và chất protein mà gene kiểm soát, có thể một ngày
nào đó là chủ để nghiên cứu để chế tạo ra thuốc mới để trị bệnh này.Một số người
có nguy cơ cao hơn hoặc thấp hơn mắc phải bệnh gút tùy theo gene mà họ thừa
hưởng
Trong một cơ thể khỏe mạnh, acid uric, một chất phế thải xuất hiện trong máu, được
thận lọc ra và thải khỏi cơ thể qua đường nước tiểu.Tuy nhiên, ở một số người, thận
không làm được chức năng này một cách triệt để, và acid uric tích tụ trong máu, kết
thành tinh thể ở các khớp xương và dẫn đến tình trạng viêm, gây đau nhức cho
người bệnh.
Các khoa học gia tại đơn vị MRC Human Genetics đã nghiên cứu về bệnh này và
khám phá ra rằng gene với ký hiệu SLC2A , có thể làm cho cơ thể khó thải chất acid
uric ra khỏi máu.
Giáo sư Alan Wright, hiện đang hướng dẫn công trình nghiên cứu này, nói: “Gene
này là một nhân tố then chốt trong việc chuyển tải acid uric qua các vùng khác nhau
của thận”. Đồng nghiệp của ông là giáo sư Harry Campbell nói : “Một số người có
nguy cơ cao hơn hoặc thấp hơn mắc phải bệnh gút tùy theo gene mà họ thừa
hưởng”. Phát hiện này sẽ giúp cho việc phát triển các phương thức tốt hơn để chẩn
đoán bệnh gút.
2.5. Liên quan giữa axit uric với uống rƣợu bia
4. Acid uric và bệnh gout
Uống nhiều rượu bia làm tăng dị hoá các nucleotid có nhân purin, làm tăng dị hóa
ATP thành AMP gây tăng sản xuất axit uric. Rượu còn có thể gây mất nước và làm
tăng axit lactic máu. Khi uống rượu cùng với các đồ ăn thì một mặt bản thân rượu đã
bổ sung một lượng purin, mặt khác còn hạn chế bài tiết urat qua nước tiểu, tạo điều
kịên giữ lại purin của thức ăn và tăng quá trình tinh thể hoá các urat ở nước tiểu và
tế bào.
3.TĂNG ACID URIC LÀ YẾU TỐ NGUY CƠ TRỰC TIẾP CỦA BỆNH GÚT
3.1.Tỉ lệ mắc bệnh
Tăng acid uric máu gặp ở 2-13% người lớn
- Chỉ có < 10% có biểu hiện bệnh gút phải điều trị. Có đến 90% trường hợp tăng
acid uric đơn thuần không triệu chứng (Hyperucicemia)
- Tuy nhiên người ta thấy acid uric máu bình thường ờ 30% bệnh nhân gút cấp
- Mức acid uric máu càng cao thì nguy cơ mắc bệnh gút càng cao.
- Tỉ lệ mắc bệnh gút ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Tác giả Roddy và CS đã
tổng hợp báo cáo các nguyên nhân chính gây bênh gút tại EULAR 2008 như sau:
+ Tăng lượng tiêu thụ bia ,rượu ở cộng đồng
+ Tăng sử dụng Thiazide và aspirin trong các bệnh lý tim mạch
+ Tăng sử dụng chế độ ăn giàu purin
+ Gia tăng các bệnh lý chuyển hóa và béo phì
+ Gia tăng tỉ lệ người già > 65 tuổi, có sự liên quan đến thoái hóa khớp
+ Gia tăng và kéo dài cuộc sống của các bệnh nhân suy thận mạn.
3.2. Cơ chế lắng đọng axit uric
Cơ chế chủ yếu là do tăng axit uric máu kéo dài, cơ thể có hàng loạt phản ứng
thích nghi nhằm giảm axit uric trong máu bằng cách: tăng bài tiết qua thận, lắng đọng
muối urat trong các tổ chức như: màng hoạt dịch, da, kẽ thận, gân… Dẫn đến sự
biến đổi về hình thái học các tổ chức này. Tăng axit uric trong dịch khớp dẫn đến kết
tủa thành các tinh thể hình kim gây tổn thương sụn, màng hoạt dịch, bao khớp. Qua
chỗ sụn bị tổn thương các tinh thể xâm nhập xuống tận lớp xương dưới sụn, hình
thành các hạt tophi, gây phá huỷ xương dưới dạng ổ khuyết xương hình cầu. Viêm
màng hoạt dịch, tăng sinh màng hoạt dịch, thâm nhiễm các tế bào lympho là tổn
thương thứ phát.
Sự lắng đọng các tinh thể ở tổ chức tạo thành các hạt tophi kích thước to nhỏ khác
nhau. Lắng đọng tinh thể urat ở kẽ thận dẫn đến tổn thương thận như sỏi thận, viêm
thận kẽ, xơ hóa cầu thận. Tổn thương lan rộng dẫn đến suy thận, tăng huyết áp. Đây
là yếu tố tiên lượng quan trọng.
5. Acid uric và bệnh gout
4. ACID URIC LÀ YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỘC LẬP CỦA BÊNH TIM MẠCH
Tăng acid uric là yếu tố nguy cơ cho bệnh tim mạch và là yếu tố nguy cơ độc lập
của tử vong tim mạch. Tuy nhiên có quan điểm trái chiều như sau:
Trong nghiên cứu Framingham, mặc dù nồng độ acid uric có tương quan với bệnh
tim mạch phụ nữ, nhưng sau khi hiệu chỉnh theo các yếu tố nguy cơ khác và sử
dụng lợi tiểu thì sự tương quan không có ý nghĩa. Ngược lại dữ liệu của NHANES 1
cho thấy có mối tương quan mạnh và độc lập của nồng độ acid uric với tử vong tim
mạch. Mối tương quan mạnh ở nữ so với nam, người da đen hơn người da trắng, và
người trên 45 tuổi. Sự khác biệt về kết quả của 2 nghiên cứu được giải thích là do
dân số khác nhau, trong nghiên cứu Framingham dân số tuyển chọn đa số là người
da trắng và tầng lớp trung lưu, trong khi đó NHANES 1 lấy toàn bộ dân số chung là
người Mỹ. Ngoài ra tỷ lệ tử vong toàn bộ của NHANES cao gần gấp đôi so với
nghiên cứu Framingham, điều này một lần nữa khẳng định sự khác biệt về dân số
chọn nghiên cứu.
Tại sao acid uric không luôn luôn là yếu tố nguy cơ độc lập tim mạch qua các nghiên
cứu?
Nếu acid uric gây ra bệnh tim mạch là do hậu quả của tăng huyết áp và suy thận thì
acid uric không được xem là độc lập với tăng huyết áp và suy thận khi đánh giá yếu
tố nguy cơ tim mạch. Trong thử nghiệm SHEP, lợi tiểu làm giảm nguy cơ tử vong tim
mạch ở người lớn tuổi, tuy nhiên phân tích dưới nhóm cho thấy tác dụng bảo vệ mất
đi khi điều trị lợi tiểu cho bệnh nhân có tăng acid uric. Do đó mối liên quan giữa acid
uric với biến cố tim mạch sẽ giảm đi khi có tăng huyết áp hoặc sử dụng lợi tiểu.
Một nguyên nhân khác là do đặc tính chống oxy hóa của acid uric. Mối liên quan
giữa acid uric và biến cố tim mạch theo hình chữ J, trong đó phần thấp nhất là ở tứ
phân vị thứ hai. Điều này có thể được giải thích bởi khi nồng độ acid uric quá thấp thì
tác dụng chống oxy hóa giảm cũng sẽ gây biến cố tim mạch, còn khi nồng độ acid
uric quá cao sẽ ảnh hưởng lên mạch máu và huyết áp gây biến cố tim mạch.
Mối tương quan acid uric với bệnh lý tim mạch cũng như tử vong do tim mạch đã
được xác định trong các nhóm dân số nghiên cứu bao gồm những người khỏe mạnh
cho đến những bệnh nhân đái tháo đường, suy tim, bệnh mạch vành, tăng huyết áp.
Bệnh nhân tăng huyết áp với tăng acid uric sẽ có nguy cơ bệnh mạch vành, bệnh
mạch não gấp 3-5 lần so với không tăng acid uric. Bệnh nhân suy tim, tăng acid uric
có giá trị tiên đoán tử vong. Bệnh nhân bệnh mạch vành tăng acid uric có nguy cơ tử
vong tăng gấp 5 lần. Với mỗi mức tăng 1mg/dl acid uric tương ứng với tăng 26% tử
vong. Ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có tăng acid uric, tần suất đột quỵ và tử
vong chung cũng như tử vong do đột quỵ đều gia tăng.
Rất nhiều các nghiên cứu đã cho thấy acid uric là yếu tố nguy cơ độc lập cho bệnh
tim mạch sau khi đã hiệu chỉnh. Do đó cho đến hiện nay, acid uric vẫn đóng vai trò
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh tim mạch, bệnh tăng huyết áp và bệnh thận. Giả
thuyết trên còn được ủng hộ bởi nghiên cứu cho thấy trẻ em có tăng acid uric sẽ có
nguy cơ bệnh tăng huyết áp khi trưởng thành và khởi phát tăng huyết áp khá sớm.
5. CÁC BỆNH LÝ CỤ THỂ ĐI KÈM VỚI TĂNG ACID URIC VÀ BỆNH GOUT
5.1. BÉO PHÌ:
Có sự liên quan giữa trọng lượng cơ thể và nồng độ acid uric máu. Tỉ lệ bệnh gout
tăng rõ rệt ở những người có trọng lượng cơ thể tăng trên 10 %. Béo phì làm tăng
tổng hợp acid uric máu và làm giảm thải acid uric niệu, kết hợp của cả 2 nguyên
6. Acid uric và bệnh gout
nhân gây tăng acid uric máu. Theo các thống kê gần đây, 50 % bệnh nhân gout có
dư cân trên 20 % trọng lượng cơ thể.
5.2. TĂNG LIPIDE MÁU:
Sự kết hợp giữa tăng TG máu và tăng acid uric máu đã được xác định chắc chắn.
Có đến 80 % người tăng TG máu có sự phối hợp của tăng acid uric máu, và khoảng
50%-70% bệnh nhân gout có kèm tăng TG máu.
Ở bệnh nhân gout, ngoài sự rối loạn của thành phần TG, người ta còn nhận thấy có
sự rối loạn của HDL, một loại lipoprotein có lợi, có tính bảo vệ đối với cơ thể. Sự liên
quan giữa gout và rối loạn lipid máu chính là một phần của hội chứng chuyển hoá
bao gồm tăng BMI, béo phì vùng bụng, tăng TG, giảm HDL, tăng huyết áp, tiểu
đường, tình trạng đề kháng insulin và nguy cơ bị bệnh mạch vành. Tăng acid uric
máu kết hợp với béo phì vùng bụng là nhóm nguy cơ cao của bệnh tim mạch có liên
quan đến sự đề kháng insulin.
5.3. ĐÁI THÁO ĐƢỜNG:
Bệnh lý đái tháo đường, đặc biệt là đái tháo đường typ 2 là bệnh lý thường gặp đi
kèm với Gout. Bệnh lý đái tháo đường nằm trong hội chứng rối loạn chuyển hoá
chung. Bệnh được đặc trưng bởi sự tăng đường huyết, mà nguyên nhân chính do
thiếu hụt Insulin tuyệt đối hoặc tương đối. Bệnh lý đái tháo đường ở bệnh nhân Gout
thường do sự đề kháng Insulin. Việc kết hợp nhiều bệnh làm cho việc điều trị gặp
khó khăn, đòi hỏi phải kết hợp tốt điều trị nhiều bệnh cùng một lúc, và một chế độ
dinh dưỡng hợp lý
5.4. TĂNG HUYẾT ÁP:
Tăng acid uric máu được phát hiện ở 22 – 38 % bệnh nhân tăng huyết áp không
được điều trị. Tỉ lệ bệnh gout trong dân số tăng huyết áp là 2 –12 %. Mặc dù tỉ lệ
tăng acid uric máu tăng ở đối tượng tăng huyết áp nhưng không có sự liên quan
giữa acid uric máu và trị số huyết áp. Có 25 – 50 % bệnh nhân gout có kèm tăng
huyết áp, chủ yếu ở các bệnh nhân béo phì. Nguyên nhân gây nên mối liên hệ giữa
bệnh gout và tăng huyết áp hiện nay chưa được biết rõ.
5.5. NHỒI MÁU CƠ TIM:
Ở những bệnh nhân tăng acid uric máu có 20,1% bị hội chứng chuyển hóa, trong khi
ở bệnh nhân không tăng acid uric máu thì con số này là 15,3%. Đồng thời, tăng acid
uric máu có liên quan với tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột tử do tim ở những
bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa.
5.6. Vữa xơ động mạch:
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ rõ mối liên quan giữa gout và xơ mỡ động mạch. Tuy
vậy tăng acid uric máu không phải là yếu tố nguy cơ trực tiếp của bệnh mạch vành.
Tăng huyết áp, tiểu đường, xơ mỡ động mạch liên quan nhiều đến tình trạng béo phì
hơn là liên quan đến sự tăng acid uric máu. ở bệnh nhân gout, các yếu tố nguy cơ
của bệnh mạch vành như tăng huyết áp, béo phì, đề kháng insulin, tăng TG máu góp
phần làm tăng sự liên quan giữa acid uric máu và xơ mỡ động mạch. Các yếu tố
nguy cơ này tự nó làm tăng nguy cơ của bệnh tim mạch, và như vậy, acid uric máu
7. Acid uric và bệnh gout
chỉ gián tiếp làm tăng nguy cơ đột tử do bệnh tim mạch thông qua việc kết hợp với
các bệnh lý có nguy cơ cao nói trên.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Ngọc Ân, Tạ Diệu Yên. Biểu hiện lâm sàng cuả 121 trường hợp Gút điều trị
tại Bệnh viện Bạch mai (1985 – 1994). Hội nghị toàn quốc lần thứ III về các bệnh
thấp khớp. Đà lạt tháng 3 năm 1996.
2. Đoàn Văn Đệ (2009). Bệnh gút. Bệnh học nội khoa-HVQY.tr 39
3. Hồ Thị Ngọc Dung, Châu Ngọc Hoa. (2009). Nồng độ acid uric huyết thanh ở bệnh
nhân tăng huyết áp. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 13, 41-46.
4. Châu Ngọc Hoa, Lê Hoài Nam. (2009). Khảo sát nồng độ acid uric huyết thanh ở
bệnh nhân tăng huyết áp và người bình thường. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 13,
87-91.
5. Hoàng Quốc Hòa. (2007). Khảo sát nồng độ acid uric máu ở bệnh nhân tăng huyết
áp. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 11, 39-43.
6. Lê Anh Thư và CS. Đặc diểm của 254 bệnh nhân Gout điều trị tại Bệnh viện Chợ
Rẫy 1999 – 2001. Đại hội Thấp khớp học toàn quốc, Nha trang 8/2002
7. Lê Anh Thư (2012). Cập nhật chẩn đoán và điều trị bệnh gút. Cập nhật kiến thức –
điều trị bệnh lý cơ xương khớp.Tr 48
8. Textbook of Rheumatology (2009) -08th ed.
9. Alderman, M. H. (2007). Podagra, Uric acid and cardiovascular disease.
Circulation, 116, 880-883.
10. Feig, D. I. (2008). Uric acid and cardiovascular risk. The new England journal of
medicine, 359, 1811-1821.
11. Melinda K. Kutzing, B. L. F. (2007). Altered uric acid levels and disease states
The journal of pharmacology and experimental therapeutics, 324, 1-7.
12. MY Nadkar, V. J. (2008). Serum uric acid in acute myocardial infarction. JAPI,
56, 759-762.
13. Richard J. Johnson, D.-H. K. (2003). Is there a pathogenetic for uric acid in
hypertension and cardiovascular and renal disease? Hypertension, 41, 1183-1190.
14. Sanghamitra Pati, P. K. S. (2004). The role of uric acid in cardiovascular disease
and its clinical implications. Orissa Journal of Medical Biochesmistry, 1, 39-43.
15. Viazzi, F. (2006). Serum uric acid as a risk factor for cardiovascular and renal
disease: an old controversy revived. The journal of clinical hypertension, 8, 510-518.
Bs Nguyễn Văn Dũng
Viện Gút Tp Hồ Chí Minh