1. BÁO CÁO TÀI SẢ THẾ GIỚ
N I
Báo cáo mới nhất về tài sản thế giới mới vừa ra lò cách đây chừng một tuần, tớ đọc thấy có một số thông
tin thú vị nên chia sẻ với mọi ngƣời.Những thông tin này mình chỉ tổng hợp trong cái báo cáo bằng
Tiếng Anh dài 68 trang nên các bạn có thể xem thêm ở báo cáo nhé.
1. Dòng chảy giàu có của thế giới diễn ra nhƣ thế nào và nới đâu sẽ đƣợc coi là thánh đị a tập trung
những ngƣời giàu nhất thế giới
- Dòng chảy của sự giàu có thế giới sẽ thay đổi nhƣ thế nào và vì sao?
Trả lời cho câu hỏi này, các nhà nghiên cứu của Knight Frank đã khẳng đị nh: “Phân bố tài sản
(dòng chảy của sự giàu có) trên thế giới đã thay đổi. Giám đốc Grainne Gilmore của Knight Frank
tại Anh đang nỗ lực tìm ra nơi mà dòng chảy sự giàu có thế giới hƣớng đến và ông đã tuyên bố
rằng nơi ấy chƣa hoàn toàn là Trung Quốc”.
Giáo sƣ Danny Quah của trƣờng Kinh tế học Luân Đôn tính toán về chỉ số trọng lực trung tâm
kinh tế thế giới đã có sự dị ch chuyển (chỉ số này đƣợc tính toán dựa vào hoạt động kinh tế của
từng nƣớc mà chủ yếu là chỉ số GDP). Đến năm 2050, với sự tăng trƣởng kinh tế của các nƣớc
mới nổi tại khu vực Asia sẽ dị ch chuyển trọng tâm kinh tế thế giới từ khu vực Đai Tây Dƣơng vào
năm 1980 đến MỘ NƠ NÀO ĐÓ giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Vị giáo sƣ này cũng dự đoán rằng
T I
SỨ MẠNH CHÍNH TRỊ cũng theo đó mà chuyển dị ch sang phía Đông (nhƣ hình vẽ) (Tự nhủ là lúc
C
này Việt Nam nhƣ thế nào nhỉ , có khi Ấn Độ - Trung Quốc – Việt Nam trở thành tam giác vững
chải của nền kinh tế thế giới cũng nên )
Ớ
Xu hƣớng “HƢ NG ĐÔNG” còn đƣợc khẳng đị nh dựa trên các cơ sở nhƣ:
2. Lấy số liệu từ cuộc khảo sát về HNWI, hiện tại, số lƣơng triệu phú của khu vực Đông Nam Á,
Trung Quốc và Nhật Bản là 18,000 ngƣời, cao hơn cả so với Bắc Mỹ (21,000) và Western Europe
(14,000). Họ cũng đƣa ra môt dự đoán là số lƣợng của các triệu phú cũng dị ch chuyển tƣơng
đồng với dòng chảy sự giàu có.
Dƣới đây là bản so sánh xếp hạng về tài sản toàn cầu năm 2012 và dự đoán top 10 quốc gia có
tài sản lớn nhất thế giới đến năm 2020:
Top 3 quốc gia có GDP cao nhất thế giới là Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản (2010).Nhƣng đến năm
2050, trật tự này đã thay đổi lớn:
Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ là top 30 nƣớc có GDP cao nhất thế giới.
Nhật Bản từ vị trí nền kinh tế thứ 2 thế giới năm 2010 xuống vị trí 9 vào năm 2050. Có lẽ
nguyên nhân là do ảnh hƣởng của trận động đất lị ch sử vào năm 2011 và tiếp tục chị u ảnh
hƣởng của khủng hoảng toàn cầu.
Các quốc gia ở khu vực châu Âu lần lƣợt tụt khỏi top 10 nhƣ Đức (nƣớc chiếm tỷ trọng GDP lớn
nhất khu vực châu Âu), Anh, Pháp, Ý.
Indonesia nằm trong top 4 vào năm 2050.Kinh tế Indonesia tăng trƣởng vững chắc trong những
năm qua sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1998. So sánh với các nƣớc nằm trong khối BRICs thì
Indonesia năm 2009 có tốc độ tăng trƣởng GDP lên đến 232% trong khi BRICs chỉ trung bình là
70%. Nƣớc này có một lợi thế là nguồn nhân lực trẻ (27 tuổi) và mỗi năm tăng 8%, dân số lại
đứng thứ 4 thế giới; tài nguyên dồi dào… là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Tờ báo
Jakarta Globe có đƣa ra dự đoán năm 2011 là đến năm 2020, Indonesia sẽ nằm trong top 10, 10
năm sau là top 6.
3. Không biết Việt Nam nằm ở đâu trong những trang báo cáo này, đọc mãi rồi tớ cũng thấy ^^.
Việt Nam sẽ nằm trong top 3 các quốc gia có tốc độ tăng trƣởng GDP cao nhất thế giới
Trong giai đoạn 2010 – 2050, GDP Việt Nam tăng trƣởng trung bình là 7.5% mỗi năm. Đến năm
2050, Việt Nam nằm trong top 5 các quốc gia có tốc độ tăng trƣởng GDP cao nhất thế giới.
Nhật Bản và các quốc gia ở khu vực châu Âu bị xếp vào trong bottom 10 tức là 10 quốc gia có tốc
độ tăng trƣởng kinh tế thấp nhất thế giới, trong đó tốc độ tăng trƣởng GDP của Nhật chỉ có 1%.
Vẫn chƣa thấy con rồng châu Á năm trong 2 top 10 tớ vừa mới nhắc ở trên. Do quy mô dân số
nhỏ, diện tích của quốc gia Singapore chỉ bằng 1 quận của tp. HCM và không hề có tài nguyên
nên để lọt vào top các quốc gia có tổng GDP cao nhất thì không thể. Tuy nhiên, GDP đầu ngƣời
thì Singapore lại dẫn đầu (nhƣ bảng 3 dƣới đây).Điều đáng nói là năm 2010, top 3 quốc gia có
thu nhập bình quân đầu ngƣời cao nhất bao gôm 1 nƣớc châu Á (Sin), 1 nƣớc châu Âu (Nauy) và
Mỹ. Đến năm 2050, top 3 đều là 3 nƣớc ở khu vực châu Á. Điều này cũng khẳng đị nh dị ch
chuyển sự giàu có của thế giới cũng kéo theo sự dị ch chuyển GDP đầu ngƣời.
Theo thống kê của Citi, cũng đƣợc đề cập trong báo cáo này, các nƣớc phát triển ở châu Á sẽ
đóng góp 49% vào GDP toàn cầu.
4. Tồn tại sự thay đổi lớn trong tỷ trọn đóng góp vào GDP thế giới của 3 khu vực Bắc Mỹ, liên minh
châu Âu và các nƣớc châu Á. Tuy nhiên, 3 khu vực này đƣợc chia làm 2 nhóm: nhóm giảm và
nhóm tăng.
Nhóm giảm: khu vực Bắc Mỹ giảm từ 29% vào năm 1969 -> 15% vào năm 2010 -> 11% vào năm
2050. Khu vực châu Âu giảm từ 28% vào năm 1969 -> 11% vào năm 2010 -> 7% vào năm 2050.
Nhóm tăng: các nƣớc châu Á: tăng từ 10% năm 1969 ->44% vào năm 2010 -> 49% vào năm 2050.
Góp phần vào trong sự tăng trƣởng trong đóng góp vaò GDP thế giới của châu Á là 2 quốc gia
Trung Quốc và Ấn Độ ( 2 quốc gia trong nhóm BRICs). Hai nƣớc trong nhóm BRICs còn lại là Brazil
và Nga thì không thấy nhắc đến trong bất kì chỉ số tăng trƣởng nào cả. giải thích cho nguyên
nhân này là Citi không chỉ dựa vào chỉ số GDP để dự báo sự tăng trƣởng kinh tế mà dùng thuật
ngữ “3G”– GLOBAL GROWTH GENERATORS để đánh giá. Chỉ số này tập hợp rất nhiều nhân tố
nhƣ đất nƣớc, khu vực, thành thị , công nghệ, doanh nghiệp, sản phẩm, tầng lớp và cả cơ hội đầu
tƣ. Do đó, 2 nƣớc còn lại của nhóm BRICs này chỉ năm trong nhóm các nƣớc xem xét.
2. Các thành phố lớn thế giới
Tuy là các quốc gia mới nổi sẽ thống trị nền kinh tế thế giới nhƣng thành phố bậc nhất thế giới lại không
nằm trong những quốc gia này.Luân đôn vẫn đƣợc xem là thành phố giàu nhất thế giới.
5. Nghiên cứu đƣợc thực hiện ở 12 quốc gia trên thế giới bởi EIU (Europe International Unit) và đƣợc công
nhận bởi ngân hàng tƣ nhân Citi đã chỉ ra:
- Luân Đôn là thành phố đứng đầu trong bảng xếp hạng các quốc gia hot nhất hành tinh dù tiêu
chí xét là gì đi chăng nữa. Không chỉ đƣợc đánh giá cao ở các quốc gia Bắc Cực mà ngay ở các
quốc gia châu Á thì họ vân xếp Luân Đôn và New York đứng trƣớc Hong Kong, Shanghai và Bejing.
Chỉ riềng châu Mỹ Latinh là xếp Luân Đôn ở vị trí thứ 3
- Khi nhắc đến những yếu tố nào tạo nên “global city” bao gồm có personal safety and security –
sự an toàn, economics openness– mở cửa nền kinh tế, social stability – trật tự xã hội. Chính vì
thế, mặc dù ngày càng mất đi sự quan trọng nhƣng vẫn là nguồn gốc của những thƣơng hiệu nổi
tiếng, cơ hội giáo dục tốt và cả sự hiện diện của các HNWIs (các nhà triệu phú – High – Net –
Worth Individuals) nên Luân Đôn và New York vẫn là global cities.
- Một câu hỏi đƣợc đặt ra: Luân Đôn và New York vẫn đƣợc xem là 2 thành phố thị nh vƣợng nhất
thế giới. Liệu đƣợc kéo dài trong bao lâu nữa trƣớc thách thức phát triển của các thành phố khác
ở châu Á nhƣ Singapore, Shanghai và Hong Kong hay không? Nếu chỉ nhắc đến yếu tố tăng
trƣởng GDP trong cách xếp hạng các thành phố thì trong top 10, có đến 9 thành phố của China;
nếu trong top 20 thì hầu hết là 16 thành phố của Trung Quốc và Ấn Độ; nếu trong top 30 thì các
6. thành phố đều ở khu vực Đông Nam Á. Nhƣng xét về khía cạnh các công ty có trong bảng xếp
hạng 500 Fortunes thì số lƣợng công ty của các nƣớc châu Á không nhiều.