Bản tâm chỉ có một, và tâm mọi chư Phật và mọi bản tôn là như nhau dù hình tướng khác nhau.
Khi nghĩ đến bất cứ một vị Phật nào đều sẽ có tâm kết nối với vị Phật đấy.
Đức Đại Giác Hoàng là nhân vật lịch sử có thật ở Việt Nam và gần gũi với mọi thế hệ người Việt Nam, và những người đệ tử tin sâu và đưa giáo lý của các Ngài vào cuộc sống vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc qua hàng ngàn năm qua.
Khi tâm thanh tịnh, mọi chúng sinh đều là Phật, đó là cốt tuỷ của mọi Pháp tu.
Bilingual Book: "Stupa Mandala : The Art of Mind Training" by H.E. Tritsab Gy...
Nghi quỹ thực hành Pháp tu Phật Hoàng Trần Nhân Tông
1. Công hạnh Đức Phật
Hoàng Trần Nhân Tông
Đức vua Trần Nhân Tông, tên húy
là Trần Khâm, sinh năm Mậu Ngọ
– 1258 vào ngày 11 tháng 11 âm lịch.
Ngài là con trưởng của Đức Vua
Trần Thánh Tông và Hoàng Thái
hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Sử
sách ghi lại rằng khi Ngài mới sinh
ra đã có dung mạo của bậc thánh
nhân, thể chất hoàn hảo, thần khí
tươi sáng, sắc thái như vàng ròng,
nên được vua cha đặt cho tên hiệu
là Phật Kim. Từ nhỏ, Ngài đã được
truyền thụ kiến thức bởi các bậc
trưởng lão tinh thông Nho giáo,
Tứ thư, Ngũ kinh và Phật giáo và
Di Hậu Lục do chính Vua cha Trần
Thánh Tông soạn thảo để chuẩn
2. Lịch sử cũng ghi sự kiện vĩ đại
về tinh thần dân chủ cởi mở của
Vua Trần Nhân Tông và Thượng
hoàng Trần Thánh Tông khi tổ
chức hội nghị Diên Hồng. Đây
chính là hành động “trưng cầu
dân ý” về một sự kiện trọng đại
của đất nước, khi Thoát Hoan sắp
đưa quân chủ lực tấn công Đại
Việt. Hào hùng biết bao hình ảnh
muôn người như một đồng thanh
hô “đánh” ở hội nghị Diên Hồng.
Trước thế giặc mạnh, tấn công
cả hai phía từ phía Bắc và phía
Nam từ Chiêm Thành sang, mặt
trận phòng ngự đã tan vỡ và đại
quân Trần phải lùi về Vạn Kiếp.
Trên con thuyền chạy tránh mũi
dùi tấn công của giặc nhiều tướng
bị cho Thái tử nối nghiệp sau này
nên chẳng mấy chốc, Ngài đã tinh
thông cả Tam giáo.
Nói về tài dùng người, đức độ bao
dung của Phật Hoàng Trần Nhân
Tông không thể không nhắc tới
việc trọng dụng Trần Hưng Đạo.
Bấy giờ, giữa dòng trưởng của
Trần Hưng Đạo và dòng thứ của
Vua không phải không có hiềm
khích. Vậy mà, Vua Trần Nhân
Tông trọng dụng, giao phó cho
Quốc Tuấn trọng trách Quốc công
tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân
đội. Đáp lại ân sủng của vua, Quốc
công tiết chế Trần Hưng Đạo đã
gạt tình riêng, dâng hiến thiên tài
quân sự của mình cho đất nước.
3. Nhân Tông có nhiều giặc giã, tuy
vậy việc văn học cũng hưng thịnh
lắm. Xem bài hịch của Hưng Đạo
vương, thơ của ông Trần Quang
Khải và của ông Phạm Ngũ Lão
thì biết là văn chương đời bấy giờ
có khí lực mạnh mẽ lắm. Lại có
quan Hình bộ thượng thư là ông
Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng
chữ Nôm mà làm thơ phú (Văn tế
cá sấu)”. Chính Phật hoàng cũng
sáng tác các tác phẩm như: Thiền
lâm thiết chủy ngữ lục, Đại hương
hải ấn thi tập, Tăng già toái sự,
Thạch thất mị ngữ (do ngài Pháp
Loa soạn lại).
Phật hoàng là ông tổ Thiền tông
đầu tiên người Việt Nam. Trước
ngài, một số hệ phái Thiền tông
lĩnh thua trận, đầu hàng giặc, vậy
mà vị vua trẻ vẫn ung dung tự tin.
Ngài chính là linh hồn của xã tắc
giữa giờ phút gian nan nhất của
cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại
của dân tộc.
Phật Hoàng là nhà văn hóa lớn
của Việt Nam. Ngài cải tiến chế
độ thi cử, phát triển thơ văn
chữ Nôm, chỉ đạo biên soạn các
bộ sách quan trọng, cùng những
hoạt động trí thức khác đã thực
sự góp phần đẩy mạnh đà phát
triển của nền văn hóa Đại Việt.
Những thành công ấy, chẳng hạn
về lĩnh vực văn học, đến thế kỷ 20
vẫn được các tác gia có uy tín ghi
chép. Như Trần Trọng Kim qua
Việt Nam sử lược nêu rõ “đời vua
4. tu Phật (Tam Tổ Huyền Quang),
chúng ta thử xét giá trị đời ấy cao
siêu đến ngần nào. Phật pháp đã
cao siêu, người tu cũng đáng kính,
cho nên Phật giáo rất thịnh hành
trong thời Trần. Chấn hưng Phật
giáo đời Trần là nâng cao Phật giáo
Việt Nam hiện nay là vậy.
Về Phật pháp, đặc biệt Ngài đã
được chính Tuệ Trung Thượng sĩ
hết lòng hướng dẫn, trao truyền
yếu nghĩa thiền tông. Sau nay,
Ngài tôn thờ Tuệ Trung Thượng
sĩ làm thầy, và thường tới chùa
Tư Phúc trong kinh thành Thăng
Long để tụng kinh, tọa thiền, sám
lễ Tam bảo, thấu đạt cả nội điển
và ngoại điển. Khi quốc gia, xã tắc
bình yên, Ngài trở về hành cung
xuất phát từ Ấn Độ, Trung Hoa
truyền sang như thiền phái Tỳ-
ni-đa-lưu-chi, thiền phái Vô Ngôn
Thông, thiền phái Thảo Đường
với các vị đứng đầu gốc gác người
Trung Quốc hoặc Ấn Độ. Đến thời
Phật hoàng Trần Nhân Tông thì
ngài mới lập phái thiền Trúc Lâm
Yên Tử và là phái thiền đầu tiên -
duy nhất đến nay có sơ tổ là Hoàng
đếViệtNam.Đếnnay,nhữngvịchủ
trương khôi phục Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử đời Trần do xuất phát
từ nhận định giá trị Phật giáo ở Ấn
Độ thật siêu xuất, giá trị Phật giáo
Việt Nam cũng phi thường, mới đủ
sức thuyết phục một ông hoàng,
một ông vua đi tu. Ở Việt Nam
đời Trần ông vua đi tu Phật (Trần
Nhân Tông), ông trạng nguyên đi
5. Phật giáo Đại Việt rằng Phật giáo
là cuộc sống, không có sự cách
li, phân biệt, bởi vì Phật giáo là
gì nếu không phải đó là một quá
trình đi tìm chân lý. Mà chân lý thì
không nằm trong Phật giáo, mà
chính ngay giữa lòng cuộc sống.
Tư tưởng tiến bộ này đã được
thể hiện rõ qua bài kệ “Cư trần lạc
đạo” của Ngài.
Trên tinh thần sắc tướng vốn
không, mượn cảnh huyễn, độ
người như huyễn, tử sinh nào có,
nương thuyền từ độ kẻ trong mê,
như Tổ Sư đã dạy: “Tất cả Pháp
không sinh. Tất cả Pháp không
diệt. Nếu hiểu được điều này. Phật
tính sẽ hiện tiền. Nào có đến có đi”.
Do đó, dù thời gian có đi qua hơn
Vũ Lâm (thuộc Ninh Bình ngày
nay) cởi bỏ hoàng bào khoác cà sa,
khởi đầu sự nghiệp tu hành xuất
gia vì lợi lạc của tất cả chúng sinh
hữu tình.
Công đức hoằng dương Phật
pháp của Tổ Sư sau khi ngộ đạo,
Điều ngự Giác Hoàng, Vua Phật
trần gian, trăm hoa đua nở, ngàn
cỏ hương thơm, chín nước, mười
mây vang rền tiếng Pháp. Chống
gậy trúc dạo chơi thiên hạ, nâng
gót hài đại địa vững bền. Quả
thực: “Rừng thiền tùng trúc còn
in bóng. Xào xạc canh thâu tiếng
Pháp mầu”…
Phật hoàng Trần Nhân Tông luôn
nhấn mạnh quan niệm tiến bộ của
6. Đầu tiên, quy y Tam Bảo
và phát khởi các động cơ
thanh tịnh hướng tới
Giác Ngộ
Con xin quy y Tam Bảo trân quý
và hiếm có,
nơi khởi nguồn của mọi sự hộ trì.
Học theo những công hạnh diều
kỳ của các Đấng Chiến Thắng
trong quá khứ,
Từ bây giờ cho đến mãi mãi, con
sẽ thực hành các diệu hạnh vì lợi
lạc của chúng sinh mẹ,
Con xin trở thành người dẫn dắt
tâm linh vì tất cả chúng sinh mẹ
trên con đường giải thoát.
(Tụng 3 lần)
700 năm, không gian có biến dịch,
song công đức, đạo nghiệp của Tổ
Sư vẫn còn sống mãi trong trang
sử vàng son của dân tộc, của Phật
giáo Việt Nam trong sự nghiệp hộ
quốc an dân, đoàn kết hòa hợp
dân tộc, phát huy Đạo pháp trong
thời đại ngày nay và mãi mãi về
sau…
7. thân, hai tay Ngài trong ấn xúc
địa, với hai đốt ngón tay phải đốt
cúng dường Chư Bụt.
*******
Ngài an tọa trọng tư thế kiết già,
phóng chiếu vô số ánh sáng vàng
rực rỡ.
Ánh sáng phát ra từ ba chủng
tử Om Ah Hum tại ba vị trí đầu
họng tim, và từ chủng tử Hum tại
luân xa tim,
Dòng ánh sáng phát ra thỉnh mời
Trí Tuệ Tôn Phật tính hợp nhất
với Ngài
Phần thực hành chính – Quán
tưởng bản thân là bản tôn
Thiền định về Tính Không:
Tất cả Pháp không sinh
Tất cả Pháp không diệt
Nếu hiểu được như vậy
Phật tính sẽ hiện tiền
Nào có đến có đi
Phát khởi từ sự hợp nhất của tính
không và sự từ bi của vạn Pháp
Trên bông hoa sen và đĩa mặt
trăng, xuất hiện chủng tử HRI tỏa
ánh hào quang và thu ánh sáng
quay trở lại
Tức thì con hoá hiện thành Đức
Phật Hoàng (rỗng rang trong
suốt) trong ánh sáng vàng
Trang hoàng toàn hảo trong hoá
8. Con xin tán thán bản tôn,
tự tính tâm,
là sự hiện bày kỳ diệu toàn hảo.
*******
Trì minh chú
Trên đĩa mặt trăng ở trung tâm
trái tim con là chủng tử HRIH
được bao quanh bởi một tràng
minh chú,
Con xin cúng dường Chư Bụt,
và xin đón nhận sự gia trì từ các
Ngài, và tịnh hóa hai ám chướng
của tất thảy chúng sinh.
Mọi xuất hiện và tồn tại đều
chuyển hóa
Chư bản tôn trao truyền quán đỉnh,
Pháp chủ Liên Hoa Bộ Đức Phật
Adi Đà ngự trên đỉnh đầu Ngài
*******
Cúng dường và tán thán
Vạn Pháp, Luân Hồi hay Niết Bàn,
hóa thành vô lượng mây, cúng
dường Phổ Hiền Vương Bổ Tát.
Và con xin cúng dường lên Chư
Bụt hiển lộ tức thời
của sự thanh tịnh tuyệt đối.
Sự tỉnh thức thanh tịnh,
nền tảng của vạn Pháp,
không sinh không diệt từ
nguyên sơ,
9. tức thì thành ba kim cương thân,
ngữ, tâm.
Và bên trong Cõi đấy, mọi chúng
sinh hữu tình đều là hiện thân
của Bụt.
Mọi âm thanh đều là bản chất tự
nhiên của minh chú
Mọi tư tưởng đều là tình yêu
thương thanh tịnh với
mọi chúng sinh.
Trì tụng OM AH HUM MAHA BODHI
CHAKRAVARTI SARVA SIDDHI PHALA HUM
nhiều nhất có thể
Ý nghĩa: Om Ah Hum - thân ngữ và tâm, Maha
- vĩ đại, Bodhi - Giác ngộ, Chakravarti - Hoàng
đế, người chuyển bánh xe, Sarva - tất cả, Siddhi
Phala Hum – viên thành, thành tựu. Ý nghĩa câu
minh chú: Thân ngữ tâm của con hướng tới Đại
Giác Hoàng, khẩn nguyện tất cả tâm nguyện
được viên thành. Khẩn nguyện thân ngữ tâm của
con hợp nhất với thân ngữ tâm Đại Giác Hoàng
thành tựu viên mãn.
10. Phần kết thúc
một thời khóa
Tất cả hình tướng, âm thanh,
và sự tỉnh thức hợp nhất không
gián đoạn với bản tôn, minh chú
và Pháp thân,
Thị hiện như một sự hiện bày của
tam thân Giác Ngộ và Tuệ Giác,
Trong sự tu tập Tối Thượng bí
mật và uyên thâm này,
Cầu xin chúng trở thành không
tách rời khỏi
bản chất tự nhiên của tâm thức.
Vậy mới hay, Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Do quên gốc, nên ra tìm Bụt
Cúng dường, tán thán
và sám hối
HRIH, con xin cúng dường lên
Chư Bụt đại dương của các phẩm
vật hữu hình và phẩm vật do tâm
con tạo thành,
Con xin tán thán Chư Bụt là sự
thanh tịnh chứa đựng cả Luân
Hồi và Niết Bàn.
Con xin cầu xin sự bao dung từ bi
của Ngài cho mọi tội lỗi và lỗi lầm
con đã phạm phải,
Xin hãy kiên nhẫn với chúng con
và ban cho chúng con sự viên
mãn thành tựu của sự tịnh hóa.
11. Tích nhân nghì, tu đạo đức
Ai hay này chẳng là Thích Ca
Cầm giới hạnh, đoạn xan tham
Chính thực ấy là Di Lạc
Ở đời vui Pháp hãy tuỳ duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Trong nhà có Bụt thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Trong núi vốn không có Phật
Phật ở ngay trong lòng
Lòng lặng mà hiểu
Đó chính là chân Phật
Dứt trừ nhân ngã
Thì ra thực tướng kim cương
Dừng hết tham sân
Mới làu lòng mầu viên giác
Sạch giới lòng, dồi giới tướng
Nội ngoại nên Bồ Tát
trang nghiêm
12. Hồi hướng
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Bụt Đạo
Cầu nguyện mọi chúng sinh
viên thành Bụt quả!