1. chúng ta không thể dựa vào thực nghiệm mà phải đưa ra những giả thuyết làm cơ sở
gọi là các thuyết án. Các giả thuyết này chỉ ra nguyên nhân cơ bản gây nên sự phá huỷ
vật liệu và là có sở để xây dựng các công thức kiểm tra bền. Có nhiều thuyết bền khác
nhau được đưa ra, mỗi thuyết chỉ áp dụng đúng cho một vài trường hợp thực tế và nói
chung cho đến nay chưa có một lý thuyết tổng quát nào áp dụng đúng cho mọi bài
toán.
Nội dung chung của mọi thuyết bền đều là ở chỗ tìm cách khảo sát trạng thái ứng
suất phức tạp (phẳng hoặc khối) thông qua việc khảo sát trạng thái ứng suất dòn ta có
định nghĩa sau:
"Hiai trạng thái ứng suất phức tạp và đơn gọi là tương đương nếu độ bền của vật
44
liệu là như nhau không phụ thuộc vào tính chất tác dụng của ngoại lực".
Dưới đây ta sẽ khảo sát một số thuyết bền cơ bản.
II. THUYẾT BỀN ỨNG SUẤT TIẾP CỰC ĐẠI
Theo thuyết này, nhân tố duy nhất ảnh hưởng đến độ bền của vật liệu là ứng suất
tiếp. Nội dung của thuyết này tóm tắt như sau:
"Hai trạng thái ứng suất phức tạp và đơn sẽ ảnh hưởng đến độ bền của vật liệu
như nhau, nếu ứng suất tiếp lớn nhất của chúng là như nhau"
Như vậy nếu ứng suất tiếp lớn nhất của trạng thái ứng suất phức tạp vẫn còn nhỏ
hơn ứng suất tiếp nguy hiểm của trạng thái ứng suất đơn thì vật liệu vẫn thoả mãn điều
kiện bền.
Giả sử khi làm việc dưới tác dụng của ngoại lực ứng suất chính trong phân tố là
1, 2, 3. Gọi ứng suất chính trên phân số ở trạng thái nguy hiểm là '1, '2, '3 . Hệ
số dự trữ hay cũng gọi là hệ số an toàn trong trường hợp này, ký hiệu là n với n > 1.
Như đã biết trong §31, công thức (3.12), ứng suất tiếp nguy hiểm:
Đối với trạng thái ứng suất đơn, ứng suất tiếp nguy hiểm đạt được trên các mặt
cắt tạo với phương chính một góc 45o và có trị số.
Điều kiện bền theo thuyết ứng suất tiếp cực đại sẽ là: