1. 10
Hình 2: Giáo dục thể chất trong hệ thống
những hình thức (mặt) giáo dục cơ bản
Trong những buổi tập, thời đoạn khác nhau, nhiệm vụ giáo dưỡng thể chất (dạy kỹ thuật
chẳng hạn) hoặc phát triển tố chất vận động nào đó lại là chính. Thấu hiểu và vận dụng
thành thạo theo những đặc trưng, mối quan hệ trên là một trong những yêu cầu hàng đầu với
các nhà sư phạm TDTT.
Như vậy, giáo dục thể chất là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học
vận đôïng (động tác) và phát triển có chủ đích các tố chất vận độïng của con người. Quan
niệm như thế, chúng ta có thể coi phát triển thể chất là một phần hệ quả của giáo dục thể
chất. Quá trình phát triển thể chất có thể chỉ là do bẩm sinh tự nhiên (sự phát triển thể chất
tự nhiên của trẻ khi đang lớùn) hoặc còn có thêm tác động có chủ đích, hợp lý của giáo dục
thể chất đem lại.
Thuật ngữ "Chuẩn bị thể lực" thực ra cũng tương tự với thuật ngữ giáo dục thể chất.
Nhưng khi dùng thuật ngữ này, người ta chủ yếu muốn nhấn mạnh tới phương hướng, mục
đích chuẩn bị thể lực thực dụng cho lao động hoặc hoạt động cụ thể nào đó trong thực tế đòi
hỏi một trình độ chuyên môn chuẩn bị thể lực đáp ứng cụ thể hơn. Chuẩn bị thể lực chung là
một quá trình giáo dục thể chất không chuyên môn hoá hoặc chuyên môn hoá tương đối ít,
nhằm tạo những tiền đề chung rộng rãi về thể lực là chính để có thể đạt kết quả tốt trong
một hoạt đôïng (hoặc một số hoạt động) nào đó. Chuẩn bị thể lực chuyên môn lại chỉ nhằm
phục vụ cho yêu cầu chuyên biệt hẹp theo từng nghề, môn thể thao, thậm chí động tác (kỹ
thuật) trong từng tình huống cụ thể, thường được đặt trên nền và sau chuẩn bị thể lực chung.
5. Thể thao
Trong một số ngôn ngữ, thể thao được coi là một bộ phận chủ yếu, lớn, nổi bật, ưu thế
trong TDTT. Cũng có nơi để ra ngoài một phần đáng có của nó hoặc đưa vào trong đó
những nội dung còn đang gây nhiều bàn cãi. Sự sử dụng thuật ngữ này có lúc khá rộng (gần
như cả TDTT), có lúc lại rất hẹp (hầu như chỉ có thể thao đỉnh cao) mà không có ước định
trước nên đã gây ra nhiều khó khăn' trong hệ thống hoá, chuẩn mực hoá các thuật ngữ về
TDTT:
Trước hết, đó là một hoạt động trò chơi (trình độ khác nhiều so với các trò chơi thông
thường, đơn giản), một hình thức thi đấu đặc biệt, chủ yếu và phần nhiều bằng sự vận động
thể lực, nhằm phát huy những năng lực chuyên biệt, đạt những thành tích cao, cao nhất,
được so sánh trực tiếp và công bằng trong những đều kiện chuyên môn như nhau. Sự vươn
tới những thành tích cao nhất, tính chuyên biệt hoá, thi đấu và công diễn là những dấu hiệu
cơ bản của thể thao. Tuy vậy, mục đích của nó không chỉ đơn thuần dừng lại ở những thành
tích thi đấu trực tiếp. Trong nghệ thuật cũng có lúc có yếu tố đua tài, thi đấu (như thi giọng
hát hay, tay đàn giỏi...) nhưng không phải là thường xuyên, chuyên biệt, cơ bản. Mặc khác,
diễn biến và kết cục của thi đấu thể thao thường không biết trước.
Theo nghĩa rộng (khá phổ biến), thể thao không chỉ là hoạt động thi đấu biểu diễn đặc
biệt mà còn là sự chuẩn bị cho nó cùng những quan hệ, chuẩn mực, những thành tựu đạt
được trong hoạt động này.
Mặt khác, xét thật chặt chẽ và đầy đủ hơn, thể thao không hoàn toàn chỉ thuộc về TDTT
(tuy nó phụ thuộc chủ yếu vào lĩnh vực này). Trên nguyên tắc, bất kỳ một loại hình hoạt
động nào nhằm phát huy, hoàn thiện những năng lực của con người được tạo ra để làm đối
tượng cho thi đấu thể thao, tiến hành theo những quy luật của hoàn thiện thể thao đều có thể
thuộc về thể thao. Mặc dù, tuyệt đại bộ phận các môn thể thao hiện đại đều nằm trong lĩnh
vực văn hoá thể chất, nhưng từ lâu đã có một số môn tuy được gọi là thể thao nhưng không
có đặc trưng thể chất như trên, hoặc chỉ có rất ít (các môn cờ, thể thao mô hình hàng không