SlideShare a Scribd company logo
1 of 89
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ TÌNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ TÌNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ANH
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ luật học ―Quản lý nhà nước về giáo dục
pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam‖ là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các nhận định và kết luận trong luận văn là trung thực, khách quan và
chưa từng được công bố. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
Tác giả
Phạm Thị Tình
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN...........................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật
cho sinh viên ...........................................................................................................8
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp quản lý nhà nước
về giáo dục pháp luật cho sinh viên......................................................................19
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho
sinh viên và tiêu chí đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về giáo dục pháp
luật cho sinh viên ..................................................................................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO SINH VIÊN TẠI TỈNH HÀ NAM...................................................33
2.1. Khái quát về các yếu tố đặc thù của tỉnh Hà Nam có tác động tới quản lý
nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên......................................................33
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên tại tỉnh
Hà Nam.................................................................................................................38
2.3. Đánh giá chung quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên trên
địa bàn tỉnh Hà Nam .............................................................................................52
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỐI
VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH
VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM..............................................................58
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả đối với quản lý nhà nước về giáo dục pháp
luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam .........................................................58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đối với quản lý nhà nước về giáo dục pháp
luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam .........................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................79
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GDPL : Giáo dục pháp luật
HĐND : Hội đồng nhân dân
HĐPH : Hội đồng phối hợp
HĐPHPBGDPL : Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật
NQ : Nghị quyết
PBGDPL : Phổ biến giáo dục pháp luật
QLNN : Quản lý nhà nước
TW : Trung ương
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ hội nhập ở nước ta hiện nay, đa số sinh viên có ý chí phấn đấu
vươn lên trong học tập, có hoài bão khát khao lớn. Bên cạnh đó, dưới tác động của
nền kinh tế thị trường, kinh tế mở cửa và rất nhiều nguyên nhân khác, hành vi lệch
chuẩn của sinh viên cũng có xu hướng ngày càng tăng khiến gia đình và xã hội lo
lắng, phổ biến như : vi phạm giao thông, đua xe trái phép, cờ bạc, rượu chè, quay
cóp bài…có lối sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động
và học tập. Những phẩm chất ấy là kết quả của giáo dục không đồng bộ giữa nhà
trường, gia đình và xã hội; đồng thời cũng do trong thời gian khá dài, công tác
GDPL cho sinh viên còn hạn chế dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật trong giới trẻ
nói chung và sinh viên nói riêng có chiều hướng gia tăng. Một tỷ lệ không nhỏ sinh
viên còn hiểu về pháp luật một cách sơ sài, hời hợt. Nhiều sinh viên coi các môn học
pháp luật trong trường đại học, cao đẳng chỉ là môn phụ, thậm chí có những sinh viên
chưa phân biệt được hành vi hợp pháp với hành vi không hợp pháp giữa các loại vi
phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự…dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật một
cách đáng tiếc.
Ngoài ra những hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân tác động, thể hiện ở
việc nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác GDPL ở một số trường
chưa đúng mức, chương trình nội dung GDPL còn dàn trải chưa thống nhất giữa các
trường, hình thức và phương thức giáo dục còn chậm đổi mới, hoạt động giáo dục
ngoại khóa còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn, đội ngũ nhà giáo và cán bộ làm công tác
GDPL còn thiếu về số lượng, năng lực của một số cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu
trong công việc, cơ chế phối hợp giữa các chủ thể GDPL còn chưa đồng bộ.
Vì vậy GDPL trong các nhà trường, đặc biệt trong các trường cao đẳng, đại
học là rất quan trọng, nó góp phần đào tạo nhân lực, hình thành một cách vững chắc
những thế hệ người lao động mới đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại và
tương lai. Do đó, Đảng và Chính phủ đã ra những nghị quyết, chỉ thị trong đó đã
khẳng định rằng để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần đưa
việc GDPL vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học, trung học
2
chuyên nghiệp cùng toàn thể nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng khẳng định “các cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể phải
thường xuyên giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục
pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn
trọng pháp luật”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng nhấn
mạnh: “coi trọng công tác giáo dục tuyên truyền, giải thích pháp luật, đưa việc dạy
pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ
thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân”. Đặc biệt, Luật Phổ biến, giáo dục pháp
luật được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 đã quy định cụ thể về
GDPL nói chung và GDPL trong nhà trường nói riêng. Trong đó, tại Khoản 4 Điều
3 quy định: “Giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân được lồng ghép trong chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ
đào tạo; là một nội dung trong chương trình giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học”
Trên tinh thần ấy, các cơ quan chức năng đã phối hợp, từng bước triển khai
việc đưa GDPL vào các trường học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới
chương trình, mục tiêu giáo dục ở các hệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề. Trong chương trình chính khóa, GDPL trong nhà trường thực
hiện thông qua việc dạy và học các môn học pháp luật hoặc lồng ghép, tích hợp vào
các môn học có liên quan. Bên cạnh đó, GDPL cho sinh viên được các nhà trường
thực hiện thông qua các hoạt động ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Để công tác GDPL cho sinh viên đạt hiệu quả cao nhất thì cần có sự QLNN về
GDPL cho sinh viên. Bộ Tư pháp là cơ quan QLNN về công tác PBGDPL, vừa là
cơ quan thường trực của HĐPH công tác PBGDPL của Chính phủ; tăng cường sự
chủ động và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác
PBGDPL. Do đó, thời gian qua công tác QLNN về GDPL cho sinh viên đã đạt
nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực tiễn, công tác
này còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đi vào chiều rộng và chiều sâu nhất là ở các
trường cao đẳng, đại học, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề ở các tỉnh lẻ.
3
Nguyên nhân một phần là do công tác quản lý, chỉ đạo theo dõi đôn đốc, kiểm tra
chưa được sâu sát, kịp thời.
Thực tế hiện nay cho thấy, hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên trên cả
nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Hà
Nam là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, là cửa ngõ phía Nam của Thủ
Đô, là nơi giao thông thuận lợi với hầu hết các tỉnh thành trong cả nước và đang là
nơi thu hút để xây dựng rất nhiều các trường cao đẳng, đại học. Hiện tại, trên địa
bàn tỉnh Hà Nam có gần mười trường cao đẳng, đại học đang hoạt động với khoảng
gần mười nghìn sinh viên không chỉ đến từ tỉnh Hà Nam mà còn rất nhiều tỉnh
thành khác trong cả nước. Ở lứa tuổi này, nhiều bạn sinh viên có khát khao, hoài
bão lớn nhưng cũng còn rất nhiều bạn có những hành vi lệch chuẩn do ảnh hưởng
của nền kinh tế thị trường và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vì
vậy, nhu cầu GDPL cho sinh viên ngày một gia tăng. Trong khi đó, đội ngũ làm
công tác quản lý về giáo dục đào tạo cho sinh viên còn chưa đáp ứng yêu cầu, lúng
túng trong quản lý, điều hành. Đồng thời, cơ sở vật chất và kinh phí dành cho hoạt
động QLNN về GDPL cho sinh viên chưa được quan tâm đầu tư tương xứng với vị
trí và vai trò của công tác này.
Đứng trước yêu cầu mang tính cấp thiết nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: ―Quản lý
nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam‖ để làm đề
tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa cả về phương
diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý ở nước ta, vấn đề QLNN về GDPL được các chuyên
gia pháp luật, các nhà khoa học Việt Nam quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ,
mức độ khác nhau, cụ thể:
- Dưới góc độ nghiên cứu về GDPL cho các đối tượng khác nhau có các công
trình của các tác giả sau: Nguyễn Tất Viễn (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà
Nội [55]. Trần Ngọc Đường - Dương Thị Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp
luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hà Thị Tuyến (2011), Phổ biến pháp luật cho
4
người nông dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền, Luận văn Thạc sĩ. Phạm Hàn Lâm (2001), Giáo dục pháp luật
cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắc Lắc - thực trạng và giải pháp, Luận văn
Thạc sĩ Luật học. Đinh Thị Hoa (2005), Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở
tỉnh Ninh Thuận hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật. Lê Thị Thùy (2015), Giáo dục pháp
luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn Tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội [40]. Nguyễn Duy Lãm (2012), Sự cần
thiết và quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật- số chuyên đề tháng 10 năm 2012, Bộ Tư pháp, Hà Nội [26]. Lê Thị Thu Ba
(2006), Tăng cường vai trò của Hội đồng Phối hợp công tác PBGDPL đáp ứng đòi hỏi
của nhiệm vụ đưa pháp luật vào cuộc sống, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
năm 2006, Bộ Tư pháp, HàNội.
Trong các công trình trên, các tác giả đã chỉ rõ một số vấn đề lý luận về GDPL
như khái niệm, đặc điểm, nội dung, các yếu tố bảo đảm về GDPL. Đồng thời, từ
thực tiễn hoạt động GDPL, nhiều công trình đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác GDPL. Bên cạnh đó, một số công trình đi sâu phân tích, làm rõ khía
cạnh GDPL đối với học sinh, sinh viên trong nhà trường.
- Dưới góc độ nghiên cứu về QLNN về giáo dục đào tạo và GDPL cho các đối
tượng khác nhau có các công trình của các tác giả sau: Nguyễn Thị Thu Hà (2012),
Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phan Hồng Dương (2005), Phân cấp quản lý
nước về giáo dục đào tạo, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Hoàng Thị Tú Oanh (2007), Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo - Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội [31]. Phạm Đức Hoài (2009), Quản lý nhà nước về PBGDPL
trong Bộ Quốc Phòng hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công. Bạch
Tú Anh (2010), Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập tại Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính. Phan Thị Cẩm Ly
(2013), Đổi mới quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đại học từ thực tiễn
Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia [28].
5
Bùi Thành Hùng (2017), Quản lý nhà nước về PBGDPL cho sinh viên người dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học [23]. Dương
Hồng Nhung (2018), Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội
[30]. Đỗ Xuân Lân, Quản lý nhà nước về Phổ biển, giáo dục pháp luật thực trạng
và giải pháp nâng cao hiệu quả, http://pbgdpl.moj.gov.vn, 21/2/ 2017 [27].
Các công trình khoa học trên đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu về cơ sở lý
luận, thực tiễn QLNN, kinh nghiệm đối với công tác QLNN trên nhiều góc độ.
Nhưng có rất ít các công trình nghiên cứu QLNN về GDPL cho sinh viên. Đặc biệt,
chưa có công trình nào nghiên cứu về QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà
Nam. Đó chính là lý do để học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp những luận chứng khoa học để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và pháp luật
của QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. Đồng thời nghiên cứu thực
trạng QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. Từ đó, đề xuất các quan điểm
và giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật cơ bản của QLNN
về GDPL cho sinh viên.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, xác định những vấn đề lớn đang đặt ra trong
QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam.
- Đề xuất quan điểm, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về
GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học về QLNN về GDPL cho sinh viên.
- Hệ thống quy định pháp luật và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Trung
ương và tỉnh Hà Nam về QLNN về GDPL cho sinh viên.
- Thực tiễn hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam hiện nay.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu QLNN về GDPL cho sinh viên.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên
trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian 05 năm từ năm
2014 đến 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính
sách của nhà nước và chính quyền các cấp về QLNN về GDPL cho sinh viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong từng chương
như: Chương 1, sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp
diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp;
Chương 2, sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
đánh giá; Chương 3 sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá,
phương pháp tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận QLNN về GDPL cho sinh
viên. Qua đó, nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này,
góp phần ổn định chính trị tư tưởng, ý thức pháp luật, ngăn ngừa phòng chống
những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong nhà trường.
Luận văn xác định các yêu cầu, quan điểm và một số giải pháp có tính khả
thi, có khả năng ứng dụng trong công tác QLNN về GDPL cho sinh viên trên địa
bàn tỉnh Hà Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những đề xuất của luận văn có ý nghĩa nhất định trong việc QLNN về
GDPL cho sinh viên tỉnh Hà Nam cũng như có giá trị tham khảo cho các địa
phương có điều kiện tương tự như tỉnh Hà Nam.
7
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên
cứu liên quan sau này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về giáo
dục pháp luật cho sinh viên
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh
viên tại tỉnh Hà Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật
cho sinh viên
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.1.1.1. Giáo dục pháp luật cho sinh viên
Để tiếp cận với GDPL, trước hết các nhà khoa học xuất phát từ khái niệm
giáo dục. Theo quan niệm của khoa học sư phạm, giáo dục được tiếp cận dưới hai
nghĩa khác nhau:
- Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách được
tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ
giữa người giáo dục với người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh kinh
nghiệm của xã hội loài người
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là một phần của quá trình sư phạm, quá trình giáo
dục theo nghĩa rộng – Là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm,
thái độ, những nét tính cách của nhân cách XHCN, những hành vi và thói quen cư
xử đúng đắn trong xã hội.
Từ khái niệm giáo dục có thể thấy GDPL là hình thức giáo dục cụ thể, là “cái
riêng”, “cái đặc thù” trong mối quan hệ với giáo dục nói chung. Với tư cách là một
bộ phận trong hệ thống giáo dục, GDPL vừa mang những chung của giáo dục, sử
dụng các hình thức, phương pháp của giáo dục vừa có những nét đặc thù. Những nét
riêng đó được thể hiện ở mục đích giáo dục là hình thành tri thức (mục đích nhận
thức), hình thành tình cảm, lòng tin với pháp luật (mục đích cảm xúc) và xây dựng
thói quen thực hiện hành vi hợp pháp (mục đích hành vi).
GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nhận
thức hình thành ý thức pháp luật. Khái niệm GDPL có thể thấy là một dạng hoạt
động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật [30].
9
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng cho
nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật, tức là nếu làm tốt công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ có được sự tôn trọng pháp luật của
công dân
- Quan niệm thứ hai cho rằng: không có khái niệm GDPL. Quan điểm này cho
rằng, pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung và mọi chủ thể có nghĩa vụ
phải tuân thủ pháp luật; do vậy, không cần đặt ra vấn đề GDPL nữa.
- Quan niệm thứ ba: đồng nhất GDPL với tuyên truyền, phổ biến hay giải thích
pháp luật
- Quan niệm thứ tư: đồng nghĩa GDPL với dạy và học pháp luật ở các trường học,
còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì không phải là GDPL.
Trong quá trình phát triển của con người thì GDPL là một nội dung, một hoạt
động không thể thiếu. So sánh với tuyên truyền và phổ biến pháp luật thì GDPL có
tính toàn diện hơn. Tính toàn diện đó thể hiện ở chỗ GDPL vừa có tính định hướng
rõ ràng, vừa có tính hệ thống để bảo đảm đối tượng giáo dục được nâng cao cả về
kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật.
GDPL phải nhằm đạt tới sự hình thành ý thức tự giác trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về
pháp luật và các vấn đề liên quan [14]. Kết quả của GDPL không chỉ ở chỗ đối
tượng biết pháp luật quy định như thế nào mà còn hiểu vì sao lại quy định như vậy
để họ vận dụng pháp luật một cách chủ động, sáng tạo và chính xác.
Theo đó, GDPL là một phạm trù rộng lớn, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội,
của gia đình và nhà trường, trong đó vai trò định hướng, dẫn dắt bởi các nội dung
và hình thức giáo dục trong nhà trường có tầm quan trọng đặc biệt.
Từ các phân tích nêu trên có thể định nghĩa: Giáo dục pháp luật là hoạt động
có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng
giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri
thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật
hiện hành [30].
10
Thuật ngữ "sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng La-tinh "Student" có nghĩa là
người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Theo ngôn
ngữ Hán Việt thì "sinh viên" là người bước vào cuộc sống, cuộc đời. Còn theo Từ
điển tiếng Việt, khái niệm "sinh viên" được dùng để chỉ những người học ở bậc đại
học [29]
Theo Điều 59, Luật Giáo dục Đại học số: 08/2012/QH13 thì: "sinh viên"
được hiểu là người học của các cơ sở giáo dục đại học theo chương trình đào tạo
cao đẳng và chương trình đào tạo đại học.
GDPL cho sinh viên là rất quan trọng và cần thiết, vì sinh viên là đại diện của
một nhóm xã hội cơ động. Đặc biệt, đó là nhóm những người đang chuẩn bị bước
vào lao động sản xuất. Đứng về mặt quan hệ xã hội thì thời kỳ sinh viên là sự quá
độ của tuổi thanh niên từ những giai cấp và nhóm xã hội khác nhau chuyển thành
một nhóm xã hội mới: giới trí thức. Vì thế, sinh viên vừa là một bộ phận hữu cơ
của thanh niên, vừa là một bộ phận của giới trí thức[14]
Từ khái niệm chung về GDPL nói trên có thể hình thành khái niệm về GDPL
cho sinh viên: Giáo dục pháp luật cho sinh viên là hoạt động có định hướng, có tổ
chức, có chủ định của chủ thể giáo dục pháp luật tác động tới sinh viên thông qua
hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại khóa bằng các phương thức giáo dục
khác nhau nhằm mục đích trang bị cho họ tri thức pháp luật cơ bản, định hướng
phát triển nhân cách và tư cách công dân, nâng cao nhận thức, góp phần điều
chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân
thủ pháp luật và có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề, lĩnh
vực mà mình được đào tạo [14]
1.1.1.2. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về giáo dục
Khoa học về quản lý định nghĩa: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức,
có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các mặt chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội… thông qua hệ thống pháp luật, chính sách, các nguyên tắc, các
quy định và bằng các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng quản lý”. Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, quản lý
11
chính là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các công
cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Sự ra đời của nhà nước đã dẫn đến sự xuất hiện QLNN. QLNN phụ thuộc vào
chế độ lịch sử, chính trị, đặc điểm văn hóa, trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia qua các giai đoạn lịch sử. Trong toàn bộ hệ thống xã hội, có nhiều chủ thể tham
gia quản lý xã hội như: tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế,
các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội...Trong các chủ thể quản lý xã hội đó thì Nhà
nước là một chủ thể đặc biệt và QLNN có những điểm khác biệt sau:
Thứ nhất, chủ thể QLNN (theo nghĩa rộng) là các cơ quan, cá nhân trong bộ
máy nhà nước được trao quyền gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ
quan tư pháp.
Thứ hai, đối tượng QLNN là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt
động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên ngoài quốc gia.
Thứ ba, QLNN là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao...
Thứ tư, QLNN mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật và
các chính sách của nhà nước để quản lý xã hội.
Thứ năm, mục tiêu của QLNN là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển của toàn xã hội.
Từ những đặc điểm trên, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc
biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi của
cá nhân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và do các cơ quan
trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển xã hội [24, tr.55].
Theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền (chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước) trên cơ sở Hiến pháp, luật để tổ
chức đời sống xã hội theo Hiến pháp và luật. Như vậy, QLNN là một hình thức hoạt
động của nhà nước được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có
nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp luật, nghị quyết của cơ quan quyền lực
12
nhà nước để tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây
dựng kinh tế, văn hóa - xã hội và hành chính - chính trị. [30]
Từ khái niệm QLNN, có thể đưa đến khái niệm QLNN về giáo dục: QLNN về
giáo dục là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các
hoạt động giáo dục do các cơ quan quản lý có trách nhiệm về giáo dục của nhà nước
từ Trung ương đến địa phương tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục, duy trì kỷ cương, thỏa mãn
nhu cầu giáo dục của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.
1.1.1.3. Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
QLNN trong lĩnh vực GDPL cho sinh viên đã được Đảng và Nhà nước ta xác
định là một công việc trọng tâm, thường xuyên và liên tục của các cơ quan nhà
nước và của các cấp, các ngành. Trách nhiệm của nhà nước được xác định là: xây
dựng cơ chế phối hợp hoạt động GDPL có hiệu quả, phát huy trách nhiệm của các
cấp, các ngành, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội, nâng cao hiệu quả, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức và cá nhân
trong hoạt động GDPL cho đối tượng là sinh viên.
Trên cơ sở đó, có thề hiểu, QLNN về GDPL cho sinh viên là hoạt động của các
cơ quan QLNN (ban hành văn bản pháp luật, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật
về GDPL, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong GDPL...) nhằm bảo đảm hoạt
động GDPL cho sinh viên đạt được yêu cầu và mục đích đề ra.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
QLNN về GDPL cho sinh viên trước hết là một hoạt động QLNN về giáo dục
vì vậy nó cũng có đầy đủ các đặc điểm chung, đó là: Thứ nhất, tính quyền lực nhà
nước trong hoạt động quản lý. Đây là đặc điểm nổi bật của QLNN ở mọi lĩnh vực
nói chung và QLNN về giáo dục nói riêng. Biểu hiện:1) Điều kiện để thực hiện
quản QLNN về giáo dục là chủ thể quản lý về giáo dục phải có thẩm quyền và thẩm
quyền đó phải được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật; 2)
Phương tiện QLNN về giáo dục là các văn bản pháp luật; 3)Trong QLNN phải tuân
thủ thứ bậc chặt chẽ theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh phục tùng, tập trung dân
chủ tức là cơ quan QLNN về giáo dục cấp dưới phải phục tùng cấp trên, cấp địa
13
phương phải phục tùng cấp Trung ương. Bên cạnh đó các cấp QLNN về giáo dục
vẫn phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Thứ hai, kết hợp quản lý hành chính và
quản lý chuyên môn trong các hoạt động QLNN về giáo dục. Đặc điểm này thực
chất là để triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước quy định, các cơ
quan, tổ chức thay mặt nhà nước để triển khai sự nghiệp giáo dục và điều hành, điều
chỉnh các hoạt động giáo dục. Đây là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động
QLNN về giáo dục nhằm đảm bảo việc thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước
trở nên thống nhất và có hiệu quả cao, nói cách khác đó cách “hành chính hóa” các
hoạt động chuyên môn. Thứ ba, kết hợp Nhà nước – xã hội trong quá trình triển
khai QLNN về giáo dục. Giáo dục đào tạo là hoạt động mang tính xã hội cao. Đảng
ta đã nhấn mạnh: giáo dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân.
QLNN về giáo dục sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự tham gia đông đảo
lực lượng trong xã hội. Đây là đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong QLNN về
giáo dục.
Tuy nhiên, đối tượng của hoạt động QLNN về GDPL ở đây rất cụ thể đó là
sinh viên nên nó còn có các đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên là GDPL cho sinh viên.
GDPL cho sinh viên là một tất yếu khách quan, là một bộ phận cấu thành trong
chương trình giáo dục đại học, cao đẳng ở nước ta. Sinh viên là một tầng lớp trí
thức trẻ, hiện nay họ ngày càng phát huy và nỗ lực phấn đấu trong học tập và lao
động “vì ngày mai lập nghiệp”. Họ không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn rất
năng động, sáng tạo, chủ động và nhạy bén trong việc vận dụng những tri thức đã
học vào cuộc sống, tham gia tích cực các hoạt động xã hội. Tuy vậy, ở lứa tuổi
chớm thành niên này, các bạn sinh viên không tránh khỏi nhược điểm, hạn chế là
nhân cách chưa hoàn chỉnh, nông nổi, bồng bột, dễ bị kích động, khó kiềm chế, đôi
khi tự cao, tự mãn, thích tự do phóng khoáng, hay đua đòi và đặc biệt là hiểu biết về
pháp luật chưa hoàn thiện và sâu sắc. Những đặc điểm đó của sinh viên làm cho
hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên khác biệt hẳn với QLNN về GDPL cho
các đối tượng khác. Để hiểu rõ hơn về đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh
viên, chúng ta xem xét nội hàm của GDPL cho sinh viên được xác định trên cơ sở
14
mục đích của công tác này, bao gồm:1)Mục đích tổng quát của GDPL cho sinh viên
chính là góp phần hình thành và nâng cao văn hóa pháp lý cho sinh viên và toàn xã
hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN, xây dựng nhà nước pháp quyền; 2)Mục
đích cụ thể gồm: Mục đích nhận thức (nâng cao hiểu biết pháp luật cho sinh viên);
Mục đích cảm xúc (hình thành lòng tin vào pháp luật của sinh viên); Mục đích hành
vi (nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên); Mục đích góp phần
nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN trong quản lý xã hội và quản lý sinh viên.
Như vậy, từ đặc điểm và mục đích của việc GDPL cho sinh viên ta thấy GDPL
cho sinh viên tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường QLNN
bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình QLNN,
quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực,
chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý. GDPL cho sinh viên là sự tác
động có định hướng, có tổ chức nhằm hình thành tri thức, tình cảm và hành vi phù
hợp với quy định của pháp luật cho sinh viên để họ tự giác tuân thủ, thi hành pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật cho bản thân. Việc GDPL đó được thực hiện thông
qua hoạt động dạy và học pháp luật (cả chính khóa và ngoại khóa) trong các trường
đại học, cao đẳng nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, góp phần hình thành và bồi dưỡng ý thức công dân, sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực trong
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ 2, hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên mang tính quyền lực nhà nước
Nhà nước là bộ phận trung tâm của hệ thống chính trị, nhà nước là chủ thể duy
nhất nắm giữ quyền QLNN trên toàn xã hội. GDPL đối với sinh viên là một hoạt
động quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của toàn dân, vì vậy để hoạt động GDPL
đi theo đúng định hướng, đạt mục đích và hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải có sự quản
lý sát sao của nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, xuất phát từ đối tượng chịu sự
quản lý của hoạt động GDPL là sinh viên sẽ có những khác biệt so với các đối
tượng khác như học sinh, người khuyết tật, phụ nữ... Vì vậy, cách thức quản lý về
GDPL đối với sinh viên cũng khác so với những đối tượng nêu trên. Hoạt động
QLNN về GDPL cho sinh viên diễn ra ở các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa
15
phương. Nhà nước sẽ sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo việc thực hiện công
tác QLNN về GDPL đi vào thực tiễn. Vì vậy, hoạt động QLNN về GDPL cho mọi
đối tượng nói chung và cho sinh viên nói riêng đều mang quyền lực nhà nước.
QLNN được thực hiện thông qua hệ thống pháp luật, lúc này pháp luật trở thành
công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý cơ sở giáo dục và tổ chức thực hiện công tác
GDPL cho sinh viên. Mặt khác, bên cạnh pháp luật, nhà nước còn ban hành các chính
sách để quản lý hệ thống cơ sở giáo dục đối với sinh viên.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu QLNN về GDPL đối với sinh viên, trước hết cần
xây dựng một bộ máy nhà nước thực sự vững mạnh, với hệ thống cơ quan quản lý
đảm bảo, có đủ điều kiện và nguồn lực thực hiện chức năng quản lý. Đây là điều
kiện tiên quyết trước khi tổ chức thực thi hoạt động QLNN về GDPL đối với sinh
viên trên thực tế.
Thứ 3, QLNN về GDPL cho sinh viên hướng đến một xã hội ổn định và phát triển
Mục tiêu QLNN về GDPL đối với sinh viên, về tổng thể, đó là bảo đảm trật tự,
kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách của sinh
viên. Mỗi cấp học, mỗi ngành học có những mục tiêu cụ thể được quy định trong
Luật Giáo dục và các điều lệ nhà trường. QLNN về GDPL đối với sinh viên là
hướng đến một xã hội ổn định và phát triển, mà nền tảng chính là đối tượng sinh
viên. Đó là nhóm những người đang chuẩn bị bước vào lao động sản xuất, họ vừa là
một bộ phận hữu cơ của thanh niên, vừa là một bộ phận của giới trí thức. Qua đây
sẽ giáo dục ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, có thái độ tôn
trọng pháp luật của sinh viên; nhằm giáo dục toàn diện người lao động trí thức, lao
động có tay nghề trong tương lai; góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân
lực không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn năng động, sáng tạo hiểu biết pháp luật,
tuân thủ pháp luật, biết vận dụng pháp luật vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và
vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Thứ 4. QLNN về GDPL cho sinh viên cần một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn
chỉnh để quản lý, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong quản lý sinh viên
16
Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất cho nhà nước quản lý mọi mặt đời sống
xã hội, nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy
hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Sinh viên là một
tầng lớp trẻ tuổi đang trong quá trình học tập và rèn luyện, họ chưa có những tư
tưởng, quan niệm về các hiện tượng trong đời sống xã hội lại dễ chịu tác động ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường xã hội, vì vậy cần phải có “cái khung pháp lý” để
họ điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp, từ đó nâng cao được hiệu lực QLNN
đối với sinh viên.
Hiệu lực và hiệu quả trong quản lý sinh viên thể hiện ở việc: nhờ hệ thống
pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh cùng với sự QLNN về GDPL giúp cho sinh viên
có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề
cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và
quyền tự do của mỗi sinh viên. QLNN về GDPL cho sinh viên (đặc biệt ở các
tỉnh lẻ) tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường QLNN bằng
pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình QLNN,
quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực,
chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình QLNN về GDPL cho sinh viên tại địa
phương. QLNN về GDPL đối với sinh viên phải nhằm tạo lập một hệ thống pháp
luật đồng bộ, hoàn chỉnh, điều tiết được, quản lý được hệ thống cơ sở giáo dục,
đặc biệt ngăn ngừa và xử lý những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, vi phạm
pháp luật của sinh viên, những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho
mọi hoạt động GDPL được đảm bảo, với tinh thần “tất cả vì con người” - một
trong những mục tiêu trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam hướng tới.
1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.1.3.1. Góp phần triển khai thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
về giáo dục pháp luật
QLNN về GDPL cho sinh viên luôn là phương tiện để triển khai thực hiện chủ
chương, đường lối, chính sách của Đảng về GDPL. Sinh viên là bộ phận tiến bộ của
xã hội, có trình độ học vấn cao, có khả năng tiếp cận cái mới rất nhanh, biết thay đổi
17
linh hoạt, thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại. Họ đại diện
cho một thế hệ tiên tiến mới.Vì vậy, từ xưa đến nay, tương ứng với từng thời kỳ
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
quan tâm và ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách công tác QLNN về
GDPL cho sinh viên. Trên cơ sở những chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa và ghi nhận vào trong các quy định của pháp luật.
Sau đó, thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện chúng
trong thực tế bằng các hoạt động chuyên môn và bảo vệ các quy đinh pháp luật đó
thông qua các hoạt động thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật trong QLNN đối với hoạt động GDPL cho công dân
nói chung và cho sinh viên nói riêng.
1.1.3.2. Góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong quá trình
phát triển của đất nước
Sinh viên là bộ phận xã hội quan trọng của đất nước, QLNN về GDPL cho
sinh viên giữ vai trò nhất định trong ổn định chính trị và phát triển đất nước. GDPL
là một hình thức quan trọng để giữ vững lập trường chính trị cho mỗi công dân
trong đó có sinh viên. Do đó, trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia, sự quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này càng trở nên quan trọng. Sinh
viên lại là những người trẻ, có tri thức, có hoài bão, khát khao lớn; ở lứa tuổi này họ
cũng là những người rất năng động và nhiệt tình. Vì vậy, khi được trang bị những
hiểu biết về pháp luật, sinh viên sẽ có thể là những người uy tín trong việc tuyên
truyền, PBGDPL cho mọi người xung quanh. Từ đó, một lần nữa càng góp phần giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong quá trình phát triển của đất nước.
1.1.3.3. Bảo đảm tổ chức và phối hợp trong quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật
cho sinh viên.
Hoạt động GDPL cho sinh viên muốn đạt hiệu quả cao thì phải cần sự chung
tay góp sức của rất nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ thống xã hội, sự phối hợp của cả
gia đình, nhà trường và xã hội. Chỉ có QLNN mới bảo đảm được tổ chức và phối
hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức đó trong hoạt động này. Nhà nước bằng việc
tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về GDPL cho sinh viên, sử dụng bộ
18
máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật.., đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ máy tổ chức để
thực hiện những vấn đề QLNN, nhằm đưa chính sách phù hợp QLNN về GDPL cho
sinh viên vào thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện. Hình thành cơ chế phối
hợp hữu hiệu giữa cơ quan QLNN về GDPL cho sinh viên với các cấp trong hệ
thống tổ chức của Trung ương và cấp chính quyền địa phương. Tổ chức và quản lý
công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục phục vụ cho công
tác QLNN về GDPL cho sinh viên được tốt nhất.
1.1.3.4. Bảo đảm phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào tạo, xây dựng ý
thức pháp luật cho thế hệ trẻ, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước,
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Thực hiện tốt công tác QLNN về GDPL cho sinh viên sẽ là cơ sở để phát triển
vững chắc sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung, giáo dục và đào tạo cho sinh viên
nói riêng. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp giáo dục và đào tạo rất cần vai trò quản lý của
nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực GDPL đối với sinh viên. Ý thức pháp luật của
sinh viên được hình thành từ hai yếu tố: tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật.
Khi công tác GDPL được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục
lúc đó ý thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên sẽ được nâng cao. GDPL
góp phần củng cố những tri thức pháp luật được học trong nhà trường, bồi dưỡng
tình cảm, niềm tin pháp luật, đồng thời rèn luyện, uốn nắn và hình thành những
hành vi ứng xử theo chuẩn mực pháp luật đã quy định. GDPL trong nhà trường giúp
sinh viên tiếp cận pháp luật toàn diện hơn, đầy đủ hơn, thấm sâu hơn, vượt qua rào
cản khô khan của ngôn ngữ văn bản, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp
luật của sinh viên. Thực hiện tốt hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên sẽ góp
phần đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước ngay từ khi các em
còn ngồi trên ghế giảng đường để các em phát triển bản thân một cách tự tin và
trưởng thành, chuẩn bị hành trang tốt nhất cho quá trình làm việc sau khi ra trường,
góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
19
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp quản lý nhà nước
về giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên.
Chủ thể của QLNN về GDPL cho sinh viên là các cơ quan QLNN từ Trung ương
đến cơ sở. Luật PBGDPL xác định rõ chủ thể QLNN về GDPL cho sinh viên gồm:
1.2.1.1. Chính phủ
Chính phủ thống nhất QLNN về GDPL cho sinh viên.
Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính
phủ trong tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, gồm :
- Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được
giao; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ và của chính quyền địa phương; kiểm tra việc thi hành các văn bản
đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật.
- Quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước; chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết,
nghị định, chương trình công tác của Chính phủ.
- Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Hiến pháp và
pháp luật; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các nguồn lực khác để
thi hành Hiến pháp và pháp luật; thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp,
bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước, thi hành án.
- Tổng hợp đánh giá tình hình thi hành Hiến pháp, pháp luật và báo cáo với
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước theo quy định của phápluật.
1.2.1.2. Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về GDPL cho
sinh viên; chủ trì xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình, kế
hoạch dài hạn, trung hạn về GDPL cho sinh viên; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu
20
quốc gia về pháp luật cho sinh viên.
Khoản 12 Điều 2 Nghị định 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu, tổ chức của Bộ Tư pháp nêu rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ Tư pháp trong lĩnh vực PBGDPL cho sinh viên gồm:
- Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện công tác PBGDPL cho sinh viên;
- Thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thường trực HĐPHPBGDPL ở TW;
- Công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật theo quy định pháp luật;
- Hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường,
thị trấn, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và trường học.
1.2.1.3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện QLNN về
GDPL cho sinh viên. Cụ thể:
- Ban hành theo thẩm quyền chương trình, đề án, kế hoạch GDPL cho sinh
viên và chỉ đạo hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý triển khai
thực hiện.
- Xác định nội dung và hình thức GDPL phù hợp với đối tượng sinh viên; biên
soạn tài liệu và phổ biến kiến thức pháp luật chuyên ngành; bảo đảm quyền được
thông tin về pháp luật của sinh viên;
- Tổ chức PBGDPL cho cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ chiến sỹ trong
lực lượng vũ trang nhân dân thuộc phạm vi quản lý, chú trọng thực hiện thông qua
PBGDPL trực tiếp, cung cấp văn bản quy phạm pháp luật, trang thông tin điện tử
của cơ quan, các khóa học, lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn;
- Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật cho sinh viên
của bộ, ngành;
- Chỉ đạo các trường thuộc phạm vi quản lý tổ chức GDPL trong cơ sở giáo
dục; bố trí, chuẩn hóa, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên dạy pháp luật.
- Đối với công tác GDPL cho sinh viên trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo
dục quốc dân, Luật PBGDPL quy định Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm ban hành
chương trình giáo dục pháp luật phù hợp với cấp học và trình độ đào tạo; quy định thời
21
gian, lộ trình hoàn thành chuẩn hóa giảng viên dạy pháp luật. Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội ban hành chương trình GDPL trong các cơ sở dạy nghề.
- Ngoài ra, theo Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 19/12/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân thì : bộ, ngành nào chủ trì dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật thì bộ, ngành đó phải chịu trách nhiệm chính về
phổ biến và thực hiện văn bản pháp luật đó trong cán bộ, công chức của bộ, ngành
mình; đồng thời có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp, các đoàn thể ở trung
ương và chính quyền các cấp triển khai GDPL cho sinh viên.
1.2.1.4. Chính quyền địa phương các cấp
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, Luật PBGDPL quy định:
HĐND các cấp có trách nhiệm:
Quyết định các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDPL cho sinh
viên; phân bổ dự toán ngân sách địa phương cho công tác GDPL cho sinh viên ;
- Giám sát việc thực hiện pháp luật về GDPL cho sinh viên.
UBND các cấp có trách nhiệm:
- Ban hành theo thẩm quyền chương trình, kế hoạch, đề án về GDPL cho sinh
viên;
- Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểmtra công tác GDPL cho sinh viên;
- Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên
truyền viên pháp luật cho sinh viên; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giảng viên giảng
dạy pháp luật theo quy định của pháp luật;
1.2.2. Đối tượng của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên là hệ thống các thiết chế, chủ thể
thực hiện mọi hoạt động GDPL cho sinh viên trong phạm vi cả nước.
Đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên gồm:
Một là, Hội đồng phối hợp PBGDPL
Theo điều Điều 7 của Luật PBGDPL thì HĐPHPBGDPL được thành lập ở
Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, là cơ quan tư vấn cho Chính phủ, UBND cấp tỉnh và cấp huyện về công
22
tác GDPL cho sinh viên và huy động nguồn lực cho công tác GDPL cho sinh viên;
và cơ quan thường trực HĐPHPBGDPL của Chính phủ là Bộ Tư pháp, của UBND
cấp tỉnh là Sở Tư pháp, của UBND cấp huyện là Phòng Tư pháp.
Theo Điều 1, Quy chế hoạt động của HĐPHPBGDPL thì HĐPHPBGDPL
của Chính phủ, là tổ chức phối hợp chỉ đạo giữa các cơ quan, ban, ngành, tổ chức ở
trung ương và địa phương về công tác GDPL cho sinh viên; duy trì hoạt động phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, hỗ trợ các cơ
quan, tổ chức đẩy mạnh công tác GDPL cho sinh viên.
Trên cơ sở kế hoạch chung của Chính phủ, HĐPH PBGDPL có nhiệm vụ đề ra
kế hoạch GDPL cho sinh viên hàng năm; chỉ đạo, hướng dẫn và thường xuyên kiểm
tra, đôn đốc các cấp, các ngành và địa phương thực hiện GDPL; sơ kết, tổng kết và tổ
chức thi đua khen thưởng về công tác GDPL trên phạm vi cả nước; thực hiện một số
nhiệm vụ khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ [6].
Hai là, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và thành viên các tổ hòa giải
ở cơ sở.
Báo cáo viên pháp luật cho sinh viên: là cá nhân có phẩm chất đạo đức tốt,
lập trường tư tưởng vững vàng, có uy tín trong công tác; có khả năng truyền đạt; có
bằng tốt nghiệp đại học luật và thời gian công tác trong lĩnh vực pháp luật ít nhất 2
năm; trường hợp không có bằng tốt nghiệp đại học luật nhưng có bằng tốt nghiệp
đại học khác phải có thời gian công tác liên quan đến pháp luật ít nhất 3 năm. Báo
cáo viên pháp luật phải được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận. Trình
tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quy định.
Tuyên truyền viên pháp luật cho sinh viên: là người có uy tín, kiến thức, am
hiểu về pháp luật, được xem xét để công nhận là tuyên truyền viên pháp luật ở xã,
phường, thị trấn hoặc được mời tham gia GDPL cho sinh viên ở cơ sở. Chủ tịch
UBND cấp xã quyết định công nhận tuyên truyền viên pháp luật.
Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và thành viên các tổ hòa giải ở cơ sở
đều phải thực hiện các nhiệm vụ được HĐPH PBGDPL ở mỗi cấp phân công, chịu
23
sự quản lý của chính quyền địa phương của cấp đó, cụ thể:
- Tham gia vào một ban hoặc một lĩnh vực công tác của HĐPH PBGDPL
phân công.
- Tham dự các phiên họp của HĐPH PBGDPL. Nếu vắng mặt phải báo cáo
Chủ tịch HĐPHPBGDPL; đồng thời cử người tham dự phiên họp, gửi ý kiến của
mình bằng văn bản về các vấn đề được thảo luận tại phiên họp để cơ quan thường
trực tổng hợp, báo cáo;
- Đề xuất với HĐPH PBGDPL, với các ban của hội đồng các biện pháp phối
hợp và tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo hiệu quả GDPL cho sinh viên; đề nghị
HĐPH PBGDPL, các ban của hội đồng hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh công tác
GDPL cho sinh viên ở các cơ sở giáo dục;
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo các đơn vị được phân công phụ trách
về việc thực hiện kế hoạch GDPL cho sinh viên của Chính phủ, của hội đồng và
thường xuyên thông tin cho cơ quan thường trực về tình hình, kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao;
- Thực hiện một số nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch hoặc Phó
Chủ tịch HĐPHPBGDPL, Trưởng ban mà mình là thành viên;
- Được cung cấp các tài liệu GDPL cho sinh viên.
Ba là, đội ngũ giảng viên tại các trường cao đẳng, đại học
Đội ngũ giảng viên tại các trường cao đẳng, đại học được gọi là nhà giáo.
Theo Khoản 2 Điều 70 Luật Giáo dục năm 2005 quy định nhà giáo phải có những
tiêu chuẩn như: phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo
về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân
rõ ràng. Theo đó, đội ngũ giảng viên tại các trường cao đẳng, đại học dạy các môn
pháp luật là lực lượng nòng cốt, trực tiếp thực hiện hoạt động GDPL cho sinh viên.
Vì vậy, đội ngũ này cần được đảm bảo tiêu chuẩn về số lượng và chất lượng.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương tăng cường GDPL trong
nhà trường thông qua các chương trình môn học, giáo trình, tài liệu giảng dạy pháp
luật đảm bảo đúng tinh thần và nội dung của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Vì
vậy, môn pháp luật là môn học quan trọng trong chương trình đào tạo đại học, cao
24
đẳng và trung học chuyên nghiệp được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt trong đề
cương chương trình chung và đã được đưa vào giảng dạy chính thức tại các trường
trên cả nước.
Môn pháp luật là môn học cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản
nhất về nhà nước và pháp luật, các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam
(Luật Hiến pháp, Pháp luật Dân sự, Pháp luật Lao động, Luật Hành chính, Pháp luật
Hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng) và
Luật quốc tế. Bên cạnh trang bị những kiến thức cơ bản cho sinh viên về pháp luật,
môn học còn xây dựng ý thức “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”cho mỗi
cá nhân.Trên cơ sở đó giúp họ hình thành ý thức và thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật. Ngoài ra, môn học pháp luật còn giúp sinh viên có điều kiện dễ tiếp
thu kiến thức với các môn học khác có liên quan đến pháp luật, vì đây là những kiến
thức có tính chất đại cương, nền tảng về nhà nước và pháp luật Việt Nam.
Như vậy, môn pháp luật là một môn rất quan trọng, góp phần giáo dục toàn
diện cho sinh viên, vì vậy giảng viên dạy pháp luật không chỉ là người đáp ứng đủ tiêu
chuẩn của một nhà giáo nói chung mà phải có trình độ chuyên môn nghề nghiệp mới
có thể truyền thụ được những kiến thức cơ bản về pháp luật cho sinh viên.
1.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Khoản 1 Điều 6 Luật PBGDPL quy định cụ thể các nội dung QLNN về
GDPL cho sinh viên, bao gồm:
- Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch
về GDPL cho sinh viên;
- Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác GDPL cho sinh viên;
- Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ GDPL cho sinh viên;
- Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật cho sinh viên;
- Thống kê, tổng kết về GDPL cho sinh viên;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm trong
GDPL cho sinh viên;
- Hợp tác quốc tế về GDPL cho sinh viên.
25
1.2.4. Hình thức của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Điều 11 của Luật PBGDPL đã quy định rất cụ thể về hình thức PBGDPL cho
sinh viên. Hình thức QLNN về GDPL được chia làm 2 nhóm: hình thức mang tính
pháp lý và hình thức không mang tính pháp lý
Hình thức mang tính pháp lý
- Ban hành văn bản có tính chất chủ đạo: là văn bản do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành nhằm đề ra những chủ trương, nhiệm vụ, biện pháp lớn về
GDPL cho sinh viên. Đây là cơ sở trực tiếp để ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định, quy định những quy tắc xử sự
chung trong lĩnh vực QLNN về GDPL cho sinh viên (VD: các Luật, Nghị định của
Chính phủ điều chỉnh về PBGDPL...)
- Ban hành văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật): Là loại văn bản do
các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình nhằm giải quyết những vụ việc cụ thể về GDPL cho sinh viên.
(VD: Quyết định cá biệt của UBND về công tác PBGDPL...)
- Văn bản hành chính thông thường: là những văn bản mang tính thông tin,
phản ánh tình hình, trao đổi, đề xuất công việc của các cơ quan QLNN về GDPL
cho sinh viên (VD: công văn hướng dẫn về PBGDPL...)
- Các hình thức mang tính pháp lý khác như: hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân
tham gia GDPL cho sinh viên, cung cấp các dịch vụ về trợ giúp pháp lý, tư vấn
pháp luật cho sinh viên...
Hình thức không mang tính pháp lý
- Tiến hành các hoạt động tổ chức trực tiếp như tổ chức hội nghị, hội thảo nhằm
triển khai kế hoạch, truyền đạt chủ trương, chính sách về GDPL cho sinh viên.
- Hoạt động điều hành công tác GDPL cho sinh viên bằng các phương tiện
thông tin, kỹ thuật hiện đại như mạng máy tính, chính phủ điệntử...
1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Phương pháp QLNN về GDPL cho sinh viên có thể hiểu là các cách thức,
biện pháp sử dụng để tiến hành hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên. Có rất
nhiều phương pháp QLNN trong lĩnh vực này như: phương pháp thuyết phục,
26
phương pháp hành chính, phương pháp cưỡng chế, phương pháp kinh tế, phương
pháp điều tra...Tuy nhiên, các phương pháp QLNN về GDPL cho sinh viên mang
tính phổ biến, truyền thống hiện nay đang được sử dụng gồm:
- Phương pháp QLNN đối với hoạt động GDPL cho sinh viên trong nhà
trường. Đây là phương pháp phổ biến, điển hình nhất đang được áp dụng hiện nay.
Quản lý bằng cách thông qua môn học pháp luật với nội dung, chương trình, tài liệu
học tập và đội ngũ giảng viên giảng dạy để tổ chức thực hiện những nội dung
GDPL cho sinh viên do Bộ GD & ĐT quy định nhằm nâng cao nhận thức về pháp
luật cho sinh viên.
- Phương pháp QLNN đối với hoạt động GDPL cho sinh viên trong môi
trường xã hội. Đây là phương pháp mang tính hỗ trợ, phụ trợ nhưng giữ vai trò rất
quan trọng khi sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên
là rất cao. Phương pháp này hướng đến quản lý trật tự xã hội, trong đó có QLNN về
GDPL cho sinh viên. Phương pháp QLNN đối với GDPL cho sinh viên trong môi
trường xã hội có thể thông qua những thiết chế như thanh niên, phụ nữ, ... Phương
pháp QLNN về GDPL cho sinh viên thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, bao
gồm: hoạt động tuyên truyền; thông qua hệ thống báo chí, sách tham khảo, hướng
dẫn, giải thích pháp luật, mạng internet... Hoạt động tập thể như sinh hoạt đoàn, dã
ngoại, tham quan, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, lao động...
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho
sinh viên và tiêu chí đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về giáo dục pháp
luật cho sinh viên
1.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho
sinh viên
1.3.1.1. Nhận thức về quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Nhận thức là khâu đầu tiên, quan trọng và có tính chất quyết định đối với
QLNN về GDPL cho sinh viên. Nếu có nhận thức tốt về vị trí và tầm quan trọng của
QLNN về GDPL cho sinh viên thì công tác GDPL cho sinh viên sẽ được các cấp
Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, đầu tư thích đáng; hệ thống pháp luật về
GDPL cho sinh viên sẽ được hoàn thiện hơn, các hoạt động GDPL cho sinh viên sẽ
27
được triển khai toàn diện và sâu sắc. Ngược lại, nếu nhận thức chưa tốt, chưa đầy đủ
sẽ gây ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả công tác GDPL cho
sinh viên, ngoài ra còn có thể dẫn đến tính hình thức, phong trào hoặc không theo
kịp tình hình thực tiễn của hoạt động GDPL cho sinh viên.
Trong những năm qua, nhận thức về QLNN về GDPL cho sinh viên đã có
nhiều cố gắng và thu được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên, so với yêu cầu về
thực hiện “quản lý nhà nước bằng pháp luật” vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất
định, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả GDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của sinh viên. Chính những yếu tố này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng
QLNN về GDPL cho sinh viên. Thực tế tại Hà Nam, vẫn còn một số cấp uỷ, tổ chức
đảng chưa quan tâm đúng mức đến việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai công tác GDPL
cho sinh viên; chưa quan tâm chỉ đạo tổng kết và nhân rộng các mô hình GDPL cho
sinh viên tốt tại cơ sở; chưa coi công tác này “là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị”; còn tình trạng cấp
uỷ đảng coi GDPL cho sinh viên là nhiệm vụ riêng của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức đoàn thể và các trường cao đẳng, đại học nên thiếu kiểm tra, đôn đốc
thường xuyên. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tích cực tham gia vào các hoạt
động GDPL cho sinh viên; chưa thực sự gương mẫu chấp hành pháp luật, lời nói
chưa đi đôi với việc làm, từ đó làm ảnh hưởng không tốt đến công tác GDPL cho
sinh viên [16].
1.3.1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho quản lý nhà
nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về GDPL cho sinh viên chính là
cơ pháp lý cho QLNN về GDPL cho sinh viên. Các văn bản của Đảng và Nhà nước
về GDPL cho sinh viên sẽ tạo cơ sở quan trọng để các cấp, các ngành triển khai
mạnh mẽ công tác GDPL cho sinh viên; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức
và hành động của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương về vai trò của QLNN về
GDPL cho sinh viên. Vì vậy, nếu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp
lý cho QLNN về GDPL cho sinh viên thiếu đồng bộ, chồng chéo hoặc bỏ trống thì việc
triển khai các hoạt động GDPL cho sinh viên sẽ bị động, lúng túng và thiếu sự ổn định.
28
Ngược lại, các quy định của pháp luật về GDPL cho sinh viên ngày càng được hoàn
thiện đồng nghĩa với việc công tác GDPL cho sinh viên ngày càng được khẳng định,
chất lượng QLNN về GDPL cho sinh viên ngày càng được nâng cao.
Sau hơn 30 năm đổi mới, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã không
ngừng được phát triển và hoàn thiện, thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào việc ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế
và quan trọng nhất là tạo tiền đề cho việc xây dựng nhà nước quản lý bằng pháp
luật. Tuy vậy, hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta còn nhiều hạn chế, làm giảm
hiệu lực của nó trong cuộc sống và ảnh hưởng đến khâu thực thi pháp luật. Các văn
bản pháp luật đa số đều có khiếm khuyết chung như: thiếu cụ thể, thiếu rõ ràng; còn
trùng lặp chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi;
tính ổn định của hệ thống quy phạm còn yếu. Bên cạnh đó, trong thời gian khá dài,
công tác rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú
trọng; vì vậy, trong thực tế còn tình trạng khó phân biệt văn bản nào còn hiệu lực,
văn bản nào đã hết hiệu lực. Hệ thống pháp luật như thế làm cho ngay cả những cán
bộ, công chức, những người có trách nhiệm thực thi pháp luật cũng gặp khó khăn.
Như vậy, một hệ thống pháp luật muốn phát huy tác dụng tốt trong cuộc sống, thì
phải đảm bảo các yếu tố đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch theo
đúng tinh thần của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 [23].
1.3.1.3. Năng lực quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Năng lực QLNN về GDPL cho sinh viên là khả năng thực hiện chức năng
QLNN của bộ máy hành chính nhà nước trong lĩnh vực GDPL cho sinh viên. Năng
lực QLNN về GDPL cho sinh viên quyết định hiệu lực, hiệu quả của công tác
GDPL cho sinh viên và ngược lại hiệu lực, hiệu quả GDPL cho sinh viên chính là
biểu hiện thực tiễn về năng lực QLNN về GDPL cho sinh viên.
Đánh giá năng lực QLNN về GDPL cho sinh viên ảnh hưởng bởi các yếu tố:
chất lượng của hệ thống thể chế về GDPL cho sinh viên; chất lượng của bộ máy
hành chính trong đó có phân định rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa
các cơ quan, tổ chức trong hệ thống hành chính; số lượng, chất lượng của đội ngũ
29
cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ về GDPL cho sinh viên; việc bảo đảm
các nguồn lực vật chất cho công tác GDPL cho sinh viên.
Như vậy, để nâng cao năng lực QLNN, nhà nước ta đã tiến hành cải cách
hành chính nói chung và trong lĩnh vực GDPL nói riêng để tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng một nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa, đội ngũ cán bộ công chức có đủ
phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu quả và
như vậy công tác giáo GDPL mới đạt được kết quả như mong muốn.
1.3.1.4.Cơ sở vật chất và kinh phí đảm bảo cho quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật
cho sinhviên.
Ngoài yếu tố con người thì yếu tố nguồn lực về vật chất và kinh phí đảm bảo
cho hoạt động GDPL cho sinh viên cũng là yếu tố rất quan trọng đảm bảo hiệu quả
thực hiện GDPL cho sinh viên trên thực tế. Các quy định của pháp luật sẽ chỉ nằm
trên văn bản nếu công tác GDPL cho sinh viên không được quan tâm đầu tư. Ngược
lại, nếu được đầu tư thỏa đáng thì công tác GDPL cho sinh viên sẽ đạt hiệu quả cao.
Hiện nay, kinh phí dành cho hoạt động GDPL cho sinh viên ở các địa phương còn
hết sức khiêm tốn vì nguồn thu không nhiều. Do chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng và
đủ mạnh nên địa phương nào quan tâm đến công tác GDPL cho sinh viên thì dự trù
hoặc cấp kinh phí phù hợp và ngược lại, dẫn đến sự không đồng đều trong mặt bằng
GDPL cho sinh viên ở các địa phương, đơn vị. Vì vậy, nguồn kinh phí đảm bảo cho
công tác GDPL cho sinh viên cần được quy định cụ thể, được đảm bảo
từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn lực hỗ trợ khác.
1.3.2. Những tiêu chí đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật
cho sinh viên
Theo Thông tư số 03/2018/TT - BTP ngày 10/03/2018 của Bộ Tư pháp về
quy định Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL thì để đánh giá hiệu quả
QLNN về GDPL cho sinh viên dựa vào 5 nhóm tiêu chí sau:
Một là, nhóm tiêu chí thực hiện chức năng QLNN về GDPL
30
- Đánh giá hiệu quả của QLNN về GDPL cho sinh viên trên cơ sở việc ban
hành theo thẩm quyền các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
nghiệp vụ công tác GDPL cho sinh viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý;
- Tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
nghiệp vụ công tác GDPL cho sinh viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý;
- Về thời điểm ban hành các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
nghiệp vụ công tác GDPL cho sinh viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý;
- Xác định nội dung và hình thức GDPL phù hợp với nhóm đối tượng là sinh
viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý;
- Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ GDPL cho sinh
viên theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức cập nhật văn bản quy phạm pháp luật lên cơ sở dữ liệu quốc gia về
pháp luật theo quy định tại Điều 13, Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 5
năm 2015 của Chính phủ;
- Thống kê, báo cáo, tổng kết, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, xử lý vi phạm pháp luật về GDPL cho sinh viên theo quy định của pháp luật.
Hai là, nhóm tiêu chí triển khai các hoạt động GDPL
- Thực hiện trách nhiệm đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện
tử theo quy định tại Điều 13 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Tổ chức GDPL cho cán bộ, công chức, viên chức người lao động thuộc
phạm vi quản lý;
- Tổ chức truyền thông, phổ biến các văn bản, chính sách pháp luật mới
thuộc phạm vi lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý bằng một trong các hình thức
quy định tại Điều 11 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Chỉ đạo các nhà trường, cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc phạm vi quản lý
tổ chức GDPL trong cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp; bố trí, chuẩn hóa,
bồi dưỡng đội ngũ giảng viên dạy pháp luật thuộc phạm vi quản lý;
- Chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, tổ chức, đơn vị trực
thuộc triển khai các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
31
Ba là, nhóm tiêu chí về các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác GDPL
- Xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả đội ngũ báo cáo viên
pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật theo quy định của pháp luật
- Bảo đảm tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác GDPL theo quy định của
pháp luật
- Bảo đảm kinh phí cho công tác GDPL theo quy định của pháp luật
- Bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác GDPL theo quy định của
pháp luật
Bốn là, nhóm tiêu chí đánh giá hiệu quả tác động của công tác GDPL đối
với xã hội
- Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tự học
tập, chủ động tìm hiểu pháp luật
- Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động biết pháp luật
- Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hiểu pháp luật
- Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hài lòng
về chất lượng hoạt động GDPL
- Tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý
do không hiểu biết pháp luật giảm
Năm là, nhóm tiêu chí khác
Đối với bộ, cơ quan ngang bộ:
- Thực hiện đầy đủ trách nhiệm họp báo, thông cáo báo chí về văn bản quy
phạm pháp luật do mình chủ trì soạn thảo theo quy định tại Điều 12 Luật PBGDPL.
Trường hợp thực hiện không đầy đủ thì điểm số đạt được tương ứng với số điểm tối
đa nhân với tỷ lệ % mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao; không thực hiện trách
nhiệm được giao
- Tổ chức biên soạn tài liệu và phổ biến kiến thức pháp luật chuyên ngành
bằng hình thức thích hợp. Trường hợp thực hiện không đầy đủ thì điểm số đạt được
tương ứng với số điểm tối đa nhân với tỷ lệ % mức độ hoàn thành nhiệm vụ được
giao; không thực hiện trách nhiệm được giao
Đối với UBND cấp tỉnh
32
- Củng cố, kiện toàn, triển khai thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của HĐPHPBGDPL cấp tỉnh
- Đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐPHPBGDPL cấp tỉnh
- Chỉ đạo, hướng dẫn việc củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐPHPBGDPL cấp huyện
- Chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện công tác GDPL cho sinh viên
33
Tiểu kết Chương 1
QLNN về GDPL cho sinh viên là nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời cũng là
trách nhiệm chung của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong đó nhà
nước giữ vai trò nòng cốt, khuyến khích, hướng dẫn, huy động sự tham gia, đóng
góp của xã hội vào công tác này.
Trong chương 1, tác giả đã đề cập đến những vấn đề lý luận và pháp luật của
QLNN về GDPL cho sinh viên. Theo đó, tác giả đi vào phân tích, làm rõ khái niệm,
đặc điểm, vai trò của QLNN về GDPL cho sinh viên. Đồng thời, từ quy định của
Luật PBGDPL, tác giả đã chỉ rõ chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương
pháp QLNN về GDPL cho sinh viên. Cuối cùng, để có thể tìm ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên tại Chương 3, tác giả đã
nêu và phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới QLNN về GDPL cho sinh viên và
những tiêu chí đánh giá hiệu quả của QLNN về GDPL cho sinh viên.
Những nội dung về lý luận và pháp lý được trình bày trong Chương 1 sẽ là
luận cứ khoa học để phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về GDPL cho sinh viên
trên địa bàn tỉnh Hà Nam trong Chương 2, cũng như xây dựng quan điểm và giải
pháp để nâng cao hiệu quả công tác QLNN về GDPL cho sinh viên trên địa bàn tỉnh
Hà Nam sẽ được đề cập đến trong Chương 3 của Luận văn.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TẠI TỈNH HÀ NAM
2.1. Khái quát về các yếu tố đặc thù của tỉnh Hà Nam có tác động tới quản lý
nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và khả năng ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo
dục pháp luật cho sinh viên.
Hà Nam là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, là cửa ngõ phía nam của thủ đô
(cách thủ đô Hà Nội gần 60 km); phía bắc giáp với tỉnh Hà Tây, phía đông giáp với
Hưng Yên và Thái Bình, phía nam giáp Nam Định và Ninh Bình, phía tây giáp Hòa
Bình. Hơn nữa, Hà Nam nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc-Nam, trên
địa bàn tỉnh có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua với chiều dài gần 50
km và rất nhiều tuyến đường giao thông quan trọng như quốc lộ 21, quốc lộ 21B,
quốc lộ 38. Với vị trí chiến lược quan trọng cùng hệ thống giao thông thủy, bộ, sắt
rất thuận lợi đã tạo cho Hà Nam những lợi thế rất lớn trong việc giao lưu kinh tế,
văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật... với các tỉnh trong vùng và cả nước, đặc biệt
là với thủ đô Hà Nội và vùng trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ.
Bên cạnh đó, Hà Nam có rất nhiều nguồn lực quan trọng để phát triển kinh
tế. Diện tích tự nhiên của Hà Nam là 851 km2
, nằm trong vùng trũng của đồng bằng
sông Hồng với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm đặc trưng. Phía tây của
tỉnh là vùng đồi núi bán sơn địa với các dãy núi đá vôi, núi đất và đồi rừng rất thích
hợp với các loại cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả. Phía đông của tỉnh
là vùng đồng bằng được tạo nên bởi phù sa của sông Đáy, sông Châu, sông Hồng
nên đất đai rất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp như trồng lúa nước,
hoa màu, rau, đậu, thực phẩm. Những dải đất bồi ven các con sông đặc biệt thích
hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây hoa màu, cây ăn quả và nơi đây
cũng rất thuận lợi cho việc nuôi trồng, đánh bắt thủy sản và phát triển nghề chăn
nuôi gia cầm dưới nước.
Đặc biệt Hà Nam được thiên nhiên ưu đãi sở hữu nguồn tài nguyên khoáng
sản rất lớn là đá vôi với trữ lượng tới hơn 7 tỷ m3
. Đó là nguyên liệu rất quan trọng
34
cho phát triển các ngành công nghiệp sản xuất xi măng, vôi, bột nhẹ, làm vật liệu
xây dựng. Các tài nguyên khoáng sản này phần lớn phân bố gần các trục đường giao
thông, thuận tiện cho việc khai thác, sản xuất, vận chuyển và lưu thông. Sản phẩm
xi măng Bút Sơn của Hà Nam hiện đã có mặt trên hầu hết các tỉnh thành và công
trình xây dựng lớn của đất nước. Với nguồn khoáng sản dồi dào đó, trong tương lai,
Hà Nam sẽ có thể trở thành một trong những trung tâm công nghiệp vật liệu xây
dựng lớn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.[11]
Những đặc điểm về địa lý trên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh và sẽ kéo theo các lĩnh vực khác phát triển trong đó có giáo dục đào tạo và
rất thuận lợi cho công tác GDPL cho sinh viên trên địa bàn.
2.1.2. Đặc điểm, tình hình dân cư và khả năng ảnh hưởng tới quản lý nhà nước
về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Theo thống kê mới nhất ngày 01/04/2017, dân số của Hà Nam là 811.126
người, với mật độ dân số là 941 người/km2
, tỷ lệ tăng tự nhiên là 1,14 %/năm.
Trong đó dân số nông thôn là 742.660 người, dân số sinh sống ở khu vực đô thị là
68.466 người (chỉ chiếm 8,5%). Số người trong độ tuổi lao động toàn tỉnh năm 2003
là 479.949 người (trong đó 240.735 nữ), chiếm 58,5% dân số. Số lao động tham gia
thường xuyên trong nền kinh tế quốc dân là gần 407,7 nghìn người, chiếm gần 85%
nguồn lao động toàn tỉnh. Phần đông lao động có trình độ văn hóa, có khả năng tiếp
nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ. Lực lượng lao động khoa
học - kỹ thuật dồi dào với khoảng 11.900 người có trình độ từ cao đẳng, đại học và
trên đại học (chiếm 3% lực lượng lao động) gồm có: trên cử nhân 34 người, cử nhân
4.250 người, cao đẳng 7.240 người. Số lao động có trình độ trung cấp khoảng
13.000 người và sơ cấp, công nhân kỹ thuật là 10.400 người. Số lao động đã được
đào tạo nghề là 99,7 nghìn người, trong đó số người đã có chứng chỉ đào tạo nghề là
41,5 nghìn người (chiếm hơn 10% lao động); lao động đang làm việc trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp và thủy sả là chủ yếu (chiếm hơn 81,4%). Số lao động trong độ
tuổi có khả năng lao động nhưng chưa có việc làm hiện còn trên 11,5 nghìn người,
chiếm gần 3% lực lượng lao động trong độ tuổi có khả năng lao động. Bên cạnh đó,
dân số Hà Nam hàng năm tăng thêm khoảng gần 10 nghìn người làm cho nguồn lao
35
động thêm dồi dào, bổ sung cho nền kinh tế quốc dân. Về trình độ dân trí, Hà Nam
đã được công nhận là tỉnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở, bình quân số năm học
của một lao động là 8,1 năm/người (hệ 12 năm). [11]
Tình hình dân cư với nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ văn hóa, có khả
năng tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ là những yếu tố
tích cực để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; đó cũng là thành quả của việc GDPL
và QLNN về GDPL tại Hà Nam.Tuy nhiên, với đặc điểm dân cư ở một tỉnh đang có
tiềm năng phát triển mạnh về kinh tế - xã hội như Hà Nam thì càng phải tăng cường
hơn nữa việc GDPL và QLNN về GDPL cho dân cư trên địa bàn, đặc biệt là đối
tượng sinh viên – lực lượng lao động trí thức trẻ trong tương lai.
2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh Hà Nam và những ảnh hưởng
tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Theo đánh giá trong Nghị quyết số 25/2018/ NQ – HĐND về nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội năm 2019, ngày 07/12/2018 thì: Năm 2018, tình hình kinh tế -
xã hội của tỉnh cơ bản ổn định và phát triển. Tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 11,5%,
vượt kế hoạch. Sản xuất nông nghiệp từng bước phát triển theo hướng công nghiệp
hóa, sản xuất sản phẩm sạch, ứng dụng công nghệ cao. Sản xuất công nghiệp, thu
hút đầu tư, thu ngân sách tăng cao. Thương mại, dịch vụ có bước phát triển. Xây
dựng nông thôn mới đạt kết quả tốt. Văn hóa xã hội tiến bộ vượt bậc, an sinh xã hội
được chú trọng đảm bảo. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ
vững, đời sống nhân dân ngày càng ổn định và dần được nâng cao. Tổ chức thành
công nhiều sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao lớn, góp phần xây dựng, quảng bá
hình ảnh mảnh đất và con người Hà Nam đến bạn bè trong nước và quốc tế. [53]
Như vậy, xét tổng thể thì Hà Nam có rất nhiều lợi thế, cơ hội về mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội, đặc biệt đang được các cấp, các ngành tại địa phương phát huy
trong lĩnh vực tuyên truyền GDPL cho người dân nói chung và cho sinh viên tại Hà
Nam nói riêng. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền GDPL nói chung và cho sinh
viên nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần thúc đẩy công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội tại Hà Nam.
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx
pbien giao duc cho sinh vien  mới.docx

More Related Content

Similar to pbien giao duc cho sinh vien mới.docx

ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...Luận Văn 1800
 
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...Luận Văn 1800
 
Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...
Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...
Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...jackjohn45
 

Similar to pbien giao duc cho sinh vien mới.docx (20)

Đề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú Thọ
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú ThọĐề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú Thọ
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú Thọ
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu sốPhổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú Thọ
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú ThọLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú Thọ
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú Thọ
 
Quản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOT
Quản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOTQuản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOT
Quản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục, 9 ĐIỂMLuận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục, 9 ĐIỂM
 
BÀI MẪU luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học, HAY
BÀI MẪU luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học, HAYBÀI MẪU luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học, HAY
BÀI MẪU luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học, HAY
 
BÀI MẪU Luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học
BÀI MẪU Luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học BÀI MẪU Luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học
BÀI MẪU Luận văn Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục Đại học
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục tại Hải Phòng
Luận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục tại Hải PhòngLuận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục tại Hải Phòng
Luận văn: Quản lý nhà nước về viên chức giáo dục tại Hải Phòng
 
Luận văn: Quản lý về viên chức giáo dục tại quận Lê Chân, HAY
Luận văn: Quản lý về viên chức giáo dục tại quận Lê Chân, HAYLuận văn: Quản lý về viên chức giáo dục tại quận Lê Chân, HAY
Luận văn: Quản lý về viên chức giáo dục tại quận Lê Chân, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt NamLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam
 
Luận án: Pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận án: Pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học
Luận văn: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại họcLuận văn: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học
Luận văn: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học
 
Quản lý về chất lượng giáo dục ĐH các Trường ĐH công lập, HAY
Quản lý về chất lượng giáo dục ĐH các Trường ĐH công lập, HAYQuản lý về chất lượng giáo dục ĐH các Trường ĐH công lập, HAY
Quản lý về chất lượng giáo dục ĐH các Trường ĐH công lập, HAY
 
Luận văn quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
 Luận văn quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học Luận văn quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
Luận văn quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
 
Luận văn: Quản lí giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y
Luận văn: Quản lí giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân yLuận văn: Quản lí giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y
Luận văn: Quản lí giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y
 
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
 
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
ĐỀ TÀI : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHC NGÀNH GIÁO DỤC T THỰC TIỄ...
 
Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...
Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...
Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Sinh Thpt Thành Phố Đà...
 
Luận án: Chính sách xã hội và vai trò phát triển giáo dục tại TPHCM
Luận án: Chính sách xã hội và vai trò phát triển giáo dục tại TPHCMLuận án: Chính sách xã hội và vai trò phát triển giáo dục tại TPHCM
Luận án: Chính sách xã hội và vai trò phát triển giáo dục tại TPHCM
 
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...
LUẬN ÁN TIẾN SỸ QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở NƯỚC T...
 

pbien giao duc cho sinh vien mới.docx

  • 1. HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ TÌNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
  • 2. HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ TÌNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ANH
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ luật học ―Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam‖ là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các nhận định và kết luận trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng được công bố. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. Tác giả Phạm Thị Tình
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN...........................8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên ...........................................................................................................8 1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên......................................................................19 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên và tiêu chí đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên ..................................................................................................26 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TẠI TỈNH HÀ NAM...................................................33 2.1. Khái quát về các yếu tố đặc thù của tỉnh Hà Nam có tác động tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên......................................................33 2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam.................................................................................................................38 2.3. Đánh giá chung quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hà Nam .............................................................................................52 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM..............................................................58 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả đối với quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam .........................................................58 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đối với quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam .........................................................62 KẾT LUẬN ..............................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................79
  • 5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT GDPL : Giáo dục pháp luật HĐND : Hội đồng nhân dân HĐPH : Hội đồng phối hợp HĐPHPBGDPL : Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật NQ : Nghị quyết PBGDPL : Phổ biến giáo dục pháp luật QLNN : Quản lý nhà nước TW : Trung ương UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời kỳ hội nhập ở nước ta hiện nay, đa số sinh viên có ý chí phấn đấu vươn lên trong học tập, có hoài bão khát khao lớn. Bên cạnh đó, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, kinh tế mở cửa và rất nhiều nguyên nhân khác, hành vi lệch chuẩn của sinh viên cũng có xu hướng ngày càng tăng khiến gia đình và xã hội lo lắng, phổ biến như : vi phạm giao thông, đua xe trái phép, cờ bạc, rượu chè, quay cóp bài…có lối sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động và học tập. Những phẩm chất ấy là kết quả của giáo dục không đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; đồng thời cũng do trong thời gian khá dài, công tác GDPL cho sinh viên còn hạn chế dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật trong giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng có chiều hướng gia tăng. Một tỷ lệ không nhỏ sinh viên còn hiểu về pháp luật một cách sơ sài, hời hợt. Nhiều sinh viên coi các môn học pháp luật trong trường đại học, cao đẳng chỉ là môn phụ, thậm chí có những sinh viên chưa phân biệt được hành vi hợp pháp với hành vi không hợp pháp giữa các loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự…dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật một cách đáng tiếc. Ngoài ra những hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân tác động, thể hiện ở việc nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác GDPL ở một số trường chưa đúng mức, chương trình nội dung GDPL còn dàn trải chưa thống nhất giữa các trường, hình thức và phương thức giáo dục còn chậm đổi mới, hoạt động giáo dục ngoại khóa còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn, đội ngũ nhà giáo và cán bộ làm công tác GDPL còn thiếu về số lượng, năng lực của một số cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu trong công việc, cơ chế phối hợp giữa các chủ thể GDPL còn chưa đồng bộ. Vì vậy GDPL trong các nhà trường, đặc biệt trong các trường cao đẳng, đại học là rất quan trọng, nó góp phần đào tạo nhân lực, hình thành một cách vững chắc những thế hệ người lao động mới đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai. Do đó, Đảng và Chính phủ đã ra những nghị quyết, chỉ thị trong đó đã khẳng định rằng để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần đưa việc GDPL vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học, trung học
  • 7. 2 chuyên nghiệp cùng toàn thể nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng khẳng định “các cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể phải thường xuyên giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn trọng pháp luật”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng nhấn mạnh: “coi trọng công tác giáo dục tuyên truyền, giải thích pháp luật, đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân”. Đặc biệt, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 đã quy định cụ thể về GDPL nói chung và GDPL trong nhà trường nói riêng. Trong đó, tại Khoản 4 Điều 3 quy định: “Giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân được lồng ghép trong chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo; là một nội dung trong chương trình giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học” Trên tinh thần ấy, các cơ quan chức năng đã phối hợp, từng bước triển khai việc đưa GDPL vào các trường học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới chương trình, mục tiêu giáo dục ở các hệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong chương trình chính khóa, GDPL trong nhà trường thực hiện thông qua việc dạy và học các môn học pháp luật hoặc lồng ghép, tích hợp vào các môn học có liên quan. Bên cạnh đó, GDPL cho sinh viên được các nhà trường thực hiện thông qua các hoạt động ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp. Để công tác GDPL cho sinh viên đạt hiệu quả cao nhất thì cần có sự QLNN về GDPL cho sinh viên. Bộ Tư pháp là cơ quan QLNN về công tác PBGDPL, vừa là cơ quan thường trực của HĐPH công tác PBGDPL của Chính phủ; tăng cường sự chủ động và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác PBGDPL. Do đó, thời gian qua công tác QLNN về GDPL cho sinh viên đã đạt nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực tiễn, công tác này còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đi vào chiều rộng và chiều sâu nhất là ở các trường cao đẳng, đại học, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề ở các tỉnh lẻ.
  • 8. 3 Nguyên nhân một phần là do công tác quản lý, chỉ đạo theo dõi đôn đốc, kiểm tra chưa được sâu sát, kịp thời. Thực tế hiện nay cho thấy, hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên trên cả nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Hà Nam là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, là cửa ngõ phía Nam của Thủ Đô, là nơi giao thông thuận lợi với hầu hết các tỉnh thành trong cả nước và đang là nơi thu hút để xây dựng rất nhiều các trường cao đẳng, đại học. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Hà Nam có gần mười trường cao đẳng, đại học đang hoạt động với khoảng gần mười nghìn sinh viên không chỉ đến từ tỉnh Hà Nam mà còn rất nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Ở lứa tuổi này, nhiều bạn sinh viên có khát khao, hoài bão lớn nhưng cũng còn rất nhiều bạn có những hành vi lệch chuẩn do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vì vậy, nhu cầu GDPL cho sinh viên ngày một gia tăng. Trong khi đó, đội ngũ làm công tác quản lý về giáo dục đào tạo cho sinh viên còn chưa đáp ứng yêu cầu, lúng túng trong quản lý, điều hành. Đồng thời, cơ sở vật chất và kinh phí dành cho hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên chưa được quan tâm đầu tư tương xứng với vị trí và vai trò của công tác này. Đứng trước yêu cầu mang tính cấp thiết nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: ―Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam‖ để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong khoa học pháp lý ở nước ta, vấn đề QLNN về GDPL được các chuyên gia pháp luật, các nhà khoa học Việt Nam quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ, mức độ khác nhau, cụ thể: - Dưới góc độ nghiên cứu về GDPL cho các đối tượng khác nhau có các công trình của các tác giả sau: Nguyễn Tất Viễn (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội [55]. Trần Ngọc Đường - Dương Thị Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hà Thị Tuyến (2011), Phổ biến pháp luật cho
  • 9. 4 người nông dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Luận văn Thạc sĩ. Phạm Hàn Lâm (2001), Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắc Lắc - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học. Đinh Thị Hoa (2005), Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật. Lê Thị Thùy (2015), Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn Tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội [40]. Nguyễn Duy Lãm (2012), Sự cần thiết và quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật- số chuyên đề tháng 10 năm 2012, Bộ Tư pháp, Hà Nội [26]. Lê Thị Thu Ba (2006), Tăng cường vai trò của Hội đồng Phối hợp công tác PBGDPL đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ đưa pháp luật vào cuộc sống, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề năm 2006, Bộ Tư pháp, HàNội. Trong các công trình trên, các tác giả đã chỉ rõ một số vấn đề lý luận về GDPL như khái niệm, đặc điểm, nội dung, các yếu tố bảo đảm về GDPL. Đồng thời, từ thực tiễn hoạt động GDPL, nhiều công trình đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác GDPL. Bên cạnh đó, một số công trình đi sâu phân tích, làm rõ khía cạnh GDPL đối với học sinh, sinh viên trong nhà trường. - Dưới góc độ nghiên cứu về QLNN về giáo dục đào tạo và GDPL cho các đối tượng khác nhau có các công trình của các tác giả sau: Nguyễn Thị Thu Hà (2012), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học, Luận án Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phan Hồng Dương (2005), Phân cấp quản lý nước về giáo dục đào tạo, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàng Thị Tú Oanh (2007), Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [31]. Phạm Đức Hoài (2009), Quản lý nhà nước về PBGDPL trong Bộ Quốc Phòng hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công. Bạch Tú Anh (2010), Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập tại Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính. Phan Thị Cẩm Ly (2013), Đổi mới quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đại học từ thực tiễn Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia [28].
  • 10. 5 Bùi Thành Hùng (2017), Quản lý nhà nước về PBGDPL cho sinh viên người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học [23]. Dương Hồng Nhung (2018), Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội [30]. Đỗ Xuân Lân, Quản lý nhà nước về Phổ biển, giáo dục pháp luật thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả, http://pbgdpl.moj.gov.vn, 21/2/ 2017 [27]. Các công trình khoa học trên đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu về cơ sở lý luận, thực tiễn QLNN, kinh nghiệm đối với công tác QLNN trên nhiều góc độ. Nhưng có rất ít các công trình nghiên cứu QLNN về GDPL cho sinh viên. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. Đó chính là lý do để học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Cung cấp những luận chứng khoa học để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và pháp luật của QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. Đồng thời nghiên cứu thực trạng QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. Từ đó, đề xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật cơ bản của QLNN về GDPL cho sinh viên. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, xác định những vấn đề lớn đang đặt ra trong QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. - Đề xuất quan điểm, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quan điểm khoa học về QLNN về GDPL cho sinh viên. - Hệ thống quy định pháp luật và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Trung ương và tỉnh Hà Nam về QLNN về GDPL cho sinh viên. - Thực tiễn hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam hiện nay.
  • 11. 6 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Nghiên cứu QLNN về GDPL cho sinh viên. - Phạm vi không gian: Nghiên cứu hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hà Nam. - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian 05 năm từ năm 2014 đến 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của nhà nước và chính quyền các cấp về QLNN về GDPL cho sinh viên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong từng chương như: Chương 1, sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp; Chương 2, sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá; Chương 3 sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá, phương pháp tổng hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận QLNN về GDPL cho sinh viên. Qua đó, nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này, góp phần ổn định chính trị tư tưởng, ý thức pháp luật, ngăn ngừa phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong nhà trường. Luận văn xác định các yêu cầu, quan điểm và một số giải pháp có tính khả thi, có khả năng ứng dụng trong công tác QLNN về GDPL cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hà Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những đề xuất của luận văn có ý nghĩa nhất định trong việc QLNN về GDPL cho sinh viên tỉnh Hà Nam cũng như có giá trị tham khảo cho các địa phương có điều kiện tương tự như tỉnh Hà Nam.
  • 12. 7 Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu liên quan sau này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
  • 13. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.1.1.1. Giáo dục pháp luật cho sinh viên Để tiếp cận với GDPL, trước hết các nhà khoa học xuất phát từ khái niệm giáo dục. Theo quan niệm của khoa học sư phạm, giáo dục được tiếp cận dưới hai nghĩa khác nhau: - Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục với người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh kinh nghiệm của xã hội loài người - Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là một phần của quá trình sư phạm, quá trình giáo dục theo nghĩa rộng – Là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách của nhân cách XHCN, những hành vi và thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội. Từ khái niệm giáo dục có thể thấy GDPL là hình thức giáo dục cụ thể, là “cái riêng”, “cái đặc thù” trong mối quan hệ với giáo dục nói chung. Với tư cách là một bộ phận trong hệ thống giáo dục, GDPL vừa mang những chung của giáo dục, sử dụng các hình thức, phương pháp của giáo dục vừa có những nét đặc thù. Những nét riêng đó được thể hiện ở mục đích giáo dục là hình thành tri thức (mục đích nhận thức), hình thành tình cảm, lòng tin với pháp luật (mục đích cảm xúc) và xây dựng thói quen thực hiện hành vi hợp pháp (mục đích hành vi). GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nhận thức hình thành ý thức pháp luật. Khái niệm GDPL có thể thấy là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật [30].
  • 14. 9 - Quan niệm thứ nhất cho rằng: GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng cho nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật, tức là nếu làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ có được sự tôn trọng pháp luật của công dân - Quan niệm thứ hai cho rằng: không có khái niệm GDPL. Quan điểm này cho rằng, pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung và mọi chủ thể có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật; do vậy, không cần đặt ra vấn đề GDPL nữa. - Quan niệm thứ ba: đồng nhất GDPL với tuyên truyền, phổ biến hay giải thích pháp luật - Quan niệm thứ tư: đồng nghĩa GDPL với dạy và học pháp luật ở các trường học, còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì không phải là GDPL. Trong quá trình phát triển của con người thì GDPL là một nội dung, một hoạt động không thể thiếu. So sánh với tuyên truyền và phổ biến pháp luật thì GDPL có tính toàn diện hơn. Tính toàn diện đó thể hiện ở chỗ GDPL vừa có tính định hướng rõ ràng, vừa có tính hệ thống để bảo đảm đối tượng giáo dục được nâng cao cả về kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật. GDPL phải nhằm đạt tới sự hình thành ý thức tự giác trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về pháp luật và các vấn đề liên quan [14]. Kết quả của GDPL không chỉ ở chỗ đối tượng biết pháp luật quy định như thế nào mà còn hiểu vì sao lại quy định như vậy để họ vận dụng pháp luật một cách chủ động, sáng tạo và chính xác. Theo đó, GDPL là một phạm trù rộng lớn, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của gia đình và nhà trường, trong đó vai trò định hướng, dẫn dắt bởi các nội dung và hình thức giáo dục trong nhà trường có tầm quan trọng đặc biệt. Từ các phân tích nêu trên có thể định nghĩa: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành [30].
  • 15. 10 Thuật ngữ "sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng La-tinh "Student" có nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Theo ngôn ngữ Hán Việt thì "sinh viên" là người bước vào cuộc sống, cuộc đời. Còn theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "sinh viên" được dùng để chỉ những người học ở bậc đại học [29] Theo Điều 59, Luật Giáo dục Đại học số: 08/2012/QH13 thì: "sinh viên" được hiểu là người học của các cơ sở giáo dục đại học theo chương trình đào tạo cao đẳng và chương trình đào tạo đại học. GDPL cho sinh viên là rất quan trọng và cần thiết, vì sinh viên là đại diện của một nhóm xã hội cơ động. Đặc biệt, đó là nhóm những người đang chuẩn bị bước vào lao động sản xuất. Đứng về mặt quan hệ xã hội thì thời kỳ sinh viên là sự quá độ của tuổi thanh niên từ những giai cấp và nhóm xã hội khác nhau chuyển thành một nhóm xã hội mới: giới trí thức. Vì thế, sinh viên vừa là một bộ phận hữu cơ của thanh niên, vừa là một bộ phận của giới trí thức[14] Từ khái niệm chung về GDPL nói trên có thể hình thành khái niệm về GDPL cho sinh viên: Giáo dục pháp luật cho sinh viên là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục pháp luật tác động tới sinh viên thông qua hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại khóa bằng các phương thức giáo dục khác nhau nhằm mục đích trang bị cho họ tri thức pháp luật cơ bản, định hướng phát triển nhân cách và tư cách công dân, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật và có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề, lĩnh vực mà mình được đào tạo [14] 1.1.1.2. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về giáo dục Khoa học về quản lý định nghĩa: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… thông qua hệ thống pháp luật, chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý”. Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, quản lý
  • 16. 11 chính là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các công cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. Sự ra đời của nhà nước đã dẫn đến sự xuất hiện QLNN. QLNN phụ thuộc vào chế độ lịch sử, chính trị, đặc điểm văn hóa, trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Trong toàn bộ hệ thống xã hội, có nhiều chủ thể tham gia quản lý xã hội như: tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội...Trong các chủ thể quản lý xã hội đó thì Nhà nước là một chủ thể đặc biệt và QLNN có những điểm khác biệt sau: Thứ nhất, chủ thể QLNN (theo nghĩa rộng) là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước được trao quyền gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Thứ hai, đối tượng QLNN là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên ngoài quốc gia. Thứ ba, QLNN là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao... Thứ tư, QLNN mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật và các chính sách của nhà nước để quản lý xã hội. Thứ năm, mục tiêu của QLNN là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của toàn xã hội. Từ những đặc điểm trên, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội [24, tr.55]. Theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước) trên cơ sở Hiến pháp, luật để tổ chức đời sống xã hội theo Hiến pháp và luật. Như vậy, QLNN là một hình thức hoạt động của nhà nước được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp luật, nghị quyết của cơ quan quyền lực
  • 17. 12 nhà nước để tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa - xã hội và hành chính - chính trị. [30] Từ khái niệm QLNN, có thể đưa đến khái niệm QLNN về giáo dục: QLNN về giáo dục là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục do các cơ quan quản lý có trách nhiệm về giáo dục của nhà nước từ Trung ương đến địa phương tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục, duy trì kỷ cương, thỏa mãn nhu cầu giáo dục của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước. 1.1.1.3. Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên QLNN trong lĩnh vực GDPL cho sinh viên đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là một công việc trọng tâm, thường xuyên và liên tục của các cơ quan nhà nước và của các cấp, các ngành. Trách nhiệm của nhà nước được xác định là: xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động GDPL có hiệu quả, phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nâng cao hiệu quả, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức và cá nhân trong hoạt động GDPL cho đối tượng là sinh viên. Trên cơ sở đó, có thề hiểu, QLNN về GDPL cho sinh viên là hoạt động của các cơ quan QLNN (ban hành văn bản pháp luật, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về GDPL, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong GDPL...) nhằm bảo đảm hoạt động GDPL cho sinh viên đạt được yêu cầu và mục đích đề ra. 1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên QLNN về GDPL cho sinh viên trước hết là một hoạt động QLNN về giáo dục vì vậy nó cũng có đầy đủ các đặc điểm chung, đó là: Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý. Đây là đặc điểm nổi bật của QLNN ở mọi lĩnh vực nói chung và QLNN về giáo dục nói riêng. Biểu hiện:1) Điều kiện để thực hiện quản QLNN về giáo dục là chủ thể quản lý về giáo dục phải có thẩm quyền và thẩm quyền đó phải được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật; 2) Phương tiện QLNN về giáo dục là các văn bản pháp luật; 3)Trong QLNN phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh phục tùng, tập trung dân chủ tức là cơ quan QLNN về giáo dục cấp dưới phải phục tùng cấp trên, cấp địa
  • 18. 13 phương phải phục tùng cấp Trung ương. Bên cạnh đó các cấp QLNN về giáo dục vẫn phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Thứ hai, kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt động QLNN về giáo dục. Đặc điểm này thực chất là để triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước quy định, các cơ quan, tổ chức thay mặt nhà nước để triển khai sự nghiệp giáo dục và điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục. Đây là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động QLNN về giáo dục nhằm đảm bảo việc thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước trở nên thống nhất và có hiệu quả cao, nói cách khác đó cách “hành chính hóa” các hoạt động chuyên môn. Thứ ba, kết hợp Nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai QLNN về giáo dục. Giáo dục đào tạo là hoạt động mang tính xã hội cao. Đảng ta đã nhấn mạnh: giáo dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. QLNN về giáo dục sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự tham gia đông đảo lực lượng trong xã hội. Đây là đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong QLNN về giáo dục. Tuy nhiên, đối tượng của hoạt động QLNN về GDPL ở đây rất cụ thể đó là sinh viên nên nó còn có các đặc điểm riêng sau: Thứ nhất, đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên là GDPL cho sinh viên. GDPL cho sinh viên là một tất yếu khách quan, là một bộ phận cấu thành trong chương trình giáo dục đại học, cao đẳng ở nước ta. Sinh viên là một tầng lớp trí thức trẻ, hiện nay họ ngày càng phát huy và nỗ lực phấn đấu trong học tập và lao động “vì ngày mai lập nghiệp”. Họ không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn rất năng động, sáng tạo, chủ động và nhạy bén trong việc vận dụng những tri thức đã học vào cuộc sống, tham gia tích cực các hoạt động xã hội. Tuy vậy, ở lứa tuổi chớm thành niên này, các bạn sinh viên không tránh khỏi nhược điểm, hạn chế là nhân cách chưa hoàn chỉnh, nông nổi, bồng bột, dễ bị kích động, khó kiềm chế, đôi khi tự cao, tự mãn, thích tự do phóng khoáng, hay đua đòi và đặc biệt là hiểu biết về pháp luật chưa hoàn thiện và sâu sắc. Những đặc điểm đó của sinh viên làm cho hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên khác biệt hẳn với QLNN về GDPL cho các đối tượng khác. Để hiểu rõ hơn về đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên, chúng ta xem xét nội hàm của GDPL cho sinh viên được xác định trên cơ sở
  • 19. 14 mục đích của công tác này, bao gồm:1)Mục đích tổng quát của GDPL cho sinh viên chính là góp phần hình thành và nâng cao văn hóa pháp lý cho sinh viên và toàn xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN, xây dựng nhà nước pháp quyền; 2)Mục đích cụ thể gồm: Mục đích nhận thức (nâng cao hiểu biết pháp luật cho sinh viên); Mục đích cảm xúc (hình thành lòng tin vào pháp luật của sinh viên); Mục đích hành vi (nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên); Mục đích góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN trong quản lý xã hội và quản lý sinh viên. Như vậy, từ đặc điểm và mục đích của việc GDPL cho sinh viên ta thấy GDPL cho sinh viên tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường QLNN bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình QLNN, quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý. GDPL cho sinh viên là sự tác động có định hướng, có tổ chức nhằm hình thành tri thức, tình cảm và hành vi phù hợp với quy định của pháp luật cho sinh viên để họ tự giác tuân thủ, thi hành pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho bản thân. Việc GDPL đó được thực hiện thông qua hoạt động dạy và học pháp luật (cả chính khóa và ngoại khóa) trong các trường đại học, cao đẳng nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần hình thành và bồi dưỡng ý thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Thứ 2, hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên mang tính quyền lực nhà nước Nhà nước là bộ phận trung tâm của hệ thống chính trị, nhà nước là chủ thể duy nhất nắm giữ quyền QLNN trên toàn xã hội. GDPL đối với sinh viên là một hoạt động quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của toàn dân, vì vậy để hoạt động GDPL đi theo đúng định hướng, đạt mục đích và hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải có sự quản lý sát sao của nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, xuất phát từ đối tượng chịu sự quản lý của hoạt động GDPL là sinh viên sẽ có những khác biệt so với các đối tượng khác như học sinh, người khuyết tật, phụ nữ... Vì vậy, cách thức quản lý về GDPL đối với sinh viên cũng khác so với những đối tượng nêu trên. Hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên diễn ra ở các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa
  • 20. 15 phương. Nhà nước sẽ sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo việc thực hiện công tác QLNN về GDPL đi vào thực tiễn. Vì vậy, hoạt động QLNN về GDPL cho mọi đối tượng nói chung và cho sinh viên nói riêng đều mang quyền lực nhà nước. QLNN được thực hiện thông qua hệ thống pháp luật, lúc này pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý cơ sở giáo dục và tổ chức thực hiện công tác GDPL cho sinh viên. Mặt khác, bên cạnh pháp luật, nhà nước còn ban hành các chính sách để quản lý hệ thống cơ sở giáo dục đối với sinh viên. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu QLNN về GDPL đối với sinh viên, trước hết cần xây dựng một bộ máy nhà nước thực sự vững mạnh, với hệ thống cơ quan quản lý đảm bảo, có đủ điều kiện và nguồn lực thực hiện chức năng quản lý. Đây là điều kiện tiên quyết trước khi tổ chức thực thi hoạt động QLNN về GDPL đối với sinh viên trên thực tế. Thứ 3, QLNN về GDPL cho sinh viên hướng đến một xã hội ổn định và phát triển Mục tiêu QLNN về GDPL đối với sinh viên, về tổng thể, đó là bảo đảm trật tự, kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách của sinh viên. Mỗi cấp học, mỗi ngành học có những mục tiêu cụ thể được quy định trong Luật Giáo dục và các điều lệ nhà trường. QLNN về GDPL đối với sinh viên là hướng đến một xã hội ổn định và phát triển, mà nền tảng chính là đối tượng sinh viên. Đó là nhóm những người đang chuẩn bị bước vào lao động sản xuất, họ vừa là một bộ phận hữu cơ của thanh niên, vừa là một bộ phận của giới trí thức. Qua đây sẽ giáo dục ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, có thái độ tôn trọng pháp luật của sinh viên; nhằm giáo dục toàn diện người lao động trí thức, lao động có tay nghề trong tương lai; góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn năng động, sáng tạo hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, biết vận dụng pháp luật vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ 4. QLNN về GDPL cho sinh viên cần một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh để quản lý, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong quản lý sinh viên
  • 21. 16 Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất cho nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Sinh viên là một tầng lớp trẻ tuổi đang trong quá trình học tập và rèn luyện, họ chưa có những tư tưởng, quan niệm về các hiện tượng trong đời sống xã hội lại dễ chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội, vì vậy cần phải có “cái khung pháp lý” để họ điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp, từ đó nâng cao được hiệu lực QLNN đối với sinh viên. Hiệu lực và hiệu quả trong quản lý sinh viên thể hiện ở việc: nhờ hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh cùng với sự QLNN về GDPL giúp cho sinh viên có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi sinh viên. QLNN về GDPL cho sinh viên (đặc biệt ở các tỉnh lẻ) tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường QLNN bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình QLNN, quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình QLNN về GDPL cho sinh viên tại địa phương. QLNN về GDPL đối với sinh viên phải nhằm tạo lập một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, điều tiết được, quản lý được hệ thống cơ sở giáo dục, đặc biệt ngăn ngừa và xử lý những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường, vi phạm pháp luật của sinh viên, những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động GDPL được đảm bảo, với tinh thần “tất cả vì con người” - một trong những mục tiêu trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hướng tới. 1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.1.3.1. Góp phần triển khai thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về giáo dục pháp luật QLNN về GDPL cho sinh viên luôn là phương tiện để triển khai thực hiện chủ chương, đường lối, chính sách của Đảng về GDPL. Sinh viên là bộ phận tiến bộ của xã hội, có trình độ học vấn cao, có khả năng tiếp cận cái mới rất nhanh, biết thay đổi
  • 22. 17 linh hoạt, thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại. Họ đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.Vì vậy, từ xưa đến nay, tương ứng với từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm và ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách công tác QLNN về GDPL cho sinh viên. Trên cơ sở những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa và ghi nhận vào trong các quy định của pháp luật. Sau đó, thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện chúng trong thực tế bằng các hoạt động chuyên môn và bảo vệ các quy đinh pháp luật đó thông qua các hoạt động thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong QLNN đối với hoạt động GDPL cho công dân nói chung và cho sinh viên nói riêng. 1.1.3.2. Góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong quá trình phát triển của đất nước Sinh viên là bộ phận xã hội quan trọng của đất nước, QLNN về GDPL cho sinh viên giữ vai trò nhất định trong ổn định chính trị và phát triển đất nước. GDPL là một hình thức quan trọng để giữ vững lập trường chính trị cho mỗi công dân trong đó có sinh viên. Do đó, trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, sự quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này càng trở nên quan trọng. Sinh viên lại là những người trẻ, có tri thức, có hoài bão, khát khao lớn; ở lứa tuổi này họ cũng là những người rất năng động và nhiệt tình. Vì vậy, khi được trang bị những hiểu biết về pháp luật, sinh viên sẽ có thể là những người uy tín trong việc tuyên truyền, PBGDPL cho mọi người xung quanh. Từ đó, một lần nữa càng góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong quá trình phát triển của đất nước. 1.1.3.3. Bảo đảm tổ chức và phối hợp trong quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên. Hoạt động GDPL cho sinh viên muốn đạt hiệu quả cao thì phải cần sự chung tay góp sức của rất nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ thống xã hội, sự phối hợp của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Chỉ có QLNN mới bảo đảm được tổ chức và phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức đó trong hoạt động này. Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về GDPL cho sinh viên, sử dụng bộ
  • 23. 18 máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.., đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ máy tổ chức để thực hiện những vấn đề QLNN, nhằm đưa chính sách phù hợp QLNN về GDPL cho sinh viên vào thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện. Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan QLNN về GDPL cho sinh viên với các cấp trong hệ thống tổ chức của Trung ương và cấp chính quyền địa phương. Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục phục vụ cho công tác QLNN về GDPL cho sinh viên được tốt nhất. 1.1.3.4. Bảo đảm phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào tạo, xây dựng ý thức pháp luật cho thế hệ trẻ, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Thực hiện tốt công tác QLNN về GDPL cho sinh viên sẽ là cơ sở để phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung, giáo dục và đào tạo cho sinh viên nói riêng. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp giáo dục và đào tạo rất cần vai trò quản lý của nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực GDPL đối với sinh viên. Ý thức pháp luật của sinh viên được hình thành từ hai yếu tố: tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật. Khi công tác GDPL được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục lúc đó ý thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên sẽ được nâng cao. GDPL góp phần củng cố những tri thức pháp luật được học trong nhà trường, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin pháp luật, đồng thời rèn luyện, uốn nắn và hình thành những hành vi ứng xử theo chuẩn mực pháp luật đã quy định. GDPL trong nhà trường giúp sinh viên tiếp cận pháp luật toàn diện hơn, đầy đủ hơn, thấm sâu hơn, vượt qua rào cản khô khan của ngôn ngữ văn bản, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên. Thực hiện tốt hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên sẽ góp phần đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước ngay từ khi các em còn ngồi trên ghế giảng đường để các em phát triển bản thân một cách tự tin và trưởng thành, chuẩn bị hành trang tốt nhất cho quá trình làm việc sau khi ra trường, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
  • 24. 19 1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên. Chủ thể của QLNN về GDPL cho sinh viên là các cơ quan QLNN từ Trung ương đến cơ sở. Luật PBGDPL xác định rõ chủ thể QLNN về GDPL cho sinh viên gồm: 1.2.1.1. Chính phủ Chính phủ thống nhất QLNN về GDPL cho sinh viên. Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật, gồm : - Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và của chính quyền địa phương; kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật. - Quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, nghị định, chương trình công tác của Chính phủ. - Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các nguồn lực khác để thi hành Hiến pháp và pháp luật; thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước, thi hành án. - Tổng hợp đánh giá tình hình thi hành Hiến pháp, pháp luật và báo cáo với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước theo quy định của phápluật. 1.2.1.2. Bộ Tư pháp Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về GDPL cho sinh viên; chủ trì xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn về GDPL cho sinh viên; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu
  • 25. 20 quốc gia về pháp luật cho sinh viên. Khoản 12 Điều 2 Nghị định 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu, tổ chức của Bộ Tư pháp nêu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp trong lĩnh vực PBGDPL cho sinh viên gồm: - Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện công tác PBGDPL cho sinh viên; - Thực hiện nhiệm vụ của cơ quan thường trực HĐPHPBGDPL ở TW; - Công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật theo quy định pháp luật; - Hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và trường học. 1.2.1.3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện QLNN về GDPL cho sinh viên. Cụ thể: - Ban hành theo thẩm quyền chương trình, đề án, kế hoạch GDPL cho sinh viên và chỉ đạo hướng dẫn các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý triển khai thực hiện. - Xác định nội dung và hình thức GDPL phù hợp với đối tượng sinh viên; biên soạn tài liệu và phổ biến kiến thức pháp luật chuyên ngành; bảo đảm quyền được thông tin về pháp luật của sinh viên; - Tổ chức PBGDPL cho cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ chiến sỹ trong lực lượng vũ trang nhân dân thuộc phạm vi quản lý, chú trọng thực hiện thông qua PBGDPL trực tiếp, cung cấp văn bản quy phạm pháp luật, trang thông tin điện tử của cơ quan, các khóa học, lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn; - Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật cho sinh viên của bộ, ngành; - Chỉ đạo các trường thuộc phạm vi quản lý tổ chức GDPL trong cơ sở giáo dục; bố trí, chuẩn hóa, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên dạy pháp luật. - Đối với công tác GDPL cho sinh viên trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, Luật PBGDPL quy định Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm ban hành chương trình giáo dục pháp luật phù hợp với cấp học và trình độ đào tạo; quy định thời
  • 26. 21 gian, lộ trình hoàn thành chuẩn hóa giảng viên dạy pháp luật. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành chương trình GDPL trong các cơ sở dạy nghề. - Ngoài ra, theo Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 19/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân thì : bộ, ngành nào chủ trì dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thì bộ, ngành đó phải chịu trách nhiệm chính về phổ biến và thực hiện văn bản pháp luật đó trong cán bộ, công chức của bộ, ngành mình; đồng thời có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp, các đoàn thể ở trung ương và chính quyền các cấp triển khai GDPL cho sinh viên. 1.2.1.4. Chính quyền địa phương các cấp Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, Luật PBGDPL quy định: HĐND các cấp có trách nhiệm: Quyết định các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDPL cho sinh viên; phân bổ dự toán ngân sách địa phương cho công tác GDPL cho sinh viên ; - Giám sát việc thực hiện pháp luật về GDPL cho sinh viên. UBND các cấp có trách nhiệm: - Ban hành theo thẩm quyền chương trình, kế hoạch, đề án về GDPL cho sinh viên; - Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểmtra công tác GDPL cho sinh viên; - Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật cho sinh viên; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp luật theo quy định của pháp luật; 1.2.2. Đối tượng của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên là hệ thống các thiết chế, chủ thể thực hiện mọi hoạt động GDPL cho sinh viên trong phạm vi cả nước. Đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên gồm: Một là, Hội đồng phối hợp PBGDPL Theo điều Điều 7 của Luật PBGDPL thì HĐPHPBGDPL được thành lập ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, là cơ quan tư vấn cho Chính phủ, UBND cấp tỉnh và cấp huyện về công
  • 27. 22 tác GDPL cho sinh viên và huy động nguồn lực cho công tác GDPL cho sinh viên; và cơ quan thường trực HĐPHPBGDPL của Chính phủ là Bộ Tư pháp, của UBND cấp tỉnh là Sở Tư pháp, của UBND cấp huyện là Phòng Tư pháp. Theo Điều 1, Quy chế hoạt động của HĐPHPBGDPL thì HĐPHPBGDPL của Chính phủ, là tổ chức phối hợp chỉ đạo giữa các cơ quan, ban, ngành, tổ chức ở trung ương và địa phương về công tác GDPL cho sinh viên; duy trì hoạt động phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, hỗ trợ các cơ quan, tổ chức đẩy mạnh công tác GDPL cho sinh viên. Trên cơ sở kế hoạch chung của Chính phủ, HĐPH PBGDPL có nhiệm vụ đề ra kế hoạch GDPL cho sinh viên hàng năm; chỉ đạo, hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các cấp, các ngành và địa phương thực hiện GDPL; sơ kết, tổng kết và tổ chức thi đua khen thưởng về công tác GDPL trên phạm vi cả nước; thực hiện một số nhiệm vụ khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ [6]. Hai là, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và thành viên các tổ hòa giải ở cơ sở. Báo cáo viên pháp luật cho sinh viên: là cá nhân có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững vàng, có uy tín trong công tác; có khả năng truyền đạt; có bằng tốt nghiệp đại học luật và thời gian công tác trong lĩnh vực pháp luật ít nhất 2 năm; trường hợp không có bằng tốt nghiệp đại học luật nhưng có bằng tốt nghiệp đại học khác phải có thời gian công tác liên quan đến pháp luật ít nhất 3 năm. Báo cáo viên pháp luật phải được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận. Trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định. Tuyên truyền viên pháp luật cho sinh viên: là người có uy tín, kiến thức, am hiểu về pháp luật, được xem xét để công nhận là tuyên truyền viên pháp luật ở xã, phường, thị trấn hoặc được mời tham gia GDPL cho sinh viên ở cơ sở. Chủ tịch UBND cấp xã quyết định công nhận tuyên truyền viên pháp luật. Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và thành viên các tổ hòa giải ở cơ sở đều phải thực hiện các nhiệm vụ được HĐPH PBGDPL ở mỗi cấp phân công, chịu
  • 28. 23 sự quản lý của chính quyền địa phương của cấp đó, cụ thể: - Tham gia vào một ban hoặc một lĩnh vực công tác của HĐPH PBGDPL phân công. - Tham dự các phiên họp của HĐPH PBGDPL. Nếu vắng mặt phải báo cáo Chủ tịch HĐPHPBGDPL; đồng thời cử người tham dự phiên họp, gửi ý kiến của mình bằng văn bản về các vấn đề được thảo luận tại phiên họp để cơ quan thường trực tổng hợp, báo cáo; - Đề xuất với HĐPH PBGDPL, với các ban của hội đồng các biện pháp phối hợp và tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo hiệu quả GDPL cho sinh viên; đề nghị HĐPH PBGDPL, các ban của hội đồng hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh công tác GDPL cho sinh viên ở các cơ sở giáo dục; - Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo các đơn vị được phân công phụ trách về việc thực hiện kế hoạch GDPL cho sinh viên của Chính phủ, của hội đồng và thường xuyên thông tin cho cơ quan thường trực về tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; - Thực hiện một số nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch HĐPHPBGDPL, Trưởng ban mà mình là thành viên; - Được cung cấp các tài liệu GDPL cho sinh viên. Ba là, đội ngũ giảng viên tại các trường cao đẳng, đại học Đội ngũ giảng viên tại các trường cao đẳng, đại học được gọi là nhà giáo. Theo Khoản 2 Điều 70 Luật Giáo dục năm 2005 quy định nhà giáo phải có những tiêu chuẩn như: phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng. Theo đó, đội ngũ giảng viên tại các trường cao đẳng, đại học dạy các môn pháp luật là lực lượng nòng cốt, trực tiếp thực hiện hoạt động GDPL cho sinh viên. Vì vậy, đội ngũ này cần được đảm bảo tiêu chuẩn về số lượng và chất lượng. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương tăng cường GDPL trong nhà trường thông qua các chương trình môn học, giáo trình, tài liệu giảng dạy pháp luật đảm bảo đúng tinh thần và nội dung của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Vì vậy, môn pháp luật là môn học quan trọng trong chương trình đào tạo đại học, cao
  • 29. 24 đẳng và trung học chuyên nghiệp được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt trong đề cương chương trình chung và đã được đưa vào giảng dạy chính thức tại các trường trên cả nước. Môn pháp luật là môn học cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật, các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam (Luật Hiến pháp, Pháp luật Dân sự, Pháp luật Lao động, Luật Hành chính, Pháp luật Hình sự, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng) và Luật quốc tế. Bên cạnh trang bị những kiến thức cơ bản cho sinh viên về pháp luật, môn học còn xây dựng ý thức “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”cho mỗi cá nhân.Trên cơ sở đó giúp họ hình thành ý thức và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra, môn học pháp luật còn giúp sinh viên có điều kiện dễ tiếp thu kiến thức với các môn học khác có liên quan đến pháp luật, vì đây là những kiến thức có tính chất đại cương, nền tảng về nhà nước và pháp luật Việt Nam. Như vậy, môn pháp luật là một môn rất quan trọng, góp phần giáo dục toàn diện cho sinh viên, vì vậy giảng viên dạy pháp luật không chỉ là người đáp ứng đủ tiêu chuẩn của một nhà giáo nói chung mà phải có trình độ chuyên môn nghề nghiệp mới có thể truyền thụ được những kiến thức cơ bản về pháp luật cho sinh viên. 1.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Khoản 1 Điều 6 Luật PBGDPL quy định cụ thể các nội dung QLNN về GDPL cho sinh viên, bao gồm: - Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về GDPL cho sinh viên; - Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác GDPL cho sinh viên; - Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ GDPL cho sinh viên; - Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật cho sinh viên; - Thống kê, tổng kết về GDPL cho sinh viên; - Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm trong GDPL cho sinh viên; - Hợp tác quốc tế về GDPL cho sinh viên.
  • 30. 25 1.2.4. Hình thức của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Điều 11 của Luật PBGDPL đã quy định rất cụ thể về hình thức PBGDPL cho sinh viên. Hình thức QLNN về GDPL được chia làm 2 nhóm: hình thức mang tính pháp lý và hình thức không mang tính pháp lý Hình thức mang tính pháp lý - Ban hành văn bản có tính chất chủ đạo: là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm đề ra những chủ trương, nhiệm vụ, biện pháp lớn về GDPL cho sinh viên. Đây là cơ sở trực tiếp để ban hành văn bản quy phạm pháp luật. - Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định, quy định những quy tắc xử sự chung trong lĩnh vực QLNN về GDPL cho sinh viên (VD: các Luật, Nghị định của Chính phủ điều chỉnh về PBGDPL...) - Ban hành văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật): Là loại văn bản do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình nhằm giải quyết những vụ việc cụ thể về GDPL cho sinh viên. (VD: Quyết định cá biệt của UBND về công tác PBGDPL...) - Văn bản hành chính thông thường: là những văn bản mang tính thông tin, phản ánh tình hình, trao đổi, đề xuất công việc của các cơ quan QLNN về GDPL cho sinh viên (VD: công văn hướng dẫn về PBGDPL...) - Các hình thức mang tính pháp lý khác như: hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân tham gia GDPL cho sinh viên, cung cấp các dịch vụ về trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật cho sinh viên... Hình thức không mang tính pháp lý - Tiến hành các hoạt động tổ chức trực tiếp như tổ chức hội nghị, hội thảo nhằm triển khai kế hoạch, truyền đạt chủ trương, chính sách về GDPL cho sinh viên. - Hoạt động điều hành công tác GDPL cho sinh viên bằng các phương tiện thông tin, kỹ thuật hiện đại như mạng máy tính, chính phủ điệntử... 1.2.5. Phương pháp quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Phương pháp QLNN về GDPL cho sinh viên có thể hiểu là các cách thức, biện pháp sử dụng để tiến hành hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên. Có rất nhiều phương pháp QLNN trong lĩnh vực này như: phương pháp thuyết phục,
  • 31. 26 phương pháp hành chính, phương pháp cưỡng chế, phương pháp kinh tế, phương pháp điều tra...Tuy nhiên, các phương pháp QLNN về GDPL cho sinh viên mang tính phổ biến, truyền thống hiện nay đang được sử dụng gồm: - Phương pháp QLNN đối với hoạt động GDPL cho sinh viên trong nhà trường. Đây là phương pháp phổ biến, điển hình nhất đang được áp dụng hiện nay. Quản lý bằng cách thông qua môn học pháp luật với nội dung, chương trình, tài liệu học tập và đội ngũ giảng viên giảng dạy để tổ chức thực hiện những nội dung GDPL cho sinh viên do Bộ GD & ĐT quy định nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật cho sinh viên. - Phương pháp QLNN đối với hoạt động GDPL cho sinh viên trong môi trường xã hội. Đây là phương pháp mang tính hỗ trợ, phụ trợ nhưng giữ vai trò rất quan trọng khi sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên là rất cao. Phương pháp này hướng đến quản lý trật tự xã hội, trong đó có QLNN về GDPL cho sinh viên. Phương pháp QLNN đối với GDPL cho sinh viên trong môi trường xã hội có thể thông qua những thiết chế như thanh niên, phụ nữ, ... Phương pháp QLNN về GDPL cho sinh viên thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, bao gồm: hoạt động tuyên truyền; thông qua hệ thống báo chí, sách tham khảo, hướng dẫn, giải thích pháp luật, mạng internet... Hoạt động tập thể như sinh hoạt đoàn, dã ngoại, tham quan, văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, lao động... 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên và tiêu chí đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên 1.3.1.1. Nhận thức về quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Nhận thức là khâu đầu tiên, quan trọng và có tính chất quyết định đối với QLNN về GDPL cho sinh viên. Nếu có nhận thức tốt về vị trí và tầm quan trọng của QLNN về GDPL cho sinh viên thì công tác GDPL cho sinh viên sẽ được các cấp Đảng, chính quyền địa phương quan tâm, đầu tư thích đáng; hệ thống pháp luật về GDPL cho sinh viên sẽ được hoàn thiện hơn, các hoạt động GDPL cho sinh viên sẽ
  • 32. 27 được triển khai toàn diện và sâu sắc. Ngược lại, nếu nhận thức chưa tốt, chưa đầy đủ sẽ gây ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả công tác GDPL cho sinh viên, ngoài ra còn có thể dẫn đến tính hình thức, phong trào hoặc không theo kịp tình hình thực tiễn của hoạt động GDPL cho sinh viên. Trong những năm qua, nhận thức về QLNN về GDPL cho sinh viên đã có nhiều cố gắng và thu được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên, so với yêu cầu về thực hiện “quản lý nhà nước bằng pháp luật” vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất định, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả GDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của sinh viên. Chính những yếu tố này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng QLNN về GDPL cho sinh viên. Thực tế tại Hà Nam, vẫn còn một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức đến việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai công tác GDPL cho sinh viên; chưa quan tâm chỉ đạo tổng kết và nhân rộng các mô hình GDPL cho sinh viên tốt tại cơ sở; chưa coi công tác này “là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị”; còn tình trạng cấp uỷ đảng coi GDPL cho sinh viên là nhiệm vụ riêng của các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể và các trường cao đẳng, đại học nên thiếu kiểm tra, đôn đốc thường xuyên. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tích cực tham gia vào các hoạt động GDPL cho sinh viên; chưa thực sự gương mẫu chấp hành pháp luật, lời nói chưa đi đôi với việc làm, từ đó làm ảnh hưởng không tốt đến công tác GDPL cho sinh viên [16]. 1.3.1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về GDPL cho sinh viên chính là cơ pháp lý cho QLNN về GDPL cho sinh viên. Các văn bản của Đảng và Nhà nước về GDPL cho sinh viên sẽ tạo cơ sở quan trọng để các cấp, các ngành triển khai mạnh mẽ công tác GDPL cho sinh viên; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương về vai trò của QLNN về GDPL cho sinh viên. Vì vậy, nếu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho QLNN về GDPL cho sinh viên thiếu đồng bộ, chồng chéo hoặc bỏ trống thì việc triển khai các hoạt động GDPL cho sinh viên sẽ bị động, lúng túng và thiếu sự ổn định.
  • 33. 28 Ngược lại, các quy định của pháp luật về GDPL cho sinh viên ngày càng được hoàn thiện đồng nghĩa với việc công tác GDPL cho sinh viên ngày càng được khẳng định, chất lượng QLNN về GDPL cho sinh viên ngày càng được nâng cao. Sau hơn 30 năm đổi mới, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã không ngừng được phát triển và hoàn thiện, thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào việc ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế và quan trọng nhất là tạo tiền đề cho việc xây dựng nhà nước quản lý bằng pháp luật. Tuy vậy, hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta còn nhiều hạn chế, làm giảm hiệu lực của nó trong cuộc sống và ảnh hưởng đến khâu thực thi pháp luật. Các văn bản pháp luật đa số đều có khiếm khuyết chung như: thiếu cụ thể, thiếu rõ ràng; còn trùng lặp chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi; tính ổn định của hệ thống quy phạm còn yếu. Bên cạnh đó, trong thời gian khá dài, công tác rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú trọng; vì vậy, trong thực tế còn tình trạng khó phân biệt văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào đã hết hiệu lực. Hệ thống pháp luật như thế làm cho ngay cả những cán bộ, công chức, những người có trách nhiệm thực thi pháp luật cũng gặp khó khăn. Như vậy, một hệ thống pháp luật muốn phát huy tác dụng tốt trong cuộc sống, thì phải đảm bảo các yếu tố đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch theo đúng tinh thần của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 [23]. 1.3.1.3. Năng lực quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Năng lực QLNN về GDPL cho sinh viên là khả năng thực hiện chức năng QLNN của bộ máy hành chính nhà nước trong lĩnh vực GDPL cho sinh viên. Năng lực QLNN về GDPL cho sinh viên quyết định hiệu lực, hiệu quả của công tác GDPL cho sinh viên và ngược lại hiệu lực, hiệu quả GDPL cho sinh viên chính là biểu hiện thực tiễn về năng lực QLNN về GDPL cho sinh viên. Đánh giá năng lực QLNN về GDPL cho sinh viên ảnh hưởng bởi các yếu tố: chất lượng của hệ thống thể chế về GDPL cho sinh viên; chất lượng của bộ máy hành chính trong đó có phân định rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống hành chính; số lượng, chất lượng của đội ngũ
  • 34. 29 cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ về GDPL cho sinh viên; việc bảo đảm các nguồn lực vật chất cho công tác GDPL cho sinh viên. Như vậy, để nâng cao năng lực QLNN, nhà nước ta đã tiến hành cải cách hành chính nói chung và trong lĩnh vực GDPL nói riêng để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa, đội ngũ cán bộ công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu quả và như vậy công tác giáo GDPL mới đạt được kết quả như mong muốn. 1.3.1.4.Cơ sở vật chất và kinh phí đảm bảo cho quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinhviên. Ngoài yếu tố con người thì yếu tố nguồn lực về vật chất và kinh phí đảm bảo cho hoạt động GDPL cho sinh viên cũng là yếu tố rất quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện GDPL cho sinh viên trên thực tế. Các quy định của pháp luật sẽ chỉ nằm trên văn bản nếu công tác GDPL cho sinh viên không được quan tâm đầu tư. Ngược lại, nếu được đầu tư thỏa đáng thì công tác GDPL cho sinh viên sẽ đạt hiệu quả cao. Hiện nay, kinh phí dành cho hoạt động GDPL cho sinh viên ở các địa phương còn hết sức khiêm tốn vì nguồn thu không nhiều. Do chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng và đủ mạnh nên địa phương nào quan tâm đến công tác GDPL cho sinh viên thì dự trù hoặc cấp kinh phí phù hợp và ngược lại, dẫn đến sự không đồng đều trong mặt bằng GDPL cho sinh viên ở các địa phương, đơn vị. Vì vậy, nguồn kinh phí đảm bảo cho công tác GDPL cho sinh viên cần được quy định cụ thể, được đảm bảo từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn lực hỗ trợ khác. 1.3.2. Những tiêu chí đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Theo Thông tư số 03/2018/TT - BTP ngày 10/03/2018 của Bộ Tư pháp về quy định Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL thì để đánh giá hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên dựa vào 5 nhóm tiêu chí sau: Một là, nhóm tiêu chí thực hiện chức năng QLNN về GDPL
  • 35. 30 - Đánh giá hiệu quả của QLNN về GDPL cho sinh viên trên cơ sở việc ban hành theo thẩm quyền các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ công tác GDPL cho sinh viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý; - Tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ công tác GDPL cho sinh viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý; - Về thời điểm ban hành các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ công tác GDPL cho sinh viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý; - Xác định nội dung và hình thức GDPL phù hợp với nhóm đối tượng là sinh viên trong lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý; - Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ GDPL cho sinh viên theo quy định của pháp luật; - Tổ chức cập nhật văn bản quy phạm pháp luật lên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật theo quy định tại Điều 13, Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2015 của Chính phủ; - Thống kê, báo cáo, tổng kết, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về GDPL cho sinh viên theo quy định của pháp luật. Hai là, nhóm tiêu chí triển khai các hoạt động GDPL - Thực hiện trách nhiệm đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử theo quy định tại Điều 13 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; - Tổ chức GDPL cho cán bộ, công chức, viên chức người lao động thuộc phạm vi quản lý; - Tổ chức truyền thông, phổ biến các văn bản, chính sách pháp luật mới thuộc phạm vi lĩnh vực, địa bàn được giao quản lý bằng một trong các hình thức quy định tại Điều 11 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; - Chỉ đạo các nhà trường, cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc phạm vi quản lý tổ chức GDPL trong cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp; bố trí, chuẩn hóa, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên dạy pháp luật thuộc phạm vi quản lý; - Chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc triển khai các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
  • 36. 31 Ba là, nhóm tiêu chí về các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác GDPL - Xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật theo quy định của pháp luật - Bảo đảm tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác GDPL theo quy định của pháp luật - Bảo đảm kinh phí cho công tác GDPL theo quy định của pháp luật - Bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác GDPL theo quy định của pháp luật Bốn là, nhóm tiêu chí đánh giá hiệu quả tác động của công tác GDPL đối với xã hội - Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tự học tập, chủ động tìm hiểu pháp luật - Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động biết pháp luật - Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hiểu pháp luật - Mức độ người dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hài lòng về chất lượng hoạt động GDPL - Tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý do không hiểu biết pháp luật giảm Năm là, nhóm tiêu chí khác Đối với bộ, cơ quan ngang bộ: - Thực hiện đầy đủ trách nhiệm họp báo, thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do mình chủ trì soạn thảo theo quy định tại Điều 12 Luật PBGDPL. Trường hợp thực hiện không đầy đủ thì điểm số đạt được tương ứng với số điểm tối đa nhân với tỷ lệ % mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao; không thực hiện trách nhiệm được giao - Tổ chức biên soạn tài liệu và phổ biến kiến thức pháp luật chuyên ngành bằng hình thức thích hợp. Trường hợp thực hiện không đầy đủ thì điểm số đạt được tương ứng với số điểm tối đa nhân với tỷ lệ % mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao; không thực hiện trách nhiệm được giao Đối với UBND cấp tỉnh
  • 37. 32 - Củng cố, kiện toàn, triển khai thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐPHPBGDPL cấp tỉnh - Đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐPHPBGDPL cấp tỉnh - Chỉ đạo, hướng dẫn việc củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐPHPBGDPL cấp huyện - Chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện công tác GDPL cho sinh viên
  • 38. 33 Tiểu kết Chương 1 QLNN về GDPL cho sinh viên là nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời cũng là trách nhiệm chung của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong đó nhà nước giữ vai trò nòng cốt, khuyến khích, hướng dẫn, huy động sự tham gia, đóng góp của xã hội vào công tác này. Trong chương 1, tác giả đã đề cập đến những vấn đề lý luận và pháp luật của QLNN về GDPL cho sinh viên. Theo đó, tác giả đi vào phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của QLNN về GDPL cho sinh viên. Đồng thời, từ quy định của Luật PBGDPL, tác giả đã chỉ rõ chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp QLNN về GDPL cho sinh viên. Cuối cùng, để có thể tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên tại Chương 3, tác giả đã nêu và phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới QLNN về GDPL cho sinh viên và những tiêu chí đánh giá hiệu quả của QLNN về GDPL cho sinh viên. Những nội dung về lý luận và pháp lý được trình bày trong Chương 1 sẽ là luận cứ khoa học để phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về GDPL cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hà Nam trong Chương 2, cũng như xây dựng quan điểm và giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác QLNN về GDPL cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hà Nam sẽ được đề cập đến trong Chương 3 của Luận văn.
  • 39. 33 Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TẠI TỈNH HÀ NAM 2.1. Khái quát về các yếu tố đặc thù của tỉnh Hà Nam có tác động tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên 2.1.1. Điều kiện tự nhiên và khả năng ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên. Hà Nam là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, là cửa ngõ phía nam của thủ đô (cách thủ đô Hà Nội gần 60 km); phía bắc giáp với tỉnh Hà Tây, phía đông giáp với Hưng Yên và Thái Bình, phía nam giáp Nam Định và Ninh Bình, phía tây giáp Hòa Bình. Hơn nữa, Hà Nam nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc-Nam, trên địa bàn tỉnh có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua với chiều dài gần 50 km và rất nhiều tuyến đường giao thông quan trọng như quốc lộ 21, quốc lộ 21B, quốc lộ 38. Với vị trí chiến lược quan trọng cùng hệ thống giao thông thủy, bộ, sắt rất thuận lợi đã tạo cho Hà Nam những lợi thế rất lớn trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật... với các tỉnh trong vùng và cả nước, đặc biệt là với thủ đô Hà Nội và vùng trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ. Bên cạnh đó, Hà Nam có rất nhiều nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế. Diện tích tự nhiên của Hà Nam là 851 km2 , nằm trong vùng trũng của đồng bằng sông Hồng với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm đặc trưng. Phía tây của tỉnh là vùng đồi núi bán sơn địa với các dãy núi đá vôi, núi đất và đồi rừng rất thích hợp với các loại cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả. Phía đông của tỉnh là vùng đồng bằng được tạo nên bởi phù sa của sông Đáy, sông Châu, sông Hồng nên đất đai rất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp như trồng lúa nước, hoa màu, rau, đậu, thực phẩm. Những dải đất bồi ven các con sông đặc biệt thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây hoa màu, cây ăn quả và nơi đây cũng rất thuận lợi cho việc nuôi trồng, đánh bắt thủy sản và phát triển nghề chăn nuôi gia cầm dưới nước. Đặc biệt Hà Nam được thiên nhiên ưu đãi sở hữu nguồn tài nguyên khoáng sản rất lớn là đá vôi với trữ lượng tới hơn 7 tỷ m3 . Đó là nguyên liệu rất quan trọng
  • 40. 34 cho phát triển các ngành công nghiệp sản xuất xi măng, vôi, bột nhẹ, làm vật liệu xây dựng. Các tài nguyên khoáng sản này phần lớn phân bố gần các trục đường giao thông, thuận tiện cho việc khai thác, sản xuất, vận chuyển và lưu thông. Sản phẩm xi măng Bút Sơn của Hà Nam hiện đã có mặt trên hầu hết các tỉnh thành và công trình xây dựng lớn của đất nước. Với nguồn khoáng sản dồi dào đó, trong tương lai, Hà Nam sẽ có thể trở thành một trong những trung tâm công nghiệp vật liệu xây dựng lớn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.[11] Những đặc điểm về địa lý trên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và sẽ kéo theo các lĩnh vực khác phát triển trong đó có giáo dục đào tạo và rất thuận lợi cho công tác GDPL cho sinh viên trên địa bàn. 2.1.2. Đặc điểm, tình hình dân cư và khả năng ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Theo thống kê mới nhất ngày 01/04/2017, dân số của Hà Nam là 811.126 người, với mật độ dân số là 941 người/km2 , tỷ lệ tăng tự nhiên là 1,14 %/năm. Trong đó dân số nông thôn là 742.660 người, dân số sinh sống ở khu vực đô thị là 68.466 người (chỉ chiếm 8,5%). Số người trong độ tuổi lao động toàn tỉnh năm 2003 là 479.949 người (trong đó 240.735 nữ), chiếm 58,5% dân số. Số lao động tham gia thường xuyên trong nền kinh tế quốc dân là gần 407,7 nghìn người, chiếm gần 85% nguồn lao động toàn tỉnh. Phần đông lao động có trình độ văn hóa, có khả năng tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ. Lực lượng lao động khoa học - kỹ thuật dồi dào với khoảng 11.900 người có trình độ từ cao đẳng, đại học và trên đại học (chiếm 3% lực lượng lao động) gồm có: trên cử nhân 34 người, cử nhân 4.250 người, cao đẳng 7.240 người. Số lao động có trình độ trung cấp khoảng 13.000 người và sơ cấp, công nhân kỹ thuật là 10.400 người. Số lao động đã được đào tạo nghề là 99,7 nghìn người, trong đó số người đã có chứng chỉ đào tạo nghề là 41,5 nghìn người (chiếm hơn 10% lao động); lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và thủy sả là chủ yếu (chiếm hơn 81,4%). Số lao động trong độ tuổi có khả năng lao động nhưng chưa có việc làm hiện còn trên 11,5 nghìn người, chiếm gần 3% lực lượng lao động trong độ tuổi có khả năng lao động. Bên cạnh đó, dân số Hà Nam hàng năm tăng thêm khoảng gần 10 nghìn người làm cho nguồn lao
  • 41. 35 động thêm dồi dào, bổ sung cho nền kinh tế quốc dân. Về trình độ dân trí, Hà Nam đã được công nhận là tỉnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở, bình quân số năm học của một lao động là 8,1 năm/người (hệ 12 năm). [11] Tình hình dân cư với nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ văn hóa, có khả năng tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ là những yếu tố tích cực để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; đó cũng là thành quả của việc GDPL và QLNN về GDPL tại Hà Nam.Tuy nhiên, với đặc điểm dân cư ở một tỉnh đang có tiềm năng phát triển mạnh về kinh tế - xã hội như Hà Nam thì càng phải tăng cường hơn nữa việc GDPL và QLNN về GDPL cho dân cư trên địa bàn, đặc biệt là đối tượng sinh viên – lực lượng lao động trí thức trẻ trong tương lai. 2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh Hà Nam và những ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên Theo đánh giá trong Nghị quyết số 25/2018/ NQ – HĐND về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, ngày 07/12/2018 thì: Năm 2018, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh cơ bản ổn định và phát triển. Tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 11,5%, vượt kế hoạch. Sản xuất nông nghiệp từng bước phát triển theo hướng công nghiệp hóa, sản xuất sản phẩm sạch, ứng dụng công nghệ cao. Sản xuất công nghiệp, thu hút đầu tư, thu ngân sách tăng cao. Thương mại, dịch vụ có bước phát triển. Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tốt. Văn hóa xã hội tiến bộ vượt bậc, an sinh xã hội được chú trọng đảm bảo. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân ngày càng ổn định và dần được nâng cao. Tổ chức thành công nhiều sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao lớn, góp phần xây dựng, quảng bá hình ảnh mảnh đất và con người Hà Nam đến bạn bè trong nước và quốc tế. [53] Như vậy, xét tổng thể thì Hà Nam có rất nhiều lợi thế, cơ hội về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt đang được các cấp, các ngành tại địa phương phát huy trong lĩnh vực tuyên truyền GDPL cho người dân nói chung và cho sinh viên tại Hà Nam nói riêng. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền GDPL nói chung và cho sinh viên nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế - xã hội tại Hà Nam.