SlideShare a Scribd company logo
1 of 72
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----- -----
KHƯU ĐỖ HẢI THANH
THI HÀNHÁN PHẠT TIỀN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 2,
THÀNHPHỐHỒCHÍ MINH
Tải miễn phí kết bạn zalo 0917 193 864
Dịch vụ viết luận văn chất lượng
Website: luanvantrust.com
Zalo/Tele: 0917 193 864
Mail: baocaothuctapnet@gmail.com
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----- -----
KHƯU ĐỖ HẢI THANH
THI HÀNHÁN PHẠT TIỀN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 2,
THÀNHPHỐHỒCHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04
NGƯỜIHƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC PHÚC
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn đề tài “Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn
Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu cá nhân của tôi.
Mọi số liệu sử dụng trong luận văn và kết quả nghiên cứu do tôi tự tìm hiểu
và tổng hợp một cách trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách
nhiệm về lời cam đoan này.
Ngườicam đoan
Khưu Đỗ Hải Thanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT
TIỀN ................................................................................................................. 5
1.1 Khái quát về Hình phạt tiền ........................................................................ 5
1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Thi hành án phạt tiền ....................... 12
1.3 Trình tự, thủ tục Thi hành án phạt tiền ..................................................... 14
1.4 Hình thức nộp tiền phạt trong Thi hành án phạt tiền................................ 21
Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN PHẠT
TIỀN TẠI QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................... 26
2.1 Tổng quan về tình hình thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành
phố Hồ Chí Minh............................................................................................ 26
2.2 Thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh........ 28
Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG
TÁC THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN TẠI QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH..................................................................................................... 48
3.1Điều chỉnhlạimột số quy địnhtrongcôngtác thihành án............................ 48
3.2 Nâng cao vị thế, vai trò củacơ quan THADS trongcôngtác thi hành án
phạttiền............................................................................................................ 54
3.3 Việc áp dụng hình phạt tiền của Tòaán nhân dân.................................... 55
3.4 Công tác phối hợp giữa Thi hành án dân sự với các cơ quan ban
ngành............................................................................................................... 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
LTHADS Luật thi hành án dân sự
THADS Thi hành án dân sự
THAHS Thi hành án hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 So sánh giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung...............................5
Bảng 1.2 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và hình phạt tịch thu tài sản............10
Bảng 1.3 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và biện pháp tư pháp tịch thu vật,
tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm....................................................................11
Biểu 2.1 Số liệu về việc thi hành án phạt tiền tại Quận 2....................................28
MỞ ĐẦU
1. Tính cấpthiết của đề tài
Hình phạt tiền là hình phạt tước đi một phần quyền lợi về vật chất của
người phạm tội, có khả năng tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến kinh tế của
người bị kết án. Hình phạt tiền đã được quy định rất sớm trong pháp luật hình
sự ở Việt Nam và dần hoàn thiện trong các quy định của pháp luật hình sự
trong mỗi thời kỳ nhằm đảm bảo sự phù hợp với tình hình phát triển của đất
nước. Hiện nay, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 đã có những sửa đổi, bổ
sung về hình phạt tiền để tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật
nhằm đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Theo đó, chúng ta nhận thấy được tầm quan trọng của hình phạt tiền
trong việc đấu tranh và phòng chóng tội phạm nên việc thi hành án hình phạt
tiền lại càng có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, việc thi hành án về hình phạt tiền
hiện nay chưa được các cơ quan THADS thực hiện một cách quyết liệt dẫn
đến án tồn động về thi hành án hình phạt tiền trên thực tế vẫn còn rất nhiều.
Để việc thi hành án hình phạt tiền được các cơ quan THADS chú trọng hơn
và thực sự đi vào cuộc sống thì cần phải có những điều về chỉnh từng bước
sao cho phù hợp hơn với điều kiện kinh tế. Ngoài ra, việc điều chỉnh các văn
bản hướng dẫn luật phải được thực hiện một cách đồng bộ và cụ thể hơn đối
với công tác thi hành án phạt tiền trên thực tế.
Vì lý do trên, nên tác giả đã lựa chọn đề tài “Thi hành án phạt tiền từ
thực tiễn tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp
của mình. Thông qua đó sẽ phân tích rõ về vấn đề thi hành hình phạt tiền tại
Quận 2, nêu lên những mặt tốt, tích cực đã có, những hạn chế, tiêu cực còn
tồn động và đề xuất phương hướng nâng cao việc thi hành án phạt tiền tại
Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thi hành án không còn là vấn đề quá xa lạ với các nhà làm luật cũng
như các nhà nghiên cứu khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
THADS như: Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Mai (2016) về
“Thực tiễn THADS ở Tỉnh Ninh Bình”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Đỗ Thị Lý (2010) về “Thực tiễn THADS ở Tỉnh Thái Bình”; Luận văn thạc sĩ
luật học của tác giả Trần Mạnh Quân (2013) về “Hoàn thiện pháp LTHADS ở
Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Văn Tuyên
(2015) về “ Nâng cao hiệu quả thi hành án ở Thái Bình”; Tạp chí Khoa học
kiểm sát (2021) của tác giả Dương Quỳnh Hoa về “Mốt số vấn đề cưỡng chế
kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án”
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về hình phạt tiền như: Luận văn
thạc sĩ luật học của Đinh Văn Khuyến (2020) về “Áp dụng hình phạt tiền theo
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”; Luận văn thạc sĩ luật học
của Trần Minh Tấn (2020) về “Hình phạt tiền từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”.
Những công trình nghiên cứu trên là khối lượng kiến thức, thông tin
lớn và cần thiết cho đề tài này, đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu để
giúp tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu về đề tài “Thi hành án phạt tiền
từ thực tiễn tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ đi sâu phân tích về thi
hành án phạt tiền tại thực tiễn một địa phương cụ thể là Quận 2, Thành phố
Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mụcđích nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn công tác thi hành án phạt tiền ở Quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh bằng việc bằng việc phân tích làm rõ những hạn chế
còn tồn tại và hạn chế xung quanh việc áp dụng các quy định về thi hành án
phạt tiền một cách cụ thể và rõ ràng, để bảo đảm quá trình thi hành án phạt
tiền được thực hiện một cách nghiêm túc nhất.
2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục đíchtrên cần thực hiện việc nghiên cứu một cáchcó
hệ thống một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tiền trong THADS. Bên cạnh
đó, đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về thi
hành án phạt tiền theo quy định của pháp luật hiện hành và nâng cao hiệu quả
thi hành án phạt tiền.
4. Đốitượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định về THADS trong pháp luật thi hành án hiện hành về thi
hành án phạt tiền và thực tiễn công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành
phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề về thi hành án phạt
tiền trong THADS và thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố
Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp để tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc khi thi hành án phạt tiền tại Quận 2.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin
đó là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử.
Cùng với các phương pháp trên, tác giả đã sử dụng các phương pháp thu thập
thông tin, số liệu; phương pháp phân tích, tổnghợp và nghiên cứuthực tiễn. Đây
là các phươngpháp được sửdụngchủyếu trong quá trìnhthực hiên đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin chủ yếu được thực hiện qua hệ thống
Công báo, các trang Web của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng
thời thông qua các báo cáo, phần mềm thụ lý thi hành án của Chi cục THADS
3
Quận 2, thông qua các bài viết, tạp chí….. của các tác giả trên báo chí,
internet để lấy số liệu liên quan đến quá trình nghiên cứu, thông qua việc
phỏng vấn trực tiếp một số chấp hành viên, cán bộ thi hành án…
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích, tổng hợp
các quy định của pháp luật về công tác thi hành án, cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật trong quá trình thi hành án phạt tiền từ thực tiễn thi hành án ở
Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái
niệm THADS, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án phạt tiền trong
THADS thông qua đó góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động
nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án.
Thông qua việc nghiên cứu thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh tác giả đã chỉ ra những khó khăn, hạn chế và bất cập
hiện đang tồn tại trong công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố
Hồ Chí Minh, để từ đó có phương hướng đề xuất các giải pháp nhằm khắc
phục hạn chế, vướng mắt
Từ việc tìm ra những điểm hạn chế, bất cập và vướng mắt trong công
tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh tác giả chỉ ra
những nguyên nhân và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong
công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khỏa , nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thi hành án phạt tiền.
Chương 2: Thực trạng công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án
phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN
1.1 Khái quát về Hình phạt tiền
1.1.1 Khái niệm Hìnhphạt
Theo như quy định tại điều 30 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì
“Hình phạtlà biện pháp cưỡng chế nghiêm khắcnhấtcủa Nhà nước được quy
định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
của người, pháp nhân thương mại”
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm
tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại
khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Theo đó, BLHS hiện hành đã phân loại hình phạt thành hai loại cơ bản
đó là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Để hiểu rõ hơn quy định cũng như
cách áp dụng hai loại hình phạt trên thì chúng ta sẽ đi phân tích điểm giống,
khác nhau của hai loại hình phạt.
Điểm giống nhau: Là cả hai hình phạt đều tước đoạt hoặc hạn chế một
số quyền nhất định của người phạm tội. Do chủ thể có thẩm quyền ra quyết
định và mang tính chất bất lợi cho người bị áp dụng.
Điểm khác nhau: Căn cứ vào các quy định về hình phạt của BLHS sửa
đổi, bổ sung năm 2017 và để có cái nhìn rõ nhất về điểm khác nhau của hai
loại hình phạt chúng ta sẽ có bảng phân tíchnhư sau[17]
Bảng 1.1 So sánh giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung
Tiêu chí Hình phạt chính Hình phạt bổ sung
Khái niệm Hình phạt chính là hình phạt cơ
bản được áp dụng cho một loại
Hình phạt bổ sung là hình phạt
không được tuyên độc lập mà
5
tội phạm và được tuyên độc lập
với mỗi tội phạm Tòa án chỉ có
thể tuyên án độc lập một hình
phạt chính.
chỉ có thể tuyên kèm theo hình
phạt chính.
Đối với mỗi loại tội phạm Tòa
án có thể tuyên một hoặc
nhiều hình phạt bổ sung nếu
điều luật về tội phạm có quy
định các hình phạt này.
Các hình phạt Đối với cá nhân:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;
- Cải tạo không giam giữ;
- Trục xuất;
- Tù có thời hạn;
- Tù chung thân;
- Tử hình.
Đối với pháp nhân:
- Phạt tiền;
- Đình chỉ hoạt động có thời
hạn;
- Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Đối với cá nhân:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định;
- Cấm cư trú;
- Quản chế;
- Tước một số quyền công
dân;
- Tịch thu tài sản;
- Phạt tiền, khi không áp dụng
là hình phạt chính;
- Trục xuất, khi không áp
dụng là hình phạt chính.
Đối với pháp nhân:
- Cấm kinh doanh, cấm hoạt
động trong một số lĩnh vực
nhất định;
- Cấm huy động vốn;
- Phạt tiền, khi không áp dụng
là hình phạt chính.
6
Mức độ So với hình phạt bổ sung thì
hình phạt chính mang tính
nghiêm khắc, nặng hơn rất
nhiều. Hình phạt chính đánh
thẳng vào các quyền cơ bản của
công dân như quyền tự do,
quyền sống.
Hình phạt bổ sung nhẹ hơn rất
nhiều so với hình phạt chính.
Nguyên tắc áp
dụng
+ Hình phạt chính được tuyên
độc lập;
+ Hình phạt chính được vận
dụng riêng rẽ chứ không đồng
thời áp dụng đối với người
phạm tội chỉ áp dụng một trong
các hình phạt chính;
+ Khi áp dụng một hình phạt
chính có thể áp dụng thêm một
hoặc nhiều biện pháp hình phạt
bổ sung.
Hình phạt bổ sung luôn phải đi
kèm với hình phạt chính.
Nguồn: Tổng hợp dựa trên Bộ luậthình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017
1.1.2 Khái niệm vềHình phạt tiền
Sau khi phân tích về hình phạt ở bên trên ta có thể thấy hình phạt tiền
trong BLHS hiện hành rất đa dạng có thể được coi là hình phạt chính nhưng
đôi khi có thể là hình phạt bổ sung. Trong quá trình thi hành án việc hình phạt
tiền là chính hay là bổ sung thì cũng không quan trọng vì theo như quy định
tại Điều 1 về phạm vi điều chỉnh của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014
miễn là hình phạt tiền đó được quy định trong Bản án, Quyết định đã có hiệu
lực thi hành của Tòa án thì cơ quan THADS sẽ ra Quyết định thi hành án và
tiến hành các thủ tục về thi hành án.
7
Theo như quy định tại Điều 35 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì
chỉ đưa ra các quy định về phạm vi, nguyên tắc, điều kiện để áp dụng khi nào
sẽ là hình phạt chính, khi nào sẽ là hình phạt bổ sung mà chưa nêu ra được
một khái niệm cụ thế nhất về hình phạt tiền. Nói các khác là BLHS chỉ mới
hướng cách sử dụng chứ chưa nêu ra được hình phạt tiền là gì? Để hiểu rõ về
hình phạt tiền ta sẽ đi phân tíchnhững quan điểm sau đây:
+) Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc
hình phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa
án quyết định trong những trường hợp do luật định mà theo đó người bị kết án
bị tước một số tiền tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời xem
xét đến tình hình tài sản của người bị kết án và sự biến động của giá cả.
+) Phạt tiền là hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo
không giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một
khoản tiền nhất định.
+) Phạt tiền là hình phạt tước của người bị kết án một khoản tiền nhất
định sung công quỹ nhà nước.[9]
Ta có thể thấy về mặt nội dung của hình phạt tiền chính là người bị kết
án sẽ bị tước bỏ đi một khoản tiền nhất định để sung vào công quỹ nhà nước.
Đều này có nghĩa là hình phạt tiền sẽ đánh thẳng vào kinh tế của người bị kết
án nói cách khác chính là đánh thẳng vào túi tiền của người bị kết án. Khi áp
dụng hình phạt này người bị kết án sẽ bị Nhà nước tác động trực tiếp vào kinh
tế đây là một trong những lợi íchcơ bản của một con người, một công dân. Vì
vậy, hình phạt này có tác dụng rất hiệu quả trong việc áp dụng với các loại tội
phạm có tính chất vụ lợi, các tội dùng tiền để làm phương tiện phạm tội, tội
xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế,…. Mà chưa đến mức phải áp dụng các
hình phạt khác nặng hơn.
Tuy nhiên, khi xem xét về tính nghiêm khắc của hình phạt thì hình phạt
tiền nếu mang tính chất là hình phạt chính thì nó chỉ xếp sau các hình phạt cải
8
tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Nếu
mang tính chất là hình phạt bổ sung thì chỉ xếp sau hình phạt trục xuất. Vì vậy,
có thế thấy hình phạt tiền là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà
nước được thể hiện qua việc người bị kết án sẽ bị tước đoạt đi một số tiền nhất
định làm hạn chếđi về mặt lợi íchvật chấtcủa người bịkết án và bên cạnh đó họ
còn phảigánh chịu phải mang án tích trong một khoản thờigian nhất định.
Đối với mặt hậu quả pháp lý của hình phạt tiền thì người bị kết án sẽ
không chịu bất kì trách nhiệm hay sự ràng buộc nào khác cả vì họ đã bị tước đi
một khoản tiền như đã nói ở trên. Họ vẫn được sinh sốngbình thường nhưng sẽ
được giáo dục và cải tạo mà không cần thiết cách ly ra khỏi xã hội sẽ được thi
hành án tại nơi người đó đang công tác và nơisinh hoạt trước khiphạm tội.
Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra một khái niệm về hình phạt
tiền như sau: “Phạt tiền là hình phạt tước đi của người bị kết án một khoản
tiền nhấtđịnh để sung công quỹnhà nước và được quyđịnh trong BLHS”.
- Phânbiệthình phạt tiềnvớicác hìnhphạtcóchế tàitương tựkhác
Ta có thấy tại Điều 45 và Điều 47 của BLHS sửa đổi, bổ sung năm
2017 có quy định về việc tịch thu tài sản và tịch thu vật, tiền trực tiếp liên
quan đến tội phạm. Hai hình phạt trên đều quy định việc tịch thu tài sản của
người bị kết án mà tài sản ở đây có thể là tiền. Vậy để tránh nhầm lẫn giữa
hình phạt tiền với hai hình phạt nêu trên ta sẽ đi phân biệt điểm giống và khác
nhau giữa chúng.
Phân biệt hình phạttiền với hình phạttịch thu tài sản
Trước khi so sánh hai hình phạt này thì theo Điều 32 BLHS sửa đổi, bổ
sung năm 2017 thì hình phạt tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung. Vậy khi so
sánh thì chúng ta cũng phải xem hình phạt tiền cũng là hình phạt bổ sung theo
khoản 2 Điều 35 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ta có thế phân biệt hai
hình phạt như sau:
+) Giống nhau:
9
Tiêu chí Hình phạt tiền Hình phạt tịch thu tài
sản
Nội dung Tước đi của người bị kết
án một khoản tiền nhất
định để sung công quỹ
nhà nước.
Đối tượng của hình phạt
tiền chính là tiền của
người bị kết án ngoài ra
không còn gì khác.
Tước một phần hoặc
toàn bộ tài sản thuộc sở
hữu của người bị kết án
để sung công quỹ nhà
nước
Đối tượng ở đây là tài
sản của người bị kết án.
Mặc dù tài sản ở đây có
thể là tiền nhưng ngoài
ra cũng có thể là các tài
sản dạng hiện vật, tài
sản cho vay, cho mượn,
cầm cố, thế chấp của
người bị kết án
Đối tượng áp dụng Áp dụng đối với người
phạm tội về tham
nhũng, ma túy hoặc
những tội phạm khác do
BLHS quy định (theo
Khoản 2 Điều 35 BLHS
sửa đổi, bổ sung năm
2017)
Áp dụng đối với những
người bị kết án về tội
nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng
trong trường hợp BLHS
quy định (theo Điều 45
BLHS sửa đổi, bổ sung
năm 2017)
 Cả hai đều được quy định là hình phạt bổ sung và có thể đi kèm
với hình phạt chính đốivới người bị kết án;
 Tiền hoặc tài sản sau khi tịch thu được thì đều bị sung vào công
quỹ nhà nước
+) Khác nhau:
Bảng 1.2 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và hình phạt tịch thu tài sản
Nguồn: Tổng hợp dựa trên BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017
Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực
tiếp liên quan đến tội phạm
+) Giống nhau:
 Cảhai đều là biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS
10
Tiêu chí Hình phạt tiền Biện pháp tư pháp tịch
thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm
Hình thức Được quy định trong hệ
thống hình phạt của
pháp luật hình sự
Là một biện pháp tư
pháp được quy định
trong BLHS
Đối tượng áp dụng Áp dụng đối với người
bị kết án
Áp dụng đối với người
phạm tội nói chung
Thời điểm áp dụng Sau khi quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp
luật đối với người bị kết
án về hình phạt tiền
Áp dụng bất kỳ lúc nào
trong quá tình tố tụng
khi có căn cứ theo Điều
47 BLHS sửa đổi, bổ
sung năm 2017
Thẩm quyền áp dụng Chỉ do Tòa án quyết
định đối với người bị
kết án
Ngoài Tòa án thì các cơ
quan về tư pháp hình sự
khác cũng có thể áp
dụng tùy vào từng
trường hợp cụ thể tương
ứng
Hậu quả pháp lý Sẽ để lại án tích Không để lại án tích
 Tiền hoặc vật, tài sản tịch thu được đều bị sung vào công quỹ
nhà nước
+) Khác nhau:
Bảng 1.3 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và biện pháp tư pháp tịch thu
vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
Nguồn: Tổng hợp dựa trên BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017
11
1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Thi hành án phạt tiền
1.2.1 Khái niệm của Thi hành án phạt tiền
Từ những phân tích, so sánh bêntrên về hình phạt và hình phạt tiền ta có
thể rút ra được kháiniệm về Thi hành án phạttiền như sau:“Thihành án phạttiền
là hoạtđộngcủacơ quan THADS có thẩm quyền buộc ngườiphảithi hành án thi
hành một khoảntiền nhất định theo các Bản án, Quyết định củaTòaán nhân dân”.
Theo đó, Thi hành án phạt tiền khuyến khích người phải thi hành án tự
giác thi hành nếu không sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải
thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản Bản án, Quyết định của Tòa
án và phải tuân theo các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, giáo dục họ có
ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích cá nhân, tôn trọng kỉ luật trong
nhà nước và trở thành một conngười lương thiện.
Tuy nhiên, trong công tác THADS có hai loại Quyết định là Quyết định
thi hành án chủ động và Quyết định thi hành theo đơn yêu cầu. Thi hành án
phạt tiền là một nội dung trong Quyết định thi hành án chủ động. Ngoài thi
hành án phạt tiền còn một dạng Quyết định thi hành án chủ động luôn chiếm
nhiều trong công tác THADS là nộp tiền án phí, Do đó cần phân biệt rõ ràng
giữa việc Thi hành án phạt tiền và nộp tiền án phí.
Mặc dù, cả hai đều là việc nộp một phần tiền theo quyđịnh trongcác Bản
án, Quyết định của Tòa án nhưng Thi hành án hình phạt tiền lại mang một ý
nghĩa khác so với án phí. Thi hành án phạt tiền là việc buộc người phải thi hành
án nộp một khoản tiền từ việc sai phạm của họ mà Tòaán nhận thấy cầnphải áp
dụng nhằm mục đíchrăn đe và giáo dục họ, còn đốivới án phí thì đây là khoản
chiphí về xét xử một vụ án mà đươngsự phảinộp trongmỗi vụ án.
1.2.2 Đặcđiểm của Thi hành án phạt tiền.
- Mang bản chất hành chính – tưpháp, thểhiện tính chấphành và điều hành
Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án phạt tiền chỉ được tiến
hành dựa trên cơ sở của những Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
12
nằm trong phạm vi luật định; toàn bộ quá trình thi hành án phạt tiền với
những hoạt động, biện pháp, phương pháp khác nhau đều nhằm thực hiện
những nội dung đã được thể hiện trong Bản án, Quyết định của Toà án và
theo các quy định cụ thể của pháp luật.
Là dạng hoạt động quản lí vì thi hành án phạt tiền là sự tác động đến
các đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện
pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong những Bản án,
Quyết định của Toà án và phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục
họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỷ
luật nhà nước. Để thực hiện các hoạt động chấp hành và quản lí nói trên, cách
thức thuyết phục, giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng.
- Hoạt động thi hành án phạttiền được tiến hành theo một trình tự, thủ
tục chạt chẽ do pháp luậtquyđịnh
Thi hành án phạt tiền được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẻ
do pháp luật quy định từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trên cơ sở pháp lý
đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng thực hiện quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong suốtquá trình thi hành án.
- Thi hành án phạt tiền chỉ nhằm thực hiện các bản án, quyết định của
cơ quan tàiphán.
Thi hành án phạt tiền có tính chất bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức cơ
quan liên quan đến Bản án, Quyết định của Tòa án. Nếu không chấp hành
hoặc chấp hành không nghiêm chỉnh Bản án, Quyết định của Tòa án sẽ dẫn
đến những hậu quả pháp lý nhất định và có thể bị xử lý bằng các chế tài pháp
luật nghiêm khắc.
1.2.3 Vai trò của Thi hành án phạt tiền
- Đảm bảoBản án,Quyếtđịnh của Tòa ánđượcđivàothựctiễn đờisống.
Sau khi Tòa án đưa ra các phán quyết thì cái công bằng, cái lẻ phải vẫn
chỉ nằm trên một trang giấy mà chúng ta gọi đó là Bản án, Quyết định của
Tòa án và nó chỉ dừng lại ở việc thể hiện sự đúng hay sai, phải hay trái trong
13
một vụ việc nhất định. Muốn cái lẻ phải, công bằng đó được thực hiện trên
thực tế thì cần phải nhờ đến công tác thi hành án. Do đó, Thi hành án phạt
tiền sẽ trở thành công cụ hữu hiệu để bảo đảm cho các Bản án, Quyết định
của Tòa án sẽ được thi hành trên thực tế.
- Góp phầnnângcaochấtlượngcácBảnán,Quyếtđịnhcủa Tòa án.
Thông qua quá trình Thi hành án phạt tiền cũng như áp dụng các biện
pháp thi hành án đôi khi cơ quan thi hành án sẽ phát hiện một số sai sót, thiếu
sót trong các Bản án, Quyết định. Từ đó, cơ quan thi hành án sẽ có kiến nghị
để Tòa án xem xét, khắc phục và rút ra được những kinh nghiệm trong quá
trình áp dụng pháp luật cũng như trong công tác xét xử, góp phần nâng cao
chất lượng của các Bản án, Quyết định. Nếu mục đích của việc thi hành án
phạt tiền không đạt được thì toàn bộ hoạt động tố tụng trước đó cũng trở nên
vô nghĩa. Nếu một Bản án, Quyết định của Tòa án có áp dụng hình phạt tiền
nhưng không thi hành được hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự, kỷ cương
xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường.
Vì vậy, Thông qua việc thi hành án phạt tiền cũng có thể kiểm tra lại
quá trình xét xử trước đó, Bản án, Quyết định của Tòa án có thấu tình đạt lý
thì mới có thể dễ dàng thi hành trên thực tế, trái lại việc xét xử ra một Bản án
có sai sót, sẽ rất khó thi hành trên thực tế.
1.3 Trình tự, thủ tục Thi hành án phạt tiền
Các Bản án, Quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật sau khi
được chuyển giao qua cho cơ quan THADS thì phải trải qua một số thủ tục để
được thi hành trên thực tế. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về các trình tự thủ tục trong
công tác thi hành án hình phạt tiền chúng ta sẽ đi sâu hơn về phân tích các
giai đoạn sau:
- Giai đoạn ra quyết định thi hành án
Như chúng ta đã biết thì cơ quan có thẩm quyền xét xử chỉ có thế là
Tòa án. Trong quá trình xét xử nhiệm vụ của Tòa án là xác định sự thật khách
quan của vụ việc, khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
14
nhân, cơ quan, tổ chức… trong một vụ việc cụ thể. Sau khi kết thúc xét xử lúc
này Tòa án mới chỉ đưa ra được những phán quyết về mặt nội dung, xác định
các quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự chỉ khi các phán quyết này được
thực thi đầy đủ trong đời sống thì quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên
đương mới được bảo vệ và thi hành.
Nhưng trước khi cơ quan thi hành án tiến hành ra quyết định thi hành
án thì có một số thủ tục cần được quan tâm đến như là phân loại, xác định các
Bản án, Quyết định được thi hành và quan trọng nhất là việc giao nhận các
Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan THADS.
Về việc phân loại các Bản án, Quyết định của Tòa án thì chúng ta sẽ
căn cứ vào Điều 2 LTHADS được sủa đổi, bổ sung năm 2014 để xác định và
phân loại các Bản án, Quyết định được cơ quan thi hành án dân thi hành. Phân
loại và xác định các Bản án, Quyết định của Tòa án sẽ giúp cho bộ phận ra
quyết định thi hành án kiểm soát được số lượng án đã nhận từ Tòa án, ngoài
ra kịp thời nhanh chóng ra các Quyết định thi hành án về phần chủ động được
nêu trong các Bản án, Quyết định của Tòa án nhằm tránh gây thất thoát cũng
như trễ hạn sẽ gây khó khăn cho các Chấp hành viên khi thi hành án.
Về việc giao nhận Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan THADS
phải được tiến hành trực tiếp hoặc gián tiếp (thông quá tổ chức, các nhân
khác). Để đảm bảo cho công tác thi hành án thì Điều 28 LTHADS được sủa
đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định về thời hạn chuyển giao Bản án, Quyết
định của Tòaán tùy thuộc vào mỗi loại Bản án, Quyết định, cụ thể như sau:
+ Tòa án đã ra Bản án, Quyết định, gồm: Bản án, quyết định hoặc phần
Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết
định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, quyết định dân sự của
Tòa án nước ngoài; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản phải chuyển
15
giao Bản án, Quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật.
+ Tòa án đã ra Bản án, Quyết định gồm: Bản án, quyết định về cấp
dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm,
trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm phải chuyển giao Bản
án, Quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày ra Bản án, Quyết định.
+ Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải
chuyển giao quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền ngay sau khi
ra quyết định.
+ Những tài liệu Tòa án phải chuyển giao cùng với Bản án, Quyết định.
Nhằm tạo điều kiện cho cơ quan thi hành án trong quá trình thi hành án
thì trong giai đoạn chuyển giao các Bản án, Quyết định Tòa án có trách nhiệm
chuyển giao cho cơ quan thi hành án các tài liệu có liên quan đến công tác thi
hành án.
Ngoài ra, để tránh thất lạc, giao trễ hạn gây chậm trễ trong công tác thi
hành án thì tại điều 29 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định
trong quá trình giao nhận Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan THADS
cán bộ của hai bên phải ký vào biên bản giao nhận ghi rõ ngày giờ giao nhận.
Mặt khác về phía cơ quan THADS phải lập sổ nhận Bản án, Quyết định ghi rõ
số thứ tự; ngày, tháng, năm nhận Bản án, Quyết định; số, ngày, tháng, năm
của Bản án, Quyết định và tên Tòa án, Trọng tài thương mại đã ra Bản án,
Quyết định; tên, địa chỉ của đương sự và tài liệu khác có liên quan.
Thẩm quyền ra quyết định thi hành án đã được quy định rõ tại điều 36
LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Theo quy định thì thủ trưởng cơ quan
THADS sẽ có thẩm quyền ra quyết định thi hành án và thời hạn ra quyết định
thi hành án là năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được Bản án, Quyết định có
16
hiệu lực pháp luật của Tòa án. Trong trường hợp là các quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì thủ trưởng cơ quan THADS phải tiến hành ra
quyết định thi hành án trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được quyết định
có hiệu lực pháp luật do Tòa án chuyển giao hoặc đương sự nộp trực tiếp.
Trong THADS thì có hai loại quyết định thi hành án đó là quyết định
thi hành án theo đơn yêu cầu và quyết định thi hành án chủ động. Đối với
quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thì chỉ khi người được thi hành án
hoặc người phải thi hành án nộp đơn trực tiếp tại cơ quan thi hành án và yêu
cầu thi hành phần quyền lợi hoặc nghĩa vụ của mình được quy định trong Bản
án, Quyết định của Tòa án thì lúc này cơ quan thi hành án sẽ tiến hành ra
quyết định và thi hành trên thực tế. Đối với quyết định thi hành án chủ động
thì khi nhận được Bản án, Quyết định của Tòa án cơ quan thi hành án sẽ tiến
hành ra quyết định thi hành án mà không cần sự yêu cầu của bất kì bên đương
sự nào.
Hình phạt tiền trong trường hợp này chúng ta căn cứ theo điểm a
khoản 2 điều 36 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 được xem là phần chủ
động và sẽ được thủ trưởng của cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án
chủ động mà không cần có sự yêu cầu của các bên đương sự nào. Sau khi ra
quyết định thi hành án thì cơ quan thi hành án phải chuyển giao quyết định thi
hành án đó cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nhằm phục vụ việc kiểm tra,
giám sát quá trình thi hành án, ngoài ra, còn phải gửi quyết định cho người
được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan để họ được biết về phần quyền và nghĩa vụ của mình.
- Thông báovề thi hành án
Thông báo được hiểu là việc truyền tải thông tin nhanh đến những
người có liên quan trong nội dung của thông báo đó nhằm kịp thời cho họ biết
được những thông tin cần thiết, những quyền lợi, nghĩa vụ mà họ được làm và
17
phải làm. Thông báo sẽ được chuyển đến người nhận qua các hình thức như
gửi thư, giao trực tiếp.
Trong công thác THADS việc thông báo các thông tin đến cho các
đương sự trong vụ việc hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là cực
kì quan trọng. Thông báo về thi hành án phải được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật và phải do người có thẩm quyền thực hiện theo một hình
thức nhất định. Việc thông báo thi hành án sẽ bảo đảm quyền được thông tin
của các bên đương sự trong vụ việc thi hành án nhằm tạo điều kiện để họ kịp
thời bảo vệ quyền là lợi ích chính đáng của họ. Bên cạnh đó, việc thông báo
về thi hành án kịp thời đến các bên đương sự trong thi hành án còn thể hiện sự
dân chủ trong công tác THADS luôn cho các bên đương sự được biết thông
tin về vụ việc của mình, nắm bắt được tình hình vụ việc để họ chủ động trong
việc thi hành các phần quyền và nghĩa vụ của mình. Việc thông báo đầy đủ, kịp
thời các thông tin cho các bên đương sự sẽ phần nào làm giảm đi tình trạng
khiếu nại, tố cáo giúp cho các Chấp hành viên tránh việc phải mất thời gian trả
lời đơn khiếu nại, tố cáo cũngnhư phảibáo cáo hồ sơ thi hành án bị khiếu nại, tố
cáo. Vì thế sẽ tạo điều kiện cho các Chấp hành viên sẽ có thời gian để tập trung
vào việc thi hành án một cách tốt nhất nhằm hạn chế các saisót.
Thông báo về thi hành án là những văn bản, giấy tờ được quy định rõ
tại Điều 39 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thủ tục thông báo về thi
hành án được Chấp hành viên hoặc Thư ký thi hành án tống đạt trực tiếp cho
đương sự đối với những thông báo quan trọng cần phải cho các bên đương sự
biết ngay. Trong trường hợp cần thiết các Chấp hành viên có thể phối hợp
hoặc nhờ sự giúp đỡ của Ủy ban nhân dân hoặc Công an nhân dân cấp
phường, xã tống đạt các thông báo thi hành án để giúp các bên đương sự kịp
thời nắm được thông tin. Đối với các thông báo không quá quan trọng thì
Chấp hành viên có thể gửi thư theo đường bưu điện để cung cấp thông tin cho
các đương sự.
18
- Xác minh điều kiện thi hành án
Xác minh điều kiện thi hành án là một trong những thủ tục quan trọng
nhất trong quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên vì khi thực hiện
thủ tục xác minh các Chấp hành viên sẽ nắm rõ được các thông tin cần thiết
của đương sự phục vụ rất nhiều cho quá trình thi hành án. Kết quả xác minh là
cơ sở để Chấp hành viên thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, ngoài
ra, từ kết quả xác minh các Chấp hành viên còn có thể ra các quyết định khác
như quyết định ủy thác, quyết định chưa có điều kiện thi hành án, quyết định
khấu trừ tiền trong tài khoản, các biện pháp cưỡng chế…..
Pháp luật không quy định nguyên tắc xác minh trong THADS nhưng để
kết quả xác minh giúp ích được cho Chấp hành viên trong quá trình thi hành
án thì cần phải xác định được hai nguyên tắc, đó là phải xác minh trực tiếp và
xác minh một cách chặt chẽ, đầy đủ nhất. Việc Chấp hành viên trực tiếp tiếp
xúc với đương sự sẽ giúp cho chấp hành viên hiểu rõ được tính cách, cách
hành xử của đương sự xem xét thái độ của họ có tự nguyện thi hành án hay họ
có ý định chống đối, cố chấp để không thực hiện nghĩa vụ của mình, từ đó
Chấp hành viên sẽ tiên liệu được trước các bước tiếp theo nhằm để thi hành
án một cách suôn sẻ nhất.
Đối với hình phạt tiền để xác minh một cách chặt chẽ nhất về các thông
tin của đương sự Chấp hành viên sẽ xác minh các thông tin sau:
Xác minh về cư trú của người phải thi hành án: Chấp hành viên, thư ký
thi hành án thực hiện xác minh để biết người đó hiện còn cư trú tại địa chỉ đã
được cung cấp trong Quyết định thi hành án không, người đó có ở chung với
ai không, người đó có nhiều nơi cư trú khác không. Trong trường hợp cần
thiết Chấp hành viên, Thư ký thi hành án có thể phối hợp với Công an nhân
dân phường, xã để trao đổi thông tin về nơi cư trú của người phải thi hành án.
Việc trao đổi thông tin với Công an nhân dân phường, xã sẽ thể giúp cho
Chấp hành viên có được nhiều thông tin hơn về nơi cư trú của người phải thi
19
hành án vì Công an nhân dân là cơ quan quản lí về lưu trú ở địa phận đó hoặc
có thể cung cấp cho Chấp hành viên về việc người phải thi hành án có đang đi
tù hay không.
Xác minh về nhà, đất của người phải thi hành án: Việc xác minh nhà,
đất sẽ giúp cho Chấp hành viên biết được nhà, đất đó có phải là của người
phải thi hành án không, có liên quan đến người phải thi hành án không. Để
thông tin về nhà, đất được chính xác nhất ngoài trực tiếp xác minh các Chấp
hành viên có thể xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai, tại công ty Dịch vụ
công ích, tại Uỷ ban nhân dân cấp phường, xã. Trong trường hợp kết quả xác
minh cho thấy nhà, đất đó thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi
hành án nhưng người đó vẫn chưa thi hành án thì Chấp hành viên có thể ra
Quyết định ngăn chặn chuyển dịch nhà, đất đó nhằm bảo đảm thi hành án.
Xác minh động sản của người phải thi hành án: Trong quá trình tiến
hành xác minh Chấp hành viên biết được hoặc được người được người thi
hành án cung cấp thông tin về việc người phải thi hành án có động sản thì
phải tiến hành xác minh động sản đó có phải đang được người phải thi hành
án đứng tên, đăng ký sử dụng không. Cách xác minh nhanh chóng và hiệu quả
nhất đó chính là xác minh thông qua người phải thi hành án hoặc các cơ quan
đăng ký quyền sở hữu. Tùy vào từng loại động sản mà Chấp hành viên sẽ xác
minh với các cơ quan đăng ký quyền sở hữu phù hợp nhất. Ví dụ tài sản đó là
xe máy, xe ô tô,…. Thì các Chấp hành viên phải thực hiện xác minh tại Phòng
cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt. Trong trường hợp người phải thi
hành án cung cấp đầy thông tin, chứng cứ về việc mình đang sở hữu, sử dụng
một động sản nào đó thì Chấp hành viên không cần phải xác minh với cơ
quan đăng ký quyền sở hữu.
Xác minh thu nhập của người phải thi hành án: Ngoài việc xác minh
các tài sản nêu trên thì việc xác minh thu nhập của người phải thi hành án
cũng rất quan trọng vì người phải thi hành án thường họ sẽ cố giấu diếm số
20
tiền họ đang có và Chấp hành viên cũng rất khó xác minh được việc người
phải thi hành án đang có bao nhiêu tiền mang theo trên người. Vì thế, khi biết
được người phải thi hành án đang có công việc làm có thể tạo ra tiền mà vẫn
cố tình không tự nguyện thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì Chấp hành
viên sẽ tiến hành xác minh về thu nhập hiện có của người phải thi hành án
thông qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý thu nhập của họ và khi thực
hiện việc xác minh về thu nhập thì Chấp hành viên phải xác minh rõ từng loại
tiền như là tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp, mức thu nhập, thời gian
và cách thức chi trả thu nhập của người phải thi hành án. Bên cạnh đó, trong
quá trình xác minh nếu biết được thông tin người phải thi hành án đang được
trả tiền lương hoặc có một khoản tiền trong một ngân hàng, tổ chức tín dụng
nào đó thì khi đó Chấp hành viên sẽ tiến hành xác minh với ngân hàng, tổ
chức tín dụng đó, nếu như thông tin đó là chính xác Chấp hành viên có thể ra
Quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản để khấu trừ phần nghĩa vụ về tiền mà
người phải thi hành án chưa thực hiện.
Trên đây là những cách xác minh có thể áp dụng cho việc thi hành án
hình phạt tiền. Tuy nhiên, thông qua việc tổ chức thi hành án cũng như việc
xác minh cụ thể là việc xác minh về nơi cư trú của người thi hành án như đã
nêu ở trên nếu như Chấp hành viên biết được người phải thi hành hình án
đang cư trú tại một nơi khác (Quận khác, Thành phố khác….) thì có thể ra
Quyết định ủy thác thi hành án về nơi mà người phải thi hành án đang cư trú
để cơ quan thi hành án tại nơi đó sẽ tiếp tục thi hành hình phạt tiền đối với
người phải thi hành án. Việc ủy thác thi hành án này sẽ giúp cho các cơ quan
thi hành án đỡ mất thời gian hơn trong quá trình tổ chức thi hành án.
1.4 Hình thức nộp tiền phạt trong Thi hành án phạt tiền
Theo nguyên tắc người phải thi hành án sẽ phải nghiêm chỉnh chấp hành
việc thi hành án phạt tiền được quy định trong Bản án, Quyết định của Tòa
án. Tại Điều 30 BLHS năm 1999 quy định “Tiền phạt có thể được nộp một
21
lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án” cho
chúng ta thấy quy định về việc nộp tiền phạt tại thời điểm này chưa thật sự rõ
ràng nên BLHS năm 2015 sửa đổi, bổng sung năm 2017 đã khắc phục hạn chế
này bằng cách bãi bỏ đi quy định trên. Theo đó, người bị áp dụng hình phạt
tiền dù là hình phạt chính hay là hình phạt bổ sung đều phải thi hành án theo
quy định của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Tuy nhiên, LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 lại không quy định cụ
thể về hình thức nộp phạt cho nên từ thực tiễn thi hành án phạt tiền sẽ có
những hình thức nộp phạt sau:
- Nộp phạttrực tiếp bằng tiền mặt tại cơ quan THADS:
Đây là trường hợp người phải thi hành án phạt tiền tự giác thi hành án,
chủ yếu đối với các tội mà hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính. Vì
khi đó người phải thi hành án không phải chấp hành hình phạt tù nên họ có
thể tự mình đến cơ quan thi hành án để nộp tiền phạt. Tuy nhiên, một vài
trường hợp người phải thi hành án phải chấp hành hình phạt tù và hình phạt
tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung nhưng người phải thi hành án có tinh
thần trách nhiệm cao vẫn muốn nộp tiền phạt thì có thể nhờ người thân đến cơ
quan THADS để nộp tiền thay cho người phải thi hành án. Khi thực hiện việc
nộp tiền thay thì Biên lai thu tiền phải ghi rõ do ai nộp thay.
- Nộp phạtbằng hiện vật thay cho tiền phạt:
Trường hợp này thường được áp dụng cho các tội mà hình phạt tiền là
hình phạt chính và người phải thi hành án không phải chấp hành hình phạt tù.
Tuy nhiên, họ lại không có đủ số tiền để bảo đảm việc thi hành án phạt tiền
theo Bản án, Quyết định của Tòa án nên người phải thi hành án tự nguyện
dùng tài sản bảo đảm hoặc tài sản bị tạm giữ để bảo đảm thi hành án. Để có
thể nhận các tài sản này thay cho tiền phạt các cơ quan THADS phải tiến
hành xác minh đối với các tài sản đó để kiểm chứng các tài sản có thuộc
quyền sở hữu của người phải thi hành án hay không.
22
Nếu kết quả xác minh chứng minh được các tài sản thuộc quyền sở hữu
của người phải thi hành án thì cơ quan THADS sẽ tiến hành các thủ tục kê
biên, thẩm định giá tài sản và cuối cùng là bán đấu giá, sau khi trừ tất cả các
chi phí theo quy định của pháp luật sẽ được cấn trừ vào khoản tiền phải nộp
phạt của người phải thi hành án.
- Nộp phạtvào tài khoản của cơ quan THADS được mở tại Kho bạc Nhà
nước:
Trường hợp này được áp dụng đối với các tội mà hình phạt tiền là hình
phạt chính và người phải thi hành án không phải chấp hành hình phạt tù. Tuy
nhiên, vì một số lý do nào đó mà người phải thi hành án không thể đến cơ
quan THADS để nộp tiền trực tiếp thì phải làm đơn nêu rõ lý do không thể
đến nộp tiền trực tiếp và đề nghị cơ quan THADS cung cấp số tài khỏan mở
tại Ngân hàng Nhà Nước. Theo đó, cơ quan THADS sẽ cung cấp số tài khoản
và sau khi người phải thi hành án nộp tiền Kho bạc Nhà nước sẽ gửi cho cơ
quan THADS “Lệnh chuyển có”, đây chính là căn cứ cho việc người phải thi
hành án đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền theo quy định của Bản án.
- Nộp phạttại trại giam:
Trường hợp này sẽ được áp dụng đối với người phải thi hành án đang
chấp hành hình phạt tù. Khi người phải thi hành án nộp tiền phạt thì lúc này
Trại giam nơi mà người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù sẽ có
trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho cơ quan THADS có thẩm quyền về
việc người phải thi hành án đã nộp tiền phạt. Sau khi nhận được văn bản
thông báo của Trại giam cơ quan THADS sẽ có công văn phúc đáp và cung
cấp các văn bản cần thiết như: Quyết định thi hành án, Bản án, số tài khoản
của cơ quan THADS mở tại Kho bạc Nhà nước. Trại giam nơi mà người phải
thi hành án đang chấp hành hình phạt tù sẽ căn cứ vào công văn phúc đáp của
cơ quan THADS để chuyển số tiền mà người phải thi hành án đã nộp vào tài
khoản của cơ quan THADS.
23
- Cưỡng chế thi hành án:
LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có quy định rất rõ ràng trình tự
và thủ tục thi hành án hình phạt tiền trong trường hợp người phải thi hành án
không tự giác thi hành. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn tự
nguyện thi hành án thì Chấp hành viên sẽ tiến hành xác minh điều kiện thi
hành án đối với người phải thi hành án. Trong trường hợp kết quả xác minh
của Chấp hành viên cho thấy người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
nhưng không tự nguyện thi hành án theo quy định thì sẽ bị áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án nhằm bảo đảm nghĩa vụ thi hành án của người
phải thi hành án.
24
Tiểu kếtchương 1
Công tác THADS đang ngày càng được chú trọng ngoài việc thi hành
các bản án dân sự, các phần dân sự thì THADS còn thi hành phần dân sự
trong bản án hình sự và trong đó có thi hành hình phạt tiền. Như đã đề cập và
phân tích ở Chương 1 thì hình phạt tiền sẽ đánh thẳng vào kinh tế, vào túi tiền
của người bị kết án mặc dù không để lại án tích nhưng hình phạt tiền vẫn
được xem là một trong những hình phạt mang tính cưỡng chế nghiêm khắc
nhất trong pháp luật Việt Nam ta. Bên cạnh đó, Chương 1 của luận văn đã nêu
ra được một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tiền như các nội dung, hình
thức và trình tự thủ tục của thi hành án phạt tiền . Qua đó, cho thấy được Thi
hành án phạt tiền là hoạt động của Nhà nước để thi hành án các Bản án, Quyết
định của Tòa án nhân dân có tuyên phạt về hình phạt tiền. Giúp các Bản án,
Quyết định của Tòa án nhân dân được tôn trọng và thực hiện trên thực tế
nhằm bảo đảm quyền và lợi íchcủa Nhà nước.
Nhưng để thi hành án hình phạt tiền được hiện thực hóa ra bên ngoài
đời sống xã hội ngoài đôi khi vẫn còn rất nhiều khó khăn, vướng mắt xuất
phát từ nhiều vấn đề, từ nhiều phía hoặc có thể là do các quy định chồng chéo
làm ảnh hưởng đến công tác thi hành án nói chung và thi hành án phạt tiền nói
riêng và vô hình chung sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án.
25
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN
TẠI QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Tổng quan về tình hình thi hành án phạt tiền tại Quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1 Sơlược về địa bàn Quận2, Thànhphố Hồ Chí Minh
Quận 2 được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1997 nằm ở phía Đông của
thành phố Hồ Chí Minh. Phía Bắc giáp quận Thủ Đức, Bình Thạnh (qua sông
Sài Gòn và sông Rạch Chiếc). PhíaNam giáp Quận 7, huyện Nhơn Trạch tỉnh
Đồng Nai (qua sông Sài Gòn và sông Đồng Nai). Phía Đông giáp Quận 4,
Quận 1, quận Bình Thạnh (qua sông Sài Gòn) với quy mô dân số ổn định
khoảng 600.000 dân. Với mật độ dân số khá đông nên Quận 2 được xem một
trong những trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa cùng với trình độ dân trí
ngày càng một cao cũng như sự phát triển về kinh tế, xã hội thì đi kèm theo
đó là tình trạng vi phạm pháp luật, xâm hại các lợi ích về vật chất ngày càng
gia tăng. Do đó, công tác THADS nói chung và thi hành án phạt tiền nói riêng
tại Quận 2 có xu hường ngày càng tăng và phát sinh nhiều vụ việc phức tạp
khó thi hành.
2.1.2 Ý thức tuân thủ pháp luật trong thi hành án phạt tiền tại Quận
2, Thànhphố Hồ Chí Minh
Công tác tổ chức thi hành án phạt tiền sẽ tác động trực tiếp đến người
phải thi hành án nhằm thuyết phục họ tự giác thực hiện các nghĩa vụ theo Bản
án đã tuyên. Tuy nhiên, việc tổ chức thi hành án trên thực tế gặp rất nhiều khó
khăn. Đối với mỗi vụ việc thi hành án phạt tiền, Chấp hành viên phải tốn rất
nhiều thời gian nghiên cứu và vận dụng các quy định cụ thể của luật để giải
quyết. Trong nhiều trường hợp cơ quan thi hành án phải đôn đốc người phải
thi hành án rất nhiều lần, phải phối hợp với nhiều cơ quan nhất là chính quyền
địa phương nhằm vận động, tuyên truyền, thuyết phục họ tự nguyện thi hành
án vì các tổ chức, cá nhân là người phải thi hành án phạt tiền không có tài sản
26
hoặc có nhưng cố tình chây ỳ, chống đối hoặc cản trở việc thi hành án dẫn
đến việc Chấp hành viên phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành để
buộc họ phải thi hành phần nghĩa vụ của mình. Việc phải áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án sẽ gây tổn hao thời gian và công sức của Chấp
hành viên cũng như các cơ quan liên quan, cho nên có thể thấy ý thức tuân thủ
theo pháp luật thi hành án phạt tiền tại Quận 2 vân còn rất kém.
2.1.3 Đội ngũ cán bộ, công chức tại Chi cục THADS Quận 2, Thành
phố Hồ Chí Minh
Chi cục THADS Quận 2 có 13 biên chế và 03 người lao động theo
Nghị định 68/2000/NĐ-CP. Trong đó có 08 Chấp hành viên (01 Chi cục
Trưởng và 02 Phó Chi cục trưởng), 01 Thư ký thi hành án, 01 Thẩm tra viên,
02 Kế toán, 01 Thủ kho và 03 công chức khác.
Dưới sự chỉ đạo gắt gao của Chi cục trưởng và 02 Phó chi cục trưởng
thì đội ngũ cán bộ, công chức tại Chi cục THADS Quận 2 không ngừng nâng
cao hiệu quả và chất lượng trong hoạt động THADS nói chung và thi hành án
phạt tiền nói riêng. Hằng năm, đơn vị đều hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ
mà đơn vị đã đề ra trong năm cũng như các chỉ tiêu của Cục THADS Thành
phố Hồ Chí Minh và đã được các cơ quan có thẩm quyền khen thưởng.
Bên cạnh đó, nhận thấy được tầm quan trọng của công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao, phát triển nguồn lực cho đơn vị.
Lãnh đạo Chi cục THADS Quận 2 luôn quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi
nhất có thể cho đội ngũ cán bộ, công chức của mình theo học các lớp nâng
cao về nghiệp vụ, chuyên môn như các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ, học
tập kinh nghiệm về kỹ năng tổ chức thi hành án của các tỉnh bạn. Theo đó,
chủ động đề xuất và kiến nghị với Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh để
cử các cán bộ, công chức học các lớp về lý luận chính trị nhằm bồi dưỡng
năng lực, trình độ của cán bộ, công chức để đáp ứng được yêu cầu công tác.
Tuy nhiên, nếu đem so sánh số lượng cán bộ, công chức của Chi cục
THADS Quận 2 với các cơ quan ban ngành khác (Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân….) thì ta sẽ nhận thấy sự thiếu hụt về mặt nhân lực rất
27
nhiều. Đặc biệt, với Chi cục THADS Quận 2 là nhân lực về Thư ký thi hành
án, việc có 08 Chấp hành viên nhưng chỉ có 01 Thư ký thi hành án thì sẽ
không thể nào hỗ trợ hết công việc cho các Chấp hành viên. Trên thực tế, 01
Thư ký chỉ có thể quán xuyến công việc cho 01 hoặc 02 Chấp hành viên cho
nên việc thiếu hụt về nguồn nhân lực hiện vẫn đang là vấn đề đáng quan tâm
không chỉ ở Chi cục THADS Quận 2 mà còn cả các Chi cục THADS khác
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2 Thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ
Chí Minh
2.2.1 Tìnhhình thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí
Minh
Khối lượng công việc thi hành án của Chi cục THADS Quận 2 các năm
2018, 2019 và năm 2020 có sự chênh lệch không quá nhiều trong ba năm.
Trong năm 2018 số việc phải thi hành là 2.310 việc, năm 2019 số việc phải thi
hành án là 2.272 việc, Năm 2020 số việc phải thi hành án là 2.346 việc. Qua
ba năm gần đây thì ta có thể thấy số công việc về thi hành án có thể nói là vừa
đủ với một quận có mật độ dân số khá đông như Quận 2 nhưng trên đây là số
liệu tổng việc phải thi hành trong các năm tại Chi cục THADS Quận 2. Để
tìm hiểu rõ hơn về số việc dân sự trong hình sự cũng như số việc thi hành án
phạt tiền tại Chi cục THADS Quận 2 qua ba năm thì chúng ta sẽ đi phân tích
biểu đồ dưới đây, cụ thể:
Biểu 2.1 Số liệu về việc thi hành án phạt tiền tại Quận 2
40
30
20
10
0
Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020
Quyết địnhthi hành ánphạt tiền
Thi hànhxong
Chưa có điều kiện thi hành án
Ủy thác thi hànhán
Nguồn: Tổng hợp từ phần mềm thụ lý Thihành án dân sự
28
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy bản án có hình phạt tiền tại Quận 2
không quá nhiều có thể nói là ít. Nhưng vấn đề mà chúng ta cần quan tâm đó
chính là mặc dù việc phạt tiền rất ít nhưng số lượng thi hành xong của loại
việc này lại không nhiều và hầu như sẽ nằm ở chưa có điều kiện thi hành án.
Chúng ta có thể nhìn vào năm 2018 thì Chi cục THADS Quận 2 đã nhận 30
bản án về việc phạt tiền nhưng hơn nữa số đó đều phải ra Quyết định chưa có
điều kiện thi hành án. Để làm rõ vấn đề về việc số lượng việc thi hành án phạt
tiền lại phải nằm trong diện chưa có điều kiện thi hành án nhiều như vậy thì
chúng ta sẽ xem xét thực tiễn thi hành án tại Quận 2 thông qua 2 bản án sau đây:
+ Bản án thứ nhất:
Bản án số 57/2016/HSST ngày 21 tháng 07 năm 2016 của Tòa án nhân
dân quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh [2] được tómtắt như sau ôngNgô
Chánh Trực có địachỉ thường trú tại 163A Lương Định Của, phườngAn Khánh,
Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh phải nộp phạt 5.000.0000 đồng để sung công
quỹ nhà nước và phải nộp 180.000 đồnglà tiền án phí hìnhsựsơ thẩm.
Sau khi đã nhận được Quyết định ủy thác số 121/QĐ-CCTHADS ngày
26 tháng 09 năm 2019 của Chi cục THADS Quận Phú Nhuận thì Chi cục
THADS Quận 2 đã tiến hành ra Quyết định Thi hành án chủ động số 69/QĐ-
CCTHADS ngày 15 tháng 10 năm 2020. Sau khi được phân công Quyết định
thi hành án Chấp hành viên đã tiến hành tống đạt và xác minh tại địa chỉ trong
bản án đã tuyên thì được biết địa chỉ 163A Lương Định Của, phường An
Khánh, Quận 2 thuộc diện giải tỏa trắng theo quy hoạch khu đô thị Thủ
Thiêm nên Chấp hành viên không thực hiện được việc tống đạt và sau khi tiến
hành xác minh điều kiện thi hành án tại Công an nhân dân, Ủy ban nhân dân
phường An Khánh Quận 2 được biết ông Ngô Chánh Trực có hộ khẩu thường
trú tại địa chỉ 163A Lương Định Của, phường An Khánh, Quận 2 nhưng đã
cùng gia đình di dời giải tỏa từ tháng 02/07/2002 cho đến nay đi đâu không
rõ. Vì vậy, căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 44a về việc xác định việc chưa có
29
điều kiện thi hành án của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 thủ trưởng
đơn vị sẽ ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án vì “Chưa xác
định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành
niên được giao cho người khác nuôi dưỡng”
Như chúng ta đã biết Quận 2 có 2 phường đã giải tỏa trắng là phường
Thủ Thiêm và phường An Khánh do thực hiện quy hoạch khu đô thị mới Thủ
Thiêm. Đây được xem là một trong những điểm yếu, bất cập lớn nhất của
Quận 2. Không chỉ riêng về án phạt tiền mà các loại án khác nếu như rơi vào
2 phường này thì hầu như sẽ đưa vào diện chưa có điều kiện thi hành án.
Quay trở lại với bản án bên trên, mặc dù Chấp hành viên đã xác minh được
ông Trực đã cùng gia đình đi nơi khác nhưng Công an phường và Ủy ban
nhân dân phường An Khánh cũng không rõ thông tin là ông Trực cùng gia
đình chuyển đi đâu. Bên cạnh đó, ông Trực vẫn còn hộ khẩu thường trú tại
phường An Khánh, Quận 2 nên Chi cục THADS Quận 2 phải ra Quyết định
chưa có điều kiện thi hành án đốivới các khoản phải thi hành của ông Trực.
Để giải thích cho việc mặc dù đã di dời giải tỏa đi nơi khác nhưng vẫn
còn hộ khẩu thường trú tại phường An Khánh, Quận 2 thì theo lời ông
Nguyễn Ngọc Miên Thụy, Phó chủ tịch phường An Khánh nói: “Dân chúng
tôi hiện ở tứ tán khắp nơi, tại TPHCM cũng có mà ở Đồng Nai, Long An, Bà
Rịa Vũng Tàu, Bình Dương cũng có… Sau quá trình giải tỏa, hiện trên địa
bàn phường chỉ còn lại hơn 10 hộ thôi. Tuyệt đại đa số dân nhận tiền đền bù
xong tự tìm đất, tìm nơi sinh sống. Tuy vậy, theo thông tin tôi nắm được thì
hàng ngàn hộ dân tuy đã giải tỏa khỏi phường nhưng vẫn giữ nguyên hộ khẩu
phường An Khánh. Nguyên do tâm lý người dân muốn giữ hộ khẩu TPHCM
vì chính sách của thành phố cũng nhiều ưu đãi hơn các tỉnh. Nhiều người
cũng hy vọng sau này trở về được An Khánh”[1]
30
+ Bản án thứ hai:
Bản án số 14/2020/HS-ST ngày 14 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân
dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An [3] được tóm tắt như sau ông Bùi Văn
Khanh có địa chỉ cư trú tại số 484B, khu phố 1, phường Bình Trưng Tây,
Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh bị xử phạt số tiền 35.000.000 đồng và phải
chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
Sau khi nhận được Quyết định ủy thác thi hành án số 42/QĐ-
CCTHADS ngày 20 tháng 03 năm 2020 của Chi cục THADS huyện Cần
Giuộc, tỉnh Long An Chi cục THADS Quận 2 đã tiến hành ra Quyết định thi
hành án số 814/QĐ-CCTHADS ngày 16 tháng 04 năm 2020. Chấp hành viên
đã tiến hành tống đạt và xác minh tại Công an nhân dân và Ủy ban nhân dân
phường Bình Trưng Tây theo địa chỉ cư trú mà bản án đã tuyên thì được biết
ông Bùi Văn Khanh có hộ khẩu thường trú tại số 484B khu phố 1, phường
Bình Trưng Tây Quận 2 nhưng thực tế địa bàn không có địa chỉ trên và ông
Khanh không thực tế cư trú tại địa phương, ông Khanh chuyển đi đâu không
rõ nơi cư trú mới. Vì vậy, căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 44a về việc xác
định việc chưa có điều kiện thi hành án của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm
2014 thủ trưởng đơn vị sẽ ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án
vì “Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phảithi hành án, người
chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng”
Vấn đề của bản án này chính là phần địa chỉ của đương sự. Như đã nêu
bên trên phần địa chỉ mà bản án cung cấp thiếu một thứ rất quan trọng đó
chính là tên đường. Việc bản án cung cấp thông tin thiếu tên đường là chuyện
rất hay xảy ra trên thực tế và điều này gây rất khó khăn trong công tác thi
hành án. Nếu như địa chỉ được cung cấp một cách đầy đủ và chính xác thì
Chấp hành viên hoặc Thư ký thi hành án có thể chạy một mạch đến địa chỉ đó
và tiến hành tống đạt, xác minh sẽ rất nhanh còn đằng này lại thiếu đi tên
đường. Trên thực tế để thi hành bản án này Chấp hành viên đã mất rất nhiều
31
thời gian, công sức và phải liên hệ đến rất nhiều người để có thể ra được kết
quả xác minh như đã nêu bên trên. Sau khi xác minh thì được biết rằng địa chỉ
trên là địa chỉ cũ hiện tại đã thay đổi tất cả các số bản thân Công an khu vực
và ban điều hành khu phố cũng không rõ địa chỉ 484B, khu phố 1, phường
Bình Trưng Tây, Quận 2 là nằm ở đâu.
Tóm lại, việc bản án cung cấp địa chỉ thiếu các phần thông tin như tên
đường, số nhà là việc không hiếm gặp nhưng việc này lại gây ra rất nhiều khó
khăn cho công tác THADS. Đây cũng là một trong số những hạn chế trong
công tác thi hành án vì khi gặp phải những bản án thiếu đi các phần thông tin
quan trọng sẽ khiến cho cán bộ thi hành án phải mất rất nhiều thời gian hoặc
phải liên hệ với rất nhiều người để tìm được địa chỉ của đương sự, thậm chí
có nhiều trường hợp bị trễ hạn tống đạt, xác minh vì chưa tìm được địa chỉ
của đương sự. Ngoài ra, còn phải nói đến việc cập nhật thông tin lưu trú, cư
trú cũng như thay đổi số nhà của người dân trên địa bàn chưa được Ủy ban
nhân dân phường và Công an phường thực hiện một cách sát sao, nghiêm túc
nên đôi khi gây ra khó khăn trong quá trình tổ chức thi hành án.
Hai bản án trên đây là điển hình những vụ việc thi hành án phạt tiền tại
Chi cục THADS Quận 2. Mặc khác, Quận 2 không phải là nơi nổi trội về các
vụ án ma túy nhưng số lượng án bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung liên quan đến ma túy cũng có số lượng tăng. Qua đó cho thấy tình hình
áp dụng hình phạt tiền không có xu hướng tăng mạnh nhưng lại không giảm
đi hoặc giảm đi không đáng kể. Tuy nhiên, tình hình phạm tội ngày càng tinh
vi, số vụ án phức tạp ngày càng nhiều nên yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất
lượng công tác, điều tra, xét xử và quan trọng nhất là công tác THADS nói
chung và thi hành án phạt tiền nói riêng.
32
2.2.2 Các khó khăn trong công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh
Nếu chúng ta đi so sánh THADS với các ngành khác trong hệ thống tư
pháp thì chúng ta có thể thấy THADS còn rất non trẻ vì từ năm 2008
LTHADS được ban hành thì phải đến tận năm 2014 mới được sửa đổi, bổ
sung lần đầu tiên nên vẫn còn nhiều khó khăn khi áp dụng trên thực tiễn, cụ
thể tại Quận 2 như sau:
- Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án với Ngân hàng, các tổ chức tín
dụng:
Theo Điều 176 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định
rất rõ trách nhiệm của các Ngân hàng và tổ chức tín dụng trong công tác
THADS. Căn cứ vào điều luật này các Chấp hành viên có thể phối hợp với
các Ngân hàng và tổ chức tín dụng trong việc phong tỏa tài khoản của người
phải thi hành án nhằm tránh các trường hợp người phải thi hành án có tiền
trong tài khoản của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng nhưng cố tình không
thực hiện nghĩa vụ và muốn tẩu tán tài sản.
Trước đây, Luật THADS năm 2004 quy định Chấp hành viên chỉ được
phong tỏa tài khoản khi hết thời gian tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, nếu
hết thời gian tự nguyện thi hành án thì người phải thi hành án đã có thể tẩu tán
hết số tiền trong tài khoản nên Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có
sự thay đổi tích cực trong việc Chấp hành viên có thể phong tỏa tài khoản của
người phải thi hành án trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình thi hành án
khi có căn cứ xác định rằng có tiền trong trong tài khoản của người phải thi
hành án phạt tiền.
Trên thực tế, việc phối hợp giữa cơ quan thi hành án và các Ngân hàng,
tổ chức tín dụng chưa thật sự chặt chẽ và vẫn còn tách bạch. Việc phối hợp
không chặt chẽ đó được thể hiện rõ nhất khi các Ngân hàng, tổ chức tín dụng
nhận được công văn xác minh về điều kiện thi hành án và phong tỏa tài khoản
33
đối với người phải thi hành án phạt tiền của cơ quan thi hành án, thay vì phúc
đáp công văn và cung cấp các thông tin cần thiết cũng như thực hiện việc
phong tỏa tài khoản đối với tài khoản của ngưởi phải thi hành án thì đằng này
các Ngân hàng, tổ chức tín dụng lại thông báo cho “Khách hàng” chính là
người phải thi hành án rút hết số tiền trong tài khoản để tránh bị cơ quan thi
hành án khấu trừ tiền trong tài khoản. Từ đó, dẫn đến nhiều vụ việc người
phải thi hành án tẩu tiền trong tài khoản và trốn tránh nghĩa vụ thi hành làm
ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án.
- Về việc phối hợp giữa cơ quan thi hành án và cơ quan Công an trong
công tác thi hành án phạttiền:
Công an nhân dân là một trong những cơ quan giữ vai trò quan trọng
trong suốt quá trình THADS nói chung và thi hành án phạt tiền nói riêng. Ta
có thể thấy trong quá trình tác nghiệp cơ quan thi hành án phải phối hợp rất
nhiều với cơ quan Công an. Hai thủ tục quan trọng mà cơ quan thi hành án
cần phải có sự giúp đỡ của cơ quan Công an đó chính là Xác minh điều kiện
thi hành án và Cưỡng chế thi hành án.
Đối với việc xác minh điều kiện thi hành án, đây là bước quan trọng vì
kết quả xác minh là định hướng vụ án cho Chấp hành viên. Cơ quan thi hành
án sẽ phối hợp với cơ quan Công an trong việc xác minh về nhân thân, nơi cư
trú của ngươi phải thi hành án phạt tiền. Tuy nhiên, trên thực tế việc Chấp
hành viên tiến hành xác minh tại cơ quan Công an thì hầu như phải chờ rất
nhiều ngày mới nhận lại kết quả và mặc dù đã cung cấp các thông tin cần phải
xác minh cho cán bộ Công an nhưng khi nhận được kết quả chỉ có vài dòng
chữ và những thông tin đó đôi khi không thật sự có ích cho việc thi hành án.
Ngoài việc chậm trễ về thời gian đôi khi các Chấp hành viên còn phải chịu
những thái độ không nhiệt tình từ các cán bộ công an trong quá trình xác
minh điều kiện thi hành án.
34
Đối với Cưỡng chế thi hành án thì cơ quan Công an là một lực lượng
không thể thiếu, nhất là đối với các vụ việc có tính chất phức tạp, người phải
thi hành án có sự chống đối quyết liệt, gây cản trở cho quá trình cưỡng chế thi
hành án, hầu như việc cưỡng chế nào cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến tình an
ninh, chính trị tại địa phương. Vì vậy, để hạn chế tình trạng đó Bộ Tư Pháp và
Bộ Công An đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA
ngày 30/03/2012 quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong
THADS. Theo đó, LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có quy định rất rõ
về quyền và nghĩa vụ của Bộ Công An trong THADS là chỉ đạo cơ quan
Công an bảo vệ cưỡng chế thi hành án.Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều
vướng mắc trong công tác phối hợp với cơ quan Công an trong việc bảo vệ
cưỡng chế thi hành án, điển hình nhất là cơ quan Công an chưa thật sự nhiệt
tình, đôi khi dẫn đến tình trạng xáo trộn nơi cưỡng chế thi hành án, người
phải thi hành gây cản trở cưỡng chế thi hành án nhưng cơ quan Công an lại
không xử lý được tình trạng này vì lo sợ phải chịu trách nhiệm.
- Thi hành án phạt tiền đối với người đang thi hành án đang chấp hành
phạttù:
Để thi hành án phạt tiền đối với người phải thi hành án đang chấp hành
hình phạt tù thì rất cần đến sự hỗ trợ kịp thời của các Trại giam, vì rất nhiều
trường hợp người phải thi hành phải chấp hành án tù dài hạn, trong quá thi
hành án phạt tù tại các Trại giam thì người phải thi hành án phải chuyển đi
nhiều trại khác nhau. Do đó, để xác minh, giải quyết việc thi hành án đối
người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù gặp rất nhiều khó khăn.
Chấp hành viên phải xác minh trại giam nơi cải tạo ban đầu của người phải thi
hành án nhưng một số Trại giam họ không nắm chính xác và cụ thể trại giam
mà người phải thi hành hiện đang chấp hành hình phạt cũng như tình hình
nhân, tài sản của họ.
35
Mặc dù, theo điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT/BTP-BCA-
BTC ngày 06 tháng 02 năm 2013 thì Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan
thi hành án hình sự công an cấp huyện là một trong những người có nghĩa vụ
thông báo các văn bản do cơ quan THADS gửi đến cho người đang chấp hành
án phạt tù theo quy định của Luật. Ngoài ra, Giám thị trại giam, Thủ trưởng
cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện cũng là những người có trách
nhiệm thông báo về việc phạm nhân đến chấp hành hình phạt tù tại nơi mình
quản lý cho cơ quan THADS nơi Tòa án xét xử sơ thẩm biết, tuy nhiên trên
thực tế việc này rất ít được các trại giam thực hiện, có những trại giam thực
hiện nhưng rất chậm trễ có khi đến 2 tháng sau thì cơ quan THADS mới nhận
được thông báo về đương sự của trại giam, dẫn đến việc trễ hạn trong quá
trình thông báo có đôi khi là không thực hiện được việc thông báo vì không
biết đương sự hiện đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam nào.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 39 Luật THAHS sửa đổi, bổ sung năm
2014 về việc “Trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ
quan THAHS công an tỉnh, cơ quan THAHS cấp quân khu có trách nhiệm
định 06 tháng một lần thông báo tình hình chấp hành án của phạm nhân cho
nhân thân của họ”. Trên thực tế, người thân của người phải thi hành án cũng
không nhận được các thông báo trên, trong một số trường hợp người thân của
người phải thi hành án từ chối cung cấp thông tin người phải thi hành án phạt
tiền cho Chấp hành viên. Do đó, để có thể giải quyết dứt điểm việc thi hành
án phạt tiền đối với người phải thi hành án phạt tiền đang thi hành án phạt tù
hiện nay đang gặp nhiều khó khăn.
- Quy định về thi hành án phạt tiền còn nhiều điểm bất cập nhưng chậm
sửa đổi, bổ sung.
Trong quá trình áp dụng pháp luật để thi hành án phạt tiền, có thể nhận
thấy nhiều quy định của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Nghị định
62 chưa được quy định cụ thể cũng như chưa áp dụng được trong thực tế đối
36
với công tác thi hành án phạt tiền dẫn đến một số vụ việc thi hành án phạt tiền
bị tồn động và kéo dài gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của Nhà nước như:
+ Chuyển giao Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan thi hành
án: Việc chuyển giao bản án giữa Tòa án và cơ quan thi hành án là việc rất
quan trọng trong THADS vì có bản án thì cơ quan THADS mới có thể tiến
hành ra Quyết định thi hành án cũng như thực hiện các thủ tục thi hành án
khác, nói cách khác đây là bước đầu tiền trong quá trình THADS. Vì vậy, khi
mà bước đầu tiên được thực hiện một cách chậm trễ thì mọi việc phía sau
cũng vì thế mà sẽ bị trì trệ theo, trên thực tiễn tại Quận 2 hiện nay không khó
để thấy được tình trạng một số bản án Tòa án giao trễ hạn, có khi là trễ hạn từ
rất lâu rồi và vì sự cả nể, vì mối quan hệ nên đôikhi bộ phận nhận bản án của
cơ quan THADS cũng bỏ qua để nhận những bản án đã quá hạn này và tiếp
tục tiến hành ra Quyết định thi hành án thì như thế sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều
đến công tác THADS, sẽ không đảm bảo được giá trị của việc thi hành án,
không thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật.
Ví dụ điển hình nhất cho sự ảnh hưởng đến công tác thi hành án là các
bản án về hình phạt tiền khi mà các đương sự chậm nộp thì sẽ phải chịu lãi
suất do chậm thi hành án nếu như Tòa án giao chậm bản án này thì khi người
phải thi hành án đến nộp tiền đúng hạn nhưng vì do Tòa án giao chậm nên đã
phát sinh lãi, mặc dù đây không phải là lỗi của người phải thi hành án nhưng
một số người vì muốn thi hành xong nghĩa vụ của mình nên họ cũng phải trả
thêm phần lãi suất, một số trường hợp giao quá hạn lãi suất quá cao khiến
người phải thi hành án ngán ngẫm với số tiền lãi mà họ phải chịu và có một số
người đã “một đi không trở lại” vì số tiền lãi chậm này. Chúng ta có thể thấy
việc như vậy là rất bất công cho người phải thi hành án cũng chỉ vì việc
chuyển giao bản án chậm trễ của Tòa án.
+ Về việc thông báo thi hành án: Thông báo thi hành án là việc làm
đầu tiên sau khi ra Quyết định thi hành án, việc thông báo nhằm cung cấp
37
thông tin cho đương sự về các phần nghĩa vụ của họ như là phải nộp bao
nhiều tiền, nộp tại đâu. Căn cứ vào khoản 2 điều 39 LTHADS năm 2014 về
thông báo thi hành án thì “Việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương
sự tẩu tán, hủyhoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án”. Trên thực tế thì thời
hạn việc thông báo ít khi đúng hạn 03 ngày. Đối với trước kia cơ quan
THADS có sự giúp đỡ của các văn phòng thừa phát lại trong việc thông báo
thi hành án nhưng việc chuyển giao các văn bản, tài liệu, quyết định về thi
hành án từ cơ quan THADS sang cho văn phòng thửa phát lại đã mất từ một
đến ba ngày, sau đó tổ chức thừa phát lại mới tiến hành đi giao cho các đương
sự và khoảng một đến hai tuần sau thì Chấp hành viên mới nhận được kết quả
của việc thông báo thi hành án, như vậy thời gian thông báo thi hành án đã bị
kéo dài thêm rất nhiều.
Thực tiễn tại Quận 2 có khoảng 8 Chấp hành viên nhưng lại thiếu Thư
ký thi hành án và mỗi người đều có rất nhiều Quyết định, thông báo, văn bản
cần thông báo cho các đương sự nên phải nhờ sự giúp đỡ của văn phòng thừa
phát lại nhưng văn phòng thừa pháp lại chỉ cho có một cán bộ đến nhận các
thông báo đó thì với số lượng tài liệu nhiều như vậy cộng thêm địa bàn quận 2
có đến 11 phường nên tình trạng quá hạn thông báo rất nhiều. Ngoài ra, khi
các Chấp hành viên gửi thông báo thì phải rất lâu mới có thể nhận được kết
quả có khi lên đến 1 tháng như vậy sẽ không bảo đảm được quá trình thi hành
án cho nên hiện nay các Chấp hành viên đã tự mình đi để tránh tình trạng quá
hạn về thông báo thi hành án cũng như đảm bảo được công tác thi hành án.
Đối với các đương sự là người phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam
thì đầu tiên các Chấp hành viên phải xác minh là người này đang thi hành án
hình phạt tù tại trại giam nào. Tiếp đến theo Điều 5 Thông tư liên tịch số
07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC ngày 06 tháng 02 năm 2013 quy định “Thủ
trưởng cơ quan THADS có trách nhiệm chuyển trực tiếp hoặc qua bưu điện
38
quyết định THADS cho giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện. Trường hợp chuyển trực tiếp thì phải lập biên bản
giao, nhận, trong đó ghi rõ thời gian, địa điểm, họ tên người giao, người nhận,
nội dung giao nhận; họ tên, chữ ký của bên giao, bên nhận. Trong thời hạn 05
(năm) ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định THADS và các tài liệu,
giấy tờ khác có liên quan, Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện giao quyết định THADS cho phạm nhân là người
phải THADS; giải thích quyền và nghĩa vụ của phạm nhân là người phải
THADS và quy định của pháp luật có liên quan đến việc THADS; yêu cầu ký
nhận vào phiếu chuyển và gửi phiếu chuyển đó cho cơ quan THADS. Theo
LTHADS quy định thông báo trong vòng 03 ngày nhưng theo Thông tư đến tận
05 ngày, mặc dù vậy thì thời gian các Chấp hành viên gửi các thông báo, quyết
định qua đườngbưu điện đến trại giam thì cũng đã quá 03 ngày so với quy định
của Luật.
Ngoài ra, việc thông báo cho các đương sự chủ yếu dựa trên địa chỉ
được cung cấp tại Bản án của Tòa án nhưng đôi khi Tòa án cung cấp thông tin
thiếu một phần của địa chỉ như Bản án số 14/2020/HS-ST đã được nêu tại
phần thực tiễn bên trên thì cũng sẽ gây lúng túng và mất thời gian cho các
Chấp hành viên trong việc thông báo về thi hành án.
+ Về việc xác minh điều kiện thi hành án: Xác minh điều kiện thi
hành án là bước cực kì quan trọng trong THADS vì kết quả của việc xác minh
sẽ mở hướng giải vụ việc cho các Chấp hành viên. Căn cứ vào điều 44
LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 về việc xác minh điều kiện thi hành án
Chấp hành viên phải xác minh về các tài sản, về thu nhập, về các thông tin
khác liên quan đến đương sự trong vụ việc. Ngoài ra, Chấp hành viên còn có
thể liên hệ các cơ quan hữu quan để xác minh thông tin, chẳng hạn như việc
xác minh về thông tin nhà và đất của đương sự được cung cấp trong bản án thì
có thể liên hệ với Văn phòng đăng ký đất đai hoặc các Chi nhánh của Văn
39
phòng đăng ký đất đai tại quận cần xác minh. Đối với xác minh nhân thân, cư
trú của đương sự thì có thể liên hệ với Ủy ban nhân dân và Công an nhân dân
cấp quận để được cung cấp các thông tin chính xác nhất.
Mặc dù trong luật đã quy định các cơ quan phối hợp khi có yêu cầu
trong việc xác minh với các Chấp hành viên, tuy nhiên trên thực tế để có được
một kết quả xác minh nhanh, đầy đủ và suôn sẻ nhất thì các Chấp hành viên
phải có thái độ mềm mỏng, từ tốn và nhẫn nại chứ không đơn thuần là dựa
vào quyền lực của cơ quan thi hành án. Đối với việc xác minh nhà, đất tại địa
phương cũng gặp một số khó khăn khi phải tiến hành xác minh tình trạng nhà,
đất chưa đăng ký quyền sở hữu. Việc này sẽ tốn rất nhiều thời gian và công
sức của các Chấp hành viên vì phải đi hỏi thông tin về nhà, đất đó tại Ủy ban
nhân dân nơi nhà, đất đó đang hiện hữu nhưng đôi khi gặp một số trường hợp
cả Ủy ban nhân dân cũng không nắm được thông tin nên các Chấp hành viên
phải xác minh tại tổ trưởng dân phố, khu phố, đôi khi là cả những người dân
xung quanh để nắm được thông tin về nhà, đất đó. Trong một số trường hợp
để tránh việc phải thi hành án, một số cá nhân khi mua bán, chuyển đổi,
chuyển nhượng các tài sản phải đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng nhưng
lại không tiến hành đăng ký, việc này sẽ gây rất nhiều khó khăn cho Chấp
hành viên khi tiến hành xác minh trên thực tế. Để có kết quả xác minh chính
xác nhất về nhà, đất thì các Chấp hành viên thường gửi văn bản yêu cầu xác
minh tại Văn phòng Đăng ký đất đai vì đây là cơ quan nắm giữ thông tin rõ
nhất về nhà, đất. Tuy nhiên trong một số trường hợp Văn phòng Đăng ký đất
đai trễ hạn trong việc trả lời xác minh cho cơ quan thi hành án và việc này gây
khó khăn trong việc xử lý hồ sơ thi hành án. Ngoài ra, trong một số văn bản
trả lời xác minh của Văn phòng Đăng ký đất đai cho cơ quan thi hành án chưa
cung cấp được đầy đủ thông tin cần thiết, đôi khi là không có bất cứ thông tin
nào về nhà, đất mà cơ quan thi hành án xác minh nhưng cơ quan thi hành án
40
vẫn phải chịu một khoản phí không nhỏ để nhận được kết quả xác minh của
Văn phòng Đăng ký đất đai.
Tại khoản 2 Điều 44 LTHADS sủa đổi, bổ sung năm 2014 có quy định
việc xác minh “trong trường hợp người phảithi hành án chưa có điều kiện thi
hành án thì ít nhất06 tháng một lần Chấp hành viên phảitiến hành xácminh.
Trường hợp người người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là
người đang chấp hành hình phạt tù từ 02 năm trở lên hoặc không xác định
được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phảithi hành án thì thời hạn xác minh
ít nhất01 năm một lần”, việc xác minh này nhằm tìm kiếm thông tin mới của
người phải thi hành án nhưng lại chưa có điều kiện thi hành án. Nhưng trên
thực tế dù có xác minh lại bao nhiều lần thì kết quả cũng như lần đầu, ví dụ:
Trong trường hợp người phải thi hành án đã bỏ đi nơi khác không rõ nơi cư
trú mới, nhà đã giải tỏa, không có tài sản gì tại địa phương, địa chỉ của người
phải thi hành án không có thực tại địa phương,….. Với những kết quả xác
minh này thì có xác minh lại cũng chẳng giúp gì được cho các Chấp hành
viên khi giải quyết hồ sơ. Đối với trường hợp người phải thi hành án đang
chấp hành hình phạt tù thì cũng như vậy, luật quy định 01 năm xác minh lại
một lần nhưng trong trường hợp người phải thi hành án phải chấp hành hình
phạt tù đến 15 năm hoặc lâu hơn thì kết quả xác minh lại cũng sẽ như lần đầu
và cũng không giúp ích cho việc giải quyết hồ sơ thi hành án. Bên cạnh đó,
việc xác minh lại đôi khi cũng gây khó khăn cho Chấp hành viên vì trong thực
tế giải quyết hồ sơ thi hành án thì có rất nhiều hồ sơ chưa có điều kiện thi
hành án, để có thể tiến hành xác minh lại tất cả các hồ sơ chưa có điều kiện
thi hành án đòi hỏi Chấp hành viên phải sắp xếp thời gian một cách khoa học
và hợp lý vì số lượng án nhiều nếu không phân bổ một cách hợp lý thì sẽ dẫn
đến tình trạng trễ hạn xác minh, ngoài ra còn ảnh đến việc giải quyết các hồ
sơ đang có điều kiện thi hành khác.
41
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY
Luận văn:  Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY

More Related Content

Similar to Luận văn: Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY

Similar to Luận văn: Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY (20)

Luận văn: Thi hành hình phạt bổ sung từ thực tiễn tỉnh Bình Dương
Luận văn: Thi hành hình phạt bổ sung từ thực tiễn tỉnh Bình DươngLuận văn: Thi hành hình phạt bổ sung từ thực tiễn tỉnh Bình Dương
Luận văn: Thi hành hình phạt bổ sung từ thực tiễn tỉnh Bình Dương
 
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tỉnh Quảng Bình
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tỉnh Quảng BìnhLuận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tỉnh Quảng Bình
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tỉnh Quảng Bình
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAYLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng NaiLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sựLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạtLuận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCM
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCMLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCM
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại TPHCM
 
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đÁp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
 
Luận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đLuận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự, HOT
 
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOTKiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
 

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Recently uploaded

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 

Luận văn: Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, TPHCM, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----- ----- KHƯU ĐỖ HẢI THANH THI HÀNHÁN PHẠT TIỀN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 2, THÀNHPHỐHỒCHÍ MINH Tải miễn phí kết bạn zalo 0917 193 864 Dịch vụ viết luận văn chất lượng Website: luanvantrust.com Zalo/Tele: 0917 193 864 Mail: baocaothuctapnet@gmail.com LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----- ----- KHƯU ĐỖ HẢI THANH THI HÀNHÁN PHẠT TIỀN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 2, THÀNHPHỐHỒCHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜIHƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC PHÚC Hà Nội, năm 2021
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn đề tài “Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu cá nhân của tôi. Mọi số liệu sử dụng trong luận văn và kết quả nghiên cứu do tôi tự tìm hiểu và tổng hợp một cách trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Ngườicam đoan Khưu Đỗ Hải Thanh
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN ................................................................................................................. 5 1.1 Khái quát về Hình phạt tiền ........................................................................ 5 1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Thi hành án phạt tiền ....................... 12 1.3 Trình tự, thủ tục Thi hành án phạt tiền ..................................................... 14 1.4 Hình thức nộp tiền phạt trong Thi hành án phạt tiền................................ 21 Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN TẠI QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................... 26 2.1 Tổng quan về tình hình thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh............................................................................................ 26 2.2 Thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh........ 28 Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN TẠI QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH..................................................................................................... 48 3.1Điều chỉnhlạimột số quy địnhtrongcôngtác thihành án............................ 48 3.2 Nâng cao vị thế, vai trò củacơ quan THADS trongcôngtác thi hành án phạttiền............................................................................................................ 54 3.3 Việc áp dụng hình phạt tiền của Tòaán nhân dân.................................... 55 3.4 Công tác phối hợp giữa Thi hành án dân sự với các cơ quan ban ngành............................................................................................................... 57 KẾT LUẬN .................................................................................................... 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64
  • 5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự LTHADS Luật thi hành án dân sự THADS Thi hành án dân sự THAHS Thi hành án hình sự
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1 So sánh giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung...............................5 Bảng 1.2 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và hình phạt tịch thu tài sản............10 Bảng 1.3 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm....................................................................11 Biểu 2.1 Số liệu về việc thi hành án phạt tiền tại Quận 2....................................28
  • 7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấpthiết của đề tài Hình phạt tiền là hình phạt tước đi một phần quyền lợi về vật chất của người phạm tội, có khả năng tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến kinh tế của người bị kết án. Hình phạt tiền đã được quy định rất sớm trong pháp luật hình sự ở Việt Nam và dần hoàn thiện trong các quy định của pháp luật hình sự trong mỗi thời kỳ nhằm đảm bảo sự phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Hiện nay, BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 đã có những sửa đổi, bổ sung về hình phạt tiền để tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật nhằm đấu tranh và phòng chống tội phạm. Theo đó, chúng ta nhận thấy được tầm quan trọng của hình phạt tiền trong việc đấu tranh và phòng chóng tội phạm nên việc thi hành án hình phạt tiền lại càng có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, việc thi hành án về hình phạt tiền hiện nay chưa được các cơ quan THADS thực hiện một cách quyết liệt dẫn đến án tồn động về thi hành án hình phạt tiền trên thực tế vẫn còn rất nhiều. Để việc thi hành án hình phạt tiền được các cơ quan THADS chú trọng hơn và thực sự đi vào cuộc sống thì cần phải có những điều về chỉnh từng bước sao cho phù hợp hơn với điều kiện kinh tế. Ngoài ra, việc điều chỉnh các văn bản hướng dẫn luật phải được thực hiện một cách đồng bộ và cụ thể hơn đối với công tác thi hành án phạt tiền trên thực tế. Vì lý do trên, nên tác giả đã lựa chọn đề tài “Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. Thông qua đó sẽ phân tích rõ về vấn đề thi hành hình phạt tiền tại Quận 2, nêu lên những mặt tốt, tích cực đã có, những hạn chế, tiêu cực còn tồn động và đề xuất phương hướng nâng cao việc thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. 1
  • 8. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thi hành án không còn là vấn đề quá xa lạ với các nhà làm luật cũng như các nhà nghiên cứu khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu về THADS như: Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Mai (2016) về “Thực tiễn THADS ở Tỉnh Ninh Bình”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đỗ Thị Lý (2010) về “Thực tiễn THADS ở Tỉnh Thái Bình”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Mạnh Quân (2013) về “Hoàn thiện pháp LTHADS ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Văn Tuyên (2015) về “ Nâng cao hiệu quả thi hành án ở Thái Bình”; Tạp chí Khoa học kiểm sát (2021) của tác giả Dương Quỳnh Hoa về “Mốt số vấn đề cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu về hình phạt tiền như: Luận văn thạc sĩ luật học của Đinh Văn Khuyến (2020) về “Áp dụng hình phạt tiền theo luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”; Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Minh Tấn (2020) về “Hình phạt tiền từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”. Những công trình nghiên cứu trên là khối lượng kiến thức, thông tin lớn và cần thiết cho đề tài này, đây là nguồn tài liệu tham khảo quý báu để giúp tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu về đề tài “Thi hành án phạt tiền từ thực tiễn tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ đi sâu phân tích về thi hành án phạt tiền tại thực tiễn một địa phương cụ thể là Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mụcđích nghiên cứu Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn công tác thi hành án phạt tiền ở Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh bằng việc bằng việc phân tích làm rõ những hạn chế còn tồn tại và hạn chế xung quanh việc áp dụng các quy định về thi hành án phạt tiền một cách cụ thể và rõ ràng, để bảo đảm quá trình thi hành án phạt tiền được thực hiện một cách nghiêm túc nhất. 2
  • 9. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được các mục đíchtrên cần thực hiện việc nghiên cứu một cáchcó hệ thống một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tiền trong THADS. Bên cạnh đó, đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về thi hành án phạt tiền theo quy định của pháp luật hiện hành và nâng cao hiệu quả thi hành án phạt tiền. 4. Đốitượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các quy định về THADS trong pháp luật thi hành án hiện hành về thi hành án phạt tiền và thực tiễn công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề về thi hành án phạt tiền trong THADS và thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi thi hành án phạt tiền tại Quận 2. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin đó là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử. Cùng với các phương pháp trên, tác giả đã sử dụng các phương pháp thu thập thông tin, số liệu; phương pháp phân tích, tổnghợp và nghiên cứuthực tiễn. Đây là các phươngpháp được sửdụngchủyếu trong quá trìnhthực hiên đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập thông tin chủ yếu được thực hiện qua hệ thống Công báo, các trang Web của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời thông qua các báo cáo, phần mềm thụ lý thi hành án của Chi cục THADS 3
  • 10. Quận 2, thông qua các bài viết, tạp chí….. của các tác giả trên báo chí, internet để lấy số liệu liên quan đến quá trình nghiên cứu, thông qua việc phỏng vấn trực tiếp một số chấp hành viên, cán bộ thi hành án… Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật về công tác thi hành án, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình thi hành án phạt tiền từ thực tiễn thi hành án ở Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm THADS, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án phạt tiền trong THADS thông qua đó góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án. Thông qua việc nghiên cứu thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh tác giả đã chỉ ra những khó khăn, hạn chế và bất cập hiện đang tồn tại trong công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, để từ đó có phương hướng đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, vướng mắt Từ việc tìm ra những điểm hạn chế, bất cập và vướng mắt trong công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh tác giả chỉ ra những nguyên nhân và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khỏa , nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về thi hành án phạt tiền. Chương 2: Thực trạng công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. 4
  • 11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN 1.1 Khái quát về Hình phạt tiền 1.1.1 Khái niệm Hìnhphạt Theo như quy định tại điều 30 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “Hình phạtlà biện pháp cưỡng chế nghiêm khắcnhấtcủa Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại” Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Theo đó, BLHS hiện hành đã phân loại hình phạt thành hai loại cơ bản đó là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Để hiểu rõ hơn quy định cũng như cách áp dụng hai loại hình phạt trên thì chúng ta sẽ đi phân tích điểm giống, khác nhau của hai loại hình phạt. Điểm giống nhau: Là cả hai hình phạt đều tước đoạt hoặc hạn chế một số quyền nhất định của người phạm tội. Do chủ thể có thẩm quyền ra quyết định và mang tính chất bất lợi cho người bị áp dụng. Điểm khác nhau: Căn cứ vào các quy định về hình phạt của BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 và để có cái nhìn rõ nhất về điểm khác nhau của hai loại hình phạt chúng ta sẽ có bảng phân tíchnhư sau[17] Bảng 1.1 So sánh giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung Tiêu chí Hình phạt chính Hình phạt bổ sung Khái niệm Hình phạt chính là hình phạt cơ bản được áp dụng cho một loại Hình phạt bổ sung là hình phạt không được tuyên độc lập mà 5
  • 12. tội phạm và được tuyên độc lập với mỗi tội phạm Tòa án chỉ có thể tuyên án độc lập một hình phạt chính. chỉ có thể tuyên kèm theo hình phạt chính. Đối với mỗi loại tội phạm Tòa án có thể tuyên một hoặc nhiều hình phạt bổ sung nếu điều luật về tội phạm có quy định các hình phạt này. Các hình phạt Đối với cá nhân: - Cảnh cáo; - Phạt tiền; - Cải tạo không giam giữ; - Trục xuất; - Tù có thời hạn; - Tù chung thân; - Tử hình. Đối với pháp nhân: - Phạt tiền; - Đình chỉ hoạt động có thời hạn; - Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Đối với cá nhân: - Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; - Cấm cư trú; - Quản chế; - Tước một số quyền công dân; - Tịch thu tài sản; - Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; - Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Đối với pháp nhân: - Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; - Cấm huy động vốn; - Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính. 6
  • 13. Mức độ So với hình phạt bổ sung thì hình phạt chính mang tính nghiêm khắc, nặng hơn rất nhiều. Hình phạt chính đánh thẳng vào các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do, quyền sống. Hình phạt bổ sung nhẹ hơn rất nhiều so với hình phạt chính. Nguyên tắc áp dụng + Hình phạt chính được tuyên độc lập; + Hình phạt chính được vận dụng riêng rẽ chứ không đồng thời áp dụng đối với người phạm tội chỉ áp dụng một trong các hình phạt chính; + Khi áp dụng một hình phạt chính có thể áp dụng thêm một hoặc nhiều biện pháp hình phạt bổ sung. Hình phạt bổ sung luôn phải đi kèm với hình phạt chính. Nguồn: Tổng hợp dựa trên Bộ luậthình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 1.1.2 Khái niệm vềHình phạt tiền Sau khi phân tích về hình phạt ở bên trên ta có thể thấy hình phạt tiền trong BLHS hiện hành rất đa dạng có thể được coi là hình phạt chính nhưng đôi khi có thể là hình phạt bổ sung. Trong quá trình thi hành án việc hình phạt tiền là chính hay là bổ sung thì cũng không quan trọng vì theo như quy định tại Điều 1 về phạm vi điều chỉnh của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 miễn là hình phạt tiền đó được quy định trong Bản án, Quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án thì cơ quan THADS sẽ ra Quyết định thi hành án và tiến hành các thủ tục về thi hành án. 7
  • 14. Theo như quy định tại Điều 35 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì chỉ đưa ra các quy định về phạm vi, nguyên tắc, điều kiện để áp dụng khi nào sẽ là hình phạt chính, khi nào sẽ là hình phạt bổ sung mà chưa nêu ra được một khái niệm cụ thế nhất về hình phạt tiền. Nói các khác là BLHS chỉ mới hướng cách sử dụng chứ chưa nêu ra được hình phạt tiền là gì? Để hiểu rõ về hình phạt tiền ta sẽ đi phân tíchnhững quan điểm sau đây: +) Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa án quyết định trong những trường hợp do luật định mà theo đó người bị kết án bị tước một số tiền tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời xem xét đến tình hình tài sản của người bị kết án và sự biến động của giá cả. +) Phạt tiền là hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo không giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một khoản tiền nhất định. +) Phạt tiền là hình phạt tước của người bị kết án một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước.[9] Ta có thể thấy về mặt nội dung của hình phạt tiền chính là người bị kết án sẽ bị tước bỏ đi một khoản tiền nhất định để sung vào công quỹ nhà nước. Đều này có nghĩa là hình phạt tiền sẽ đánh thẳng vào kinh tế của người bị kết án nói cách khác chính là đánh thẳng vào túi tiền của người bị kết án. Khi áp dụng hình phạt này người bị kết án sẽ bị Nhà nước tác động trực tiếp vào kinh tế đây là một trong những lợi íchcơ bản của một con người, một công dân. Vì vậy, hình phạt này có tác dụng rất hiệu quả trong việc áp dụng với các loại tội phạm có tính chất vụ lợi, các tội dùng tiền để làm phương tiện phạm tội, tội xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế,…. Mà chưa đến mức phải áp dụng các hình phạt khác nặng hơn. Tuy nhiên, khi xem xét về tính nghiêm khắc của hình phạt thì hình phạt tiền nếu mang tính chất là hình phạt chính thì nó chỉ xếp sau các hình phạt cải 8
  • 15. tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Nếu mang tính chất là hình phạt bổ sung thì chỉ xếp sau hình phạt trục xuất. Vì vậy, có thế thấy hình phạt tiền là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước được thể hiện qua việc người bị kết án sẽ bị tước đoạt đi một số tiền nhất định làm hạn chếđi về mặt lợi íchvật chấtcủa người bịkết án và bên cạnh đó họ còn phảigánh chịu phải mang án tích trong một khoản thờigian nhất định. Đối với mặt hậu quả pháp lý của hình phạt tiền thì người bị kết án sẽ không chịu bất kì trách nhiệm hay sự ràng buộc nào khác cả vì họ đã bị tước đi một khoản tiền như đã nói ở trên. Họ vẫn được sinh sốngbình thường nhưng sẽ được giáo dục và cải tạo mà không cần thiết cách ly ra khỏi xã hội sẽ được thi hành án tại nơi người đó đang công tác và nơisinh hoạt trước khiphạm tội. Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra một khái niệm về hình phạt tiền như sau: “Phạt tiền là hình phạt tước đi của người bị kết án một khoản tiền nhấtđịnh để sung công quỹnhà nước và được quyđịnh trong BLHS”. - Phânbiệthình phạt tiềnvớicác hìnhphạtcóchế tàitương tựkhác Ta có thấy tại Điều 45 và Điều 47 của BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định về việc tịch thu tài sản và tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm. Hai hình phạt trên đều quy định việc tịch thu tài sản của người bị kết án mà tài sản ở đây có thể là tiền. Vậy để tránh nhầm lẫn giữa hình phạt tiền với hai hình phạt nêu trên ta sẽ đi phân biệt điểm giống và khác nhau giữa chúng. Phân biệt hình phạttiền với hình phạttịch thu tài sản Trước khi so sánh hai hình phạt này thì theo Điều 32 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì hình phạt tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung. Vậy khi so sánh thì chúng ta cũng phải xem hình phạt tiền cũng là hình phạt bổ sung theo khoản 2 Điều 35 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ta có thế phân biệt hai hình phạt như sau: +) Giống nhau: 9
  • 16. Tiêu chí Hình phạt tiền Hình phạt tịch thu tài sản Nội dung Tước đi của người bị kết án một khoản tiền nhất định để sung công quỹ nhà nước. Đối tượng của hình phạt tiền chính là tiền của người bị kết án ngoài ra không còn gì khác. Tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để sung công quỹ nhà nước Đối tượng ở đây là tài sản của người bị kết án. Mặc dù tài sản ở đây có thể là tiền nhưng ngoài ra cũng có thể là các tài sản dạng hiện vật, tài sản cho vay, cho mượn, cầm cố, thế chấp của người bị kết án Đối tượng áp dụng Áp dụng đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do BLHS quy định (theo Khoản 2 Điều 35 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017) Áp dụng đối với những người bị kết án về tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp BLHS quy định (theo Điều 45 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017)  Cả hai đều được quy định là hình phạt bổ sung và có thể đi kèm với hình phạt chính đốivới người bị kết án;  Tiền hoặc tài sản sau khi tịch thu được thì đều bị sung vào công quỹ nhà nước +) Khác nhau: Bảng 1.2 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và hình phạt tịch thu tài sản Nguồn: Tổng hợp dựa trên BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm +) Giống nhau:  Cảhai đều là biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS 10
  • 17. Tiêu chí Hình phạt tiền Biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm Hình thức Được quy định trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Là một biện pháp tư pháp được quy định trong BLHS Đối tượng áp dụng Áp dụng đối với người bị kết án Áp dụng đối với người phạm tội nói chung Thời điểm áp dụng Sau khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án về hình phạt tiền Áp dụng bất kỳ lúc nào trong quá tình tố tụng khi có căn cứ theo Điều 47 BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 Thẩm quyền áp dụng Chỉ do Tòa án quyết định đối với người bị kết án Ngoài Tòa án thì các cơ quan về tư pháp hình sự khác cũng có thể áp dụng tùy vào từng trường hợp cụ thể tương ứng Hậu quả pháp lý Sẽ để lại án tích Không để lại án tích  Tiền hoặc vật, tài sản tịch thu được đều bị sung vào công quỹ nhà nước +) Khác nhau: Bảng 1.3 Sự khác nhau giữa hình phạt tiền và biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm Nguồn: Tổng hợp dựa trên BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2017 11
  • 18. 1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Thi hành án phạt tiền 1.2.1 Khái niệm của Thi hành án phạt tiền Từ những phân tích, so sánh bêntrên về hình phạt và hình phạt tiền ta có thể rút ra được kháiniệm về Thi hành án phạttiền như sau:“Thihành án phạttiền là hoạtđộngcủacơ quan THADS có thẩm quyền buộc ngườiphảithi hành án thi hành một khoảntiền nhất định theo các Bản án, Quyết định củaTòaán nhân dân”. Theo đó, Thi hành án phạt tiền khuyến khích người phải thi hành án tự giác thi hành nếu không sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản Bản án, Quyết định của Tòa án và phải tuân theo các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích cá nhân, tôn trọng kỉ luật trong nhà nước và trở thành một conngười lương thiện. Tuy nhiên, trong công tác THADS có hai loại Quyết định là Quyết định thi hành án chủ động và Quyết định thi hành theo đơn yêu cầu. Thi hành án phạt tiền là một nội dung trong Quyết định thi hành án chủ động. Ngoài thi hành án phạt tiền còn một dạng Quyết định thi hành án chủ động luôn chiếm nhiều trong công tác THADS là nộp tiền án phí, Do đó cần phân biệt rõ ràng giữa việc Thi hành án phạt tiền và nộp tiền án phí. Mặc dù, cả hai đều là việc nộp một phần tiền theo quyđịnh trongcác Bản án, Quyết định của Tòa án nhưng Thi hành án hình phạt tiền lại mang một ý nghĩa khác so với án phí. Thi hành án phạt tiền là việc buộc người phải thi hành án nộp một khoản tiền từ việc sai phạm của họ mà Tòaán nhận thấy cầnphải áp dụng nhằm mục đíchrăn đe và giáo dục họ, còn đốivới án phí thì đây là khoản chiphí về xét xử một vụ án mà đươngsự phảinộp trongmỗi vụ án. 1.2.2 Đặcđiểm của Thi hành án phạt tiền. - Mang bản chất hành chính – tưpháp, thểhiện tính chấphành và điều hành Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án phạt tiền chỉ được tiến hành dựa trên cơ sở của những Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật và 12
  • 19. nằm trong phạm vi luật định; toàn bộ quá trình thi hành án phạt tiền với những hoạt động, biện pháp, phương pháp khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong Bản án, Quyết định của Toà án và theo các quy định cụ thể của pháp luật. Là dạng hoạt động quản lí vì thi hành án phạt tiền là sự tác động đến các đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong những Bản án, Quyết định của Toà án và phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỷ luật nhà nước. Để thực hiện các hoạt động chấp hành và quản lí nói trên, cách thức thuyết phục, giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng. - Hoạt động thi hành án phạttiền được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chạt chẽ do pháp luậtquyđịnh Thi hành án phạt tiền được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẻ do pháp luật quy định từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trên cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong suốtquá trình thi hành án. - Thi hành án phạt tiền chỉ nhằm thực hiện các bản án, quyết định của cơ quan tàiphán. Thi hành án phạt tiền có tính chất bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức cơ quan liên quan đến Bản án, Quyết định của Tòa án. Nếu không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm chỉnh Bản án, Quyết định của Tòa án sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định và có thể bị xử lý bằng các chế tài pháp luật nghiêm khắc. 1.2.3 Vai trò của Thi hành án phạt tiền - Đảm bảoBản án,Quyếtđịnh của Tòa ánđượcđivàothựctiễn đờisống. Sau khi Tòa án đưa ra các phán quyết thì cái công bằng, cái lẻ phải vẫn chỉ nằm trên một trang giấy mà chúng ta gọi đó là Bản án, Quyết định của Tòa án và nó chỉ dừng lại ở việc thể hiện sự đúng hay sai, phải hay trái trong 13
  • 20. một vụ việc nhất định. Muốn cái lẻ phải, công bằng đó được thực hiện trên thực tế thì cần phải nhờ đến công tác thi hành án. Do đó, Thi hành án phạt tiền sẽ trở thành công cụ hữu hiệu để bảo đảm cho các Bản án, Quyết định của Tòa án sẽ được thi hành trên thực tế. - Góp phầnnângcaochấtlượngcácBảnán,Quyếtđịnhcủa Tòa án. Thông qua quá trình Thi hành án phạt tiền cũng như áp dụng các biện pháp thi hành án đôi khi cơ quan thi hành án sẽ phát hiện một số sai sót, thiếu sót trong các Bản án, Quyết định. Từ đó, cơ quan thi hành án sẽ có kiến nghị để Tòa án xem xét, khắc phục và rút ra được những kinh nghiệm trong quá trình áp dụng pháp luật cũng như trong công tác xét xử, góp phần nâng cao chất lượng của các Bản án, Quyết định. Nếu mục đích của việc thi hành án phạt tiền không đạt được thì toàn bộ hoạt động tố tụng trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu một Bản án, Quyết định của Tòa án có áp dụng hình phạt tiền nhưng không thi hành được hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự, kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Vì vậy, Thông qua việc thi hành án phạt tiền cũng có thể kiểm tra lại quá trình xét xử trước đó, Bản án, Quyết định của Tòa án có thấu tình đạt lý thì mới có thể dễ dàng thi hành trên thực tế, trái lại việc xét xử ra một Bản án có sai sót, sẽ rất khó thi hành trên thực tế. 1.3 Trình tự, thủ tục Thi hành án phạt tiền Các Bản án, Quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật sau khi được chuyển giao qua cho cơ quan THADS thì phải trải qua một số thủ tục để được thi hành trên thực tế. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về các trình tự thủ tục trong công tác thi hành án hình phạt tiền chúng ta sẽ đi sâu hơn về phân tích các giai đoạn sau: - Giai đoạn ra quyết định thi hành án Như chúng ta đã biết thì cơ quan có thẩm quyền xét xử chỉ có thế là Tòa án. Trong quá trình xét xử nhiệm vụ của Tòa án là xác định sự thật khách quan của vụ việc, khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá 14
  • 21. nhân, cơ quan, tổ chức… trong một vụ việc cụ thể. Sau khi kết thúc xét xử lúc này Tòa án mới chỉ đưa ra được những phán quyết về mặt nội dung, xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự chỉ khi các phán quyết này được thực thi đầy đủ trong đời sống thì quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên đương mới được bảo vệ và thi hành. Nhưng trước khi cơ quan thi hành án tiến hành ra quyết định thi hành án thì có một số thủ tục cần được quan tâm đến như là phân loại, xác định các Bản án, Quyết định được thi hành và quan trọng nhất là việc giao nhận các Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan THADS. Về việc phân loại các Bản án, Quyết định của Tòa án thì chúng ta sẽ căn cứ vào Điều 2 LTHADS được sủa đổi, bổ sung năm 2014 để xác định và phân loại các Bản án, Quyết định được cơ quan thi hành án dân thi hành. Phân loại và xác định các Bản án, Quyết định của Tòa án sẽ giúp cho bộ phận ra quyết định thi hành án kiểm soát được số lượng án đã nhận từ Tòa án, ngoài ra kịp thời nhanh chóng ra các Quyết định thi hành án về phần chủ động được nêu trong các Bản án, Quyết định của Tòa án nhằm tránh gây thất thoát cũng như trễ hạn sẽ gây khó khăn cho các Chấp hành viên khi thi hành án. Về việc giao nhận Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan THADS phải được tiến hành trực tiếp hoặc gián tiếp (thông quá tổ chức, các nhân khác). Để đảm bảo cho công tác thi hành án thì Điều 28 LTHADS được sủa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định về thời hạn chuyển giao Bản án, Quyết định của Tòaán tùy thuộc vào mỗi loại Bản án, Quyết định, cụ thể như sau: + Tòa án đã ra Bản án, Quyết định, gồm: Bản án, quyết định hoặc phần Bản án, Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản phải chuyển 15
  • 22. giao Bản án, Quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật. + Tòa án đã ra Bản án, Quyết định gồm: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm phải chuyển giao Bản án, Quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra Bản án, Quyết định. + Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chuyển giao quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định. + Những tài liệu Tòa án phải chuyển giao cùng với Bản án, Quyết định. Nhằm tạo điều kiện cho cơ quan thi hành án trong quá trình thi hành án thì trong giai đoạn chuyển giao các Bản án, Quyết định Tòa án có trách nhiệm chuyển giao cho cơ quan thi hành án các tài liệu có liên quan đến công tác thi hành án. Ngoài ra, để tránh thất lạc, giao trễ hạn gây chậm trễ trong công tác thi hành án thì tại điều 29 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định trong quá trình giao nhận Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan THADS cán bộ của hai bên phải ký vào biên bản giao nhận ghi rõ ngày giờ giao nhận. Mặt khác về phía cơ quan THADS phải lập sổ nhận Bản án, Quyết định ghi rõ số thứ tự; ngày, tháng, năm nhận Bản án, Quyết định; số, ngày, tháng, năm của Bản án, Quyết định và tên Tòa án, Trọng tài thương mại đã ra Bản án, Quyết định; tên, địa chỉ của đương sự và tài liệu khác có liên quan. Thẩm quyền ra quyết định thi hành án đã được quy định rõ tại điều 36 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Theo quy định thì thủ trưởng cơ quan THADS sẽ có thẩm quyền ra quyết định thi hành án và thời hạn ra quyết định thi hành án là năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được Bản án, Quyết định có 16
  • 23. hiệu lực pháp luật của Tòa án. Trong trường hợp là các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì thủ trưởng cơ quan THADS phải tiến hành ra quyết định thi hành án trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án chuyển giao hoặc đương sự nộp trực tiếp. Trong THADS thì có hai loại quyết định thi hành án đó là quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu và quyết định thi hành án chủ động. Đối với quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thì chỉ khi người được thi hành án hoặc người phải thi hành án nộp đơn trực tiếp tại cơ quan thi hành án và yêu cầu thi hành phần quyền lợi hoặc nghĩa vụ của mình được quy định trong Bản án, Quyết định của Tòa án thì lúc này cơ quan thi hành án sẽ tiến hành ra quyết định và thi hành trên thực tế. Đối với quyết định thi hành án chủ động thì khi nhận được Bản án, Quyết định của Tòa án cơ quan thi hành án sẽ tiến hành ra quyết định thi hành án mà không cần sự yêu cầu của bất kì bên đương sự nào. Hình phạt tiền trong trường hợp này chúng ta căn cứ theo điểm a khoản 2 điều 36 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 được xem là phần chủ động và sẽ được thủ trưởng của cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án chủ động mà không cần có sự yêu cầu của các bên đương sự nào. Sau khi ra quyết định thi hành án thì cơ quan thi hành án phải chuyển giao quyết định thi hành án đó cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nhằm phục vụ việc kiểm tra, giám sát quá trình thi hành án, ngoài ra, còn phải gửi quyết định cho người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để họ được biết về phần quyền và nghĩa vụ của mình. - Thông báovề thi hành án Thông báo được hiểu là việc truyền tải thông tin nhanh đến những người có liên quan trong nội dung của thông báo đó nhằm kịp thời cho họ biết được những thông tin cần thiết, những quyền lợi, nghĩa vụ mà họ được làm và 17
  • 24. phải làm. Thông báo sẽ được chuyển đến người nhận qua các hình thức như gửi thư, giao trực tiếp. Trong công thác THADS việc thông báo các thông tin đến cho các đương sự trong vụ việc hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là cực kì quan trọng. Thông báo về thi hành án phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và phải do người có thẩm quyền thực hiện theo một hình thức nhất định. Việc thông báo thi hành án sẽ bảo đảm quyền được thông tin của các bên đương sự trong vụ việc thi hành án nhằm tạo điều kiện để họ kịp thời bảo vệ quyền là lợi ích chính đáng của họ. Bên cạnh đó, việc thông báo về thi hành án kịp thời đến các bên đương sự trong thi hành án còn thể hiện sự dân chủ trong công tác THADS luôn cho các bên đương sự được biết thông tin về vụ việc của mình, nắm bắt được tình hình vụ việc để họ chủ động trong việc thi hành các phần quyền và nghĩa vụ của mình. Việc thông báo đầy đủ, kịp thời các thông tin cho các bên đương sự sẽ phần nào làm giảm đi tình trạng khiếu nại, tố cáo giúp cho các Chấp hành viên tránh việc phải mất thời gian trả lời đơn khiếu nại, tố cáo cũngnhư phảibáo cáo hồ sơ thi hành án bị khiếu nại, tố cáo. Vì thế sẽ tạo điều kiện cho các Chấp hành viên sẽ có thời gian để tập trung vào việc thi hành án một cách tốt nhất nhằm hạn chế các saisót. Thông báo về thi hành án là những văn bản, giấy tờ được quy định rõ tại Điều 39 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thủ tục thông báo về thi hành án được Chấp hành viên hoặc Thư ký thi hành án tống đạt trực tiếp cho đương sự đối với những thông báo quan trọng cần phải cho các bên đương sự biết ngay. Trong trường hợp cần thiết các Chấp hành viên có thể phối hợp hoặc nhờ sự giúp đỡ của Ủy ban nhân dân hoặc Công an nhân dân cấp phường, xã tống đạt các thông báo thi hành án để giúp các bên đương sự kịp thời nắm được thông tin. Đối với các thông báo không quá quan trọng thì Chấp hành viên có thể gửi thư theo đường bưu điện để cung cấp thông tin cho các đương sự. 18
  • 25. - Xác minh điều kiện thi hành án Xác minh điều kiện thi hành án là một trong những thủ tục quan trọng nhất trong quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên vì khi thực hiện thủ tục xác minh các Chấp hành viên sẽ nắm rõ được các thông tin cần thiết của đương sự phục vụ rất nhiều cho quá trình thi hành án. Kết quả xác minh là cơ sở để Chấp hành viên thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, ngoài ra, từ kết quả xác minh các Chấp hành viên còn có thể ra các quyết định khác như quyết định ủy thác, quyết định chưa có điều kiện thi hành án, quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản, các biện pháp cưỡng chế….. Pháp luật không quy định nguyên tắc xác minh trong THADS nhưng để kết quả xác minh giúp ích được cho Chấp hành viên trong quá trình thi hành án thì cần phải xác định được hai nguyên tắc, đó là phải xác minh trực tiếp và xác minh một cách chặt chẽ, đầy đủ nhất. Việc Chấp hành viên trực tiếp tiếp xúc với đương sự sẽ giúp cho chấp hành viên hiểu rõ được tính cách, cách hành xử của đương sự xem xét thái độ của họ có tự nguyện thi hành án hay họ có ý định chống đối, cố chấp để không thực hiện nghĩa vụ của mình, từ đó Chấp hành viên sẽ tiên liệu được trước các bước tiếp theo nhằm để thi hành án một cách suôn sẻ nhất. Đối với hình phạt tiền để xác minh một cách chặt chẽ nhất về các thông tin của đương sự Chấp hành viên sẽ xác minh các thông tin sau: Xác minh về cư trú của người phải thi hành án: Chấp hành viên, thư ký thi hành án thực hiện xác minh để biết người đó hiện còn cư trú tại địa chỉ đã được cung cấp trong Quyết định thi hành án không, người đó có ở chung với ai không, người đó có nhiều nơi cư trú khác không. Trong trường hợp cần thiết Chấp hành viên, Thư ký thi hành án có thể phối hợp với Công an nhân dân phường, xã để trao đổi thông tin về nơi cư trú của người phải thi hành án. Việc trao đổi thông tin với Công an nhân dân phường, xã sẽ thể giúp cho Chấp hành viên có được nhiều thông tin hơn về nơi cư trú của người phải thi 19
  • 26. hành án vì Công an nhân dân là cơ quan quản lí về lưu trú ở địa phận đó hoặc có thể cung cấp cho Chấp hành viên về việc người phải thi hành án có đang đi tù hay không. Xác minh về nhà, đất của người phải thi hành án: Việc xác minh nhà, đất sẽ giúp cho Chấp hành viên biết được nhà, đất đó có phải là của người phải thi hành án không, có liên quan đến người phải thi hành án không. Để thông tin về nhà, đất được chính xác nhất ngoài trực tiếp xác minh các Chấp hành viên có thể xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai, tại công ty Dịch vụ công ích, tại Uỷ ban nhân dân cấp phường, xã. Trong trường hợp kết quả xác minh cho thấy nhà, đất đó thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án nhưng người đó vẫn chưa thi hành án thì Chấp hành viên có thể ra Quyết định ngăn chặn chuyển dịch nhà, đất đó nhằm bảo đảm thi hành án. Xác minh động sản của người phải thi hành án: Trong quá trình tiến hành xác minh Chấp hành viên biết được hoặc được người được người thi hành án cung cấp thông tin về việc người phải thi hành án có động sản thì phải tiến hành xác minh động sản đó có phải đang được người phải thi hành án đứng tên, đăng ký sử dụng không. Cách xác minh nhanh chóng và hiệu quả nhất đó chính là xác minh thông qua người phải thi hành án hoặc các cơ quan đăng ký quyền sở hữu. Tùy vào từng loại động sản mà Chấp hành viên sẽ xác minh với các cơ quan đăng ký quyền sở hữu phù hợp nhất. Ví dụ tài sản đó là xe máy, xe ô tô,…. Thì các Chấp hành viên phải thực hiện xác minh tại Phòng cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt. Trong trường hợp người phải thi hành án cung cấp đầy thông tin, chứng cứ về việc mình đang sở hữu, sử dụng một động sản nào đó thì Chấp hành viên không cần phải xác minh với cơ quan đăng ký quyền sở hữu. Xác minh thu nhập của người phải thi hành án: Ngoài việc xác minh các tài sản nêu trên thì việc xác minh thu nhập của người phải thi hành án cũng rất quan trọng vì người phải thi hành án thường họ sẽ cố giấu diếm số 20
  • 27. tiền họ đang có và Chấp hành viên cũng rất khó xác minh được việc người phải thi hành án đang có bao nhiêu tiền mang theo trên người. Vì thế, khi biết được người phải thi hành án đang có công việc làm có thể tạo ra tiền mà vẫn cố tình không tự nguyện thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì Chấp hành viên sẽ tiến hành xác minh về thu nhập hiện có của người phải thi hành án thông qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý thu nhập của họ và khi thực hiện việc xác minh về thu nhập thì Chấp hành viên phải xác minh rõ từng loại tiền như là tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp, mức thu nhập, thời gian và cách thức chi trả thu nhập của người phải thi hành án. Bên cạnh đó, trong quá trình xác minh nếu biết được thông tin người phải thi hành án đang được trả tiền lương hoặc có một khoản tiền trong một ngân hàng, tổ chức tín dụng nào đó thì khi đó Chấp hành viên sẽ tiến hành xác minh với ngân hàng, tổ chức tín dụng đó, nếu như thông tin đó là chính xác Chấp hành viên có thể ra Quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản để khấu trừ phần nghĩa vụ về tiền mà người phải thi hành án chưa thực hiện. Trên đây là những cách xác minh có thể áp dụng cho việc thi hành án hình phạt tiền. Tuy nhiên, thông qua việc tổ chức thi hành án cũng như việc xác minh cụ thể là việc xác minh về nơi cư trú của người thi hành án như đã nêu ở trên nếu như Chấp hành viên biết được người phải thi hành hình án đang cư trú tại một nơi khác (Quận khác, Thành phố khác….) thì có thể ra Quyết định ủy thác thi hành án về nơi mà người phải thi hành án đang cư trú để cơ quan thi hành án tại nơi đó sẽ tiếp tục thi hành hình phạt tiền đối với người phải thi hành án. Việc ủy thác thi hành án này sẽ giúp cho các cơ quan thi hành án đỡ mất thời gian hơn trong quá trình tổ chức thi hành án. 1.4 Hình thức nộp tiền phạt trong Thi hành án phạt tiền Theo nguyên tắc người phải thi hành án sẽ phải nghiêm chỉnh chấp hành việc thi hành án phạt tiền được quy định trong Bản án, Quyết định của Tòa án. Tại Điều 30 BLHS năm 1999 quy định “Tiền phạt có thể được nộp một 21
  • 28. lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án” cho chúng ta thấy quy định về việc nộp tiền phạt tại thời điểm này chưa thật sự rõ ràng nên BLHS năm 2015 sửa đổi, bổng sung năm 2017 đã khắc phục hạn chế này bằng cách bãi bỏ đi quy định trên. Theo đó, người bị áp dụng hình phạt tiền dù là hình phạt chính hay là hình phạt bổ sung đều phải thi hành án theo quy định của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Tuy nhiên, LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 lại không quy định cụ thể về hình thức nộp phạt cho nên từ thực tiễn thi hành án phạt tiền sẽ có những hình thức nộp phạt sau: - Nộp phạttrực tiếp bằng tiền mặt tại cơ quan THADS: Đây là trường hợp người phải thi hành án phạt tiền tự giác thi hành án, chủ yếu đối với các tội mà hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính. Vì khi đó người phải thi hành án không phải chấp hành hình phạt tù nên họ có thể tự mình đến cơ quan thi hành án để nộp tiền phạt. Tuy nhiên, một vài trường hợp người phải thi hành án phải chấp hành hình phạt tù và hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung nhưng người phải thi hành án có tinh thần trách nhiệm cao vẫn muốn nộp tiền phạt thì có thể nhờ người thân đến cơ quan THADS để nộp tiền thay cho người phải thi hành án. Khi thực hiện việc nộp tiền thay thì Biên lai thu tiền phải ghi rõ do ai nộp thay. - Nộp phạtbằng hiện vật thay cho tiền phạt: Trường hợp này thường được áp dụng cho các tội mà hình phạt tiền là hình phạt chính và người phải thi hành án không phải chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, họ lại không có đủ số tiền để bảo đảm việc thi hành án phạt tiền theo Bản án, Quyết định của Tòa án nên người phải thi hành án tự nguyện dùng tài sản bảo đảm hoặc tài sản bị tạm giữ để bảo đảm thi hành án. Để có thể nhận các tài sản này thay cho tiền phạt các cơ quan THADS phải tiến hành xác minh đối với các tài sản đó để kiểm chứng các tài sản có thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án hay không. 22
  • 29. Nếu kết quả xác minh chứng minh được các tài sản thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì cơ quan THADS sẽ tiến hành các thủ tục kê biên, thẩm định giá tài sản và cuối cùng là bán đấu giá, sau khi trừ tất cả các chi phí theo quy định của pháp luật sẽ được cấn trừ vào khoản tiền phải nộp phạt của người phải thi hành án. - Nộp phạtvào tài khoản của cơ quan THADS được mở tại Kho bạc Nhà nước: Trường hợp này được áp dụng đối với các tội mà hình phạt tiền là hình phạt chính và người phải thi hành án không phải chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, vì một số lý do nào đó mà người phải thi hành án không thể đến cơ quan THADS để nộp tiền trực tiếp thì phải làm đơn nêu rõ lý do không thể đến nộp tiền trực tiếp và đề nghị cơ quan THADS cung cấp số tài khỏan mở tại Ngân hàng Nhà Nước. Theo đó, cơ quan THADS sẽ cung cấp số tài khoản và sau khi người phải thi hành án nộp tiền Kho bạc Nhà nước sẽ gửi cho cơ quan THADS “Lệnh chuyển có”, đây chính là căn cứ cho việc người phải thi hành án đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền theo quy định của Bản án. - Nộp phạttại trại giam: Trường hợp này sẽ được áp dụng đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù. Khi người phải thi hành án nộp tiền phạt thì lúc này Trại giam nơi mà người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù sẽ có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho cơ quan THADS có thẩm quyền về việc người phải thi hành án đã nộp tiền phạt. Sau khi nhận được văn bản thông báo của Trại giam cơ quan THADS sẽ có công văn phúc đáp và cung cấp các văn bản cần thiết như: Quyết định thi hành án, Bản án, số tài khoản của cơ quan THADS mở tại Kho bạc Nhà nước. Trại giam nơi mà người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù sẽ căn cứ vào công văn phúc đáp của cơ quan THADS để chuyển số tiền mà người phải thi hành án đã nộp vào tài khoản của cơ quan THADS. 23
  • 30. - Cưỡng chế thi hành án: LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có quy định rất rõ ràng trình tự và thủ tục thi hành án hình phạt tiền trong trường hợp người phải thi hành án không tự giác thi hành. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên sẽ tiến hành xác minh điều kiện thi hành án đối với người phải thi hành án. Trong trường hợp kết quả xác minh của Chấp hành viên cho thấy người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án theo quy định thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nhằm bảo đảm nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án. 24
  • 31. Tiểu kếtchương 1 Công tác THADS đang ngày càng được chú trọng ngoài việc thi hành các bản án dân sự, các phần dân sự thì THADS còn thi hành phần dân sự trong bản án hình sự và trong đó có thi hành hình phạt tiền. Như đã đề cập và phân tích ở Chương 1 thì hình phạt tiền sẽ đánh thẳng vào kinh tế, vào túi tiền của người bị kết án mặc dù không để lại án tích nhưng hình phạt tiền vẫn được xem là một trong những hình phạt mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong pháp luật Việt Nam ta. Bên cạnh đó, Chương 1 của luận văn đã nêu ra được một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tiền như các nội dung, hình thức và trình tự thủ tục của thi hành án phạt tiền . Qua đó, cho thấy được Thi hành án phạt tiền là hoạt động của Nhà nước để thi hành án các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân có tuyên phạt về hình phạt tiền. Giúp các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân được tôn trọng và thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm quyền và lợi íchcủa Nhà nước. Nhưng để thi hành án hình phạt tiền được hiện thực hóa ra bên ngoài đời sống xã hội ngoài đôi khi vẫn còn rất nhiều khó khăn, vướng mắt xuất phát từ nhiều vấn đề, từ nhiều phía hoặc có thể là do các quy định chồng chéo làm ảnh hưởng đến công tác thi hành án nói chung và thi hành án phạt tiền nói riêng và vô hình chung sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án. 25
  • 32. Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN PHẠT TIỀN TẠI QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1 Tổng quan về tình hình thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh 2.1.1 Sơlược về địa bàn Quận2, Thànhphố Hồ Chí Minh Quận 2 được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1997 nằm ở phía Đông của thành phố Hồ Chí Minh. Phía Bắc giáp quận Thủ Đức, Bình Thạnh (qua sông Sài Gòn và sông Rạch Chiếc). PhíaNam giáp Quận 7, huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai (qua sông Sài Gòn và sông Đồng Nai). Phía Đông giáp Quận 4, Quận 1, quận Bình Thạnh (qua sông Sài Gòn) với quy mô dân số ổn định khoảng 600.000 dân. Với mật độ dân số khá đông nên Quận 2 được xem một trong những trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa cùng với trình độ dân trí ngày càng một cao cũng như sự phát triển về kinh tế, xã hội thì đi kèm theo đó là tình trạng vi phạm pháp luật, xâm hại các lợi ích về vật chất ngày càng gia tăng. Do đó, công tác THADS nói chung và thi hành án phạt tiền nói riêng tại Quận 2 có xu hường ngày càng tăng và phát sinh nhiều vụ việc phức tạp khó thi hành. 2.1.2 Ý thức tuân thủ pháp luật trong thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thànhphố Hồ Chí Minh Công tác tổ chức thi hành án phạt tiền sẽ tác động trực tiếp đến người phải thi hành án nhằm thuyết phục họ tự giác thực hiện các nghĩa vụ theo Bản án đã tuyên. Tuy nhiên, việc tổ chức thi hành án trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Đối với mỗi vụ việc thi hành án phạt tiền, Chấp hành viên phải tốn rất nhiều thời gian nghiên cứu và vận dụng các quy định cụ thể của luật để giải quyết. Trong nhiều trường hợp cơ quan thi hành án phải đôn đốc người phải thi hành án rất nhiều lần, phải phối hợp với nhiều cơ quan nhất là chính quyền địa phương nhằm vận động, tuyên truyền, thuyết phục họ tự nguyện thi hành án vì các tổ chức, cá nhân là người phải thi hành án phạt tiền không có tài sản 26
  • 33. hoặc có nhưng cố tình chây ỳ, chống đối hoặc cản trở việc thi hành án dẫn đến việc Chấp hành viên phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành để buộc họ phải thi hành phần nghĩa vụ của mình. Việc phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án sẽ gây tổn hao thời gian và công sức của Chấp hành viên cũng như các cơ quan liên quan, cho nên có thể thấy ý thức tuân thủ theo pháp luật thi hành án phạt tiền tại Quận 2 vân còn rất kém. 2.1.3 Đội ngũ cán bộ, công chức tại Chi cục THADS Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh Chi cục THADS Quận 2 có 13 biên chế và 03 người lao động theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP. Trong đó có 08 Chấp hành viên (01 Chi cục Trưởng và 02 Phó Chi cục trưởng), 01 Thư ký thi hành án, 01 Thẩm tra viên, 02 Kế toán, 01 Thủ kho và 03 công chức khác. Dưới sự chỉ đạo gắt gao của Chi cục trưởng và 02 Phó chi cục trưởng thì đội ngũ cán bộ, công chức tại Chi cục THADS Quận 2 không ngừng nâng cao hiệu quả và chất lượng trong hoạt động THADS nói chung và thi hành án phạt tiền nói riêng. Hằng năm, đơn vị đều hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà đơn vị đã đề ra trong năm cũng như các chỉ tiêu của Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh và đã được các cơ quan có thẩm quyền khen thưởng. Bên cạnh đó, nhận thấy được tầm quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao, phát triển nguồn lực cho đơn vị. Lãnh đạo Chi cục THADS Quận 2 luôn quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho đội ngũ cán bộ, công chức của mình theo học các lớp nâng cao về nghiệp vụ, chuyên môn như các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ, học tập kinh nghiệm về kỹ năng tổ chức thi hành án của các tỉnh bạn. Theo đó, chủ động đề xuất và kiến nghị với Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh để cử các cán bộ, công chức học các lớp về lý luận chính trị nhằm bồi dưỡng năng lực, trình độ của cán bộ, công chức để đáp ứng được yêu cầu công tác. Tuy nhiên, nếu đem so sánh số lượng cán bộ, công chức của Chi cục THADS Quận 2 với các cơ quan ban ngành khác (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân….) thì ta sẽ nhận thấy sự thiếu hụt về mặt nhân lực rất 27
  • 34. nhiều. Đặc biệt, với Chi cục THADS Quận 2 là nhân lực về Thư ký thi hành án, việc có 08 Chấp hành viên nhưng chỉ có 01 Thư ký thi hành án thì sẽ không thể nào hỗ trợ hết công việc cho các Chấp hành viên. Trên thực tế, 01 Thư ký chỉ có thể quán xuyến công việc cho 01 hoặc 02 Chấp hành viên cho nên việc thiếu hụt về nguồn nhân lực hiện vẫn đang là vấn đề đáng quan tâm không chỉ ở Chi cục THADS Quận 2 mà còn cả các Chi cục THADS khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 2.2 Thực tiễn thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh 2.2.1 Tìnhhình thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh Khối lượng công việc thi hành án của Chi cục THADS Quận 2 các năm 2018, 2019 và năm 2020 có sự chênh lệch không quá nhiều trong ba năm. Trong năm 2018 số việc phải thi hành là 2.310 việc, năm 2019 số việc phải thi hành án là 2.272 việc, Năm 2020 số việc phải thi hành án là 2.346 việc. Qua ba năm gần đây thì ta có thể thấy số công việc về thi hành án có thể nói là vừa đủ với một quận có mật độ dân số khá đông như Quận 2 nhưng trên đây là số liệu tổng việc phải thi hành trong các năm tại Chi cục THADS Quận 2. Để tìm hiểu rõ hơn về số việc dân sự trong hình sự cũng như số việc thi hành án phạt tiền tại Chi cục THADS Quận 2 qua ba năm thì chúng ta sẽ đi phân tích biểu đồ dưới đây, cụ thể: Biểu 2.1 Số liệu về việc thi hành án phạt tiền tại Quận 2 40 30 20 10 0 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020 Quyết địnhthi hành ánphạt tiền Thi hànhxong Chưa có điều kiện thi hành án Ủy thác thi hànhán Nguồn: Tổng hợp từ phần mềm thụ lý Thihành án dân sự 28
  • 35. Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy bản án có hình phạt tiền tại Quận 2 không quá nhiều có thể nói là ít. Nhưng vấn đề mà chúng ta cần quan tâm đó chính là mặc dù việc phạt tiền rất ít nhưng số lượng thi hành xong của loại việc này lại không nhiều và hầu như sẽ nằm ở chưa có điều kiện thi hành án. Chúng ta có thể nhìn vào năm 2018 thì Chi cục THADS Quận 2 đã nhận 30 bản án về việc phạt tiền nhưng hơn nữa số đó đều phải ra Quyết định chưa có điều kiện thi hành án. Để làm rõ vấn đề về việc số lượng việc thi hành án phạt tiền lại phải nằm trong diện chưa có điều kiện thi hành án nhiều như vậy thì chúng ta sẽ xem xét thực tiễn thi hành án tại Quận 2 thông qua 2 bản án sau đây: + Bản án thứ nhất: Bản án số 57/2016/HSST ngày 21 tháng 07 năm 2016 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh [2] được tómtắt như sau ôngNgô Chánh Trực có địachỉ thường trú tại 163A Lương Định Của, phườngAn Khánh, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh phải nộp phạt 5.000.0000 đồng để sung công quỹ nhà nước và phải nộp 180.000 đồnglà tiền án phí hìnhsựsơ thẩm. Sau khi đã nhận được Quyết định ủy thác số 121/QĐ-CCTHADS ngày 26 tháng 09 năm 2019 của Chi cục THADS Quận Phú Nhuận thì Chi cục THADS Quận 2 đã tiến hành ra Quyết định Thi hành án chủ động số 69/QĐ- CCTHADS ngày 15 tháng 10 năm 2020. Sau khi được phân công Quyết định thi hành án Chấp hành viên đã tiến hành tống đạt và xác minh tại địa chỉ trong bản án đã tuyên thì được biết địa chỉ 163A Lương Định Của, phường An Khánh, Quận 2 thuộc diện giải tỏa trắng theo quy hoạch khu đô thị Thủ Thiêm nên Chấp hành viên không thực hiện được việc tống đạt và sau khi tiến hành xác minh điều kiện thi hành án tại Công an nhân dân, Ủy ban nhân dân phường An Khánh Quận 2 được biết ông Ngô Chánh Trực có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ 163A Lương Định Của, phường An Khánh, Quận 2 nhưng đã cùng gia đình di dời giải tỏa từ tháng 02/07/2002 cho đến nay đi đâu không rõ. Vì vậy, căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 44a về việc xác định việc chưa có 29
  • 36. điều kiện thi hành án của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 thủ trưởng đơn vị sẽ ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án vì “Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng” Như chúng ta đã biết Quận 2 có 2 phường đã giải tỏa trắng là phường Thủ Thiêm và phường An Khánh do thực hiện quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đây được xem là một trong những điểm yếu, bất cập lớn nhất của Quận 2. Không chỉ riêng về án phạt tiền mà các loại án khác nếu như rơi vào 2 phường này thì hầu như sẽ đưa vào diện chưa có điều kiện thi hành án. Quay trở lại với bản án bên trên, mặc dù Chấp hành viên đã xác minh được ông Trực đã cùng gia đình đi nơi khác nhưng Công an phường và Ủy ban nhân dân phường An Khánh cũng không rõ thông tin là ông Trực cùng gia đình chuyển đi đâu. Bên cạnh đó, ông Trực vẫn còn hộ khẩu thường trú tại phường An Khánh, Quận 2 nên Chi cục THADS Quận 2 phải ra Quyết định chưa có điều kiện thi hành án đốivới các khoản phải thi hành của ông Trực. Để giải thích cho việc mặc dù đã di dời giải tỏa đi nơi khác nhưng vẫn còn hộ khẩu thường trú tại phường An Khánh, Quận 2 thì theo lời ông Nguyễn Ngọc Miên Thụy, Phó chủ tịch phường An Khánh nói: “Dân chúng tôi hiện ở tứ tán khắp nơi, tại TPHCM cũng có mà ở Đồng Nai, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương cũng có… Sau quá trình giải tỏa, hiện trên địa bàn phường chỉ còn lại hơn 10 hộ thôi. Tuyệt đại đa số dân nhận tiền đền bù xong tự tìm đất, tìm nơi sinh sống. Tuy vậy, theo thông tin tôi nắm được thì hàng ngàn hộ dân tuy đã giải tỏa khỏi phường nhưng vẫn giữ nguyên hộ khẩu phường An Khánh. Nguyên do tâm lý người dân muốn giữ hộ khẩu TPHCM vì chính sách của thành phố cũng nhiều ưu đãi hơn các tỉnh. Nhiều người cũng hy vọng sau này trở về được An Khánh”[1] 30
  • 37. + Bản án thứ hai: Bản án số 14/2020/HS-ST ngày 14 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An [3] được tóm tắt như sau ông Bùi Văn Khanh có địa chỉ cư trú tại số 484B, khu phố 1, phường Bình Trưng Tây, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh bị xử phạt số tiền 35.000.000 đồng và phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Sau khi nhận được Quyết định ủy thác thi hành án số 42/QĐ- CCTHADS ngày 20 tháng 03 năm 2020 của Chi cục THADS huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An Chi cục THADS Quận 2 đã tiến hành ra Quyết định thi hành án số 814/QĐ-CCTHADS ngày 16 tháng 04 năm 2020. Chấp hành viên đã tiến hành tống đạt và xác minh tại Công an nhân dân và Ủy ban nhân dân phường Bình Trưng Tây theo địa chỉ cư trú mà bản án đã tuyên thì được biết ông Bùi Văn Khanh có hộ khẩu thường trú tại số 484B khu phố 1, phường Bình Trưng Tây Quận 2 nhưng thực tế địa bàn không có địa chỉ trên và ông Khanh không thực tế cư trú tại địa phương, ông Khanh chuyển đi đâu không rõ nơi cư trú mới. Vì vậy, căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 44a về việc xác định việc chưa có điều kiện thi hành án của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 thủ trưởng đơn vị sẽ ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án vì “Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phảithi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng” Vấn đề của bản án này chính là phần địa chỉ của đương sự. Như đã nêu bên trên phần địa chỉ mà bản án cung cấp thiếu một thứ rất quan trọng đó chính là tên đường. Việc bản án cung cấp thông tin thiếu tên đường là chuyện rất hay xảy ra trên thực tế và điều này gây rất khó khăn trong công tác thi hành án. Nếu như địa chỉ được cung cấp một cách đầy đủ và chính xác thì Chấp hành viên hoặc Thư ký thi hành án có thể chạy một mạch đến địa chỉ đó và tiến hành tống đạt, xác minh sẽ rất nhanh còn đằng này lại thiếu đi tên đường. Trên thực tế để thi hành bản án này Chấp hành viên đã mất rất nhiều 31
  • 38. thời gian, công sức và phải liên hệ đến rất nhiều người để có thể ra được kết quả xác minh như đã nêu bên trên. Sau khi xác minh thì được biết rằng địa chỉ trên là địa chỉ cũ hiện tại đã thay đổi tất cả các số bản thân Công an khu vực và ban điều hành khu phố cũng không rõ địa chỉ 484B, khu phố 1, phường Bình Trưng Tây, Quận 2 là nằm ở đâu. Tóm lại, việc bản án cung cấp địa chỉ thiếu các phần thông tin như tên đường, số nhà là việc không hiếm gặp nhưng việc này lại gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác THADS. Đây cũng là một trong số những hạn chế trong công tác thi hành án vì khi gặp phải những bản án thiếu đi các phần thông tin quan trọng sẽ khiến cho cán bộ thi hành án phải mất rất nhiều thời gian hoặc phải liên hệ với rất nhiều người để tìm được địa chỉ của đương sự, thậm chí có nhiều trường hợp bị trễ hạn tống đạt, xác minh vì chưa tìm được địa chỉ của đương sự. Ngoài ra, còn phải nói đến việc cập nhật thông tin lưu trú, cư trú cũng như thay đổi số nhà của người dân trên địa bàn chưa được Ủy ban nhân dân phường và Công an phường thực hiện một cách sát sao, nghiêm túc nên đôi khi gây ra khó khăn trong quá trình tổ chức thi hành án. Hai bản án trên đây là điển hình những vụ việc thi hành án phạt tiền tại Chi cục THADS Quận 2. Mặc khác, Quận 2 không phải là nơi nổi trội về các vụ án ma túy nhưng số lượng án bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung liên quan đến ma túy cũng có số lượng tăng. Qua đó cho thấy tình hình áp dụng hình phạt tiền không có xu hướng tăng mạnh nhưng lại không giảm đi hoặc giảm đi không đáng kể. Tuy nhiên, tình hình phạm tội ngày càng tinh vi, số vụ án phức tạp ngày càng nhiều nên yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng công tác, điều tra, xét xử và quan trọng nhất là công tác THADS nói chung và thi hành án phạt tiền nói riêng. 32
  • 39. 2.2.2 Các khó khăn trong công tác thi hành án phạt tiền tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh Nếu chúng ta đi so sánh THADS với các ngành khác trong hệ thống tư pháp thì chúng ta có thể thấy THADS còn rất non trẻ vì từ năm 2008 LTHADS được ban hành thì phải đến tận năm 2014 mới được sửa đổi, bổ sung lần đầu tiên nên vẫn còn nhiều khó khăn khi áp dụng trên thực tiễn, cụ thể tại Quận 2 như sau: - Mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án với Ngân hàng, các tổ chức tín dụng: Theo Điều 176 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định rất rõ trách nhiệm của các Ngân hàng và tổ chức tín dụng trong công tác THADS. Căn cứ vào điều luật này các Chấp hành viên có thể phối hợp với các Ngân hàng và tổ chức tín dụng trong việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án nhằm tránh các trường hợp người phải thi hành án có tiền trong tài khoản của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng nhưng cố tình không thực hiện nghĩa vụ và muốn tẩu tán tài sản. Trước đây, Luật THADS năm 2004 quy định Chấp hành viên chỉ được phong tỏa tài khoản khi hết thời gian tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, nếu hết thời gian tự nguyện thi hành án thì người phải thi hành án đã có thể tẩu tán hết số tiền trong tài khoản nên Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có sự thay đổi tích cực trong việc Chấp hành viên có thể phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình thi hành án khi có căn cứ xác định rằng có tiền trong trong tài khoản của người phải thi hành án phạt tiền. Trên thực tế, việc phối hợp giữa cơ quan thi hành án và các Ngân hàng, tổ chức tín dụng chưa thật sự chặt chẽ và vẫn còn tách bạch. Việc phối hợp không chặt chẽ đó được thể hiện rõ nhất khi các Ngân hàng, tổ chức tín dụng nhận được công văn xác minh về điều kiện thi hành án và phong tỏa tài khoản 33
  • 40. đối với người phải thi hành án phạt tiền của cơ quan thi hành án, thay vì phúc đáp công văn và cung cấp các thông tin cần thiết cũng như thực hiện việc phong tỏa tài khoản đối với tài khoản của ngưởi phải thi hành án thì đằng này các Ngân hàng, tổ chức tín dụng lại thông báo cho “Khách hàng” chính là người phải thi hành án rút hết số tiền trong tài khoản để tránh bị cơ quan thi hành án khấu trừ tiền trong tài khoản. Từ đó, dẫn đến nhiều vụ việc người phải thi hành án tẩu tiền trong tài khoản và trốn tránh nghĩa vụ thi hành làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án. - Về việc phối hợp giữa cơ quan thi hành án và cơ quan Công an trong công tác thi hành án phạttiền: Công an nhân dân là một trong những cơ quan giữ vai trò quan trọng trong suốt quá trình THADS nói chung và thi hành án phạt tiền nói riêng. Ta có thể thấy trong quá trình tác nghiệp cơ quan thi hành án phải phối hợp rất nhiều với cơ quan Công an. Hai thủ tục quan trọng mà cơ quan thi hành án cần phải có sự giúp đỡ của cơ quan Công an đó chính là Xác minh điều kiện thi hành án và Cưỡng chế thi hành án. Đối với việc xác minh điều kiện thi hành án, đây là bước quan trọng vì kết quả xác minh là định hướng vụ án cho Chấp hành viên. Cơ quan thi hành án sẽ phối hợp với cơ quan Công an trong việc xác minh về nhân thân, nơi cư trú của ngươi phải thi hành án phạt tiền. Tuy nhiên, trên thực tế việc Chấp hành viên tiến hành xác minh tại cơ quan Công an thì hầu như phải chờ rất nhiều ngày mới nhận lại kết quả và mặc dù đã cung cấp các thông tin cần phải xác minh cho cán bộ Công an nhưng khi nhận được kết quả chỉ có vài dòng chữ và những thông tin đó đôi khi không thật sự có ích cho việc thi hành án. Ngoài việc chậm trễ về thời gian đôi khi các Chấp hành viên còn phải chịu những thái độ không nhiệt tình từ các cán bộ công an trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án. 34
  • 41. Đối với Cưỡng chế thi hành án thì cơ quan Công an là một lực lượng không thể thiếu, nhất là đối với các vụ việc có tính chất phức tạp, người phải thi hành án có sự chống đối quyết liệt, gây cản trở cho quá trình cưỡng chế thi hành án, hầu như việc cưỡng chế nào cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến tình an ninh, chính trị tại địa phương. Vì vậy, để hạn chế tình trạng đó Bộ Tư Pháp và Bộ Công An đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/03/2012 quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS. Theo đó, LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã có quy định rất rõ về quyền và nghĩa vụ của Bộ Công An trong THADS là chỉ đạo cơ quan Công an bảo vệ cưỡng chế thi hành án.Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc trong công tác phối hợp với cơ quan Công an trong việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án, điển hình nhất là cơ quan Công an chưa thật sự nhiệt tình, đôi khi dẫn đến tình trạng xáo trộn nơi cưỡng chế thi hành án, người phải thi hành gây cản trở cưỡng chế thi hành án nhưng cơ quan Công an lại không xử lý được tình trạng này vì lo sợ phải chịu trách nhiệm. - Thi hành án phạt tiền đối với người đang thi hành án đang chấp hành phạttù: Để thi hành án phạt tiền đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thì rất cần đến sự hỗ trợ kịp thời của các Trại giam, vì rất nhiều trường hợp người phải thi hành phải chấp hành án tù dài hạn, trong quá thi hành án phạt tù tại các Trại giam thì người phải thi hành án phải chuyển đi nhiều trại khác nhau. Do đó, để xác minh, giải quyết việc thi hành án đối người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù gặp rất nhiều khó khăn. Chấp hành viên phải xác minh trại giam nơi cải tạo ban đầu của người phải thi hành án nhưng một số Trại giam họ không nắm chính xác và cụ thể trại giam mà người phải thi hành hiện đang chấp hành hình phạt cũng như tình hình nhân, tài sản của họ. 35
  • 42. Mặc dù, theo điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT/BTP-BCA- BTC ngày 06 tháng 02 năm 2013 thì Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện là một trong những người có nghĩa vụ thông báo các văn bản do cơ quan THADS gửi đến cho người đang chấp hành án phạt tù theo quy định của Luật. Ngoài ra, Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện cũng là những người có trách nhiệm thông báo về việc phạm nhân đến chấp hành hình phạt tù tại nơi mình quản lý cho cơ quan THADS nơi Tòa án xét xử sơ thẩm biết, tuy nhiên trên thực tế việc này rất ít được các trại giam thực hiện, có những trại giam thực hiện nhưng rất chậm trễ có khi đến 2 tháng sau thì cơ quan THADS mới nhận được thông báo về đương sự của trại giam, dẫn đến việc trễ hạn trong quá trình thông báo có đôi khi là không thực hiện được việc thông báo vì không biết đương sự hiện đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam nào. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 39 Luật THAHS sửa đổi, bổ sung năm 2014 về việc “Trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan THAHS công an tỉnh, cơ quan THAHS cấp quân khu có trách nhiệm định 06 tháng một lần thông báo tình hình chấp hành án của phạm nhân cho nhân thân của họ”. Trên thực tế, người thân của người phải thi hành án cũng không nhận được các thông báo trên, trong một số trường hợp người thân của người phải thi hành án từ chối cung cấp thông tin người phải thi hành án phạt tiền cho Chấp hành viên. Do đó, để có thể giải quyết dứt điểm việc thi hành án phạt tiền đối với người phải thi hành án phạt tiền đang thi hành án phạt tù hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. - Quy định về thi hành án phạt tiền còn nhiều điểm bất cập nhưng chậm sửa đổi, bổ sung. Trong quá trình áp dụng pháp luật để thi hành án phạt tiền, có thể nhận thấy nhiều quy định của LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Nghị định 62 chưa được quy định cụ thể cũng như chưa áp dụng được trong thực tế đối 36
  • 43. với công tác thi hành án phạt tiền dẫn đến một số vụ việc thi hành án phạt tiền bị tồn động và kéo dài gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của Nhà nước như: + Chuyển giao Bản án, Quyết định giữa Tòa án và cơ quan thi hành án: Việc chuyển giao bản án giữa Tòa án và cơ quan thi hành án là việc rất quan trọng trong THADS vì có bản án thì cơ quan THADS mới có thể tiến hành ra Quyết định thi hành án cũng như thực hiện các thủ tục thi hành án khác, nói cách khác đây là bước đầu tiền trong quá trình THADS. Vì vậy, khi mà bước đầu tiên được thực hiện một cách chậm trễ thì mọi việc phía sau cũng vì thế mà sẽ bị trì trệ theo, trên thực tiễn tại Quận 2 hiện nay không khó để thấy được tình trạng một số bản án Tòa án giao trễ hạn, có khi là trễ hạn từ rất lâu rồi và vì sự cả nể, vì mối quan hệ nên đôikhi bộ phận nhận bản án của cơ quan THADS cũng bỏ qua để nhận những bản án đã quá hạn này và tiếp tục tiến hành ra Quyết định thi hành án thì như thế sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến công tác THADS, sẽ không đảm bảo được giá trị của việc thi hành án, không thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật. Ví dụ điển hình nhất cho sự ảnh hưởng đến công tác thi hành án là các bản án về hình phạt tiền khi mà các đương sự chậm nộp thì sẽ phải chịu lãi suất do chậm thi hành án nếu như Tòa án giao chậm bản án này thì khi người phải thi hành án đến nộp tiền đúng hạn nhưng vì do Tòa án giao chậm nên đã phát sinh lãi, mặc dù đây không phải là lỗi của người phải thi hành án nhưng một số người vì muốn thi hành xong nghĩa vụ của mình nên họ cũng phải trả thêm phần lãi suất, một số trường hợp giao quá hạn lãi suất quá cao khiến người phải thi hành án ngán ngẫm với số tiền lãi mà họ phải chịu và có một số người đã “một đi không trở lại” vì số tiền lãi chậm này. Chúng ta có thể thấy việc như vậy là rất bất công cho người phải thi hành án cũng chỉ vì việc chuyển giao bản án chậm trễ của Tòa án. + Về việc thông báo thi hành án: Thông báo thi hành án là việc làm đầu tiên sau khi ra Quyết định thi hành án, việc thông báo nhằm cung cấp 37
  • 44. thông tin cho đương sự về các phần nghĩa vụ của họ như là phải nộp bao nhiều tiền, nộp tại đâu. Căn cứ vào khoản 2 điều 39 LTHADS năm 2014 về thông báo thi hành án thì “Việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủyhoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án”. Trên thực tế thì thời hạn việc thông báo ít khi đúng hạn 03 ngày. Đối với trước kia cơ quan THADS có sự giúp đỡ của các văn phòng thừa phát lại trong việc thông báo thi hành án nhưng việc chuyển giao các văn bản, tài liệu, quyết định về thi hành án từ cơ quan THADS sang cho văn phòng thửa phát lại đã mất từ một đến ba ngày, sau đó tổ chức thừa phát lại mới tiến hành đi giao cho các đương sự và khoảng một đến hai tuần sau thì Chấp hành viên mới nhận được kết quả của việc thông báo thi hành án, như vậy thời gian thông báo thi hành án đã bị kéo dài thêm rất nhiều. Thực tiễn tại Quận 2 có khoảng 8 Chấp hành viên nhưng lại thiếu Thư ký thi hành án và mỗi người đều có rất nhiều Quyết định, thông báo, văn bản cần thông báo cho các đương sự nên phải nhờ sự giúp đỡ của văn phòng thừa phát lại nhưng văn phòng thừa pháp lại chỉ cho có một cán bộ đến nhận các thông báo đó thì với số lượng tài liệu nhiều như vậy cộng thêm địa bàn quận 2 có đến 11 phường nên tình trạng quá hạn thông báo rất nhiều. Ngoài ra, khi các Chấp hành viên gửi thông báo thì phải rất lâu mới có thể nhận được kết quả có khi lên đến 1 tháng như vậy sẽ không bảo đảm được quá trình thi hành án cho nên hiện nay các Chấp hành viên đã tự mình đi để tránh tình trạng quá hạn về thông báo thi hành án cũng như đảm bảo được công tác thi hành án. Đối với các đương sự là người phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam thì đầu tiên các Chấp hành viên phải xác minh là người này đang thi hành án hình phạt tù tại trại giam nào. Tiếp đến theo Điều 5 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC ngày 06 tháng 02 năm 2013 quy định “Thủ trưởng cơ quan THADS có trách nhiệm chuyển trực tiếp hoặc qua bưu điện 38
  • 45. quyết định THADS cho giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Trường hợp chuyển trực tiếp thì phải lập biên bản giao, nhận, trong đó ghi rõ thời gian, địa điểm, họ tên người giao, người nhận, nội dung giao nhận; họ tên, chữ ký của bên giao, bên nhận. Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định THADS và các tài liệu, giấy tờ khác có liên quan, Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện giao quyết định THADS cho phạm nhân là người phải THADS; giải thích quyền và nghĩa vụ của phạm nhân là người phải THADS và quy định của pháp luật có liên quan đến việc THADS; yêu cầu ký nhận vào phiếu chuyển và gửi phiếu chuyển đó cho cơ quan THADS. Theo LTHADS quy định thông báo trong vòng 03 ngày nhưng theo Thông tư đến tận 05 ngày, mặc dù vậy thì thời gian các Chấp hành viên gửi các thông báo, quyết định qua đườngbưu điện đến trại giam thì cũng đã quá 03 ngày so với quy định của Luật. Ngoài ra, việc thông báo cho các đương sự chủ yếu dựa trên địa chỉ được cung cấp tại Bản án của Tòa án nhưng đôi khi Tòa án cung cấp thông tin thiếu một phần của địa chỉ như Bản án số 14/2020/HS-ST đã được nêu tại phần thực tiễn bên trên thì cũng sẽ gây lúng túng và mất thời gian cho các Chấp hành viên trong việc thông báo về thi hành án. + Về việc xác minh điều kiện thi hành án: Xác minh điều kiện thi hành án là bước cực kì quan trọng trong THADS vì kết quả của việc xác minh sẽ mở hướng giải vụ việc cho các Chấp hành viên. Căn cứ vào điều 44 LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 về việc xác minh điều kiện thi hành án Chấp hành viên phải xác minh về các tài sản, về thu nhập, về các thông tin khác liên quan đến đương sự trong vụ việc. Ngoài ra, Chấp hành viên còn có thể liên hệ các cơ quan hữu quan để xác minh thông tin, chẳng hạn như việc xác minh về thông tin nhà và đất của đương sự được cung cấp trong bản án thì có thể liên hệ với Văn phòng đăng ký đất đai hoặc các Chi nhánh của Văn 39
  • 46. phòng đăng ký đất đai tại quận cần xác minh. Đối với xác minh nhân thân, cư trú của đương sự thì có thể liên hệ với Ủy ban nhân dân và Công an nhân dân cấp quận để được cung cấp các thông tin chính xác nhất. Mặc dù trong luật đã quy định các cơ quan phối hợp khi có yêu cầu trong việc xác minh với các Chấp hành viên, tuy nhiên trên thực tế để có được một kết quả xác minh nhanh, đầy đủ và suôn sẻ nhất thì các Chấp hành viên phải có thái độ mềm mỏng, từ tốn và nhẫn nại chứ không đơn thuần là dựa vào quyền lực của cơ quan thi hành án. Đối với việc xác minh nhà, đất tại địa phương cũng gặp một số khó khăn khi phải tiến hành xác minh tình trạng nhà, đất chưa đăng ký quyền sở hữu. Việc này sẽ tốn rất nhiều thời gian và công sức của các Chấp hành viên vì phải đi hỏi thông tin về nhà, đất đó tại Ủy ban nhân dân nơi nhà, đất đó đang hiện hữu nhưng đôi khi gặp một số trường hợp cả Ủy ban nhân dân cũng không nắm được thông tin nên các Chấp hành viên phải xác minh tại tổ trưởng dân phố, khu phố, đôi khi là cả những người dân xung quanh để nắm được thông tin về nhà, đất đó. Trong một số trường hợp để tránh việc phải thi hành án, một số cá nhân khi mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng các tài sản phải đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng nhưng lại không tiến hành đăng ký, việc này sẽ gây rất nhiều khó khăn cho Chấp hành viên khi tiến hành xác minh trên thực tế. Để có kết quả xác minh chính xác nhất về nhà, đất thì các Chấp hành viên thường gửi văn bản yêu cầu xác minh tại Văn phòng Đăng ký đất đai vì đây là cơ quan nắm giữ thông tin rõ nhất về nhà, đất. Tuy nhiên trong một số trường hợp Văn phòng Đăng ký đất đai trễ hạn trong việc trả lời xác minh cho cơ quan thi hành án và việc này gây khó khăn trong việc xử lý hồ sơ thi hành án. Ngoài ra, trong một số văn bản trả lời xác minh của Văn phòng Đăng ký đất đai cho cơ quan thi hành án chưa cung cấp được đầy đủ thông tin cần thiết, đôi khi là không có bất cứ thông tin nào về nhà, đất mà cơ quan thi hành án xác minh nhưng cơ quan thi hành án 40
  • 47. vẫn phải chịu một khoản phí không nhỏ để nhận được kết quả xác minh của Văn phòng Đăng ký đất đai. Tại khoản 2 Điều 44 LTHADS sủa đổi, bổ sung năm 2014 có quy định việc xác minh “trong trường hợp người phảithi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất06 tháng một lần Chấp hành viên phảitiến hành xácminh. Trường hợp người người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phảithi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất01 năm một lần”, việc xác minh này nhằm tìm kiếm thông tin mới của người phải thi hành án nhưng lại chưa có điều kiện thi hành án. Nhưng trên thực tế dù có xác minh lại bao nhiều lần thì kết quả cũng như lần đầu, ví dụ: Trong trường hợp người phải thi hành án đã bỏ đi nơi khác không rõ nơi cư trú mới, nhà đã giải tỏa, không có tài sản gì tại địa phương, địa chỉ của người phải thi hành án không có thực tại địa phương,….. Với những kết quả xác minh này thì có xác minh lại cũng chẳng giúp gì được cho các Chấp hành viên khi giải quyết hồ sơ. Đối với trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thì cũng như vậy, luật quy định 01 năm xác minh lại một lần nhưng trong trường hợp người phải thi hành án phải chấp hành hình phạt tù đến 15 năm hoặc lâu hơn thì kết quả xác minh lại cũng sẽ như lần đầu và cũng không giúp ích cho việc giải quyết hồ sơ thi hành án. Bên cạnh đó, việc xác minh lại đôi khi cũng gây khó khăn cho Chấp hành viên vì trong thực tế giải quyết hồ sơ thi hành án thì có rất nhiều hồ sơ chưa có điều kiện thi hành án, để có thể tiến hành xác minh lại tất cả các hồ sơ chưa có điều kiện thi hành án đòi hỏi Chấp hành viên phải sắp xếp thời gian một cách khoa học và hợp lý vì số lượng án nhiều nếu không phân bổ một cách hợp lý thì sẽ dẫn đến tình trạng trễ hạn xác minh, ngoài ra còn ảnh đến việc giải quyết các hồ sơ đang có điều kiện thi hành khác. 41