SlideShare a Scribd company logo
1 of 16
CÂU HỎI VẬN DỤNG
CÂU 1: Lý luận giá trị thặng dư và vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam
I. Tổng quan về giá trị thặng dư: Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là
hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất
định, nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất
định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Trong lưu thông hàng hóa gián đơn
thì tiền được coi là tiền thông thường, vận động theo công thức: H – T – H, nghĩa là sự chuyển hóa của
hàng hóa thành tiền rồi tiền lại chuyển hóa thành hàng hóa. Ở đây tiền không không phải là tư bản mà
đơn thuần chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông. Cả hai sự vận động đều do
hai gia đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đonạ đều có hai nhân tố vật chất đối
diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán. Nhưng
đó chỉ là những điểm giống nhau về hình thức. Giữa hai công thức đó còn có những điểm khác nhau về
chất: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H – T) và kết thúc bằng việc mua (T – H).
Điểm xuất phát và điểm kết thúc của hàng hóa, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu
thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T – H) và kết thúc bằng việc bán (H – T). Tiền vừa là điểm
xuất phát vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian. Tiền ở đây không
phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là tiền ứng ra rồi thu về. Còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo
công thức T – H – T (tiền – hàng – tiền), tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa rồi hàng hóa lại
chuyển hóa ngược lại thành tiền. Mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng như trong
lưu thông hàng hóa giản đơn theo công thức H – T – H mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy
nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về
phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T – H – T’, trong đó T’ = T +
ΔT. Số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (ΔT) được C. Mác gọi là giá tị thặng dư.
Số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản. Giá trị thặng dư do đâu mà có ? C. Mác đã chỉ rõ:
“Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thong. Nó phải
xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó là mâu thuẫn chứa đựng trong
công thức chung của tư bản. C. Mác chỉ rõ: “Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hóa làm
cơ sở”. Theo C. Mác: “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể của một con
người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động
để sản xuất ra những vật có ích”. Theo thuyết giá trị về lao động, tất cả giá trị được tạo thành trong quá
trình biến đổi thông qua sản xuất hàng hóa là do lao động, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao
động kết tinh. Thế nhưng, nó không được chia đều cho những người trực tiếp làm ra nó mà thuộc quyền
sở hữu của chủ tư bản. Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
II Giá trị thặng dư và nền kinh tế Việt Nam:
1. Thực trạng: Trong học thuyết của C. Mác, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa, nên phương thức tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối (tạo ra do kéo dài thời gian lao động
trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi)
không được sử dụng, thời gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay 48 tiếng một tuần theo
điều 68 của bộ luật Lao Động.Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà
nước được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng của nhà nước, thậm chí là còn
không cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra có đúng theo nhu cầu của thị trường hay không, vì thế mà
nền kinh tế trì trệ. Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn được nhà
nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế thị trường, đồng thời, các doanh nghiệp
tư nhân đầu tiên cũng ra đời. Tiếp đến, sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung
Quốc giá rẻ đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ phải đổi
mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản
phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư vào việc mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các
phương thức quản lí mới. Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ và máy
móc cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang những công nghệ
mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia
nước ngoài cũng được mời về để chuyển giao công nghệ. Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt
Nam phải đối mặt với các đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính,
công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới (thị
trường toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc tế). Vì
vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lại càng trở thành nhu cầu cấp bách khi cạnh
tranh để tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn. Điển hình là cuộc chạy đua về cung cấp công nghệ 3G giữa ba
tập đoàn Vinaphone, Mobiphone và Viettel cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện nay.
Việc kéo người dùng sử dụng dịch vụ của các nhà mạng là nhằm mục đích tạo ra giá trị thặng dư (lợi
nhuận) cho doanh nghiệp. Không thể hiện rõ như chạy đua về công nghệ, việc đào tạo và tìm kiếm
những nhà quản lí, những nhà chiến lược tài ba cũng là mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp. Không
ít những doanh nghiệp Việt Nam hiện nay sẵn sàng trả cho nhân viên của mình hàng chục ngàn Euro
mỗi năm để có được những chiến lược mới giúp doanh nghiệp tạo ra được nhiều lợi nhuận hơn bởi ngày
nay lao động trí tuệ, lao động quản lý đã trở thành những hình thức lao động có vai trò lớn. Khu vực
dịch vụ, các hàng hóa phi vật thể, vô hình chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế.
2. Hạn chế: Tuy nhiên không thể không thấy rõ những mặt hạn chế khi công nghệ của Việt Nam dù đã
được cải tiến rất nhiều nhưng vẫn còn thua kém rất nhiều so với các nước phát triển, do phần lớn các
công nghệ này vẫn còn là công nghệ đã không còn được sử dụng ở nước ngoài mà được bán lại với giá
thành rẻ. Và với những doanh nghiệp có nguồn lực hạn hẹp, thì sau khi đổi mới công nghệ một lần thì
họ phải chờ một quãng thời gian khá dài mới có thể huy động tiền để tiếp tục đổi mới công nghệ trong
khi khoa học kĩ thuật đang biến đổi từng ngày. Thêm nữa, tuy ngân sách nhà nước và tiền của các doanh
nghiệp đầu tư cho vấn đề con người là rất lớn nhưng hiện nay số người có khả năng đáp ứng yêu cầu
tuyển dụng vẫn còn thấp, bởi đầu tư vào giáo dục vẫn chưa đem lại hiệu quả. Điều này có thể thấy rõ ở
việc tuyển dụng của Intel tại Việt Nam năm 2008 với chỉ tiêu là 4000 nhân viên nhưng cuối cùng kết
quả tuyển dụng đã gây ra một sự thất vọng lớn.
3. Giải pháp: Các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong việc thay đổi công nghệ. Hiện
nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở
hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh nghiệp nước ngoài làm quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong
nước, vừa tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trong nước có được những công nghệ tiên tiến để phát triển
sản xuất. Vấn đề nguồn lực vẫn là vấn đề cần được trọng tâm trong thời gian tới. Việc nâng cao chất
lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế là vô cùng cần thiết để tránh hiện
trạng có cầu mà không có cung như hiện nay. Ta đã biết giá trị thặng dư đang được tạo ra như thế nào,
vậy phần giá trị thặng dư ấy được phân chia như thế nào ? Nếu coi ΔT = m thì ta có thể phân tách m
thành m = m1 + m2 + m3 + m4 + m5 + m6 + m7 + … Trước hết, doanh nghiệp ở bất kì quốc gia nào
đều có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước (như ở Việt Nam hiện nay là 25%). Tiếp theo, phần lớn doanh
nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân sẽ chia một phần giá trị thặng dư cho các quỹ (quỹ
nghiên cứu khoa học, quỹ phúc lợi, quỹ tái sản xuất) hoặc nếu không theo mô hình này thì giá trị thặng
dư sẽ được chia để trả công cho người quản lí, cho tái sản xuất và mở rộng sản xuất, cho chủ doanh
nghiệp… và một số phần khác.
III Kết luận: Có thể nói, điều kiện điểm xuất phát nền kinh tế Việt Nam thấp, nhưng qua khoảng thời
gian sau đổi mới, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có rất nhiều chuyển
biến tích cực. Tiếp tục vận dụng những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, đồng thời học tập từ
những nước phát triển, các doanh nghiệp của nước ta có thể đẩy mạnh kích thích sản xuất, tăng năng
suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, vững mạnh hơn và giàu đẹp
hơn.
Câu 2:NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
I. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
NHÀ NƯỚC
Ý 1:Chủ Nghĩa Tư Bản là phương thức sản xất được xác lập là tiến bộ và có nhiều ưu điểm đã thay thế
cho nền sản xuất phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Chủ Nghĩa Tư Bản là một phương thức sản xuất tất yếu
khi có một nền đại công nghiệp cơ khí ( Từ cuối thế kỷ XVIII ở nước Anh bắt đầu cuộc Cách mạng
công nghiệp lần I ). Phương thức sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa phát triển qua hai giai đoạn: * Chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh ( Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX ). Trong thời kỳ tự do cạnh tranh nhà tư bản
đồng thời vừa là chủ sở hữu vừa là người điều hành. Giữa các nhà tư bản có sự ghanh đua đấu tranh gay
gắt nhằm giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận cao nhất. *
Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền ( Từ cuối thế kỷ XIX ). Đây là hai giai đoạn của cùng một phương thức
sản xuất, cùng dựa trên quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa, chỉ khác nhau về trình độ xã hội hoá của
lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn này các Doanh nghiệp độc quyền, những Doanh nghiệp do tập thể
các nhà tư bản đầu tư, thống trị.
a. Tư bản độc quyền tư nhân: Cạnh tranh tự do dẫn đế hàng loạt những xí nghiệp quy mô nhỏ bị phá
sản, bị thôn tính hoặc một số xí nghiệp quy mô nhỏ tự nguyện sát nhập lại thành xí nghiệp quy mô lớn.
Chính cạnh tranh đã thúc đẩy tập trung sản xuất nhanh chóng. Do sự phát triển của cách mạng khoa học
kỹ thuật, việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất. Sự phát
triển của ứng dụng Tư Bản Chủ Nghĩa, tư bản không thể phát triển mạnh mẽ nếu như không có chế độ
tín dụng ngày càng mở rộng. Tín dụng tư Bản Chủ Nghĩa là hình thức vận động của tư bản cho vay.
Khủng hoảng kinh tế nổ ra dẫn đến hàng loạt xí nghiệp bị phá sản, còn lại một số xí nghiệp thoát ra khỏi
khủng hoảng thì phải đổi mới tư bản cố định. Nó cũng thúc đẩy mở rộng quy mô sản xuất. Các nguyên
nhân này đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao. Tuy nhiên các xí nghiệp có
quy mô lớn, kỹ thuật cao nếu cạnh tranh sẽ rất quyết liệt, khó đánh bại nhau và gây thiệt hại cho nhau về
cạnh tranh giữa các đối thủ. Vì vậy đã xuất hiên thoả hiệp, mặt khác do có ít xí nghiệp lớn nên dễ thoả
hiệp được với nhau, điều mà ở giai đoạn tự do cạnh tranh không có. Từ đây tổ chức độc quyền ra đời
đánh dấu bước chuyển từ Chủ Nghĩa Tư Bản tự do cạnh tranh sang Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền. Tổ
chức độc quyền: là sự liên minh giữa các nhà tư bản lớn nắm trong tay phần lớn phần việc sản xuất hoặc
tiêu thụ một hoặc một số sản phẩm nhằm bán hàng hoá với gía cả độc quyền cao, mua nguyên liệu với
giá cả độc quyền thấp để có dược lợi nhuận độc quyền cao. Bản chất của tư bản độc quyền: đó là sự
thống trị trở về kinh tế và chính trị của độc quyền. Hình thức của độc quyền: Các ten, Sanhdica, Tơrớt…
b. Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước:
-Khái niệm: Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của Nhà nước tư bản thành
một tư bản thành một thiết chế thống nhất. Nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu
nguy cho Chủ Nghĩa Tư Bản.
-Nguyên nhân ra đời của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước: Sự ra đời của Chủ Nghĩa Tư Bản
độc quyền nhà nước bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và trình độ cao của lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuât Tư Bản Chủ Nghĩa về tư liệu sản xất, được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất: Do sự
tích tụ và tập trung tư bản ngày càng lớn làm cho tích tụ tập trung sản xuất ngày càng cao. Do đó xuất
hiện những cơ cấu sản xuất ngày càng lớn dẫn đến xã hội hoá sản xuất ngày càng rộng đòi hỏi phải có
trung tâm điều tiết phối hợp hành động. Đó chỉ có thể là Nhà nước. Thứ hai: Do sự phân công lao động
xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc
quyền tư nhân không thể hoặc không muốn làm. Đặc biệt là các ngành kết cấu hạ tầng hoặc nghiên cứu
cơ bản ( Vốn đầu tư, vốn chu chuyển chậm, tỉ xuất lợi nhuận thấp ). Thứ ba: Chủ Nghĩa Tư Bản độc
quyền làm mâu thuẫn thêm sâu sắc, đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cáp công nhân và nhân dân
lao động. Để làm giảm mâu thuẫn đó Nhà nước phải thực thi một số chính sách như : trợ cấp thất
nghiệp, điều tiết thu nhập, phúc lợi xã hội… Thứ tư: Với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và bành
chứng của các liên minh độc quyền thế giới vấp phải hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột về lợi ích
với các đối thủ trên thị trường thế giới. Điều đó đồi hỏi Nhà nước phải điều tiết các quan hệ chính trị và
kinh tế.
-Bản chất của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước: * Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền nhà nước là sự
kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của các tổ chức Nhà nước tư bản
thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy
cho Chủ Nghĩa Tư Bản. * Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là nấc thang phát triển mới của Chủ
Nghĩa Tư Bản độc quyền ( chủ nghĩa đế quốc ). Nó là sự thống nhất của cả ba quá trình gắn bó chặt chẽ
với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, kết
hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của Nhà nước trong một thể chế thống nhất và bộ
máy Nhà nước cuộc vào các tổ chức độc quyền. * Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là một quan
hệ kinh tế, chính trị, xã hội chú không phải chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền Chủa Nghĩa
Tư Bản. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở
mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế Nhà nước có sự biến đổi thích hợp đến với xã hội đó. Ngày nay vai trò
của Nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp
mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước. V.I. Lênin chỉ ra
rằng: “ Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc bao trùm hết thảy các
thiết chế kinh tế và chính trị… đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy “. Trong cơ cấu của Chủ
Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước, Nhà nước trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Như vậy Chủ
nghĩa Tư Bản đã chuyển sang một giai đoạn mới với bản chất chính là Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền
Nhà nước ra đời trong cách mạng khoa học công nghệ.
1) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và Nhà nước
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công nghiệp được bổ
sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ: “ Hôm nay là bộ trưởng,
ngày mai là chủ ngân hàng, hôm nay là chủ ngân hàng ngày mai là bộ trưởng “. Sự kết hợp về nhân sự
thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một
cơ sở xã hội được thực hiên sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy Nhà nước.
Cùng với các đảng phái tư sản là các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau ví dụ như: Hội Công
nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng liên đoàn Công nghiệp Italia… Các hội này trở thành lực lượng chính trị
kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước.. Sự thâm nhập lẫn nhau này đã
tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương.
2) Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục
vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của Chủ Nghĩa Tư Bản. Nó biểu hiện không
những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu Nhà nước và
sơ hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư
bản xã hội. Sở hữu Nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động
của bộ máy Nhà nước mà gồm cả những Doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong lĩnh vực
kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Sở hữu Nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau:
Xây dựng Doanh nghiệp Nhà nước bằng vốn của ngân sách, quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng
cách mua lại… Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau: * Mở rộng sản
xuất Tư Bản Chủ Nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của Chủ Nghĩa Tư Bản. * Giải
phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi dể đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu
quả hơn. * Là chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa theo những chương trình nhất định.
Cùng với việc Nhà nước thực hiện kinh doanh thị trường Nhà nước cũng hình thành. Sự tiêu thụ của
Nhà nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng quân sự do ngân sách chi mỗi ngày một tăng.
3) Sự điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản là một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của Chủ
Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là sự điều tiết quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết của Nhà nước Tư
sản hình thành một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của Nhà nước. Sự điều tiết kinh tế của
Nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng
các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính pháp lý… Các chính sách kinh tế của Nhà nước Tư sản là
sự thể hiệ rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà Nước, chúng bao gồm
nhiều lĩnh vực như: Chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát chính sách về tăng trưởng
kinh tế, chính sách đối ngoại, chính sách xã hội. Các công cụ chủ yếu của Nhà nước Tư sản để điều tiết
kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế như : Ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ tín dụng, các Doanh
nghiệp Nhà nước, kế hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính – pháp lý
Ý 2:Những biẻu hiện mới của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước
1: Đặc điểm nổi bật nhất, quan trọng nhất của những biến đổi của Chủ Nghĩa Tư Bản sau chiến tranh thế
giới thứ II là sự phát triển chưa từng có và rộng khắp của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước biểu
hiện chủ yếu là: - Tỉ trọng kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa tăng lên rõ rệt. - Sự
kết hợp kinh tế Nhà nước và kinh tế Tư nhân tăng lên rõ rệt. Trong năm 1979 trong 40 Công ty Công
nghiệp lớn nhất Tây Âu có 7 Công ty hỗn hợp vốn giữa vốn Nhà nước và tư nhân. Trong đó vốn Nhà
nước chiếm một nửa. - Chỉ tiêu tài chính của các Nhà nước Tư bản phát triển dùng để điều tiết quá trình
tái sản xuất xã hội tăng.
2: Sự điều tiết kinh tế của Nhà nước Tư sản có những biểu hiện mới: * Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế
của Nhà nước Tư bản độc quyền nhằm khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường Tư Bản Chủ
Nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế – xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của Chủ Nghĩa Tư Bản. * Để điều kiện kinh tế, Nhà nước Tư bản độc quyền đã tổ chức bộ
máy điều tiết. Bộ máy gồm có cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có sự tham gia
của những đại biểu tập đoàn lớn và các quan chức Nhà nước. * Cơ chế điều tiết kinh tế của Chủ Nghĩa
Tư Bản độc quyền Nhà nước là: - Hạn chế sự quan liêu hoá Nhà nước bằng cách xem xét lại hệ thống
luật kinh tế, đơn giản hoá các thủ tục hành chính và xây xựng các đạo luật mới thích hợp với cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước. - Xác định lại sự trợ cấp của Nhà nước đối với một số ngành, một
số xí nghiệp. - Thực hiện tư nhân hoá khu vực kinh tế Nhà nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các
Doanh nghiệp và khắc phục sự hoạt động kém hiệu quả của các Doanh nghiệp Nhà nước. - Nơi lỏng sự
điều tiết của Nhà nước, xoá bỏ những quy định của Nhà nước có thể dẫn đến hạn chế sự cạnh tranh của
thị trường. - Xác định lại các tứ tự ưu tiên trong chính sách kinh tế. - Tăng cường sự phối hợp chính
sách kinh tế giữa các nước trong lĩnh vực có tầm quan trọng đói với sự ổn định tình hình kinh tế – xã
hội. * Nổi bật hơn trong những biểu hiện mới của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là việc thực
hiện các chính sách xã hội. Phương thức điều tiết của Nhà nước linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, phạm vi
rộng hơn: - Điều tiết bằng chương trình và kế hoạch. - Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường
thông qua hợp đồng, đồng thời hỗ trợ các ngành truyền thống cần dược tiếp tục duy trì và những ngành
mũi nhọn, công nghệ cao. - Điều tiết tiến bộ khoa họcvà công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho R và D,
đề xuất các hướng ưu tiên phát triển công nghệ, tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng của các Công ty tư
nhân. - Điều tiết thị trường lao động băng cách đào tạo và đào tạo lại, khuyến khích phát triển Doanh
nghiệp vừa và nhỏ… - Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ, chống lạm phát điều tiết giá. - Điều tiết các
quan hệ kinh tế đối ngoại, hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế.
II. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI. Khi phân tích sự vận động của
Chủ Nghĩa Tư Bản, Lênin đã chỉ ra rằng: Chủ Nghĩa Tư Bản đến giai đoạn độc quyền, nền kinh tế của
nó vận động theo hai xu hướng: Sự phát triển nhanh chóng song song với trì trệ thối nát. Ngày nay, hai
xu hướng dó vẫn tác động trong nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa. Xu thế phát triển nhanh chóng của Chủ
Nghĩa Tư Bản biểu hiện rõ rệt từ trong giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay, đặc biệt là
vào những năm 1950 và 1960 của thế kỷ XX với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, năng suất chất
lượng hiệu quả tăng rõ rệt. Sự phát triển đó là do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự
điều tiết kinh tế của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước, sự bành chướng của các Công ty xuyên
quốc gia và sự kích thích do cuộc chạy đua giữa hai hệ thống kinh tế thế giới. Xu thế trì trệ biểu hiện ở
chỗ nền kinh tế Chủ Nghĩa Tư Bản tăng trưởng chậm so với tiềm năng to lớn của khoa học công nghệ
cho phép ( ví dụ hiệu xuất sử dụng thiết bị máy móc chỉ đạt 60 - > 70 % ), thất nghiệp cao gây nên sự
lãng phí về nguồn lực, quân sự hoá nền kinh tế. Sự tồn tại song song của hai xu thế trong Chủ Nghĩa Tư
Bản hiện đại một mặt nói lên rằng Chủ Nghĩa Tư Bản hiện đại vẫn còn sức sống, quan hệ sản xuất Tư
Bản Chủ Nghĩa còn có thể tự điều chỉnh và trong giớ hạn nhất định nó còn có thể thích ứng với nhu cầu
phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy xã hội Tư bản phát triển. Song mặt khác cũng nói lên rằng
Chủ Nghĩa Tư Bnả đang vấp phải những giới hạn nhất định, mâu thuẫn cơ bản của Chủ Nghĩa Tư Bản
vẫn tồn tại và vận động. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ
Nghĩa quyết định sự thay thế phương thức sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa bằng phương thức sản xuất cao
hơn, tiến bộ hơn. Đó là xu hướng vận động của lịch sử mang tính tất yếu. Chủ Nghĩa Tư Bản hiện dại
đang thực hiện quá trình đổi mới cải cách để thích nghi với điều kiện lich sử mới do sự tác động của
cách mạng khoa học công nghệ. Tuy vậy Chủ Nghĩa Tư Bản vẫn không tránh khỏi những giới hạn và
mâu thuẫn. Chủ Nghĩa Tư Bản thể hiện tính tiến bộ hơn so với phương thức sản xuất trước đó song lại
trở thành lỗi thời, do đó cần thay thế bằng xã hội tiến bộ hơn.
C. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA SỰ VẬN DỤNG NÓ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước.
a. Những khuyết tật của cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị
trường, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó: Thứ nhất: Cơ chế thị
trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không
hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền
có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao. Mặt khác, khi xuất hiện độc quyền thì không có
sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật. Thứ hai: Mục đích hoạt động của các Doanh nghiệp
là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lợi dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của
con người do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo. Thứ ba: Phân phối thu nhập không công
bằng. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác
động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế
cao,nhưng nó không tự động mang lại giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Thứ tư : Một nền kinh tế do cơ
cấu thị trường thuần tuý điều tiếtkhó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kì
và thất nhgiệp. Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đứng trước khó khăn nan
giải của kinh tế vĩ mô: Không một nước nào trong một thời gian dài lại có lạm phát thấp và đầ đủ công
ăn việc làm. Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó nên trong thực tế không tồn
tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bạicủa
cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
b. Các chức năng của kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một là : Đảm bảo sự ổn định, kinh tế
xã hội và thiết lập khuôn khổ lập luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định
kinh tế chính trị, vì ổn định chính trị, xã hội là điều cần thiết để phát triển kinh tế. Khuôn khổ luật pháp
mà nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ hể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh
tế của họ. Hai là : Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động
kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch
phát triển trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn đắt nền kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu kinh tế.
Ba là : Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các Doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi
của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy
Nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu
quả kinh tế xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vậy
Nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả
của hoạt động thị trường. Bốn là : Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công
bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân với tiến bộ công bằng xã hội.
Điều này thể hiện rõ rệt tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
c. Thực trạng của nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới đến nay.
Trong mười năm ( 1991 – 2001 ) CDP bình quân của Việt Nam tăng bình quân hàng năm là 7,5% so
với mục tiêu chiến lược đề ra là 6,9 – 7,5% / năm. Trong mười năm qua CDP tăng gấp 2,06 lần nhưng
CDP bình quân theo đầu người chỉ tăng khoảng 1,8 lần so với năm 1990. Mặc dù tốc độ tăng trưởng
GDP của nước ta trong mười năm qua là tương đối cao so với các nước trong khu vực. Nhưng nước ta là
nước xuất phát điểm thấp. Năm 1998 mức sống tính theo GDP bình quân đầu người ( PPP ) đứng thú
131 / 174 nước. Về xếp hạng HDI năm 2004 nước ta ở thứ hạng 122 / 177 nước. Năm 2005 vươn lên 4
bậc đứng thứ108 / 177 nước và được nêu như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm các nước đang
phát trển về khả năng tương tác cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển con người. Năm 2005
trong số 10 nước ASEAN nước ta đứng thứ sáu vè thứ hạng HDI, thứ 4 về chỉ số tuổi thọ, thứ 6 về chỉ
số giáo dục, thứ 7 về chỉ số GDP. Cho dù tốc độ phát triển trong 20 năm tới chúng ta có thể vượt qua
các nước trong khu vực từ 2 -> 3% thì khoảng cách phát triển cũng chỉ thu hẹp thêm 1,5 – 1,8 lần. Vì
vậy mà chúng ta cần phải cố gắng hơn nữa để phát triển nền kinh tế nước nhà.
d. Phương hướng giải pháp nâng cao hiệu lược quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội, toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước
hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng có căn cứ khoa học,
cần phải tính đúng thực trạng kinh tế xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển lựa chọn phương án tối ưu.
Muốn vậy cần thực hiện sân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá chính sách. - Cần tuyên truyền rộng rãi
về những thách thức của nền kinh tế đòi hỏi phải sớm cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Tạo bước
đột phá mới về tư duy kinh tế, đẩy nhanh tiến độ thiết lập thị trường các yếu tố sản xuất đầy đủ và đồng
bộ, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nhà nước cần nhất quán quan
điểm về định hướng xuất khẩu của nền kinh tế, không duy trình bảo vệ lâu dài để thay thế nhập khẩu
bằng mọi giá để đảm bảo phát triển bền vững. - Sớm chuyuển cơ chế cấp phát vốn cho các Doanh
nghiệp Nhà nước sang cơ chế tín dụngnđầu tư, có tiêu chí khoa học, rõ ràng và thống nhất cả nước về
đánh giá hiệu quả đầu tư ngay từ giai đoạn tiền khả thi cảu dự án. Đồng vốn của nhà nước phải có chủ
cụ thể, bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả, các định chế ràng buộc về quyền hạn và trách nhiệm pahỉ cụ
thể rõ ràng. - Nhà nước cần có một cơ ccấu tổ chức hoàn chỉnh, chuyên nghiệp để thưch hiện có hiệu
quả các công cụ của đất nước. - Để chỉ huy nền kinh tế phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó
cố quyền lực, có đầy đủ tự tin về các mặt để điều hoà phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuất xã
hội, giả quyết các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế. - Bằng các đòn bẩy
kinh tế và động viên tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinht ế hoạt động theo định hướng cuẩ kế
hoạch hoá, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của các kế hoạch đã đề ra.
KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứ bản chất và những biểu hiện của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quuyền Nhà
nước giúp chúng ta hiể một cách rõ ràng và đúng dắn hơn về Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyuền Nhà nước.
Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là nấc thang phát triển mới của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền (
chủ nghĩa đế quốc). Ngoài ra Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước còn là một quan hệ kinh tế, chính
trị, xã hội chứ không chỉ là chính sách trong giai đoạn độc quuyền của Chủ Nghĩa Tư Bản. Chủ Nghĩa
Tư Bnả độc quuyền Nhà nước là hình thức vận động mối quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa nhằm duy
trì sự tồn tại của Chủ Bghãi Tư Bản, là cho Chủ Nghĩa Tư Bản hích nghi với điều kiện.
Câu 3: sứ mệnh lịch sử GCCN
Sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN mang bản chất quốc tế và không hề xa lạ với những hiện tượng
quốc tế phản ánh tiến bộ xã hội.Chủ động,tích cực hội nhập quá trình toàn cầu hóa kinh tế; tận dụng
những thời cơ,tranh thủ ngoại lực từ quá trình toàn cầu hoá hiện nay và làm biến đổi nó theo hướng tích
cực là một tiến trình hợp quy luật và là con đường để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN.
1.Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam hiện nay.
GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân: Là giai cấp tiên tiến, là giai cấp có
tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần
quốc tế vô sản.nhưng do hoàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Viêt Nam còn có những đặc điểm riêng
như sau Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới ra đời đã chịu ảnh
hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN Mác-Lênin, không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư
tưởng tiểu tư sản, GCCN Viêt Nam từ khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị
với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu: Giải phóng dân tộc xây dựng thành công
CHXH và CNCS ở Viêt Nam. GCCN khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh đạo của Đảng Sinh ra và
trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuôc địa, nông nghiệp lạc hậu nện hạn chế lớn nhất của giai
cấp công nhân Viêt Nam là còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản
xuất nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất, chúng ta đừng có ảo tưởng
những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một ngày, hai ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.
GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc, hoạt động sản xuất trong các
ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh
với nước ngoài, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân, nông dân trí thức.
Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong
công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ
nhận sứ mệnh lịch sử chủ nghĩa GCCN Viêt Nam. Xét về bản chất thì chưa thể có và không thể có tổ
chức chính trị nào, giai cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng một
xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất
công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Sứ mệnh của
GCCN Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo định hướng XHCN; qua đó giải
phóng giai cấp, giải phóng người lao động, xây dựng một “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh”... Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình trang kém phát triển, nội dung trọng tâm là
đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng XHCN. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa hiện nay là “Rút
ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện
đại hoá”. Theo đó phát triển GCCN nước ta cả về số lượng và chất lượng, và tổ chức; nâng cao giác ngộ
và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
đổi mới. Phát triển GCCN cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại - cơ
sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện
thắng lợi khi quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà nước XHCN và chế độ dân chủ XHCN, quyền
làm chủ của nhân dân lao động nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Kết luận Qua bài
tiểu luận có thể khẳng định rằng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những
cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mac- Lênin Là lực lượng nòng cốt, chủ yếu và tiền phong của dân
tộc, giai cấp công nhân ta có vinh dự và trách nhiệm nặng nề là nhân lên vận hội mới của dân tộc bằng
đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ phát triển nền công nghiệp và dịch vụ với năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế cao, nhằm đáp ứng thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là đứng vững,
là đi lên trong hội nhập kinh tế và cạnh tranh quyết liệt của thị trường thế giới, làm cơ sở cho tự chủ về
kinh tế. Để giai cấp công nhân làm tròn sứ mệnh vẻ vang đó, cùng với tự học tập nâng cao kiến thức và
năng lực nghề nghiệp, rèn luyện tác phong và kỷ luật công nghiệp, Đảng, Nhà nước và công đoàn cần
làm tốt hơn nữa trách nhiệm đối với giai cấp công nhân Đó là việc làm và quyền làm việc của công
nhân. Đảng và Nhà nước đã có chính sách đào tạo và đào tạo lại nghề cho công nhân, nhưng chưa đủ.
Không thể vin vào "thất nghiệp là khó tránh khỏi trong cơ chế thị trường" để đẩy hàng loạt công nhân
vào thất nghiệp không đáng có và cả không được phép. Hoặc không kiên quyết thay thế những người
quản lý yếu kém để doanh nghiệp lụn bại, công nhân không việc làm. Cùng với quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá phải xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về chính trị, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng tiếp thu sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất hiệu quả
cao, làm tròn sứ mệnhcủa mình.
Câu 4 :XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Khái niệm, bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
- Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa: + Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức
chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó là chủ yếu, nhân dân lao động thực hiện quyền lực và
lợi ích của mình, cũng qua đó là chủ yếu mà giai cấp công nhân và Đảng của nó lãnh đạo xã hội về mọi
mặt + Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa nên nó là một loại hình nhà nước dân chủ
- Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa; Bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp
đều mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Nên bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa ( nhà nước
chuyên chính vô sản) do đó, trước hết mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng giai cấp công nhân lại
là giai cấp thuộc nhân dân LĐ mà ra, đại biểu cho phương thức sản xuất mới hiện đại, có lợi ích cơ bản
thống nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Do đó, nhà nước XHCN không chỉ
mang bản chất giai cấp công nhân mà còn có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đảng CS
VN và HCM từ lâu đã nêu ra quan điểm “ nhà nước của dân, do dân và vì dân” cũng nói lên 1 các tổng
hợp về bản chất, thực chất của nhà nước ta- nhà nước XHCN. Trong sự nghiệp đổi đất nước hiện nay,
đảng ta càng chú trọng phát triển, cụ thể hóa nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước XHCN: +Chức năng, nhiệm vụ đối nội: +Chức năng đối nội của
nhà nước XHCN thể hiện ở việc tập trung quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, chủ
yếu bằng pháp luật, chính sách, pháp chế XHCN và hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
+ Nhà nước XHCN quán triệt và thể chế hóa quan điểm, đường lối cách mạng, chủ trương lãnh đạo của
Đảng CSVN thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, pháp chế XHCN và hệ thống cơ quan nhà nước từ
trung ương đến cơ sở. + Nhà nước XHCN quán triệt và thể chế hóa quan điểm, đường lối cách mạng,
chủ trương lãnh đạo của Đảng CSVN thành Hiến pháp, pháp luật, pháp chế, chính sách, kế hoạch, biện
pháp của nhà nước để chỉ đạo thực hiện thoog qua quá trình hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quan trên mọi lĩnh vực. Nhà nước XHCN thực hiện sự chuyên chính đối với mọi tội phạm và mọi kẻ thù
để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo điều
kiện cơ bản để mở rộng dân chủ trong nhân dân.
- Nhiệm vụ của nhà nước XHCN: + Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là xây dựng cơ
sở vật chất- kỹ thuật cào cảu CNXH gắn liền với cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. + ·
Quản lý văn hóa- xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chăm lo cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, để hình thành con người mới XHCN + + Chức
năng đối ngoại: dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cào cảu CNXH gắn liền với cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân. + Quản lý văn hóa- xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, để hình thành con
người mới XHCN + Chức năng đối ngoại: trình cải cách nhà nước ta theo hướng chung là: xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN + Đảng ta chỉ rõ: Nhà nước ta là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp…Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước gắn liền
với xây dựng , chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và các đảng
viên trong cơ quan nhà nước
- Trước hết, đối với Quốc Hội: trong bộ máy nhà nước, QH là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có
những quyền hạn quan trọng, tolớn. Để QH tiếp tục hoàn thành tốt công việc của mình, Nghị quyết Hội
nghị TW7, khóa VIII đã chỉ rõ: “ Đổi mới quy trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật tại kỳ họp QH
chính phủ, tòa án ND tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, từng bước tăng tỷ lệ đại biểu QH chuyên
trách. Coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật và chuẩn bị những quyết
sách của QH” Đối với chính phủ và cơ quan hành pháp phải chú trọng quá trình cải cách hành chính, coi
cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của việc thực hiện các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con
người, quyền lực của nhân dân trên mọi lĩnh vực + Trong cải cách hành chính, trước hết là cải cách thủ
tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan trực tiếp tới công dân và cácdoanh nghiệp. Đối với việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và thu hành pháp luật cho rõ ràng, thống nhất, chặt chetx và
dễ thực hiện có hiệu quả.
- Thứ 2 là, phải cả cách bộ máy hành chính trước hết là bố trí lại cơ cấu tổ chức chính phủ cho tinh gọn,
năng động và quản lý vĩ mô có hiệu quả cao hơn, từ đó điều chỉnh cơ cấu các bộ, nghành, ủy aban ND
cáccấp cũng theo hướng gọn nhẹ, năng động, hiệu quả trong thực thi pháp luật. Từng bước hiện đại hóa
cơ quan hành chính các cấp, trong đó có vấn đề vai trò hoạt động “ tài chính công” + - Thứ 3 là , đổi
mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước: Bao gồm nâng cao chất lượng đào tạo,
đạo tạo lại cán bộ, công chức theo yêu cầu mới của cải cách nhà nước. Đồng thời đổi mớicấp cũng theo
hướng gọn nhẹ, năng động, hiệu quả trong thực thi pháp luật. Từng bước hiện đại hóa cơ quan hành
chính các cấp, trong đó có vấn đề vai trò hoạt động “ tài chính công”
- Thứ 3 là , đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước: Bao gồm nâng cao chất
lượng đào tạo, đạo tạo lại cán bộ, công chức theo yêu cầu mới của cải cách nhà nước.
BÊN DƯỚI LÀ MỘT SỐ CÂU HỎI TRONG BÀI KIỂM TRA.
Câu 1:
a) Theo em, quan điểm Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã thay đổi với lập luận “ giai cấp
công nhân là tầng lớp thấp nên không thể tự giải phóng được” là hoàn toàn Sai, vì:
Tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đã làm cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội
có những biến đổi mới làm cho “giai cấp công nhân hiện đại” khác với “giai cấp công nhân cổ điển” ở
thời kỳ thế kỷ XIX, thời kỳ Mác còn sống, trên một số điểm như: Tỉ lệ số người làm dịch vụ so với số
người sản xuất trực tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung và tay nghề chuyên môn cao hơn; mức thu
nhập khá hơn trước, làm cho một bộ phận người lao động trở thành “trung lưu hóa”. Một bộ phận trong
giai cấp công nhân đã mua cổ phần và được chia lợi nhuận với giai cấp tư sản. Tầng lớp quản lý ngày
càng có vai trò quan trọng và kiêm nhiều chức năng phụ của giới chủ. Những biểu hiện trên đây
chứng tỏ giai cấp công nhân ngày càng phát triển, chứ không phải "teo đi" như một số người
quan niệm. Thế kỷ XIX giai cấp công nhân chủ yếu là lao động chân tay, điều kiện sản xuất lúc đó còn
hạn chế. Ngày nay trong điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh, giai cấp
công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn cả lao động trí óc thông qua các
máy điện toán với những thành tựu của tin học. Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để
đảm đương được nhiệm vụ của mình trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân hóa trí thức”
và “trí thức hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công nghiệp, của quá trình tự động hóa, tin học
hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của mình và giai cấp công nhân luôn luôn là
người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lớn cho xã
hội.
Giai cấp công nhân bao gồm những người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ công nghiệp;
những nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ phục vụ cho sản
xuất; những kỹ sư, kỹ thuật viên, cán bộ kỹ thuật thực hiện chức năng của công nhân lành nghề trong
sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất. Giai cấp công nhân có mặt trong các ngành kinh tế: Công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, trong đó công nhân công xưởng, nhà
máy sản xuất công nghiệp hiện đại, tiên tiến là bộ phận nòng cốt, tiêu biểu cùng với quá trình phát triển
của giai cấp công nhân, bộ phận trí thức gắn trực tiếp với lao động công nghiệp, với quy trình sản xuất
công nghiệp tạo ra của cải vật chất cho xã hội cũng nằm trong nội dung khái niệm giai cấp công nhân.
Ngày nay, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng, có nhiều trình độ khác nhau và không
ngừng biến đổi theo hướng không thuần nhất: Công nhân kỹ thuật ngày càng tăng công nhân ngày càng
được nâng cao về trình độ, đóng vai trò chính trong quá trình phát triển, công nhân truyền thống giảm
dần.
Mặc dù mức sống công nhân có cao hơn trước, công nhân có được tham gia quản lý thông qua đại biểu
trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy nhiệm”' nhưng họ vẫn là người làm thuê
bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ
là kẻ phụ thuộc vào giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp,
vẫn là giai cấp tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thể chuyển
vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản về đặc trưng bản chất của
giai cấp công nhân của Mác - Ăng Ghen - Lênin đưa ra vẫn là cơ sở phương pháp luận để xem xét, phân
tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển hay trong những nước
đang tiếp tục con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nước thế giới thứ ba và toàn thế giới nói
chung, trước đây cũng như hiện nay.
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp
với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc
chủ yếu cho sự giàu có và sự phát triển của xã hội.
Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với nông dân, trí thức và các giai cấp, tầng
lớp lao động khác họp thành lực lượng tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
Giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng xã hội đi đầu trong công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong điều kiện hiện nay chúng ta phải xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập với bên ngoài nhằm
phát huy tốt nhất bản chất và những đặc điểm của giai cấp công nhân.
b) Những giải pháp thực hiện sứ mệnh lịch sử của công nhân trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
Hình thành và phát triển từ một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam
phải chịu ba tầng áp bức bóc lột .Vì thế ,họ sớm trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng xoá bỏ chế độ áp
bức bóc lột giải phóng giai cấp công nhân, xây dựng chế độ mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam giai cấp công nhân cùng với các giai cấp, tầng lớp lao động khác ở nước ta đã thực hiện đoàn
kết dân tộc hoàn thành cuộc cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân đưa nước ta vào giai đoạn độc lập, tự
do và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa . Nước ta đang trong thời kỳ xây dựng đất nước trở thành
một nước phát triển, điều đó không có nghĩa là giai cấp công nhân đã hết sứ mệnh lịch sử, trái lại sứ
mệnh lịch sử ấy lại càng quan trọng hơn .
Ngày nay trước những biến động phức tạp của bối cảnh trong nước và quốc tế .Các thế lực thù địch luôn
tìm cách tấn công nhằm phá hoại chủ nghĩa xã hộ ở nước ta. Chúng ra sức tuyên truyền về sự bất lực
của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, phủ nhận những thành
tựu của Đảng và nhân dân ta đã đạt được từ đó phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Nếu trước đây không có giai cấp nào ngoài giai cấp công nhân là lực lượng có
vai trò lãnh đạo cách mạng thì ngày nay càng khẳng định không có một lực lưong xã hội nào khác có
thể lãnh đạo được nhân dân ta vượt qua những khó khăn thử thách đó. Nước ta đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển. Vì thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là:
+Thứ nhất: Phải đi đầu trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Hay nói khác
đi giai cấp công nhân cùng với Đảng và nhà nước phải : “Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng một nước nghèo , kém phát triển ,thực hiện công
bằng xã hội,chống áp bức bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động
tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch
bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh hạnh phúc”. Cùng
với sự phát triển của của nền kinh tế tri thức đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử là
vừa phải tiếp tục làm quen với nền công nghiệp truyền thống vừa phải nhanh chóng tiếp cận và làm chủ
các hoạt động sản xuất ở trình độ cao trước áp lực của nền kinh tế tri thức. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa điều đó yêu cầu chúng ta phải phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng do sự tồn tại, phát triển của nhiều thành
phần kinh tế đã gây nên những khuynh hướng phát triển kinh tế khác nhau .Một là: sự phát triển được
thực hiện tự giác,
+Hai là: Khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa - một đặc tính vốn có của nền sản xuất nhỏ. Như vậy
cuộc đấu tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là chống khuynh hướng tự phát tư bản
chủ nghĩa. Đương nhiên trong giai đoạn này khi còn thành phần kinh tế tư bản tư nhân thì vẫn còn mâu
thuẫn giữa lao động và tư bản nhưng tính chất đã khác trước do những chính sách mềm dẻo của Đảng và
nhà nước ta. Ngày nay giai cấp công nhân dù lao động ở thành phần kinh tế nào cũng có quyền làm chủ
đất nước, mâu thuẫn giữa tư bản và công nhân được giải quyết dần dần bằng sự quản lý của nhà nước
của nhân dân nhưng đấu tranh giai cấp vẫn còn đó là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ
nghĩa ;đấu tranh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo…Trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội cùng với sự thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước, mâu thuẫn cơ bản trong
xã hội Việt Nam hiện nay là : mâu thuẫn giữa những lực lượng và nhân tố thúc đẩy quá trình phát triển
đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những lực lượng và nhân tố
kìm hãm quá trình đó.
Câu 2: Ý kiến về sự vận dụng Học thuyết giá trị thặng dư của Mác vào nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Là một nước tiến lên XHCN chưa và không trải qua giai đoạn phát triển TBCN hay đúng hơn là không
qua giai đoạn thống trị của GCTS. Vì vậy, chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh
một cách tự phát như những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm
xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản phẩm của
lao động thừa vượt quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích luỹ quĩ sản xuất xã hội
và dự trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và
về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa…” Chúng ta lựa chọn con
đường đi lên CNXH từ điểm xuất phát là nước tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế
hàng hoá mặc dù có sản xuất hàng hoá. Cái thiếu của đất nước ta – theo cách nói của Mác – không phải
là và chủ yếu là cái đó, mà cái chính là chưa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội theo
kiểu TBCN. Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần
thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá sẽ tạo ra ngày càng nhiều GTTD
dù là chúng biểu hiện những quan hệ xã hội khác nhau. Chúng ta không thể đạt được mục tiêu kinh tế ấy
ngay trong thời gian ngắn mà phải biết rút ngắn những quá trình tất yếu mà CNTB đã phải trải qua và
đang thực hiện để có một nền kinh tế thị trường cực thịnh như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển
trải qua nhiều giai đoạn phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá TBCN hình thành và GTTD
cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn lao trong sự phân công lao động, đặc biệt khi khoa học công
nghệ phát triển và vận dụng có ý thức, rộng rãi vào sản xuất với quy mô chưa từng có. Các giai đoạn
phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dư của CNTB đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự.
Nhưng đó cũng là những giai đoạn của một quá trình lịch sử – tự nhiên mà chúng ta chỉ có thể rút ngắn
chứ không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ học thuyết GTTD của Mác.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương hướng khai thác và vận dụng những tư tưởng và
các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư một cách hiệu quả để đạt được những thành tựu mới đưa
nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động
không phải là phạm trù riêng có của CNTB và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng
vậy. Nó tồn tại như là một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất
yếu của họ. Nó là nguồn gốc của tích luỹ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh; là nguồn gốc
của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
- Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng năng suất của lao động thặng dư.
- Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư và sử dụng nó. Đó là nguyên tắc bảo tồn vốn và
nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng vốn đầu tư sử dụng được tăng thêm giá
trị.
- Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động. Vấn đề thu hồi giá trị thặng dư và
định hướng XHCN trong điều kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dư đã được Lênin trình bày lý luận và
kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước Nga trước đây.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
- Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dư vào ngân sách nhà
nước.
- Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực hiện mục tiêu “dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
- Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã hội.
- Ngăn chặn được những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi quỹ đạo XHCN. Về
khái niệm giai cấp công nhân được hiểu ở thế kỷ trước cũng khác nhiều so với cách hiểu của thế kỷ này.
Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp công nhân về nhiều phương diện, song chúng ta không thể bỏ
qua hai khía cạnh:
- Xã hội mới – XHCN muốn giải phóng người công nhân từ người làm thuê thành người làm chủ, song
không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu về tài sản, vốn. Do vậy, giai cấp công nhân ngày nay không
còn là giai cấp vô sản mà phải là giai cấp hữu sản. Thực tiễn đã diễn ra như vậy.
- Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu của nó được quan niệm như là
một lực lượng lao động vận động theo hướng lao động có trí tuệ cao, chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều và
trở thành đặc trưng của lao động sống. Do vậy, có nên tách trí thức ra ngoài giai cấp công nhân và nông
dân hay không? Điều này cần phải được chúng ta xem xét.
KẾT LUẬN:
Nhìn chung, chúng ta thấy rằng học thuyết GTTD rất quan trọng và phức tạp. Sự cần thiết về thời gian
thặng dư và cùng với nó là sản phẩm thặng dư. Nó là nguồn gốc của sự giầu có của mọi xã hội, đó là
điều dễ hiểu. Song điều cần thiết là những biện pháp kinh tế tổ chức, đặc biệt về mặt xã hội để kéo dài
thời gian thặng dư cũng như việc sử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kéo dài ngày lao động, tăng cường
độ và tăng năng suất lao động ở những ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng để rút ngắn thời gian cần thiết
đối với một xã hội ở trình độ phát triển thấp như nước ta. Vấn đề đặt ra với chúng ta là: Cần phải có
những chính sách kinh tế phù hợp để điều hành các hoạt động xã hội theo mục tiêu đã xác định; ngăn
chặn được những ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo XHCN. Và vấn đề quan trọng nhất về nhà
nước là phải có một nhà nước vững mạnh. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên CNXH. Do
vậy, cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng phải mang tính chất quá độ. Sự
phát triển nền kinh tế hàng hoá phải gắn với lợi ích của nhân dân và lợi ích của tư nhân. Nền kinh tế
hàng hoá nào cũng xuất hiện những mâu thuẫn và những mối quan hệ trong xu hướng vận động của nó.
Sự thành công trong chính sách quản lý của nhà nước ta trước hết và chủ yếu là khai thác, duy trì sự
thống nhất theo xu hướng vận động của GTTD. Coi đó là vấn đề có tầm chíên lược; đồng thời giảm đến
mức tối thiểu mâu thuẫn trong việc sử dụng và phân phối GTTD trong các cơ sở kinh tế tư nhân TBCN
hướng chúng vào các hình thức kinh tế CNTB nhà nước, khắc phục khả năng đối kháng của mâu thuẫn
vốn là một khả năng hiện thực. Chúng ta cần phải thừa kế và phát triển các học thuyết mà thế hệ đi
trước để lại và vận dụng nó cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Từ đó xây dựng một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Câu 3: Những nhận định sau đúng hay sai? Hãy trả lời và giải thích rõ:
3.1. Khi năng suất lao động tăng lên thì lượng giá trị của một hàng hóa cũng tăng lên.
Trả lời: Nhận định trên Sai,vì:
- Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra
hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động.
- Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Vậy, năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động nhưng khối lượng hàng
hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm
xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và
ngược lại. Như vậy, giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
3.2. Kinh tế hàng hóa là một hình thức tổ chức kinh tế mà mục đích của những người sản
xuất ra sản phẩm là để tiêu dùng cho xã hội, cho người khác.
Trả lời: Nhận định trên Đúng, vì:
Sản xuất hàng hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
 Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì trong lịch sử
loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự cung, tự cấp (tự túc, tự cấp) và sản xuất
hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong thời
kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong kiến...
Trong khi đó, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra để bán
chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
 Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội. Lao động của
người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu
của người khác trong xã hội. Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản
xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc
riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp
với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. The chủ nghĩa Marx-
Lenin thì mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng
hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
3.3. Giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch là hoàn toàn khác nhau.
Trả lời: Nhận định trên là Sai, vì:
Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là một biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Chỗ khác nhau giữa
chúng chỉ là một bên thu được do tăng năng suất lao động xã hội, còn bên kia - bên giá trị thặng dư siêu
ngạch - thì được tạo ra nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, biết áp dụng công nghệ tiến bộ và các phương
pháp quản lý hoàn thiện hơn trong tổ chức sản xuất. Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị
thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm
đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống lại sự chiếm đoạt đó: Đấu
tranh chống kéo dài thời gian làm việc trong ngày để chống bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối; đấu tranh
chống việc nhà tư bản rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư để
chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch. Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch về
thực chất là sự phản ứng lại đối với những cải tiến trong áp dụng kỹ thuật mới, phản ứng lại sáng kiến
trong ứng dụng công nghệ tiến bộ và việc áp dụng những phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn .
3.4.Đảng cộng sản là nhân tố giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
Trả lời: Nhận định trên Đúng, vì:
Thực tế lịch sử đã chứng minh chưa có một giai cấp nào giành và giữ được địa vị thống trị nếu như
không tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những lực lượng tiên phong để lãnh
đạo toàn bộ cuộc đấu tranh. Đó là Đảng chính trị mang bản chất giai cấp. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản, chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra chính Đảng của mình thì cuộc đấu
tranh mới có thể đảm bảo giành thắng lợi trọn vẹn.
+ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhân tố quyết định đầu tiên đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn
thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, vì Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng
cộng sản là tổ chức bao gồm những phần tử tiên tiến, ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
+ Đảng cộng sản đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, Đảng cộng sản
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản được thể hiện:
+ Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra cương lĩnh
chính trị, đường lối chiến lược, xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của quá trình cách mạng
cũng như của từng giai đoạn cách mạng trong từng nước cũng như trên toàn thế giới.
+ Phương pháp lãnh đạo của Đảng bằng tuyên truyền, giáo dục, bằng thuyết phục giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động thực hiện thắng lợi đường lối đã đề ra.

More Related Content

Similar to Tóm tắt môn KTCT.docx

NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...
NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...
NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...Thu Vien Luan Van
 
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).doc
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).docLuan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).doc
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).docNguyễn Công Huy
 
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...ThQuyn4
 
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...TrnhQucTrung
 
Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...
Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...
Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay (TẢI FREE ZALO: 093 45...
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay  (TẢI FREE ZALO: 093 45...Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay  (TẢI FREE ZALO: 093 45...
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay (TẢI FREE ZALO: 093 45...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
quan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiii
quan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiiiquan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiii
quan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiii2113819
 
Đề tài Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà Nam
Đề tài  Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà NamĐề tài  Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà Nam
Đề tài Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà NamDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tailieu.vncty.com chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...
Tailieu.vncty.com   chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...Tailieu.vncty.com   chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...
Tailieu.vncty.com chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...Trần Đức Anh
 
Ktct 2
Ktct 2Ktct 2
Ktct 2iatnat
 
Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...
Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...
Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

Similar to Tóm tắt môn KTCT.docx (20)

NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...
NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...
NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ TÁC ĐỘNG CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NỀN ...
 
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở n...
 
Đề tài tốt nghiệp cải tiến tuyển dụng và đào tạo hay nhất
Đề tài tốt nghiệp cải tiến tuyển dụng và đào tạo hay nhất Đề tài tốt nghiệp cải tiến tuyển dụng và đào tạo hay nhất
Đề tài tốt nghiệp cải tiến tuyển dụng và đào tạo hay nhất
 
Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh tại Công Ty Khí Hóa Lỏng V...
Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh tại Công Ty Khí Hóa Lỏng V...Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh tại Công Ty Khí Hóa Lỏng V...
Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh tại Công Ty Khí Hóa Lỏng V...
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
 
MAR39.doc
MAR39.docMAR39.doc
MAR39.doc
 
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
 
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
Báo cáo tốt nghiệp một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công...
 
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).doc
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).docLuan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).doc
Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (68).doc
 
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
 
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
Quy luật giá trị và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1...
 
Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...
Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...
Đề tài: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình...
 
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay (TẢI FREE ZALO: 093 45...
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay  (TẢI FREE ZALO: 093 45...Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay  (TẢI FREE ZALO: 093 45...
Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta hiện nay (TẢI FREE ZALO: 093 45...
 
quan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiii
quan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiiiquan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiii
quan tri kinh doanh quoc te iiiiiiiiiiii
 
Đề tài Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà Nam
Đề tài  Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà NamĐề tài  Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà Nam
Đề tài Huy động và sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần tổng hợp Hà Nam
 
Tailieu.vncty.com chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...
Tailieu.vncty.com   chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...Tailieu.vncty.com   chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...
Tailieu.vncty.com chuyen-de-tot-nghiep-hoan-thien-cong-tac-to-chuc-quan-li-...
 
Ktct 2
Ktct 2Ktct 2
Ktct 2
 
Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...
Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...
Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường ...
 
Luận Văn Vị Trí Kinh Tế Của Chính Phủ Ở Nước Cộng Hoà Xhcn Việt Nam Trong Gia...
Luận Văn Vị Trí Kinh Tế Của Chính Phủ Ở Nước Cộng Hoà Xhcn Việt Nam Trong Gia...Luận Văn Vị Trí Kinh Tế Của Chính Phủ Ở Nước Cộng Hoà Xhcn Việt Nam Trong Gia...
Luận Văn Vị Trí Kinh Tế Của Chính Phủ Ở Nước Cộng Hoà Xhcn Việt Nam Trong Gia...
 
Những Mâu Thuẫn Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Nư...
Những Mâu Thuẫn Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Nư...Những Mâu Thuẫn Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Nư...
Những Mâu Thuẫn Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Nư...
 

Tóm tắt môn KTCT.docx

  • 1. CÂU HỎI VẬN DỤNG CÂU 1: Lý luận giá trị thặng dư và vận dụng vào nền kinh tế Việt Nam I. Tổng quan về giá trị thặng dư: Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định, nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Trong lưu thông hàng hóa gián đơn thì tiền được coi là tiền thông thường, vận động theo công thức: H – T – H, nghĩa là sự chuyển hóa của hàng hóa thành tiền rồi tiền lại chuyển hóa thành hàng hóa. Ở đây tiền không không phải là tư bản mà đơn thuần chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông. Cả hai sự vận động đều do hai gia đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đonạ đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán. Nhưng đó chỉ là những điểm giống nhau về hình thức. Giữa hai công thức đó còn có những điểm khác nhau về chất: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H – T) và kết thúc bằng việc mua (T – H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của hàng hóa, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T – H) và kết thúc bằng việc bán (H – T). Tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian. Tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là tiền ứng ra rồi thu về. Còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo công thức T – H – T (tiền – hàng – tiền), tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa rồi hàng hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền. Mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng như trong lưu thông hàng hóa giản đơn theo công thức H – T – H mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra, thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T – H – T’, trong đó T’ = T + ΔT. Số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (ΔT) được C. Mác gọi là giá tị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản. Giá trị thặng dư do đâu mà có ? C. Mác đã chỉ rõ: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thong. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản. C. Mác chỉ rõ: “Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hóa làm cơ sở”. Theo C. Mác: “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể của một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”. Theo thuyết giá trị về lao động, tất cả giá trị được tạo thành trong quá trình biến đổi thông qua sản xuất hàng hóa là do lao động, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao động kết tinh. Thế nhưng, nó không được chia đều cho những người trực tiếp làm ra nó mà thuộc quyền sở hữu của chủ tư bản. Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. II Giá trị thặng dư và nền kinh tế Việt Nam: 1. Thực trạng: Trong học thuyết của C. Mác, có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên phương thức tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối (tạo ra do kéo dài thời gian lao động trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi) không được sử dụng, thời gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay 48 tiếng một tuần theo điều 68 của bộ luật Lao Động.Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà nước được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng của nhà nước, thậm chí là còn không cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra có đúng theo nhu cầu của thị trường hay không, vì thế mà nền kinh tế trì trệ. Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không còn hoàn toàn được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế thị trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời. Tiếp đến, sự tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung
  • 2. Quốc giá rẻ đã tạo nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ phải đổi mới công nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư vào việc mua lại công nghệ và máy móc, áp dụng các phương thức quản lí mới. Ban đầu, với lượng kinh phí còn hạn hẹp, họ mua lại những công nghệ và máy móc cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang những công nghệ mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt Nam còn chưa có nguồn nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước ngoài cũng được mời về để chuyển giao công nghệ. Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều kiện mới (thị trường toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc tế). Vì vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lại càng trở thành nhu cầu cấp bách khi cạnh tranh để tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn. Điển hình là cuộc chạy đua về cung cấp công nghệ 3G giữa ba tập đoàn Vinaphone, Mobiphone và Viettel cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện nay. Việc kéo người dùng sử dụng dịch vụ của các nhà mạng là nhằm mục đích tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) cho doanh nghiệp. Không thể hiện rõ như chạy đua về công nghệ, việc đào tạo và tìm kiếm những nhà quản lí, những nhà chiến lược tài ba cũng là mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp. Không ít những doanh nghiệp Việt Nam hiện nay sẵn sàng trả cho nhân viên của mình hàng chục ngàn Euro mỗi năm để có được những chiến lược mới giúp doanh nghiệp tạo ra được nhiều lợi nhuận hơn bởi ngày nay lao động trí tuệ, lao động quản lý đã trở thành những hình thức lao động có vai trò lớn. Khu vực dịch vụ, các hàng hóa phi vật thể, vô hình chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. 2. Hạn chế: Tuy nhiên không thể không thấy rõ những mặt hạn chế khi công nghệ của Việt Nam dù đã được cải tiến rất nhiều nhưng vẫn còn thua kém rất nhiều so với các nước phát triển, do phần lớn các công nghệ này vẫn còn là công nghệ đã không còn được sử dụng ở nước ngoài mà được bán lại với giá thành rẻ. Và với những doanh nghiệp có nguồn lực hạn hẹp, thì sau khi đổi mới công nghệ một lần thì họ phải chờ một quãng thời gian khá dài mới có thể huy động tiền để tiếp tục đổi mới công nghệ trong khi khoa học kĩ thuật đang biến đổi từng ngày. Thêm nữa, tuy ngân sách nhà nước và tiền của các doanh nghiệp đầu tư cho vấn đề con người là rất lớn nhưng hiện nay số người có khả năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng vẫn còn thấp, bởi đầu tư vào giáo dục vẫn chưa đem lại hiệu quả. Điều này có thể thấy rõ ở việc tuyển dụng của Intel tại Việt Nam năm 2008 với chỉ tiêu là 4000 nhân viên nhưng cuối cùng kết quả tuyển dụng đã gây ra một sự thất vọng lớn. 3. Giải pháp: Các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong việc thay đổi công nghệ. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh nghiệp nước ngoài làm quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong nước, vừa tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trong nước có được những công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Vấn đề nguồn lực vẫn là vấn đề cần được trọng tâm trong thời gian tới. Việc nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế là vô cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà không có cung như hiện nay. Ta đã biết giá trị thặng dư đang được tạo ra như thế nào, vậy phần giá trị thặng dư ấy được phân chia như thế nào ? Nếu coi ΔT = m thì ta có thể phân tách m thành m = m1 + m2 + m3 + m4 + m5 + m6 + m7 + … Trước hết, doanh nghiệp ở bất kì quốc gia nào đều có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước (như ở Việt Nam hiện nay là 25%). Tiếp theo, phần lớn doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân sẽ chia một phần giá trị thặng dư cho các quỹ (quỹ nghiên cứu khoa học, quỹ phúc lợi, quỹ tái sản xuất) hoặc nếu không theo mô hình này thì giá trị thặng dư sẽ được chia để trả công cho người quản lí, cho tái sản xuất và mở rộng sản xuất, cho chủ doanh nghiệp… và một số phần khác. III Kết luận: Có thể nói, điều kiện điểm xuất phát nền kinh tế Việt Nam thấp, nhưng qua khoảng thời gian sau đổi mới, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có rất nhiều chuyển
  • 3. biến tích cực. Tiếp tục vận dụng những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, đồng thời học tập từ những nước phát triển, các doanh nghiệp của nước ta có thể đẩy mạnh kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, vững mạnh hơn và giàu đẹp hơn. Câu 2:NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC I. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC Ý 1:Chủ Nghĩa Tư Bản là phương thức sản xất được xác lập là tiến bộ và có nhiều ưu điểm đã thay thế cho nền sản xuất phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Chủ Nghĩa Tư Bản là một phương thức sản xuất tất yếu khi có một nền đại công nghiệp cơ khí ( Từ cuối thế kỷ XVIII ở nước Anh bắt đầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần I ). Phương thức sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa phát triển qua hai giai đoạn: * Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh ( Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX ). Trong thời kỳ tự do cạnh tranh nhà tư bản đồng thời vừa là chủ sở hữu vừa là người điều hành. Giữa các nhà tư bản có sự ghanh đua đấu tranh gay gắt nhằm giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận cao nhất. * Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền ( Từ cuối thế kỷ XIX ). Đây là hai giai đoạn của cùng một phương thức sản xuất, cùng dựa trên quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa, chỉ khác nhau về trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn này các Doanh nghiệp độc quyền, những Doanh nghiệp do tập thể các nhà tư bản đầu tư, thống trị. a. Tư bản độc quyền tư nhân: Cạnh tranh tự do dẫn đế hàng loạt những xí nghiệp quy mô nhỏ bị phá sản, bị thôn tính hoặc một số xí nghiệp quy mô nhỏ tự nguyện sát nhập lại thành xí nghiệp quy mô lớn. Chính cạnh tranh đã thúc đẩy tập trung sản xuất nhanh chóng. Do sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất. Sự phát triển của ứng dụng Tư Bản Chủ Nghĩa, tư bản không thể phát triển mạnh mẽ nếu như không có chế độ tín dụng ngày càng mở rộng. Tín dụng tư Bản Chủ Nghĩa là hình thức vận động của tư bản cho vay. Khủng hoảng kinh tế nổ ra dẫn đến hàng loạt xí nghiệp bị phá sản, còn lại một số xí nghiệp thoát ra khỏi khủng hoảng thì phải đổi mới tư bản cố định. Nó cũng thúc đẩy mở rộng quy mô sản xuất. Các nguyên nhân này đã thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao. Tuy nhiên các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nếu cạnh tranh sẽ rất quyết liệt, khó đánh bại nhau và gây thiệt hại cho nhau về cạnh tranh giữa các đối thủ. Vì vậy đã xuất hiên thoả hiệp, mặt khác do có ít xí nghiệp lớn nên dễ thoả hiệp được với nhau, điều mà ở giai đoạn tự do cạnh tranh không có. Từ đây tổ chức độc quyền ra đời đánh dấu bước chuyển từ Chủ Nghĩa Tư Bản tự do cạnh tranh sang Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền. Tổ chức độc quyền: là sự liên minh giữa các nhà tư bản lớn nắm trong tay phần lớn phần việc sản xuất hoặc tiêu thụ một hoặc một số sản phẩm nhằm bán hàng hoá với gía cả độc quyền cao, mua nguyên liệu với giá cả độc quyền thấp để có dược lợi nhuận độc quyền cao. Bản chất của tư bản độc quyền: đó là sự thống trị trở về kinh tế và chính trị của độc quyền. Hình thức của độc quyền: Các ten, Sanhdica, Tơrớt… b. Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước: -Khái niệm: Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của Nhà nước tư bản thành một tư bản thành một thiết chế thống nhất. Nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho Chủ Nghĩa Tư Bản. -Nguyên nhân ra đời của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước: Sự ra đời của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền nhà nước bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và trình độ cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuât Tư Bản Chủ Nghĩa về tư liệu sản xất, được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất: Do sự tích tụ và tập trung tư bản ngày càng lớn làm cho tích tụ tập trung sản xuất ngày càng cao. Do đó xuất hiện những cơ cấu sản xuất ngày càng lớn dẫn đến xã hội hoá sản xuất ngày càng rộng đòi hỏi phải có
  • 4. trung tâm điều tiết phối hợp hành động. Đó chỉ có thể là Nhà nước. Thứ hai: Do sự phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn làm. Đặc biệt là các ngành kết cấu hạ tầng hoặc nghiên cứu cơ bản ( Vốn đầu tư, vốn chu chuyển chậm, tỉ xuất lợi nhuận thấp ). Thứ ba: Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền làm mâu thuẫn thêm sâu sắc, đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cáp công nhân và nhân dân lao động. Để làm giảm mâu thuẫn đó Nhà nước phải thực thi một số chính sách như : trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập, phúc lợi xã hội… Thứ tư: Với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và bành chứng của các liên minh độc quyền thế giới vấp phải hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột về lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Điều đó đồi hỏi Nhà nước phải điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế. -Bản chất của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước: * Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của các tổ chức Nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho Chủ Nghĩa Tư Bản. * Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là nấc thang phát triển mới của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền ( chủ nghĩa đế quốc ). Nó là sự thống nhất của cả ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của Nhà nước trong một thể chế thống nhất và bộ máy Nhà nước cuộc vào các tổ chức độc quyền. * Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chú không phải chỉ là một chính sách trong giai đoạn độc quyền Chủa Nghĩa Tư Bản. Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế Nhà nước có sự biến đổi thích hợp đến với xã hội đó. Ngày nay vai trò của Nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước. V.I. Lênin chỉ ra rằng: “ Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chính trị… đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy “. Trong cơ cấu của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước, Nhà nước trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Như vậy Chủ nghĩa Tư Bản đã chuyển sang một giai đoạn mới với bản chất chính là Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước ra đời trong cách mạng khoa học công nghệ. 1) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và Nhà nước V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ: “ Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng, hôm nay là chủ ngân hàng ngày mai là bộ trưởng “. Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội được thực hiên sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy Nhà nước. Cùng với các đảng phái tư sản là các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau ví dụ như: Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng liên đoàn Công nghiệp Italia… Các hội này trở thành lực lượng chính trị kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước.. Sự thâm nhập lẫn nhau này đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. 2) Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của Chủ Nghĩa Tư Bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu Nhà nước và sơ hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở hữu Nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy Nhà nước mà gồm cả những Doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong lĩnh vực
  • 5. kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Sở hữu Nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: Xây dựng Doanh nghiệp Nhà nước bằng vốn của ngân sách, quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại… Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau: * Mở rộng sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của Chủ Nghĩa Tư Bản. * Giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi dể đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn. * Là chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa theo những chương trình nhất định. Cùng với việc Nhà nước thực hiện kinh doanh thị trường Nhà nước cũng hình thành. Sự tiêu thụ của Nhà nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng quân sự do ngân sách chi mỗi ngày một tăng. 3) Sự điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản là một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là sự điều tiết quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết của Nhà nước Tư sản hình thành một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của Nhà nước. Sự điều tiết kinh tế của Nhà nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính pháp lý… Các chính sách kinh tế của Nhà nước Tư sản là sự thể hiệ rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà Nước, chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như: Chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát chính sách về tăng trưởng kinh tế, chính sách đối ngoại, chính sách xã hội. Các công cụ chủ yếu của Nhà nước Tư sản để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế như : Ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ tín dụng, các Doanh nghiệp Nhà nước, kế hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính – pháp lý Ý 2:Những biẻu hiện mới của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước 1: Đặc điểm nổi bật nhất, quan trọng nhất của những biến đổi của Chủ Nghĩa Tư Bản sau chiến tranh thế giới thứ II là sự phát triển chưa từng có và rộng khắp của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước biểu hiện chủ yếu là: - Tỉ trọng kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa tăng lên rõ rệt. - Sự kết hợp kinh tế Nhà nước và kinh tế Tư nhân tăng lên rõ rệt. Trong năm 1979 trong 40 Công ty Công nghiệp lớn nhất Tây Âu có 7 Công ty hỗn hợp vốn giữa vốn Nhà nước và tư nhân. Trong đó vốn Nhà nước chiếm một nửa. - Chỉ tiêu tài chính của các Nhà nước Tư bản phát triển dùng để điều tiết quá trình tái sản xuất xã hội tăng. 2: Sự điều tiết kinh tế của Nhà nước Tư sản có những biểu hiện mới: * Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế của Nhà nước Tư bản độc quyền nhằm khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường Tư Bản Chủ Nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế – xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Chủ Nghĩa Tư Bản. * Để điều kiện kinh tế, Nhà nước Tư bản độc quyền đã tổ chức bộ máy điều tiết. Bộ máy gồm có cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có sự tham gia của những đại biểu tập đoàn lớn và các quan chức Nhà nước. * Cơ chế điều tiết kinh tế của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là: - Hạn chế sự quan liêu hoá Nhà nước bằng cách xem xét lại hệ thống luật kinh tế, đơn giản hoá các thủ tục hành chính và xây xựng các đạo luật mới thích hợp với cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. - Xác định lại sự trợ cấp của Nhà nước đối với một số ngành, một số xí nghiệp. - Thực hiện tư nhân hoá khu vực kinh tế Nhà nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp và khắc phục sự hoạt động kém hiệu quả của các Doanh nghiệp Nhà nước. - Nơi lỏng sự điều tiết của Nhà nước, xoá bỏ những quy định của Nhà nước có thể dẫn đến hạn chế sự cạnh tranh của thị trường. - Xác định lại các tứ tự ưu tiên trong chính sách kinh tế. - Tăng cường sự phối hợp chính sách kinh tế giữa các nước trong lĩnh vực có tầm quan trọng đói với sự ổn định tình hình kinh tế – xã hội. * Nổi bật hơn trong những biểu hiện mới của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là việc thực hiện các chính sách xã hội. Phương thức điều tiết của Nhà nước linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng hơn: - Điều tiết bằng chương trình và kế hoạch. - Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường thông qua hợp đồng, đồng thời hỗ trợ các ngành truyền thống cần dược tiếp tục duy trì và những ngành mũi nhọn, công nghệ cao. - Điều tiết tiến bộ khoa họcvà công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho R và D, đề xuất các hướng ưu tiên phát triển công nghệ, tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng của các Công ty tư
  • 6. nhân. - Điều tiết thị trường lao động băng cách đào tạo và đào tạo lại, khuyến khích phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ… - Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ, chống lạm phát điều tiết giá. - Điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại, hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế. II. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI. Khi phân tích sự vận động của Chủ Nghĩa Tư Bản, Lênin đã chỉ ra rằng: Chủ Nghĩa Tư Bản đến giai đoạn độc quyền, nền kinh tế của nó vận động theo hai xu hướng: Sự phát triển nhanh chóng song song với trì trệ thối nát. Ngày nay, hai xu hướng dó vẫn tác động trong nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa. Xu thế phát triển nhanh chóng của Chủ Nghĩa Tư Bản biểu hiện rõ rệt từ trong giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay, đặc biệt là vào những năm 1950 và 1960 của thế kỷ XX với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, năng suất chất lượng hiệu quả tăng rõ rệt. Sự phát triển đó là do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự điều tiết kinh tế của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước, sự bành chướng của các Công ty xuyên quốc gia và sự kích thích do cuộc chạy đua giữa hai hệ thống kinh tế thế giới. Xu thế trì trệ biểu hiện ở chỗ nền kinh tế Chủ Nghĩa Tư Bản tăng trưởng chậm so với tiềm năng to lớn của khoa học công nghệ cho phép ( ví dụ hiệu xuất sử dụng thiết bị máy móc chỉ đạt 60 - > 70 % ), thất nghiệp cao gây nên sự lãng phí về nguồn lực, quân sự hoá nền kinh tế. Sự tồn tại song song của hai xu thế trong Chủ Nghĩa Tư Bản hiện đại một mặt nói lên rằng Chủ Nghĩa Tư Bản hiện đại vẫn còn sức sống, quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa còn có thể tự điều chỉnh và trong giớ hạn nhất định nó còn có thể thích ứng với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy xã hội Tư bản phát triển. Song mặt khác cũng nói lên rằng Chủ Nghĩa Tư Bnả đang vấp phải những giới hạn nhất định, mâu thuẫn cơ bản của Chủ Nghĩa Tư Bản vẫn tồn tại và vận động. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa quyết định sự thay thế phương thức sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa bằng phương thức sản xuất cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là xu hướng vận động của lịch sử mang tính tất yếu. Chủ Nghĩa Tư Bản hiện dại đang thực hiện quá trình đổi mới cải cách để thích nghi với điều kiện lich sử mới do sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ. Tuy vậy Chủ Nghĩa Tư Bản vẫn không tránh khỏi những giới hạn và mâu thuẫn. Chủ Nghĩa Tư Bản thể hiện tính tiến bộ hơn so với phương thức sản xuất trước đó song lại trở thành lỗi thời, do đó cần thay thế bằng xã hội tiến bộ hơn. C. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA SỰ VẬN DỤNG NÓ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước. a. Những khuyết tật của cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó: Thứ nhất: Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao. Mặt khác, khi xuất hiện độc quyền thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật. Thứ hai: Mục đích hoạt động của các Doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lợi dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo. Thứ ba: Phân phối thu nhập không công bằng. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao,nhưng nó không tự động mang lại giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Thứ tư : Một nền kinh tế do cơ cấu thị trường thuần tuý điều tiếtkhó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kì và thất nhgiệp. Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đứng trước khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: Không một nước nào trong một thời gian dài lại có lạm phát thấp và đầ đủ công ăn việc làm. Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó nên trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bạicủa cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
  • 7. b. Các chức năng của kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một là : Đảm bảo sự ổn định, kinh tế xã hội và thiết lập khuôn khổ lập luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định kinh tế chính trị, vì ổn định chính trị, xã hội là điều cần thiết để phát triển kinh tế. Khuôn khổ luật pháp mà nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ hể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Hai là : Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn đắt nền kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu kinh tế. Ba là : Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các Doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy Nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vậy Nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường. Bốn là : Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân với tiến bộ công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta. c. Thực trạng của nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới đến nay. Trong mười năm ( 1991 – 2001 ) CDP bình quân của Việt Nam tăng bình quân hàng năm là 7,5% so với mục tiêu chiến lược đề ra là 6,9 – 7,5% / năm. Trong mười năm qua CDP tăng gấp 2,06 lần nhưng CDP bình quân theo đầu người chỉ tăng khoảng 1,8 lần so với năm 1990. Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta trong mười năm qua là tương đối cao so với các nước trong khu vực. Nhưng nước ta là nước xuất phát điểm thấp. Năm 1998 mức sống tính theo GDP bình quân đầu người ( PPP ) đứng thú 131 / 174 nước. Về xếp hạng HDI năm 2004 nước ta ở thứ hạng 122 / 177 nước. Năm 2005 vươn lên 4 bậc đứng thứ108 / 177 nước và được nêu như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm các nước đang phát trển về khả năng tương tác cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển con người. Năm 2005 trong số 10 nước ASEAN nước ta đứng thứ sáu vè thứ hạng HDI, thứ 4 về chỉ số tuổi thọ, thứ 6 về chỉ số giáo dục, thứ 7 về chỉ số GDP. Cho dù tốc độ phát triển trong 20 năm tới chúng ta có thể vượt qua các nước trong khu vực từ 2 -> 3% thì khoảng cách phát triển cũng chỉ thu hẹp thêm 1,5 – 1,8 lần. Vì vậy mà chúng ta cần phải cố gắng hơn nữa để phát triển nền kinh tế nước nhà. d. Phương hướng giải pháp nâng cao hiệu lược quản lý kinh tế của Nhà nước. - Quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội, toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng có căn cứ khoa học, cần phải tính đúng thực trạng kinh tế xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy cần thực hiện sân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá chính sách. - Cần tuyên truyền rộng rãi về những thách thức của nền kinh tế đòi hỏi phải sớm cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Tạo bước đột phá mới về tư duy kinh tế, đẩy nhanh tiến độ thiết lập thị trường các yếu tố sản xuất đầy đủ và đồng bộ, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nhà nước cần nhất quán quan điểm về định hướng xuất khẩu của nền kinh tế, không duy trình bảo vệ lâu dài để thay thế nhập khẩu bằng mọi giá để đảm bảo phát triển bền vững. - Sớm chuyuển cơ chế cấp phát vốn cho các Doanh nghiệp Nhà nước sang cơ chế tín dụngnđầu tư, có tiêu chí khoa học, rõ ràng và thống nhất cả nước về đánh giá hiệu quả đầu tư ngay từ giai đoạn tiền khả thi cảu dự án. Đồng vốn của nhà nước phải có chủ cụ thể, bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả, các định chế ràng buộc về quyền hạn và trách nhiệm pahỉ cụ thể rõ ràng. - Nhà nước cần có một cơ ccấu tổ chức hoàn chỉnh, chuyên nghiệp để thưch hiện có hiệu quả các công cụ của đất nước. - Để chỉ huy nền kinh tế phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó cố quyền lực, có đầy đủ tự tin về các mặt để điều hoà phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuất xã hội, giả quyết các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế. - Bằng các đòn bẩy
  • 8. kinh tế và động viên tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinht ế hoạt động theo định hướng cuẩ kế hoạch hoá, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của các kế hoạch đã đề ra. KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứ bản chất và những biểu hiện của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quuyền Nhà nước giúp chúng ta hiể một cách rõ ràng và đúng dắn hơn về Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyuền Nhà nước. Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước là nấc thang phát triển mới của Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền ( chủ nghĩa đế quốc). Ngoài ra Chủ Nghĩa Tư Bản độc quyền Nhà nước còn là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không chỉ là chính sách trong giai đoạn độc quuyền của Chủ Nghĩa Tư Bản. Chủ Nghĩa Tư Bnả độc quuyền Nhà nước là hình thức vận động mối quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của Chủ Bghãi Tư Bản, là cho Chủ Nghĩa Tư Bản hích nghi với điều kiện. Câu 3: sứ mệnh lịch sử GCCN Sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN mang bản chất quốc tế và không hề xa lạ với những hiện tượng quốc tế phản ánh tiến bộ xã hội.Chủ động,tích cực hội nhập quá trình toàn cầu hóa kinh tế; tận dụng những thời cơ,tranh thủ ngoại lực từ quá trình toàn cầu hoá hiện nay và làm biến đổi nó theo hướng tích cực là một tiến trình hợp quy luật và là con đường để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN. 1.Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam hiện nay. GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân: Là giai cấp tiên tiến, là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần quốc tế vô sản.nhưng do hoàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Viêt Nam còn có những đặc điểm riêng như sau Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN Mác-Lênin, không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, GCCN Viêt Nam từ khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu: Giải phóng dân tộc xây dựng thành công CHXH và CNCS ở Viêt Nam. GCCN khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh đạo của Đảng Sinh ra và trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuôc địa, nông nghiệp lạc hậu nện hạn chế lớn nhất của giai cấp công nhân Viêt Nam là còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản xuất nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất, chúng ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một ngày, hai ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội. GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc, hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân, nông dân trí thức. Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử chủ nghĩa GCCN Viêt Nam. Xét về bản chất thì chưa thể có và không thể có tổ chức chính trị nào, giai cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Sứ mệnh của GCCN Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo định hướng XHCN; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao động, xây dựng một “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”... Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình trang kém phát triển, nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa hiện nay là “Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Theo đó phát triển GCCN nước ta cả về số lượng và chất lượng, và tổ chức; nâng cao giác ngộ
  • 9. và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Phát triển GCCN cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại - cơ sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng lợi khi quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà nước XHCN và chế độ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân lao động nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Kết luận Qua bài tiểu luận có thể khẳng định rằng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mac- Lênin Là lực lượng nòng cốt, chủ yếu và tiền phong của dân tộc, giai cấp công nhân ta có vinh dự và trách nhiệm nặng nề là nhân lên vận hội mới của dân tộc bằng đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ phát triển nền công nghiệp và dịch vụ với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, nhằm đáp ứng thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là đứng vững, là đi lên trong hội nhập kinh tế và cạnh tranh quyết liệt của thị trường thế giới, làm cơ sở cho tự chủ về kinh tế. Để giai cấp công nhân làm tròn sứ mệnh vẻ vang đó, cùng với tự học tập nâng cao kiến thức và năng lực nghề nghiệp, rèn luyện tác phong và kỷ luật công nghiệp, Đảng, Nhà nước và công đoàn cần làm tốt hơn nữa trách nhiệm đối với giai cấp công nhân Đó là việc làm và quyền làm việc của công nhân. Đảng và Nhà nước đã có chính sách đào tạo và đào tạo lại nghề cho công nhân, nhưng chưa đủ. Không thể vin vào "thất nghiệp là khó tránh khỏi trong cơ chế thị trường" để đẩy hàng loạt công nhân vào thất nghiệp không đáng có và cả không được phép. Hoặc không kiên quyết thay thế những người quản lý yếu kém để doanh nghiệp lụn bại, công nhân không việc làm. Cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá phải xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng tiếp thu sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất hiệu quả cao, làm tròn sứ mệnhcủa mình. Câu 4 :XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Khái niệm, bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa: - Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa: + Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó là chủ yếu, nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình, cũng qua đó là chủ yếu mà giai cấp công nhân và Đảng của nó lãnh đạo xã hội về mọi mặt + Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nên nó là một loại hình nhà nước dân chủ - Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa; Bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp đều mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Nên bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa ( nhà nước chuyên chính vô sản) do đó, trước hết mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng giai cấp công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân LĐ mà ra, đại biểu cho phương thức sản xuất mới hiện đại, có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Do đó, nhà nước XHCN không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đảng CS VN và HCM từ lâu đã nêu ra quan điểm “ nhà nước của dân, do dân và vì dân” cũng nói lên 1 các tổng hợp về bản chất, thực chất của nhà nước ta- nhà nước XHCN. Trong sự nghiệp đổi đất nước hiện nay, đảng ta càng chú trọng phát triển, cụ thể hóa nhà nước của dân, do dân, vì dân. - Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước XHCN: +Chức năng, nhiệm vụ đối nội: +Chức năng đối nội của nhà nước XHCN thể hiện ở việc tập trung quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, chủ yếu bằng pháp luật, chính sách, pháp chế XHCN và hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở. + Nhà nước XHCN quán triệt và thể chế hóa quan điểm, đường lối cách mạng, chủ trương lãnh đạo của Đảng CSVN thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, pháp chế XHCN và hệ thống cơ quan nhà nước từ
  • 10. trung ương đến cơ sở. + Nhà nước XHCN quán triệt và thể chế hóa quan điểm, đường lối cách mạng, chủ trương lãnh đạo của Đảng CSVN thành Hiến pháp, pháp luật, pháp chế, chính sách, kế hoạch, biện pháp của nhà nước để chỉ đạo thực hiện thoog qua quá trình hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quan trên mọi lĩnh vực. Nhà nước XHCN thực hiện sự chuyên chính đối với mọi tội phạm và mọi kẻ thù để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo điều kiện cơ bản để mở rộng dân chủ trong nhân dân. - Nhiệm vụ của nhà nước XHCN: + Quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cào cảu CNXH gắn liền với cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. + · Quản lý văn hóa- xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, để hình thành con người mới XHCN + + Chức năng đối ngoại: dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cào cảu CNXH gắn liền với cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. + Quản lý văn hóa- xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, để hình thành con người mới XHCN + Chức năng đối ngoại: trình cải cách nhà nước ta theo hướng chung là: xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN + Đảng ta chỉ rõ: Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp…Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước gắn liền với xây dựng , chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và các đảng viên trong cơ quan nhà nước - Trước hết, đối với Quốc Hội: trong bộ máy nhà nước, QH là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có những quyền hạn quan trọng, tolớn. Để QH tiếp tục hoàn thành tốt công việc của mình, Nghị quyết Hội nghị TW7, khóa VIII đã chỉ rõ: “ Đổi mới quy trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật tại kỳ họp QH chính phủ, tòa án ND tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, từng bước tăng tỷ lệ đại biểu QH chuyên trách. Coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng pháp luật và chuẩn bị những quyết sách của QH” Đối với chính phủ và cơ quan hành pháp phải chú trọng quá trình cải cách hành chính, coi cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của việc thực hiện các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, quyền lực của nhân dân trên mọi lĩnh vực + Trong cải cách hành chính, trước hết là cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan trực tiếp tới công dân và cácdoanh nghiệp. Đối với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và thu hành pháp luật cho rõ ràng, thống nhất, chặt chetx và dễ thực hiện có hiệu quả. - Thứ 2 là, phải cả cách bộ máy hành chính trước hết là bố trí lại cơ cấu tổ chức chính phủ cho tinh gọn, năng động và quản lý vĩ mô có hiệu quả cao hơn, từ đó điều chỉnh cơ cấu các bộ, nghành, ủy aban ND cáccấp cũng theo hướng gọn nhẹ, năng động, hiệu quả trong thực thi pháp luật. Từng bước hiện đại hóa cơ quan hành chính các cấp, trong đó có vấn đề vai trò hoạt động “ tài chính công” + - Thứ 3 là , đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước: Bao gồm nâng cao chất lượng đào tạo, đạo tạo lại cán bộ, công chức theo yêu cầu mới của cải cách nhà nước. Đồng thời đổi mớicấp cũng theo hướng gọn nhẹ, năng động, hiệu quả trong thực thi pháp luật. Từng bước hiện đại hóa cơ quan hành chính các cấp, trong đó có vấn đề vai trò hoạt động “ tài chính công” - Thứ 3 là , đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước: Bao gồm nâng cao chất lượng đào tạo, đạo tạo lại cán bộ, công chức theo yêu cầu mới của cải cách nhà nước. BÊN DƯỚI LÀ MỘT SỐ CÂU HỎI TRONG BÀI KIỂM TRA. Câu 1:
  • 11. a) Theo em, quan điểm Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã thay đổi với lập luận “ giai cấp công nhân là tầng lớp thấp nên không thể tự giải phóng được” là hoàn toàn Sai, vì: Tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đã làm cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội có những biến đổi mới làm cho “giai cấp công nhân hiện đại” khác với “giai cấp công nhân cổ điển” ở thời kỳ thế kỷ XIX, thời kỳ Mác còn sống, trên một số điểm như: Tỉ lệ số người làm dịch vụ so với số người sản xuất trực tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung và tay nghề chuyên môn cao hơn; mức thu nhập khá hơn trước, làm cho một bộ phận người lao động trở thành “trung lưu hóa”. Một bộ phận trong giai cấp công nhân đã mua cổ phần và được chia lợi nhuận với giai cấp tư sản. Tầng lớp quản lý ngày càng có vai trò quan trọng và kiêm nhiều chức năng phụ của giới chủ. Những biểu hiện trên đây chứng tỏ giai cấp công nhân ngày càng phát triển, chứ không phải "teo đi" như một số người quan niệm. Thế kỷ XIX giai cấp công nhân chủ yếu là lao động chân tay, điều kiện sản xuất lúc đó còn hạn chế. Ngày nay trong điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh, giai cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà còn cả lao động trí óc thông qua các máy điện toán với những thành tựu của tin học. Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương được nhiệm vụ của mình trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân hóa trí thức” và “trí thức hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công nghiệp, của quá trình tự động hóa, tin học hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ trí thức của mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham gia vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lớn cho xã hội. Giai cấp công nhân bao gồm những người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ công nghiệp; những nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất; những kỹ sư, kỹ thuật viên, cán bộ kỹ thuật thực hiện chức năng của công nhân lành nghề trong sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất. Giai cấp công nhân có mặt trong các ngành kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, trong đó công nhân công xưởng, nhà máy sản xuất công nghiệp hiện đại, tiên tiến là bộ phận nòng cốt, tiêu biểu cùng với quá trình phát triển của giai cấp công nhân, bộ phận trí thức gắn trực tiếp với lao động công nghiệp, với quy trình sản xuất công nghiệp tạo ra của cải vật chất cho xã hội cũng nằm trong nội dung khái niệm giai cấp công nhân. Ngày nay, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng, có nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo hướng không thuần nhất: Công nhân kỹ thuật ngày càng tăng công nhân ngày càng được nâng cao về trình độ, đóng vai trò chính trong quá trình phát triển, công nhân truyền thống giảm dần. Mặc dù mức sống công nhân có cao hơn trước, công nhân có được tham gia quản lý thông qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy nhiệm”' nhưng họ vẫn là người làm thuê bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn là giai cấp tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thể chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản về đặc trưng bản chất của giai cấp công nhân của Mác - Ăng Ghen - Lênin đưa ra vẫn là cơ sở phương pháp luận để xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nước thế giới thứ ba và toàn thế giới nói chung, trước đây cũng như hiện nay. Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và sự phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với nông dân, trí thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực lượng tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng xã hội đi đầu trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong điều kiện hiện nay chúng ta phải xây dựng giai cấp công
  • 12. nhân Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập với bên ngoài nhằm phát huy tốt nhất bản chất và những đặc điểm của giai cấp công nhân. b) Những giải pháp thực hiện sứ mệnh lịch sử của công nhân trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. Hình thành và phát triển từ một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam phải chịu ba tầng áp bức bóc lột .Vì thế ,họ sớm trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột giải phóng giai cấp công nhân, xây dựng chế độ mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam giai cấp công nhân cùng với các giai cấp, tầng lớp lao động khác ở nước ta đã thực hiện đoàn kết dân tộc hoàn thành cuộc cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân đưa nước ta vào giai đoạn độc lập, tự do và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa . Nước ta đang trong thời kỳ xây dựng đất nước trở thành một nước phát triển, điều đó không có nghĩa là giai cấp công nhân đã hết sứ mệnh lịch sử, trái lại sứ mệnh lịch sử ấy lại càng quan trọng hơn . Ngày nay trước những biến động phức tạp của bối cảnh trong nước và quốc tế .Các thế lực thù địch luôn tìm cách tấn công nhằm phá hoại chủ nghĩa xã hộ ở nước ta. Chúng ra sức tuyên truyền về sự bất lực của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, phủ nhận những thành tựu của Đảng và nhân dân ta đã đạt được từ đó phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nếu trước đây không có giai cấp nào ngoài giai cấp công nhân là lực lượng có vai trò lãnh đạo cách mạng thì ngày nay càng khẳng định không có một lực lưong xã hội nào khác có thể lãnh đạo được nhân dân ta vượt qua những khó khăn thử thách đó. Nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển. Vì thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: +Thứ nhất: Phải đi đầu trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Hay nói khác đi giai cấp công nhân cùng với Đảng và nhà nước phải : “Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng một nước nghèo , kém phát triển ,thực hiện công bằng xã hội,chống áp bức bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh hạnh phúc”. Cùng với sự phát triển của của nền kinh tế tri thức đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử là vừa phải tiếp tục làm quen với nền công nghiệp truyền thống vừa phải nhanh chóng tiếp cận và làm chủ các hoạt động sản xuất ở trình độ cao trước áp lực của nền kinh tế tri thức. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa điều đó yêu cầu chúng ta phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng do sự tồn tại, phát triển của nhiều thành phần kinh tế đã gây nên những khuynh hướng phát triển kinh tế khác nhau .Một là: sự phát triển được thực hiện tự giác, +Hai là: Khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa - một đặc tính vốn có của nền sản xuất nhỏ. Như vậy cuộc đấu tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Đương nhiên trong giai đoạn này khi còn thành phần kinh tế tư bản tư nhân thì vẫn còn mâu thuẫn giữa lao động và tư bản nhưng tính chất đã khác trước do những chính sách mềm dẻo của Đảng và nhà nước ta. Ngày nay giai cấp công nhân dù lao động ở thành phần kinh tế nào cũng có quyền làm chủ đất nước, mâu thuẫn giữa tư bản và công nhân được giải quyết dần dần bằng sự quản lý của nhà nước của nhân dân nhưng đấu tranh giai cấp vẫn còn đó là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa ;đấu tranh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo…Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cùng với sự thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam hiện nay là : mâu thuẫn giữa những lực lượng và nhân tố thúc đẩy quá trình phát triển đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những lực lượng và nhân tố kìm hãm quá trình đó.
  • 13. Câu 2: Ý kiến về sự vận dụng Học thuyết giá trị thặng dư của Mác vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Là một nước tiến lên XHCN chưa và không trải qua giai đoạn phát triển TBCN hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của GCTS. Vì vậy, chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản phẩm của lao động thừa vượt quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích luỹ quĩ sản xuất xã hội và dự trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa…” Chúng ta lựa chọn con đường đi lên CNXH từ điểm xuất phát là nước tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hoá mặc dù có sản xuất hàng hoá. Cái thiếu của đất nước ta – theo cách nói của Mác – không phải là và chủ yếu là cái đó, mà cái chính là chưa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu TBCN. Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá sẽ tạo ra ngày càng nhiều GTTD dù là chúng biểu hiện những quan hệ xã hội khác nhau. Chúng ta không thể đạt được mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải biết rút ngắn những quá trình tất yếu mà CNTB đã phải trải qua và đang thực hiện để có một nền kinh tế thị trường cực thịnh như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua nhiều giai đoạn phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá TBCN hình thành và GTTD cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn lao trong sự phân công lao động, đặc biệt khi khoa học công nghệ phát triển và vận dụng có ý thức, rộng rãi vào sản xuất với quy mô chưa từng có. Các giai đoạn phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dư của CNTB đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự. Nhưng đó cũng là những giai đoạn của một quá trình lịch sử – tự nhiên mà chúng ta chỉ có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ học thuyết GTTD của Mác. Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương hướng khai thác và vận dụng những tư tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư một cách hiệu quả để đạt được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động không phải là phạm trù riêng có của CNTB và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng vậy. Nó tồn tại như là một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất yếu của họ. Nó là nguồn gốc của tích luỹ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh; là nguồn gốc của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải: - Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng năng suất của lao động thặng dư. - Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư và sử dụng nó. Đó là nguyên tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng vốn đầu tư sử dụng được tăng thêm giá trị. - Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động. Vấn đề thu hồi giá trị thặng dư và định hướng XHCN trong điều kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dư đã được Lênin trình bày lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước Nga trước đây. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: - Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dư vào ngân sách nhà nước. - Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
  • 14. - Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã hội. - Ngăn chặn được những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi quỹ đạo XHCN. Về khái niệm giai cấp công nhân được hiểu ở thế kỷ trước cũng khác nhiều so với cách hiểu của thế kỷ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp công nhân về nhiều phương diện, song chúng ta không thể bỏ qua hai khía cạnh: - Xã hội mới – XHCN muốn giải phóng người công nhân từ người làm thuê thành người làm chủ, song không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu về tài sản, vốn. Do vậy, giai cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp vô sản mà phải là giai cấp hữu sản. Thực tiễn đã diễn ra như vậy. - Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu của nó được quan niệm như là một lực lượng lao động vận động theo hướng lao động có trí tuệ cao, chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều và trở thành đặc trưng của lao động sống. Do vậy, có nên tách trí thức ra ngoài giai cấp công nhân và nông dân hay không? Điều này cần phải được chúng ta xem xét. KẾT LUẬN: Nhìn chung, chúng ta thấy rằng học thuyết GTTD rất quan trọng và phức tạp. Sự cần thiết về thời gian thặng dư và cùng với nó là sản phẩm thặng dư. Nó là nguồn gốc của sự giầu có của mọi xã hội, đó là điều dễ hiểu. Song điều cần thiết là những biện pháp kinh tế tổ chức, đặc biệt về mặt xã hội để kéo dài thời gian thặng dư cũng như việc sử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kéo dài ngày lao động, tăng cường độ và tăng năng suất lao động ở những ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng để rút ngắn thời gian cần thiết đối với một xã hội ở trình độ phát triển thấp như nước ta. Vấn đề đặt ra với chúng ta là: Cần phải có những chính sách kinh tế phù hợp để điều hành các hoạt động xã hội theo mục tiêu đã xác định; ngăn chặn được những ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo XHCN. Và vấn đề quan trọng nhất về nhà nước là phải có một nhà nước vững mạnh. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên CNXH. Do vậy, cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng phải mang tính chất quá độ. Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá phải gắn với lợi ích của nhân dân và lợi ích của tư nhân. Nền kinh tế hàng hoá nào cũng xuất hiện những mâu thuẫn và những mối quan hệ trong xu hướng vận động của nó. Sự thành công trong chính sách quản lý của nhà nước ta trước hết và chủ yếu là khai thác, duy trì sự thống nhất theo xu hướng vận động của GTTD. Coi đó là vấn đề có tầm chíên lược; đồng thời giảm đến mức tối thiểu mâu thuẫn trong việc sử dụng và phân phối GTTD trong các cơ sở kinh tế tư nhân TBCN hướng chúng vào các hình thức kinh tế CNTB nhà nước, khắc phục khả năng đối kháng của mâu thuẫn vốn là một khả năng hiện thực. Chúng ta cần phải thừa kế và phát triển các học thuyết mà thế hệ đi trước để lại và vận dụng nó cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Từ đó xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Câu 3: Những nhận định sau đúng hay sai? Hãy trả lời và giải thích rõ: 3.1. Khi năng suất lao động tăng lên thì lượng giá trị của một hàng hóa cũng tăng lên. Trả lời: Nhận định trên Sai,vì: - Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động. - Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Vậy, năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động nhưng khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. Như vậy, giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
  • 15. 3.2. Kinh tế hàng hóa là một hình thức tổ chức kinh tế mà mục đích của những người sản xuất ra sản phẩm là để tiêu dùng cho xã hội, cho người khác. Trả lời: Nhận định trên Đúng, vì: Sản xuất hàng hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:  Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì trong lịch sử loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự cung, tự cấp (tự túc, tự cấp) và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong thời kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong kiến... Trong khi đó, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.  Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội. Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội. Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. The chủ nghĩa Marx- Lenin thì mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa. 3.3. Giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch là hoàn toàn khác nhau. Trả lời: Nhận định trên là Sai, vì: Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là một biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Chỗ khác nhau giữa chúng chỉ là một bên thu được do tăng năng suất lao động xã hội, còn bên kia - bên giá trị thặng dư siêu ngạch - thì được tạo ra nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, biết áp dụng công nghệ tiến bộ và các phương pháp quản lý hoàn thiện hơn trong tổ chức sản xuất. Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống lại sự chiếm đoạt đó: Đấu tranh chống kéo dài thời gian làm việc trong ngày để chống bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà tư bản rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư để chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch. Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch về thực chất là sự phản ứng lại đối với những cải tiến trong áp dụng kỹ thuật mới, phản ứng lại sáng kiến trong ứng dụng công nghệ tiến bộ và việc áp dụng những phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn . 3.4.Đảng cộng sản là nhân tố giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trả lời: Nhận định trên Đúng, vì: Thực tế lịch sử đã chứng minh chưa có một giai cấp nào giành và giữ được địa vị thống trị nếu như không tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những lực lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh. Đó là Đảng chính trị mang bản chất giai cấp. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra chính Đảng của mình thì cuộc đấu tranh mới có thể đảm bảo giành thắng lợi trọn vẹn. + Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhân tố quyết định đầu tiên đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, vì Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng
  • 16. cộng sản là tổ chức bao gồm những phần tử tiên tiến, ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. + Đảng cộng sản đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, Đảng cộng sản lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản được thể hiện: + Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của quá trình cách mạng cũng như của từng giai đoạn cách mạng trong từng nước cũng như trên toàn thế giới. + Phương pháp lãnh đạo của Đảng bằng tuyên truyền, giáo dục, bằng thuyết phục giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động thực hiện thắng lợi đường lối đã đề ra.