1. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ VẠN XUÂN
Nghệ An,Ngày 6/6/2014
BỘ MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI : VAI TRÒ TẠO TIỀN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ VIỆT NAM
Nhóm 3, lớp ĐHKT4
Thành viên nhóm: Hoàng Thị Minh
Nguyễn Thị Ánh
Trần Thị Huân
Trần Thị Thắm
Hoàng Thảo Trang
Giáo viên hướng dẫn: Trần Khánh Như
2. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
Nghệ An,Ngày 6/6/2014
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Để có một
nền kinh tế phát triển vững mạnhta phải có một hệ thống các yếu tố cơ bản
cần thiết cho quá trình phát triển.
Hệ thống trung gian tài chính nói chung và ngân hàng thương mại nói
riêng góp một phần quan trọng trong guồng máy của toàn bộ hệ thống. Nó
là cầu nối giữa các chủ thể trong nền kinh tế, làm cho các chủ thể gắn b ó,
phụ thuộc lẫn nhau, tăng sự liên kết và năng động của toàn bộ hệ thống.
Cho dù đứng ở góc độ nào mà xét ta đều không thể phủ hận vai trò
quan trọng của ngân hàng thương mại. Trong 3 vai trò của ngân hàng
thương mại thì vai trò tạo tiền là vai trò không thể thiếu được và đóng góp
một phần không nhỏ trong hoạt động tài chính. Trong bài viết này, nhóm
chúng tôi xin mạnh dạn bày tỏ một vài quan điểm của nhóm sau khi đã
được trang bị kiến thức của bộ môn lý thuyết Tài chính-Tiền tệ và một số
tài liệu tham khảo để đưa ra một cái nhìn khái quát vai trò tạo tiền của
ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế.
Dưới đây chỉ là hững suy nghĩ của nhóm, chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiển cận và sai sót. Nhóm tôi rất mong được sự góp ý , phê bình
của cô giáo để nắm được những kiến thức lâu và chắc hơn.Chúng tôi xin
chân thành cảm ơn cô.
3. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
I.Tìm hiểu chung
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân
hàng thương mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu
chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh
doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng
tạo tiền cho nền kinh tế.
Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi của
khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại
một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sư đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó
sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn
thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng
thương mại thực hiện được chức năng tạo tiền.
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ
một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng
chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn
hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền
của hệ thống ngân hàng.
Với chức năng "tạo tiền", hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi
trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là
tiền giấy do ngân hàng trung ương phát hành ra mà còn bao gồm một bộ
phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra.
Trong thực tế, khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại
còn bị giới hạn bởi tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền
gửi thanh toán của công chúng. Giả sử một khách hàng nào đó vay bằng
tiền mặt để chi tiêu thì quá trình tạo tiền sẽ chấm dứt hoặc khách hàng rút
một phần tiền mặt để thanh toán thì khả năng tạo tiền sẽ giảm đi vì chỉ có
phần cho vay hoặc thanh toán bằng chuyển khoản mói có khả năng tạo ra
tiền gửi mới. Cũng tương tự như vậy nếu ngân hàng không cho vay hết số
vốn có thể cho vay (nghĩa là có phần dự trữ vượt mức) thì khả năng mở
rộng tiền gửi sẽ giảm.
Nghệ An,Ngày 6/6/2014
4. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
II.Phân tích vai trò chức năng của tạo tiền
Từ một lượng tiền gửi ban đầu,thông qua cho vay bằng
chuyển khoản trong hệ thống ngân hàng,làm cho số tiền gửi
tăng lên gấp bội
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy
động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để
mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch,
được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền
kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
Một ngân hàng sau khi nhận được một món tiền gửi trên tài khoản tiền
gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã
để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đi đầu tư cho vay từ
đó nó sẽ chuyển sang vốn của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn
thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng
thương mại thực hiện được chức năng tạo tiền.
Nghệ An,Ngày 6/6/2014
5. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
Khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào
các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa, tỷ lệ
giữa tiền mặt so với trung gian tiền tệ
Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc
của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với ngân hàng thương mại. Do
vậy ngân hàng Trung Ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào
nền kinh tế lớn.
Khi có sự phân hoá trong hệ thông ngân hàng, hình thành nên ngân
hàng phát hành và cầc ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian
không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa.
Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, ngân
hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiển ghi sổ) thể hiện
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thượng
mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các
giao dịch.
Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng
chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức
tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng
tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến Jượt nó
chịu tác động bởi các yếu tố tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và
tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Cần lưu ý là quá trình tạo tiền chỉ có thể thực hiện được khi có sự
tham gia của cả hệ thống ngân hàng thương mại chứ bản thân một ngân
hàng thương mại không thể tạo ra được. Một ngân hàng riêng lẻ không thể
cho vay nhiều hơn số tiển dự trữ vượt mức của nó, bởi vì ngân hàng này
sẽ mất đi khoản tiền dự trữ đó khi các khoản tiển gửi được tạo ra bởi việc
cho vay khoản dự trữ đó được chuyển đến ngân hàng khác do kết quả của
hoạt động thanh toán. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện toàn thể hệ
thống ngân hàng thì sô’ tiền dự trữ đó không rời khỏi hệ thống mà trở
thành khoản dự trữ của một ngân hàng khác để ngân hàng này tạo ra các
khoản cho vay mới và nhờ vậy quá trình tạo tiền lại tiếp tục.
Nghệ An,Ngày 6/6/2014
6. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
Ban đầu những khoản tiền dự trữ tăng lên, ngân hàng thương mại sử
dụng để cho vay bằng chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ
được quay lại ngân hàng thương mại một phần khi những người sử dụng
tiền gửi vào dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn. Quá trình này tiễp diễn trong
hệ thống ngân hàng và tạo nên một lượng tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc
vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các
yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so
với tiền gửi thanh toán của công chúng.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và
lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho
vay ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm
tăng lượng tiền cung ứng.
Tóm lại, sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng
trung gian thanh toán là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức
năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng làm trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho
vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ
trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn
được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng
hoá, thanh toán dịch vụ… Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận
tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện
cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Đó là một phát minh lớn trong
hoạt động ngân hàng. Ở đây, chính việc cho vay đã tạo ra tiền gửi.
III. Nhận thức và vận dụng trong nền kinh tế Việt Nam
Vào cuối thế kỷ XIX, khi mà hệ thông ngân hàng hai cấp được hình
thành trong đó ngân hàng TW có nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ còn các ngân hàng thương mại thực hiện vai trò kinh doanh
tiền tệ. Khi đó, các ngân hàng thương mại thông qua chức năng trung gian
thanh toán và trung gian tín dụng đã tạo ra tiền ghi sổ trên tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Nói cách khác,
nhờ hoạt động trên hệ thống các ngân hàng thương mại đã tạo ra bút tệ
thay thế cho tiền mặt .
Nghệ An,Ngày 6/6/2014
7. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
Các ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một
khoản tiền gửi ban đầu, hoặc từ khoản tiền nhận được từ ngân hàng TW
thông qua việc cấp tín dụng cho các khách hàng là tổ chức phi ngân hàng.
Bất kỳ ngân hàng nào được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung
cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng đều có khả năng tạo tiền. Sự
kết hợp giữa chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng làm
cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Từ một khoản
tiền gửi ban đầu thông qua làm chức năng trung gian tín dụng ngân hàng
sử dụng để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để
mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch,
được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ… tức là ngân hàng
đã tạo tiền. Còn ngược lại khi ngân hàng huy động được số vốn mà chưa
cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền. Sự tạo tiền của ngân hàng thương
mại chỉ xảy ra khi mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
thực hiện bằng chuyển khoản ghi nợ cho tài khoản nay và ghi có cho tài
khoản khác có liên quan.
Thực hiện chức năng tạo tiền, với việc cho vay không có sự xuất hiện
của tiền mặt, các ngân hàng thương mại đã giảm được khối lượng tiền mặt
trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí, giúp điều tiết lượng tiền cung ứng
phù hợp chính sách ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp,
làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu
chi trả của xã hội.
IV. KẾT LUẬN
Qúa trình tạo tiền chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cả
hệ thống ngân hàng chứ bản thân một ngân hàng thương mại không thể
tạo ra được. Do vậy chức năng của ngân hàng thương mại rất quan
trọng.Đặc biệt là chức năng tạo tiền.
Xuất phát từ khả năng thay thế lượng tiền giấy bạc trong lưu thông
bằng những phương tiện thanh toán khác như séc, uỷ nhiệm chi... Chức
năng này được thực hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng và đầu tư của hệ
thống ngân hàng thương mại, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống dự
trữ quốc gia. Hệ thống tín dụng là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế
theo hệ số tăng trưởng vững chắc. Mục đích của chính sách dự trữ quốc
Nghệ An,Ngày 6/6/2014
8. Vai trò tạo tiền của ngân hàng thương mai.Nhận thức và vận dụng vào điều kiện kinh tế Việt Nam
gia là đưa ra một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định
về giá cả, tăng trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm. Với chức năng
này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội. Chức năng
này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ,
từ sđó làm tăng khả năng lượng tiền cung ứng.góp phần làm tăng nguồn
vốn tín dụng ,mở rộng hoạt động tín dụng.
Trên đây là những kiến thức mà nhóm tôi đã thu nhập được sau khi học
và nghien cứu về lý thuyết tài chính tiền tệ.Có thể thấy rõ chức năng và vai
trò tạo tiền trong nền kinh tế.
Nghệ An,Ngày 6/6/2014