1. BÔNG HOA NỞ MUỘN
5
THƠ VÕ TOÁN
6
Võ Toán - “Ba nhà trong một”
QUANG HOÀI
Bây giờ ở Đông Anh, bạn bè yêu nhạc, yêu văn
thơ thường gọi Võ Toán là Võ “Ba nhà trong một”.
“Ba nhà” là nhà dịch, nhà nhạc và nhà thơ; còn
“trong một” là một con người vui nhộn, hóm hỉnh và
tếu táo. Có được cái biệt danh ấy hoàn toàn không
phải tự nhiên nhi nhiên, mà là một quá trình học hỏi,
trau dồi và phấn đấu với một niềm đam mê bỏng
cháy, nhất là từ khi Võ Toán rời quân ngũ với quân
hàm trung tá trở về cuộc sống đời thường đến nay.
Chính niềm đam mê ấy đã làm nên một Võ Toán như
ngày nay. Và ở lĩnh vực nào ông cũng gặt hái được
những mùa vụ khá viên mãn như ông hằng mơ ước.
Tôi biết Võ Toán từ cuối những năm sáu mươi
của thế kỷ trước, khi chúng tôi cùng được điều động
vào quân đội làm nhiệm vụ phiên dịch tiếng Trung
Quốc ở Quân khu Đông Bắc. Võ Toán lúc ấy vừa tốt
nghiệp Đại học Sư phạm ngoại ngữ, về quân khu sau
tôi 10 ngày. Đúng 5 năm sau, tôi và Võ Toán lại tái
ngộ, khi hoàn thành nhiệm vụ đối ngoại, chúng tôi
cùng được Tổng cục Chính trị điều về làm công tác
biên dịch tại Phòng Nghiên cứu của Học viện Chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Bẵng đi một thời
gian khá dài, sau khi Võ Toán được điều về công tác ở
Trường Sĩ quan Chính trị, rồi về Quân đoàn 2 chiến
đấu ở Biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ bảo vệ
2. BÔNG HOA NỞ MUỘN
7
biên giới phía Bắc, chúng tôi lại có dịp gần nhau khi
về nghỉ hưu sống trên mảnh đất Đông Anh - cố đô
ngàn năm lịch sử từ những năm đầu của thế kỷ 21
đến nay.
Ấn tượng của tôi về Võ Toán cách đây hơn 40
năm thật chẳng sai chút nào. Ấy là vào những tháng
năm đầu tiên trong cuộc đời quân ngũ, chúng tôi
cùng công tác ở Ban Đối ngoại Quân khu Đông Bắc.
Lúc đó, quân khu sơ tán trong một cánh rừng già
thuộc Vạn Yên, tỉnh Quảng Ninh. Chúng tôi gặp
nhau trong tiếng ve ran và tiếng nước suối róc rách,
Võ Toán là một chàng trai trẻ với chiếc ba lô con cóc
tòng teng trên vai, rồi nhanh chóng quen thân nhau
trong đời lính kham khổ, nhọc nhằn nhưng đầy khát
khao mơ ước. Tôi nhớ nhất hai câu thơ Võ Toán tự
hoạ về mình: “Răng thì chín sáu ba không / Mũi
quặp, tay khoèo đẹp nhất ông!”. Võ Toán là một con
người hồn nhiên và yêu đời, hồn nhiên đến lão thực,
yêu đời đến say mê, tưởng như “ruột để ngoài da”
mà vẫn không kém phần sâu sắc và thâm thuý. Cái ấn
tượng ấy qua năm tháng chảy trôi, chưa bao giờ nhoà
nhạt trong tôi. Tôi nghĩ rằng nhờ nó mà Võ Toán
luôn sống động trong lòng bạn bè.
Về dịch thuật, Võ Toán xứng đáng được gọi là
“nhà”, chứ không phải là “lều” hay “quán” như ông
thường tự nhận mình như thế. Thực ra, với vốn liếng
tiếng Tàu được học hành cơ bản, Võ Toán đến với văn
chương từ những năm còn rất trẻ. Hồi đó, ông đã
cùng tôi viết một số tản văn, tuỳ bút, bút ký và
THƠ VÕ TOÁN
8
truyện ngắn bằng tiếng Tàu đăng tải trên báo “Tân
Việt Hoa” được không ít bà con người Hoa ở Việt
Nam đón đọc và hâm mộ. Sau này, do một sự ham mê
nào đó hối thúc, ông lao vào làm cái công việc biên
dịch tiếng Trung Quốc không biết mệt mỏi. Bằng
chứng là, ông đã cho ra đời 13 tác phẩm, trong đó
đáng chú ý là 4 tập tiểu thuyết “Tiểu phò mã cướp
pháp trường” do ông phóng tác xuất bản năm 2004
và tập “Tạp văn Mạc Ngôn” do ông dịch được Nhà
xuất bản Văn học xuất bản năm 2005. Với một người
nhiệt tâm học hỏi và trau dồi tiếng Trung Quốc, kể
như thế cũng là một thành tựu không thể phủ nhận.
Về âm nhạc, Võ Toán là một người thành đạt.
Ông không chỉ sáng tác cho thiếu nhi như một sở
trường, mà còn sáng tác về nhiều ngành nghề và các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôi có may mắn được
ông phổ nhạc 4 bài thơ, trong đó hai ca khúc “Đêm
Hồ Tây” và “Chợ Viềng” được một số Đài phát thanh
và truyền hình trong nước phát trên sóng. Cứ mỗi
lần đến Trung tâm bản quyền tác giả Âm nhạc Việt
Nam lĩnh tiền bản quyền cho phần lời của ca khúc, tôi
lại bồi hồi xúc động nghĩ đến ông với một tình cảm
ưu ái. Ông đã trở thành hội viên Hội Âm nhạc Hà
Nội, được các nhạc sĩ Phạm Tuyên, Hoàng Vân, Huy
Thục, Thuận Yến, Văn Dung… quý mến và chia sẻ
nhiều kinh nghiệm sáng tác quý báu. Hiện nay, ở tuổi
70, Võ Toán vẫn say mê sáng tác như thể không già.
Và bây giờ là “nhà” thứ ba - nhà thơ, Võ Toán
đến với thơ quả có hơi muộn. Muộn là so với hai
3. BÔNG HOA NỞ MUỘN
9
“nhà” nói trên, chứ thực ra ông cũng đã viết thơ từ
những năm cùng tôi công tác ở Học viện Chính trị.
Với tác phẩm đầu tay này, ông chỉ nhận mình là một
“Bông hoa nở muộn” hết sức chân tình:
“Non ngàn thêm một đoá hoa tươi
Như bóng cô em mỉm miệng cười…”.
Cái đoá hoa ấy thơm đến đâu và cái miệng cô em
mỉm cười xinh thế nào, xin mời bạn hãy đọc để chia
sẻ cùng Võ Toán. Với ông, thơ không phải là một
“duyên phận” mà là một nỗi niềm, một sự sẻ chia.
Hiểu và đến với ông như vậy, chắc chắn bạn sẽ có
được niềm vui khi đọc tập thơ này.
Phố Vương Thừa Vũ - Hà Nội
Ngày 12 - 5 - 2013
Q.H.
(Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam)
THƠ VÕ TOÁN
10
Lời tác giả
Tôi không có khiếu làm thơ
Có chăng chỉ mức lơ mơ làng nhàng
Nhưng khi “đầu Bảy” bước sang
Đâm ra cũng thích mơ màng văn thơ
Đứa cháu ngoại học lớp Tư
Xem qua nó bảo rằng thơ ông “già”
Mang sang hỏi ý kiến bà
Bà cười móm mém: “Cũng là thơ vui!”
Riêng anh con rể vỗ đùi:
“Bố ơi! Cứ thế cho vui cửa nhà!”
Gửi “meo” (Emai) hỏi đứa con xa
Xem xong nó bảo “Chẳng ra cái gì!”
4. BÔNG HOA NỞ MUỘN
11
Bạn bè khuyên: “Cứ làm đi!”
Tôi rằng: “Làm tí, cười khì cho hay!...”
Cầm thơ bạn tặng trên tay
Tôi đâm nảy ý: Vịnh ngay “Hoạ vần”
Thế là dốc sức, căng gân
Tìm xem tất cả bao vần? Lựa ra!
Rồi đem thổ lộ với bà:
Phen này tôi sẽ thành “Nhà hoạ thơ!”
Thằng cháu nội học i tờ
Nghe xong nó bảo rằng thơ ông “xoàng!”
Tôi cầm cái thước chỉ sang:
Cháu mà nói vậy, bẽ bàng râu ông!...
Thơ là thế đó! Khổ không‼!?
THƠ VÕ TOÁN
12
Thi tứ nhập môn
Khúc Nương trao tặng cuốn “Tình thơ”(*)
Lật giở từng trang, cứ sững sờ:
Bé nhỏ tim nàng dào dạt thế?
Phen này mình cũng phải làm thơ!
Mỗi dòng tâm sự mỗi dòng duyên
Ý tứ uyên thâm, thật diệu huyền
Ví được trời cho đôi cánh mỏng
Phải tìm lên hỏi rõ căn nguyên!
“Cán mai ” thơ phú, ấy là tôi!
Nghiền ngẫm băn khoăn đứng lại ngồi
Phóng bút hạ liều câu hoạ vận
Cầm bằng gõ trống cửa Thiên Lôi…
5. BÔNG HOA NỞ MUỘN
13
Thơ chẳng thể là “Ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để tâm hồn treo ngược cành cây
Khóc rả rích cùng ve sầu nắng hạ"(**)
Thơ phải có cái gì bứt phá
Phải vượt lên giữa thực và mơ
Để Nước nhà thành một bài thơ
Viết thẳng lên Trời Xanh(***)
bất tận!...
______________
(*)Tình thơ diễm mộng - Tập thơ xướng hoạ của Khúc Thị
Hiền (Hà Nội) và Nguyễn Lý (Canada).
(**) Thơ Sóng Hồng.
(***) Tả Thanh Thiên: Viết lên Trời Xanh (Bút tích Nguyễn
Văn Siêu tại Tháp Bút).
THƠ VÕ TOÁN
14
Sắc cờ tháng Ba
Tháng Ba
Tháng Ba
Đom đóm bay ra
Hạt vừng em tra
Cây gạo trước nhà
Đơm hoa
Rực đỏ
Anh nhớ về lối ngõ
Thương em
Thương mẹ
Tảo tần!
Vẫn đang là tiết xuân
Đời đang xuân
Trời đang xuân
Nắng ấm!
6. BÔNG HOA NỞ MUỘN
15
Nơi mặt trận tiền duyên
Giờ này
Còn lạnh lắm!
Bên kia dốc núi
Là kẻ thù
Sương bồng bềnh như mơ
Che mắt địch
Em có nghe
Tiếng pháo kích
Giặc bắn vào trong sương?
Ngọn núi
Bãi nương
Con đường
Toé máu!
THƠ VÕ TOÁN
16
Từ trong hào chiến đấu
Chợt nhìn lên cây gạo đỉnh đồi:
Một cành hoa đỏ tươi
Chĩa lên trời
Thách thức!
Anh bỗng nghe
Rạo rực:
Sắc hoa thắm tựa màu cờ!
Lại nhớ về quê nhà
Cũng màu hoa gạo đỏ
Em của anh
đang tra vừng
trỉa đỗ
Trong sắc cờ
Tháng Ba!
7. BÔNG HOA NỞ MUỘN
17
Đêm ngủ ở tiền tiêu
Đêm nằm trên chốt tiền tiêu
Trăng non chênh chếch ghé vào đung đưa
Rừng thủ thỉ, suối ngân nga
Sương gần trải lụa, sương xa xoã mành
Núi cao sừng sững giăng thành
Rừng chông nhọn hoắt ru mình ngủ ngon!
AK có tấm lưng tròn
Để cho ai gối đã mòn một bên?
Giở mình ôm súng nằm nghiêng
Nỗi chung xen với niềm riêng cồn cào
Gối tay lại ngỡ tay nào
Nghiêng nghiêng giấc ngủ theo vào bình minh
Cánh tay vẫn cánh tay mình
Mà nghe êm ấm như tình nước non!
Vuốt ve mãi tấm lưng tròn:
Súng ơi! Hãy gối cho mòn tay ta!
THƠ VÕ TOÁN
18
Cảnh sắc quê tôi
Khi ánh ban mai trải sắc hồng
Hồng tươi ngọn sóng phủ dòng sông
Sông trôi yên ả ru chiều mộng
Mộng thoáng bâng khuâng dệt chữ “đồng”
Đồng đất mênh mông cò sải cánh
Cánh diều lơ lửng lúa đơm bông
Bông đùa, lũ trẻ khoe màu áo
Áo ấm cơm no nức vạn lòng.
8. BÔNG HOA NỞ MUỘN
19
Gửi em - Cô thủ thư
Anh lại về thăm em
Cô thủ thư(*)
phòng đọc
Có đoá tóc nở xoè
Che mất nửa làn da
Và chiều sâu tâm tưởng…
Em ngồi bên giá sách
Mơ màng một vần thơ
Bao người mê mải đọc
Không gian lặng như tờ!
Cái ghế, cái bàn chật chội
Em đón anh trong cái nhìn bối rối
Sông Thương năm ấy dạt dào
Sóng dậy trong anh…
Chợt có ai đến tặng cành đào
Cắm trong bình hoa vỏ đạn
Cái vỏ bình loang loáng
Phòng đọc bỗng đầy ắp xuân!
THƠ VÕ TOÁN
20
Thơ sắp nên vần
Qua môi cười
Từ trang sách
Những tinh hoa chắt lọc…
Nghe có tiếng reo Thuỷ điện sông Đà
Có tiếng gươm khua
Tiếng choòng
Tiếng cuốc
Tiếng vọng bốn ngàn năm dựng nước
Đất nước này
Bát ngát
Bản hùng ca!
Bạn đọc đang làm thơ
Hay chính hồn thơ đang dâng lên lai láng?
Mà ánh mắt nào cũng bập bùng lửa sáng
Khuôn mặt nào cũng trẻ trung
Cho giọng em
Pha lẫn sắc xuân hồng!
__________________
(*) Thủ thư: Cán bộ quản lý sách và phục vụ bạn đọc tại
phòng đọc, phòng mượn.
9. BÔNG HOA NỞ MUỘN
21
Đình làng Trần Xá
(Mừng đình làng Trần Xá xã Yên Trung, Yên Phong, Bắc
Ninh được đón nhận “Bằng di tích Lịch sử văn hoá”, ngày
1-3-2011)
Đình làng Trần Xá chốn quê ta
Nức tiếng lưu truyền tự thuở xưa:
“Hiếu nghĩa chi phương”(*)
, vua tặng biển
Linh thiêng, hai Thánh(**)
được tôn thờ
Những năm kháng chiến chống xâm lăng
Giặc Pháp hung hăng kéo đến làng
Vôi bột pha tro, ta phục sẵn
Đánh cho lũ giặc phải kinh hoàng
Dân làng Trần Xá bao oanh liệt
Thế trận bày ra khắp xóm Đình
Du kích toàn thôn bừng khí thế
Máu thù loang đỏ vết giày đinh!
THƠ VÕ TOÁN
22
Nước lụt năm xưa ngập xóm làng
Đồ thờ cúng tế: lũ trôi phăng
Đình làng mất đứt hai con ngựa
Tâm thức dân mình vẫn xót thương!
Hôm nay tỉnh gắn bằng “Văn hoá”
Náo nức dân thôn trẻ đến già
“Hiếu nghĩa chi phương” thêm sáng chói
Đình làng tô đẹp xóm làng ta!
______________________
(*) Đình làng Trần Xá được vua Minh Mạng ban cho tấm
biển với 4 chữ vàng: “Hiếu nghĩa chi phương”.
(**) Đình thờ hai đức thánh Tam Giang: Trương Hống,
Trương Hát.
10. BÔNG HOA NỞ MUỘN
23
Một thoáng đường Cầu De
Đường sang Bói Thuỷ, Bói Kênh
“Sống trâu”… chân bấm gập ghềnh Cầu De(*)
Trải bao nắng dãi mưa dề
Nao nao một cánh Cầu De gập ghềnh
Ngày nào đánh dủi, đánh riu
Bấm chân bì bõm dập dìu Cầu De
Long bong sóng vỗ đầu hè
Bao giờ cho lúa đỏ hoe ngoài đồng?!
Đình Thượng thờ đức Tản Viên
Linh thiêng án ngữ một miền chính Đông
Cầu De từng nhuốm máu hồng
Năm xưa khi giặc bạo hung vào làng
Đường Cầu De xuống Mả Sa
Đón đưa các cụ về già quy tiên
Ngàn năm đất thịt đồng chiêm
Bê tông, nay đã trở nên vững vàng.
_______________
(*) Đường Cầu De nối liền thôn Văn Minh xã Yên Trung, Ý
Yên, Nam Định sang thôn Bói Thuỷ, xã An Lão, huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
THƠ VÕ TOÁN
24
Bông hoa nở muộn
Đường tới hoàng hôn nắng chát chao
Nhìn rừng quả chín dạ nôn nao
Bên đường chợt hé bông hoa muộn
Nở muộn nhưng hương vẫn ngạt ngào
Non ngàn thêm một đoá hoa tươi
Như bóng cô em mỉm miệng cười
Cho mảnh đất cằn thêm sức sống
Sắc hương xin được hiến cho đời!
11. BÔNG HOA NỞ MUỘN
25
Mùa thị chín
Tôi gieo vần thơ bên sông Thương
Giữa mùa thị chín ngạt ngào hương
Thị như cô Tấm vàng chen lá
Phô nét tươi giòn xanh mắt sương
Cô Tấm ngày xưa sống khổ đau
Bởi còn mụ ác chém thân cau
Quan tham nhung nhúc phường sâu mọt
Nên nỗi thân lươn phải lấm đầu!
Cô Tấm ngày nay thơm trái thị
Miệng cười rạng rỡ, mặt như hoa
Rợp cờ Cách mạng - Thu thay áo
Màu thị - màu sao: sáng chói loà!
THƠ VÕ TOÁN
26
Khúc quân hành thần tốc
Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Xao xuyến trong lòng hai tiếng Vị Xuyên!
Biên giới thân yêu
Mảnh đất dịu hiền
Mà đá trắng
cây khô
nước dòng Lô đỏ đục.
Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Suốt mười lăm năm chân cứng đá mềm
Thành Cổ kiên cường tám mươi hai ngày đêm
Vang mãi trong tim
Quãng hoà âm chốt thép.
12. BÔNG HOA NỞ MUỘN
27
Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Từ cửa ngõ Tây Nguyên xốc thẳng tới Sài Gòn
Diệt lũ quỷ mặt người
Giải phóng Kông Pông Xom
Cho âm hưởng dân ca
Ngọt chất đường thốt nốt
Chúng tôi đi
Khúc quân hành thần tốc
Nay lại về đây với Cô Ích - Đồi Đài
Với tất cả tình yêu thương Đất nước
Sẽ lại xây thành luỹ thép
Vị Xuyên ơi!
THƠ VÕ TOÁN
28
Xe lướt chiều xuân
Sáng xuống bến sông Thương
Sông tặng đầy két nước
Chiều lượn bãi ven đồi
Bãi nâng vòng xích sắt
Tháp pháo nhẹ tay quay
Pháo vươn nòng hướng giặc
Một nụ đào hồng tươi
Lọt giữa tầm quan sát!
Bật nắp xe nhìn ra
Núi nối trời bát ngát
Ôi nụ đào hồng tươi
Làm xe ta…
ngơ ngác!
Quay nhanh vòng xích sắt
Xe ta lướt…
Chiều xuân!
13. BÔNG HOA NỞ MUỘN
29
Cổ tích Loa kèn
Trong trắng trinh nguyên những đoá hoa
Hương thơm ngào ngạt, cánh xoè ra
Rung rinh cánh bướm vờn mơn trớn
Lá biếc nâng niu áo xẻ tà
Thuở trước chàng trai vẫn thổi kèn
Cho nàng múa điệu “Giấc mơ tiên ”
Cho yêu thương thắm đôi tim trẻ
Cho giấc mơ hoa sớm phỉ nguyền
THƠ VÕ TOÁN
30
Một sớm đất trời nặng áo tang
“Cánh tiên” sao sớm vội lên đàng?
Phút giây tan nát con tim nhỏ
Buồn tủi thương đau nỗi vắng nàng
Thơ thẩn chàng đi dưới ánh trăng
Đến nơi nghĩa địa khắc tên nàng
Giang tay ôm chặt mồ xanh cỏ
Thổn thức cùng ai dưới suối vàng…
Nằm đó năm đêm với bốn ngày
Hồn lìa khỏi xác chẳng ai hay
Chỗ nằm bỗng hoá cây hoa lạ
Nở đoá “Loa kèn” mãi bấy nay!...
14. BÔNG HOA NỞ MUỘN
31
Đò ngang
(Tặng cô giáo T.B.C.)
Đò ngang đưa người sang sông
Bên ấy là con đường vạn dặm
Dẫn tới nơi chân trời hửng sáng
Và tương lai rực rỡ huy hoàng
Đò ngang đưa người sang sông
Mỗi chuyến một lớp người náo nức
Với đầy ắp những trái tim rạo rực
Với tinh khôi những ước vọng màu hồng
Đò ngang đưa người sang sông
Tất cả vẫn đang nằm phía trước
Người lái đò trầm ngâm khoả nước
Đưa những lớp người kế tiếp sang sông…
THƠ VÕ TOÁN
32
Hà Nội - Ngôi sao hoà bình
Đài sen
Dâng chùa Diên Hựu
Tháp Rùa
Soi bóng Hồ Gươm
Thành Đại La
Nơi Rồng cuộn hổ ngồi
Tụ hồn thiêng sông núi tự ngàn xưa
Rồng bay lên
Thành Thăng Long
Thành Kinh đô
Ngàn đời đất Việt
Từ nơi đây
Hào khí núi sông
Chói sáng ngàn năm!
15. BÔNG HOA NỞ MUỘN
33
Nhà bia
Sáng bừng lưng Rùa
Sâm cầm
Dỡn nước Hồ Tây
Tàu điện leng keng
Cạnh vườn Bách Thảo
Hồng Hà bao lớp sóng đã trào dâng!
Hồn Đông Đô
Từ Thăng Long
Quyện Đông Quan
Bền vững âu vàng!
Từ nơi đây
Hào khí núi sông
Từng chói sáng
Ngàn năm!
THƠ VÕ TOÁN
34
Hà Nội ta đó
Nắng toả Ba Đình!
Ngàn năm văn hiến
Hoàng Thành
Dấu vết còn ghi!
Hà Nội ngời lên
Trái tim vàng đá!
Người Hà Nội ta
Luôn thiết tha
Mến yêu hoà bình!
Trải nhiều đời qua
Từng anh dũng
Chiến thắng xâm lăng!
Tượng đài dựng lên
Sáng ngời!
Hào quang rực rỡ!
Hà Nội của ta:
Thành phố
VÌ HOÀ BÌNH!
16. BÔNG HOA NỞ MUỘN
35
Về Đông Anh đi em!
Sao em chưa về Cổ Loa?
Sao em chưa về thăm giếng Ngọc?
Nước Thần còn loang máu nóng
Trong nỗi đau nàng Mỵ Châu
Em nghe chăng nơi đồng xanh
Vó ngựa để lại ao hồ?
Lần theo dấu vết ngựa Gióng
Tim còn nghe ai hẹn hò!
Đông Anh
Khí thiêng ngàn xưa!
Tụ về
Thành hồn sông núi
Cây đa Bác Hồ
Ươm mùa xuân về
Là tình người
Sưởi ấm cho muôn đời sau!
Xuân Canh
Pháo đài ngày xưa
Dạo đầu
Bản hùng ca Cách mạng
THƠ VÕ TOÁN
36
Địa đạo Nam Hồng là đây
Con đường Nguyên Khê còn đó
Trời Uy Nỗ
Đốt cháy cả “Bê năm hai”!
Đông Anh -
Đất thiêng ngàn xưa
Nồng nàn
Từng làn hơi ấm!
Anh đưa em về
Trong điệu Ca trù
Để làng nghề
Rộn rã con tim đầy vơi!
Câu thơ
Cấy vào mùa xuân
Nhịp điệu đang bừng lên sáng ngời
Quê mình xanh rờn vùng rau
Quê mình mênh mang đồng lúa
Đàn em bé
Ríu rít mầm xanh tương lai
Về Đông Anh đi em!
Về quê ta đi em
Quê hương mình
Là một bài ca
Quê hương mình
Muôn đời nở hoa!
17. BÔNG HOA NỞ MUỘN
37
Khúc hát chiều xuân
(Tặng các nhóm ca khúc thuộc Hội Người cao tuổi)
Chiều xuân, chiều xuân
Từng sợi nắng hong mây
Nụ hoa tầm xuân
Chiều toả hương ngất ngây
Chiều xuân bâng khuâng lời hát
Quyện hương thơm nghĩa tình
Những bầu máu nóng
Vẫn bừng ngọn lửa thanh xuân
Chiều xuân
Âm vang lời hát
Cuộc đời ta
Toả sáng như nắng chiều
Chiều xuân
Khát vọng nung nấu
Chúng ta là những người bạn
Tự mình
Tô đẹp
Cuộc đời ta!
THƠ VÕ TOÁN
38
Chuyện ông Gióng
(Truyện thơ)
Từ buổi bình minh của núi sông
Đã dày chiến tích lớp cha ông
Mỗi khi giặc dữ vào xâm phạm
Đều phải chìm trong cuộc bại vong
Thuở ấy, nhà Ân sát nách ta
Là loài lang sói - lũ yêu ma
(Chém đầu lại mọc ngay đầu khác!?)
Kéo đại quân sang cướp nước nhà
Vua đã cho quân đến trận tiền
Không sao cản nổi bước quân Phiên (1)
Ngợp đồng thây chất cao thành núi
Đã bị thua to chín trận liền!
18. BÔNG HOA NỞ MUỘN
39
Vua nghĩ: Bên ta thiếu tướng tài
Cho nên lũ giặc mới giương oai?
Phải tìm cho được viên Thần tướng
Để dẹp cho tan lũ giặc này!
Vua cho sứ giả đi khắp nơi
(Dẫu là góc biển, dẫu chân trời)
Tìm kiếm người tài ra giúp nước
Quét sạch xâm lăng cứu giống nòi!
Ở làng Phù Đổng đất Kinh Bắc(2)
Có một bà sinh một bé trai
Đã lên ba vẫn nằm trong gióng
Không khóc, không đi, chẳng nói cười!
Sứ giả qua làng cất tiếng rao:
“Hỡi ai là bậc đại anh hào
Hãy ra giúp nước trừ quân giặc
Giữ lấy non sông, giữ máu đào!”
THƠ VÕ TOÁN
40
Chú bé bỗng nhiên lên tiếng nói:
“Mẹ ra mời sứ giả vào đây
Cho con ngựa sắt và roi sắt
Con quyết phanh thây lũ giặc này!”
Sứ giả về cung tâu với vua:
“Thần nhân làng Gióng có tâm cơ
Mới lên ba tuổi nhưng kiêu dũng
Dám diệt giặc Ân - chuyện chẳng vừa!”
Vua sai dồn hết sắt trong dân
Rèn giáp, rèn roi, đúc ngựa thần
Được một ngựa hồng cao bốn thước
(Tiếc rằng sắt thiếu - rỗng toàn thân!)
Làng Gióng xảy ra chuyện lạ kỳ
Sau khi Sứ giả nhận lời đi
Chú bé bỗng vươn mình đứng dậy
Thành chàng dũng sĩ thật uy nghi!
19. BÔNG HOA NỞ MUỘN
41
Thoăn thoắt ngựa lồng - chân chú chạy
Đường quyền phượng múa lại rồng bay
Bảy nong cà với ba nong muối
Là khẩu phần ăn của mỗi ngày
Mẹ chú nghèo không đủ miếng ăn
Phải nhờ gạo bắp của toàn dân
Dân làng lũ lượt đem lương đến
Tặng kẻ anh hùng chẳng tiếc thân
Sứ giả đem theo ngựa sắt về
Mỉm cười, chú định cưỡi lên phi
Vừa nhảy lên lưng: Lưng bẹp rúm
Bốn chân khuỵu xuống - lưỡi thè lè!
Ngao ngán khôn nguôi, chú lắc đầu:
“Ngựa này thì đánh đấm làm sao?
Hãy về đúc lại ngay con khác
Phải đặc toàn thân, đem đến mau!”
THƠ VÕ TOÁN
42
Sứ lại về tâu với đức vua
Tung nhiều lực lượng để thu mua
Len lỏi các làng tìm sắt thép
(Dẫu mẩu con con chẳng bỏ thừa)
Cả nước thu gom được vạn cân
Đem về đúc được ngựa... ba chân (!)
Roi và khôi giáp thì đầy đủ
Gióng bảo: “Không sao! Việc rất cần!
Gióng tìm được mấy sợi gân bò
Nhổ gốc tre già thân khá to
Chân chắp buộc vào cho ngựa chiến
Ngựa rung bờm sắt, bước lò dò...
Gióng nắm dây cương, từ biệt mẹ
Cúi đầu sụp lạy tạ dân làng
Mang khôi mang giáp, mang roi sắt
Lên đường đánh đuổi lũ sài lang
20. BÔNG HOA NỞ MUỘN
43
Làm lễ thanh y(3)
tắm, gội đầu
Bến sông làng Sọ nước trong veo
Nơi ấy nay là làng Phủ Lỗ (4)
Ngược xuôi tấp nập một cây cầu
Gióng đến làng Đông để đóng đồ (5)
Cơm cà cơm muối ăn bằng no
Rồi tung chân cưỡi lên lưng ngựa
Phóng thẳng vào nơi có giặc Ngô(6)
Ngựa sắt vua ban hoá ngựa thần
Cánh đồng hằn lõm vết ba chân
(Đan xen liên tiếp ba hồ nước
Suốt dải Đông Anh lên Sóc Sơn)
Lại nói: Giặc Ân đến xóm làng
Khác gì loài hổ báo sài lang
Giết sạch, cướp sạch, đốt phá sạch
Khắp nơi thành gạch vụn, tro tàn!
THƠ VÕ TOÁN
44
Bởi chúng là yêu nghiệt nước ngoài
Chém đầu - đầu khác mọc ra ngay
Trải trăm trận đánh vẫn nguyên vẹn
Nên nỗi Triều đình phải bó tay!
Ông Gióng căm hờn mới xuất chinh
Vung roi lên quật lũ yêu binh
Ngựa Thần cuốn vó như cơn lốc
Lũ giặc lăn đùng chết sạch sanh!
Roi sắt ông mang có phép thần
Cho nên quân tướng giặc nhà Ân
Không sao trổ nổi phép yêu lạ
Chạm phải roi là gục dưới chân!
Nhưng bởi giặc Ân quả quá nhiều
Đánh từ tảng sáng đến ngang chiều
Giặc kia mới chết chừng hơn nửa
Giáp đẫm mồ hôi, bụng đói meo!
21. BÔNG HOA NỞ MUỘN
45
Thấy tên tướng giặc chạy đường này
Ông Gióng lao vào vung thẳng tay
Quật xuống cái đầu mang mũ trụ:
“Phen này chắc phải bắn lên mây!...”
Thằng giặc khôn ngoan luồn hẻm núi
Roi ông Gióng bỗng gẫy làm đôi (!)
Thì ra roi quật trúng vòm đá
Mảnh vụn bay đen kịt góc trời!
Lũ giặc thấy roi ông Gióng gẫy
Ba bề bốn phía kéo ùa vào
Xác chết biến thành loài đỉa đói
Ngo ngoe lặn hụp dưới hồ ao (!)
Điên tiết, ông liền nhổ cụm tre
Vung lên nghe gió rít vè vè
Đánh cho quân giặc chết như rạ
Hoá đỉa đen ngòm cả suối khe!
THƠ VÕ TOÁN
46
Nhưng vẫn hãy còn lắm giặc Ân
Ông Gióng ghé tai chú ngựa Thần:
“Ngựa ới! Hãy gắng phun ra lửa
Đốt sạch quân thù, cứu quốc dân …”
Ngựa bảo: “Nhưng e cháy xóm làng…?”
Ông rằng: “Hãy quét sạch xâm lăng
Rồi ra ta góp công xây dựng
Cuộc sống lại về, xuân lại sang…”
Ngựa hiểu lòng ông, gật gật đầu
Nghiêng bờm, cố hít một hơi sâu
Rồi bằng sức mạnh trong trời đất
Há miệng phun ra lửa đỏ ngầu
Luồng lửa phun theo hướng giặc chạy
Có sức lan truyền tít tít xa
(Như thể ngày nay xăng bốc cháy)
Rặng tre lốm đốm, hoá Đằng Ngà (7)
22. BÔNG HOA NỞ MUỘN
47
Đánh giết quân thù đến nửa đêm
Bầu trời buông xuống một màn êm
Không gian tĩnh lặng trong thuần khiết
Giặc chết không còn sót một tên!
Khắp mình ông Gióng đau ê ẩm
Áo giáp thân mang hoá nặng nề
Đánh giặc tan rồi mới thấm mệt
Ngựa phi nước kiệu, thở phì phì!
Ông Gióng thẳng đường lên núi Sóc
Ngoảnh đầu nhìn lại chốn đưa nôi
Cởi treo áo giáp trên cây nghiến
Cưỡi ngựa bay lên thẳng Cửa Trời
THƠ VÕ TOÁN
48
Hôm ấy là mồng Sáu tháng Giêng(8)
(Một vùng núi Sóc hoá linh thiêng)
Ông Gióng trở thành “Tứ Bất Tử” (9)
Tạm biệt cõi Trần, lên cõi Tiên…
________________
(1) Phiên: Từ cổ để chỉ các tộc thuộc biên giới phía Bắc nước ta.
(2) Phù Đổng: Nay thuộc Gia Lâm, ngoại thành HàNội.
(3) Thanh y: Thay quân áo. Nơi ấy, nay là làng Thanh Y, Mê
Linh, Hà Nội
(4) Phủ Lỗ, tục gọi là làng Sọ (để chỉ việc Thánh Gióng tắm gội).
Cầu Phủ Lỗ nằm trên Quốc lộ 3, giáp giới hai huyện Đông
Anh - Sóc Sơn ngày nay.
(5) Làng ấy được gọi là làng Đóng Đồ, sau gọi chệch đi là làng
Đông Đồ, còn có câu ca dao: “Đông Đồ là Đông Đồ Đoài / Ăn
cơm thì ít, ăn khoai thì nhiều”, nay là Vệ Sơn Đông (thường gọi
thôn Vệ) thuộc xã Nam Hồng, Đông Anh, Hà Nội.
(6) Giặc Ngô: Từ chung để chỉ giặc ngoại xâm từ phương Bắc tới.
(7) Tre đằng ngà: Loại tre thân vàng, có sọc đốm xanh, xuất
hiện trong truyền thuyết dân gian, gắn liền với sự tích
Thánh Gióng.
(8) Nay là ngày Hội đền Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội (ngày 6 tháng
Giêng Âm lịch).
(9) Tứ bất tử: Bốn người không chết, bao gồm: Đức Tản Viên,
Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Bà Liễu Hạnh.
23. BÔNG HOA NỞ MUỘN
49
Hoạ thơ Hồ Xuân Hương
Bánh trôi
Em trong em trắng, phận em tròn
Chìm nổi âu đành với nước non
Trôi chảy về đâu em cũng mặc
Miễn sao giữ được tấm lòng son!
Mời trầu
Làm đầu câu chuyện: Miếng trầu hôi
Cau sáu bổ ba: Quệt cả rồi
Cát cánh quế chi đâu thắm lại
Lẽ nào để bạc phếch như vôi?
THƠ VÕ TOÁN
50
Ốc nhồi
Nào có ra chi cái ốc nhồi?
Cất mình le lưỡi đám bùn hôi
Yếm trắng trinh nguyên xin hãy bóc
Đừng sàm sỡ ngoáy lỗ trôn tôi!
Quả mít
Mít chín thơm lừng hương trái cây
Xơ thì trắng muốt, múi thì day
Thương nhau đóng cọc cho tươi tốt
Mân mó chi nhiều? Nhựa dính tay!
24. BÔNG HOA NỞ MUỘN
51
Tỉnh say
Đâu là tỉnh? Đâu là say?
Đâu ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Hang hầm đã phải gì ghê gớm?
Để cánh bài bây thử mó tay?!
Đề đền Sầm Nghi Đống
Choen hoẻn nơi này cái bảng treo
Đền Sầm Nghi Đống nó cheo leo
Đống Đa vun xác thành Gò Nổi
Giấc mộng xâm lăng há bấy nhiêu?!
Gửi Xuân Hương
Bấy rày tơ tưởng luống nhăm nhe
Quả đắng chen ngang chỉ chực ghè!
Muốn nuốt ả Hằng đêm nguyệt thực
Lại lo đổ vỡ… phải e dè!
THƠ VÕ TOÁN
52
Gửi nàng Cổ Nguyệt nức
hương xuân
Hẹn năm nhưng lỡ… tạm đưa ba
Chẳng chóng thì chày gửi đủ ra
Thôi có bao nhiêu tiêu nấy vậy!
Vạ gì trông đợi Cuội ôm Đa?!
Giễu sư
Mũ ni lại cả áo choàng thâm
Sao nỡ để cho ong nó châm?
Chẳng lẽ đầu sư vô Phật pháp?
Chung quy chỉ tại cái ong nhầm!
Hoạ thơ Nguyễn Khuyến
25. BÔNG HOA NỞ MUỘN
53
Hoạ thơ Nguyễn Khuyến
Học vị giả
Mũ cài thêm dải áo thêm đai
“Học vị” đàng hoàng, há kém ai?
“Gà sống” xun xoe vừa “thiến sót”(*)
Văn bằng hí hửng: Mới tinh khôi!
Một luồn hai lọt, danh tuy nhuốc
Ông nọ bà kia, giá quá hời
Chỉ tại thị trường cơ chế mới
Quan trường rặt những kẻ làng chơi!
______________
(*) Gà sống thiến sót: Viết tắt GSTS, đồng dạng với cụm từ
“Giáo sư tiến sĩ” viết tắt.
THƠ VÕ TOÁN
54
Hoạ thơ Nguyễn Bính
Cảm tác
Áo khăn xơ xác, mái tranh nghèo
Bóng đổ liêu xiêu nắng quái chiều
Gọt rũa đã dư ngàn phúc thảo
Kiếm tìm chưa đặng một tình yêu
Nước non man mác tình Công Cẩn
Đồng Tước bâng khuâng mộng Tiểu Kiều
Thi sĩ đội trời toan khám phá
Liệu rồi có kẻ chịu tin theo?!
26. BÔNG HOA NỞ MUỘN
55
Hoạ thơ Quan Hoài Vũ Văn Cúc
Đường đến làng thơ
1. Theo thầy ngấp nghé đến làng thơ
Đối cảnh sinh tình… cũng mộng mơ
Chót vót bầu trời cao chất ngất
Bâng khuâng mặt đất thẹn chơ vơ
Hít hà ly rượu hình tôm cá
Nhấm nháp chung trà tiếng cóng bơ
Mài sắt nên kim… lòng khấp khởi
Nghe chừng trời đã hé thiên cơ.
2. Nghe chừng trời đã hé thiên cơ
Nhà đám ai buông tiếng khóc hờ?
Nặng gánh tương tư đôi mắt ngọc
Lỏng then sầu não nụ đào tơ
Không nâng vận tứ thêm khe khắt
Nỡ để hồn thơ hoá dặt dờ
Đèn chiếu đĩa nghiên, nghiên toả sáng
Tứ lung linh gợn, mực in tờ.
THƠ VÕ TOÁN
56
3. Tứ lung linh gợn, mực in tờ
Xuân nảy quế hoè nuột áng tơ
Nhạc sĩ gảy đàn trau nốt nhạc
Nhà thơ lựa tứ chuốt vần thơ
Tâm vì non nước hằng khao khát
Óc gợi nhân quần luống ước mơ
Nghiền ngẫm năm vần trong bảy chữ
Tiết xuân lộng gió phất tung cờ.
4. Tiết xuân lộng gió phất tung cờ
Đất nước chan hoà rộn tiếng thơ
Nắng chói Ba Đình càng chói lọi
Cỏ non Thành Cổ mãi non tơ
Mấy phen ngựa đá chồn chân ruổi
Muôn thuở Âu vàng vững cõi bờ
Muốn gửi tình thương vào vận tứ
Đọ cùng thi hữu giữa cơn mơ.
27. BÔNG HOA NỞ MUỘN
57
5. Đọ cùng thi hữu giữa cơn mơ
Mỗi cánh thư đi thắc thỏm chờ
Khắc hoạ trong lòng niêm với luật
Săn lùng giữa chợ múi cùng sơ
Văn phong đất Việt cần trong sáng
Tiếng nói ông cha tránh bụi mờ
Khai bút đầu xuân khai trí tuệ
Để lòng rộng mở với hồn thơ
6. Để lòng rộng mở với hồn thơ
Vun vén cho tròn chữ mộng mơ
Thoát được sáo khuôn lo bứt phá
Đi vào cuộc sống chớp thời cơ
Đắp xây tình nghĩa cùng thi hữu
Chia sẻ buồn vui với bến bờ
Đường đến làng thơ đang rộng mở
Nghe lòng náo nức rộn đường tơ.
THƠ VÕ TOÁN
58
Cây trong cửa sắt
Ta với cây như cũng có tình
Lộc vừng trong chậu ngắm càng xinh
Thân cong chữ vạn, cành thon thả
Hoa rủ rèm châu, lá rập rình
Lộc trải đầy thềm: Thềm thịnh vượng
Tình vương ngợp đất: Đất an ninh
Nhưng kìa: Cửa sắt hay song sắt?
Xiềng xích chi cho hận bất bình?!
28. BÔNG HOA NỞ MUỘN
59
Hoạ thơ Lê Xuân Hường
Với nàng thơ
Cột vào cho chặt, chớ buông lơi!
Đừng để nàng thơ đủng đỉnh chơi
Gõ nhịp con tim dào dạt tứ
So dây lồng ngực xốn xang lời
Năm vần gói trọn bao tình ý
Một nét tô son cả biển trời
Thắc thỏm bạn chờ câu mới vịnh
Bâng khuâng càng thấm nghĩa yêu đời.
Phim Trần Thủ Độ
Ông Trần Thủ Độ với gia huy
Đủ cả: Lược, thao, vũ, dũng, uy!
Hoàng đế có ông thêm vững chí
Quân dân “Sát Thát”, chết không quỳ.
THƠ VÕ TOÁN
60
Quan hề
Mua cười chật vật nơi cung cấm
Xơ xác quạt còn mấy dẻ nan?
Thái hậu hài lòng, ban thánh chỉ:
“Thằng hề công lớn - đáng phong quan”!
Bức tranh vẽ lại
Gió Nồm hây hẩy vén mây xanh
Dáng dấp Bồng Lai mượt tựa lanh
Lược trúc hững hờ ngây ngất ả
Yếm đào trễ nải tội tình anh
Đôi gò bồng đào xôn xao dạ
Một lạch đào nguyên cuốn hút tranh
Gặp gỡ làm chi? Ôi trái khoáy!
Đi thì cũng dở! Ở sao đành?
29. BÔNG HOA NỞ MUỘN
61
Hoạ thơ Đỗ Quốc Khánh
Chào xuân mới
Trời đất xuân về thắm tựa hoa
Xôn xang cuộc sống mới chan hoà
Cỏ non mơn mởn xanh từng đám
Lửa bếp bập bùng đỏ mọi nhà
Chỉ tiếc cây nêu không trở lại
Chạnh buồn tiếng pháo đã lùi xa
Xóm làng náo nức vào xuân mới
Trời đất xuân về thắm tựa hoa.
THƠ VÕ TOÁN
62
Hoạ thơ Hà Linh
Viết dưới trăng
Gió mát trăng thanh toả sáng ngời
Bồng bềnh nước chảy cuốn hoa trôi
Êm đềm mặt đất như nhung trải
Thấp thoáng sườn non tựa gấm phơi
Tai vẫn lắng nghe điều phải trái
Miệng thường nhấm nháp chén đầy vơi
Dưới trăng thi tứ dâng dào dạt
Bất giác mơ màng cuộc dạo chơi.
30. BÔNG HOA NỞ MUỘN
63
Hoạ thơ Khúc Thị Hiền
Tình thi hữu
Anh em xa có láng giềng gần
Thi hữu rộn ràng thắm sắc xuân
Chắp cánh hồn thơ dào dạt tứ
Nâng niu ý nhạc xốn xang vần
Xạc xào nắng sớm vang câu hát
Rộn rã mây chiều vọng tiếng ngân
Chung một thi đàn chung mộng tưởng
Anh em xa có láng giềng gần.
Vui tuổi cao niên
Chắt chiu năm tháng đắp xây đời
Nay đã vuông tròn tám chín mươi
Nối nghiệp cha ông mau kết trái
Bảo ban con cháu sớm nên người
Vườn thơ chắt lọc hoa xinh xắn
Khóm phú trau dồi lá tốt tươi
Mạc khách tao nhân dường bất lão
Thi đàn thanh thản rộn sân chơi!
THƠ VÕ TOÁN
64
Nhắn nhủ
Qua chỗ sình lầy hãy bỏ qua
Xa ư? Gần lắm có đâu xa!
Trái tròn mũm mĩm cây sây trái
Hoa mọng ngạt ngào khóm thắm hoa
Lá ấp ôm cây cây ấp lá
Nhà soi bóng nguyệt nguyệt soi nhà
Bút trao duyên lạ duyên tìm bút
Ta có mình đây - mình có ta.
Tìm vận hội
Phù du là cái chữ “giàu sang”
Thanh thản giờ đây chỉ hướng nhàn
Tình khúc giọng vàng thêu mỗi nốt
Văn thơ chữ gấm dệt từng trang
Hãy vun tình ái thêm tha thiết
Chớ để duyên may hoá nhỡ nhàng
Bước tới làng thơ tìm vận hội
Biết đâu chả gặp trái tim vàng?
31. BÔNG HOA NỞ MUỘN
65
Tương tư
Tơ tưởng nhau hoài suốt bấy nay
Xem qua nét chữ thấy hao gầy
Dăm câu hoài cổ nôn nao bút
Mấy sợi mưa phùn lất phất bay
Cõi mộng bao la hương rượu ngát
Cuộc đời đầy ắp chất men say
Tương tư nén lại sầu lai láng
Ước đến mai sau trái ngọt đầy.
Khắc khoải
Khát khao năm tháng lại đêm ngày
Má ấp môi kề thoả đắm say
Nhác thấy cung đàn, câu hát đậu
Chợt nhìn nét bút, áng thơ bay
Trông chờ khắc khoải, tình khôn ngỏ
Ngóng đợi mỏi mòn, nghĩa biếng khuây
Biết đến bao giờ thôi cách biệt
Để cho duyên thắm được đong đầy.
THƠ VÕ TOÁN
66
Bâng khuâng
Bâng khuâng nếp nghĩ “bước vào đời”
Khao khát như Bờm được nắm xôi
Sóng vỗ ầm ào nghe sát nách
Mây trôi lởn vởn ngó xa vời
Đất trời ấp ủ cơn vần vũ
Non nước chan hoà cuộc dạo chơi
Chim núi rộn ràng ngân lảnh lót
Hồn thơ trinh trắng hé môi cười.
Chắp cánh ước mơ
Đêm mơ gặp gỡ xốn xang ngày
Tâm trạng bồng bềnh cõi đắm say
Bồng Đảo - Thiên Thai đâu có nẻo?
Chắp cho đôi cánh ước mơ đầy.
32. BÔNG HOA NỞ MUỘN
67
Gửi người xa xứ
Mộc nhĩ phải kèm với nấm hương
Món quà đặc sản đậm yêu thương
Gói trà xứ Thái thêm thơm Tết
Kỷ Sửu giao thừa vạn mối vương!
Xuân cảm
Xuân sang én gọi trước hiên nhà
Ta ngắm ảnh mình, ngắm ảnh ta
Chậu quất tươi màu chim kéo đến
Giò lan khoe sắc bướm vào ra
Ngày xuân khai bút răn con cháu
Năm mới gieo vần nối chí cha
Náo nức phố phường vui đón Tết
Nhà thơ rơi lệ phút giao hoà.
THƠ VÕ TOÁN
68
Đau đáu chờ mong
Xa nhau từ bấy vẫn mong chờ
Nghiền ngẫm thường xem lại túi thơ
Sớm dậy ghi sâu lời nhắn nhủ
Khuya về nhớ mãi giọng ầu ơ
Bao lần lễ hội bao trăn trở
Những buổi thi đàn những ngáo ngơ
Đợi một tiếng lòng đau đáu nỗi
Xa nhau từ bấy vẫn mong chờ.
Vẩn vơ
Trảy hội chùa Hương nặng túi mơ
Đò xuôi Suối Yến vuốt ve bờ
Con tim treo ngược lưng chừng núi
Trước cửa Bồng Lai nghĩ vẩn vơ…
33. BÔNG HOA NỞ MUỘN
69
Trang trải
Ngồi câu… đợi cá? - Chuyện xa vời!
Hãy ướp linh hồn! Phải thế thôi!
Dạo khắp nhân gian tìm tứ lạ
Để tình trang trải khắp sân chơi!
Xuân khai bút
“Một lạch đào nguyên suối chửa thông”(*)
Chân mây ửng sáng ráng sen hồng
Cành xuân nảy lộc hoa chen nụ
Vườn tứ đâm chồi lá cuốn bông
Mạc khách lựa vần xao xuyến dạ
Tao nhân khai bút xốn xang lòng
Xuân về Vũ Trụ say xoay chuyển
Thi hữu lâng lâng bởi chữ “đồng”!
__________
(*) Thơ Hồ Xuân Hương.
THƠ VÕ TOÁN
70
Hoàn Kiếm bình minh
Ban mai đậu lại nét hồng tươi
Thê Húc cong cong dẫn đạo đời
Tháp Bút giãi lời, trời thấu tỏ
Đài Nghiên ngỏ ý nắng bừng soi
Rùa thiêng nuốt kiếm về tiên tổ
Nước biếc khơi dòng tới biển khơi
Mãi mãi Tháp Rùa kiêu hãnh đứng
Thăng Long ngàn thuở dáng cao ngời.
Cao ngời Rùa Chúa ngỏ lời
Kiếm Thần trao lại khôn vơi điệu sầu
Nỗi lòng biết ngỏ từ đâu?
Nước nhà hết giặc vạn màu tươi non
Thăng long một dải xanh rờn
Ngựa xe du khách mộng hồn lãng chơi
Xuân sang đẹp cảnh đẹp đời
Leng keng tàu điện nhớ hồi chưa xa
Ba Đình lộng sắc cờ hoa
Hồ Gươm điểm hẹn giao hoà mừng vui.
34. BÔNG HOA NỞ MUỘN
71
Duyên thơ 1
Nếu muốn tìm sang phải bắc cầu
Loà xoà dải yếm thít từng câu
Đường thi tám nhịp lung linh sắc
Lục bát dăm thiên lấp lánh màu
Niêm nối duyên tình, tình bứt phá
Vận hoà nhân nghĩa, nghĩa in sâu
Ôm đàn thầm dạo “Tương tư khúc”
Cảm thấy nôn nao bạc mái đầu!
Gửi người trên đất khách
Lất phất mưa bay rắc bụi mờ
Ngọn đèn soi tỏ bóng hình thơ
Mười hai bến nước ai mong đợi?
Ba sáu đường dây kẻ ngóng chờ
Cặm cụi con tằm say kéo kén
Mơ màng cái nhện vẫn vương tơ
Chuyến tàu vượt biển chao nghiêng ngửa
Trông cõi Đằng Giang “phẳng lặng tờ”!
THƠ VÕ TOÁN
72
Xuân về
Xuân luồn gió bấc hiện về đây
Tấm tắc khen làng lắm đổi thay
Tíu tít mai đào xao xuyến nụ
Rộn ràng nhạn én xốn xang mây
Ngạt ngào hương toả hoa rung lắc
Chếnh choáng men nồng lá cuốn bay
Thôn nữ mỉm cười tươi nét hạnh
Nâng ly rượu thọ lộc đơm đầy!
Xuân đợi
Lũ trẻ bây giờ thạo tiếng Tây
Vườn chanh phảng phất nét hao gầy
Bầu trời xoan tím lưa thưa rụng
Mặt đất mưa phùn lất phất bay
Cánh én điệu đàng xuyên sắc núi
Đàn gà táo tác suộm màu mây
Xuân về nghe bút lâng lâng tứ
Vẫn ngóng vần ai hoạ tháng ngày.
35. BÔNG HOA NỞ MUỘN
73
Khao khát
Én lượn nghe lòng vọng tiếng thơ
Xuân quang bát ngát bụi không mờ
Cánh đào mơn mởn hoa trau chuốt
Khóm huệ ngạt ngào lá điểm tô
Trừ tịch xôn xao vần ngóng đợi
Giao thừa vấn vít tứ mong chờ
Thi nhân cất bút lòng khao khát
Biết đến xuân nào vẹn ước mơ?
Vịnh nàng xuân
Hai trái lòn bon chín nẫu nà
Xuân hường thắm thịt lại thơm da
Xôn xang én lượn ong tìm mật
Thấp thoáng mây vờn bướm hút hoa
Gà trống tung tăng vươn thẳng cổ
Voi con nhún nhẩy uốn cong ngà
Nàng xuân e thẹn rung rinh cánh
Rót đẹp lên mình những Tố Nga!
THƠ VÕ TOÁN
74
Tư lự
Nắng chếch đầu tường toả sáng tươi
Xuân sang vạn vật thảy yêu đời
Sơn Ca lảnh lót ngân bài tủ
Chim Khiếu rộn ràng hót khúc vui
Muôn thú lao xao, hồn chất ngất
Phố phường náo nức, trí cao ngời
Duyên thơ thắm thiết người tư lự
Muốn vịnh đôi vần, ngẫm lại thôi!
Đành thôi, giấy vắn tình dài
Viết lên chưa hẳn nguôi ngoai nỗi sầu
Sương đâu nhuộm trắng mái đầu
Gió đâu vần vũ, sậm màu gương soi
Người ta sống ở trên đời
Sao cho có được ngàn lời hoan ca
Mỗi người là một bông hoa
Sống sao cho thật đậm đà tình thương.
36. BÔNG HOA NỞ MUỘN
75
Thăng Long xuân cảm
Nhâm Thìn rực rỡ thắm trời hoa
Xót kẻ xa quê chạnh nhớ nhà
Hoàn Kiếm dập dìu già dắt trẻ
Cổ Ngư tấp nập mẹ vin cha
Hoàng Thành náo nức thơm hương mứt
Bách Thảo bâng khuâng ngọt vị trà
Rộn rã Thăng Long chào đón Tết
Bồi hồi kẻ sĩ phía trời xa.
Xa nghe hương Tết nẫu nà
Cỏ pha màu áo, sương pha sắc cườm
Chẳng cần bướm lạ hoa thơm
Vào ngơ ra ngẩn tơ vương buổi nào
Trông mâm ngũ quả ngạt ngào
Trương Sinh hẳn đã lẻn vào Tây Hiên
Chìm trong nỗi nhớ triền miên
Đắm say rơi hẫng xuống miền mộng mơ.
THƠ VÕ TOÁN
76
Sang thu
Sang thu càng thấy quá yêu đời
Ôm trọn mùa thu lóng lánh tươi
Khóm cúc vàng ươm nghiêng mắt nháy
Lưu ly tím suộm hé môi cười
Đăm chiêu chọn tứ, tình chưa dứt
Phóng khoáng gieo vần rượu chửa vơi
Yên Đổ tựa thuyền buông cán trúc
Lâng lâng tiếng ngỗng “Kếu” ngang trời.
Cây đàn đại đội
Sáu dây đơn giản, hợp âm giàu
Tình khúc vang lừng vọng mãi đâu
Luyến láy điệu đà lòng nhớ bạn
Ngân nga réo rắt dạ quên sầu
Tiếng đàn khoan nhặt rung từng phím
Khúc hát tưng bừng đậm mỗi câu
Đại đội có đàn như báu vật
Yêu thương gắn bó tựa ban đầu.
37. BÔNG HOA NỞ MUỘN
77
Muốn thành thi sĩ
Muốn thành thi sĩ phải chuyên sâu
Niêm luật nghiêm minh: Khúc dạo đầu
Chớ cố “chờ sung”, nằm há miệng
Hay đành đợi cá, đứng buông câu
Phải cho ý tưởng thêm tươi sắc
Đừng để hồn thơ sớm nhạt màu
Chẳng thể “gặp chăng hay chớ” được
Thói lười suy nghĩ: Phải quên mau!
Cưỡi Honđa
Nghe tiếng Honđa khoái lỗ tai
Phăng phăng nhấn số, lướt cung dài
Máy rền êm ái ru chiều tối
Ga rú mịn màng vọng sớm mai
Mặc giáp, lên yên… như chiến mã
Đeo găng, gài số… giống nhân tài
Dặm trường rong ruổi vi vu… tít
“Mát mặt anh hùng…”(*)
đã biết ai?
___________
(*) Thơ Hồ Xuân Hương.
THƠ VÕ TOÁN
78
Tệ săn bắn
Muông thú ngày nay lắm kẻ lùng
Coi chừng kẻo lại dính lao lung
Từng đàn thú hiếm vui tung tẩy
Khắp chốn non xanh thoả vẫy vùng
Kẻ ác xiết cò cho mất mạng
Núi rừng chết chóc chỉ còn khung
“Môi trường sinh thái” lo mà giữ
Chớ để vang lên những tiếng… “đùng!”.
Nguồn thơ
Hồn thơ lai láng tứ khơi nguồn
Xách túi… đi tìm khắp xóm thôn
Sóc dưới làng trên nghe náo nức
Tình trung ý ngoại thoáng u buồn
Bồi hồi mạch cuốn dòng sông chảy
Háo hức thi trào nước suối tuôn
Vũ trụ xoay vần muôn vật đổi
Lăm le cất bút… nhịp tim dồn!
38. BÔNG HOA NỞ MUỘN
79
Xích lại
Anh đến tìm em lúc xế chiều
Hoàng hôn bảng lảng bóng cô liêu
Năm vần hoạ được thì thương lắm
Mười ý liên thông thấy nể nhiều
Yên Đổ ôm cần, thần tĩnh tại
Tú Xương thương vợ, dáng liêu xiêu
Thu về xích lại, truyền hơi ấm
Hai trái tim son… một túp lều…!
Tình thu rạo rực
Nửa toan giữ lại nửa thầm trao
Cách giậu mồng tơi rộn tiếng chào
Có ché rượu cần em gái Thái
Lại đôi váy đỏ chị người Dao
Món quà quý hiếm, lòng hồ hởi
Kỷ niệm thân thương, dạ dạt dào
Muốn được chút tình thu rạo rực
Cùng nàng đi tới những vì sao!
THƠ VÕ TOÁN
80
Nhớ tiếng chày
Trên sóc Bom Bo rộn tiếng chày
“Cụp cum”… giã gạo, cả làng say
Thương người đánh giặc, buôn dâng hiến
Xót kẻ gian lao, sóc tỏ bày
Đất nước đứng lên bừng ánh thép
Toàn dân đánh giặc sáng trời mây
Bôk Hồ kêu gọi, dân làng đáp
Góp gạo nuôi quân rất đủ đầy!
Xuân sang
Hỏi bài thơ Quất? Rượu đang say
Chẳng thể đem ra hẹn tháng ngày
Một bút ba vần đâu phải dễ
Năm niêm bảy luật dám khoe hay
Tầm chương trích cú nhiều, đâm “mụ”
Lựa ý chọn từ mãi phải “gầy”
Chim én đã về, “lê trắng điểm”(*)
Xuân sang, thơ, rượu vẫn còn đây!
_____________
(*) Truyện Kiều (Nguyễn Du).
39. BÔNG HOA NỞ MUỘN
81
Lý hoài Nam
Hồn thơ biết gửi cho ai?
Vẳng nghe điệu “Lý” thương “hoài”
phương “Nam”
Chim kêu vượn hót non ngàn
Có ai thấu nỗi “cơ hàn” này chăng?
Cô gái chăn tằm
Nàng hong tơ rối mé nhà bên(*)
Con bướm bay sang động cánh rèm
Cái giậu mồng tơi màu lá biếc
Đôi bên bác mẹ tuổi hoa niên
Lá dâu ném thẳng, tằm lên né
Con nhộng nằm nghiêng, kén sáng nền
Áo đẫm mồ hôi… ăn bữa đứng(**)
Dệt thành súc lụa, đẹp như tiên!
_______________
(*) Ý thơ Nguyễn Bính.
(**) “Chăn lợn ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng” (tục
ngữ).
THƠ VÕ TOÁN
82
Tình rừng
Nhớ ai rừng toả hương hồi
Chênh vênh tảng đá ai ngồi làm ngơ?
Nhớ ai suối đợi khe chờ
Phong lan đã đẵn bao giờ gửi ai?
Trăn trở
Lưng trời vi vút mấy âm thanh
Con gió mang theo đến Nội Thành
Chớp lửa bập bùng đầu mắt ngọc
Mưa nguồn xối xả cuối rừng xanh
Nắng mưa bồi đắp, duyên đầy đặn
Niêm luật hao gầy, tứ mỏng manh
Thi sĩ ngượng ngùng: “Oanh học nói”(*)
“Lơ thơ tơ liễu” nó “buông mành”(*)
.
________________
(*) Truyện Kiều (Nguyễn Du).
40. BÔNG HOA NỞ MUỘN
83
Tình Tam Đảo
Cỏ cây ướt đẫm hơi sương
Lửng lơ mây trắng còn vương lưng đồi
Mảnh tình ghép lại thành đôi
Dấu son Tam Đảo đầy vơi núi ngàn.
Thu hoạch
Du khách âm thầm nhặt tứ thơ
Đường lên đỉnh dốc luống mong chờ
Chim kêu vượn hót nâng hoài bão
Khiếu liệng nai trèo dệt ước mơ
Tình khúc(*)
bắt nguồn từ tám hướng
Thi viên(**)
khơi dậy tới trăm tờ
Bõ công khó nhọc leo sườn núi
Thu hoạch phen này đến ngác ngơ!
____________
(*) Tình khúc: Bản nhạc trữ tình.
(**) Thi viên: Vườn thơ.
THƠ VÕ TOÁN
84
Hạ Long
Hạ Long không thích ồn ào
Suy tư trầm bổng xôn xao mộng đời
Thuyền ai neo đậu xa khơi
Thấy nhau sao chẳng dạt trôi vào bờ?
Cô giáo làng
Đêm mong ngày nhớ vẫn mơ về
Đôi ngả nặng lòng một tiếng “Quê”
Năng nổ “Trồng người” từng tiết học
Sát sao dạy trẻ những chuyên đề
Cái nghề say đức đành rèn rũa
Sự nghiệp yêu người phải đắm mê
“Người mẹ ở trường”, em đảm nhiệm
Tương lai con trẻ vẹn câu thề!
41. BÔNG HOA NỞ MUỘN
85
Phút siêu trần
Bấy rày có được chút tình thân
Cứ ngỡ Tiên Nga mới giáng trần
Ngũ quả bày ra nhằm tống cựu
Năm vần khép lại cốt nghinh tân
Nhâm nhi chén rượu thơ nâng tứ
Chau chuốt lời văn bút xuất thần
Mượn bác Tề Thiên vài phép lạ
Phen này chắc hẳn được “đằng vân”.
Xuân giăng mắc
Không khí xuân nay thật khác thường
Quanh đền Trấn Vũ ngạt ngào hương
Thanh niên tíu tít vin cành lộc
Con trẻ bi bô tới cổng trường
Cành trúc Tây Hồ vương sợi gió
Nhịp chày Yên Thái phủ hơi sương
Thăng Long vào hội xuân giăng mắc
Nô nức quần thoa khắp phố phường.
THƠ VÕ TOÁN
86
Đợi chờ 1
Quyết chí tìm nhau tận cuối trời
Ngại gì cưỡi biển lướt ra khơi
Muôn non ngàn suối tay san lấp
Chẳng thể xa nhau suốt cuộc đời
Có vẻ qua hè, thu đã sang
Ngày lung linh nắng, tối trăng vàng
Nửa giường bên phải đang chờ đó
Liệu sớm quay về, chớ rẽ ngang!
Một bóng đơn côi với một hình
Ngọn đèn thấp thoáng, nến lung linh
Gió lùa khe cửa khơi niềm nhớ
Người ở nơi xa có thấu tình?
Bỏ cả ngôn từ, cả phú, thơ
Đêm đêm theo miết ánh trăng mờ
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”(*)
Chập chờn bóng dáng hiện trong mơ…
_______
(*) Thơ Hồ Xuân Hương.
42. BÔNG HOA NỞ MUỘN
87
Đợi chờ 2
Tầu tiêu thánh thót giọt sầu tuôn
Lòng nhớ thương ai dặc dặc buồn
Thu lã chã hoài, mây ướt bóng
Rượu đào còn ở “Hạnh Hoa thôn”(*)
Dẫu có rượu đào chỉ nhắp môi
Đang say tuý luý cảnh say đời
Câu thơ Bá Nhạc còn chưa hoạ
Ai dám nghiêng bầu chuốc khúc vui?
Đâu nước triều dâng ngập bến bờ
Ai làm tím sẫm những vần thơ?
Kèn xuôi trống ngược, người xa vắng
Chỉ trách trời xanh khéo hững hờ
Sao muối lòng nhau nỗi nhớ hoài
Tình dâng chưa trọn, phải chăng ai?
Ví bằng gói được trời cao lại
Chẳng để cho nhau tiếc nuối dài…
______________
(*) Một ý trong bài thơ cổ.
THƠ VÕ TOÁN
88
Duyên thơ 2
Đom đóm bật đèn soi cõi nhớ
Hoa quỳnh gom nhặt tứ thơ vương
Sao Hôm nhấp nháy khêu lời hẹn
Bật bút làm diêm sáng rọi đường
Thuở trước bên nhau dàn hợp xướng
Em thầm nhắc điệu “Lý mười thương”
“Liên châu” em hoạ nhanh mười khúc
Anh biết tim em đậm nét hường
Hai ngả hai tình chung một hướng
Bóng hình, âm vận vút tung bay
Con tim xao xuyến trong đồng điệu
Quyết chí theo nhau trọn tháng ngày
Cho dẫu mái đầu râu tuyết điểm
Duyên tình còn đẫm những hơi sương
Duyên thơ mát rượi lồng hơi ấm
Anh dẫn em đi khắp nẻo đường.
43. BÔNG HOA NỞ MUỘN
89
Lỡ bước
Bước gần tới ngõ, người xa vắng
Lan tím đầu hiên cánh mỏng rơi
Một chiếc du thuyền đang lướt sóng
Phải chăng em tới phía chân trời?
Bắt đầu khao khát từ hôm ấy
Canh cánh trong lòng nỗi nhớ thương
Mắt liễu xanh rờn như nước biển
Bâng khuâng trong trí nét môi hường
Tất cả gói vào trong nỗi nhớ
Nghe lòng lắng đọng tiếng mưa rơi
Khát khao một phút tay đeo nhẫn
Cốt để thương nhau suốt quãng đời
Nàng về bên ấy do ai dẫn?
Còn lại bên này có một tôi
“Lỡ bước sang ngang”(*)
nay tái hiện
Con tim nhói buốt, dạ bùi ngùi!
________
(*) Thơ Nguyễn Bính.
THƠ VÕ TOÁN
90
Xa vắng
Người xa vắng nên ta không thể ngủ
Đêm thì dài! Nằm ngẫm ngợi chi đây?
Chẳng giàu sang nhưng cũng rất đủ đầy
“Lều hạnh phúc”, tim sao đà cách biệt?
Chung quanh ta toàn láng giềng thân thiết
Ngựa cả tàu bỏ cỏ… một con đau
Biết không em? Cả xóm đã âu sầu
Vì em vắng! Khó dốc bầu tâm sự!
Nghe tiếng nhạc thấy toàn cung “Rê thứ”
Thơ ấn hành lại đang soát “bản bông”
Trong tim anh le lói chút mai hồng
Cứ mụ mẫm ngày đêm bên bức ảnh
Dẫu biết rõ có “mạch rừng tai vách”(*)
Không tài nào giấu được nét sầu đau
Nhưng em ơi! Vòng Nguyệt Quế trên đầu
Hãy quay lại kéo thành người viễn xứ!
_____
(*) Tục ngữ.
44. BÔNG HOA NỞ MUỘN
91
Viết gì?
Góc phố nhỏ đã chìm vào nỗi nhớ
Cao thấp so le, đâu có thẳng hàng
Thi sĩ phố nghèo lòng vẫn đa mang
Cái “cọc lệch” trên con đường dấn bước
Làng thơ đã có bao người đi trước
Chia sẻ cho nhau bao mối tâm tình
Phía chân trời đang rực ánh bình minh
Rọi sáng cả “Vườn Thơ” thâm thuý ấy
Nếu tất cả rõ ràng, ai chả thấy?
Bước chân vào “khúc quẹo” mới nôn nao
Có bao nhiêu “mơn trớn” với “ngọt ngào”
“Ván bài ngửa” biến ta thành kỷ niệm
Tính trung thực chẳng thể nào đong đếm
Hãy viết gì cho “Hiện thực” thành “Thơ”?
Và để cho mình thành một dòng mơ
Với chỗ đứng vững vàng trong cuộc sống.
THƠ VÕ TOÁN
92
Một thoáng Tây Nguyên
Khi vành mũ “tai bèo” qua kẽ lá
Hai ống quần bám chặt hoa cỏ may
Theo chị giao liên đến buôn sóc lạ
Nòng súng nhấp nhô hai cặp vai gầy
Nương rẫy đồng bào vào mùa lúa chín
Chim phí về nhặt hạt lúc bình minh
Xa chị giao liên phút giây bịn rịn
Bất chợt bâng khuâng như bóng không hình
Các dân tộc Tây Nguyên anh dũng quá
Ba Na, Ê Đê… tất cả một lòng
Đánh giặc Mỹ phải chôn vùi vạn kiếp
Ơn đức Bôk Hồ sông bề nào đong?
Xinh Nhã, Đam San thắp lên ngọn lửa
Đuốc lồ ô rực sáng chiến công xưa
Những gùi muối lên non ngàn thấm máu
Đến hôm nay chiến thắng: Phút giao hoà.
45. BÔNG HOA NỞ MUỘN
93
Duyên phận
Duyên phận! Trời cho đâu dễ quên?
Chiều thu nắng nhạt xế bên thềm
Con chim liếu điếu kêu sườn núi
Anh ngóng rừng sâu lại nhớ em!
Duyên phận! Anh lo việc nước nhà
Em thường vẫn gắng gửi thư qua
Biên cương hải đảo xa vời vợi
Đâu có xa gì giữa chúng ta!
Duyên phận! Mong hoài mỗi lá thư
Nơi anh giữ chốt lắm sương mù
Anh nghe đã thấy trời se lạnh
Em nhớ giữ gìn tiết cuối thu!
Duyên phận! Cho dù khó đến đâu
Mong em chớ ngại đợi chờ lâu
Làm xong nhiệm vụ, anh về lại
Nhẫn cưới trao em ngay buổi đầu!
THƠ VÕ TOÁN
94
Khúc nhạc tình
Vẳng nghe tiếng nhạc dưới khuôn trăng
Như có lời ai nhắn nhủ rằng:
Xa cách nơi đây ngàn vạn dặm
Có người thương nhớ cánh tay dang
Không biết người thương có tới đây
Cho ta mong nhớ suốt đêm ngày
Tình ca một bản dâng trong mộng
Biết có dày thêm mái tóc mây?
Trăm thương ngàn nhớ - nhớ thương nhiều
Xoắn xuýt trong đầu một chữ “yêu”
Mỗi phím tơ lòng, trăm phím cảm
Lung linh ngũ sắc đám mây chiều
Tiếng đàn vi vút chứa bao tình
Như đã vòng qua đất Chí Linh
Có tiếng “Bình Ngô” hào sảng quá!
Thân thương níu giữ mãi bên mình.
46. BÔNG HOA NỞ MUỘN
95
Duyên lành
Có mối duyên lành đến với nhau
Trinh nguyên như mới buổi ban đầu
“Tấn - Tần” vun đắp dài năm tháng
Để mối chung tình mãi thấm sâu
Có một người cho giống bưởi lai
Nâng niu chăm bón tháng năm dài
Duyên lành đã thấm vào hoa lá
Nên đến nay cành trĩu quả sai
Những trang thơ phú góp cho đời
Thấp thoáng ân tình khắp mọi nơi
Dẫu ở chân trời hay góc bể
Hồn thơ lắng đọng mãi không rời
Không lẽ lòng ai gợn thoáng buồn
Nhưng rồi lại thấy sáng trong hơn
Nên thơ vẫn cất lên sang sảng
Khiến kẻ yêu thơ phải hút hồn…
THƠ VÕ TOÁN
96
Nơi em ở
Nơi em ở: Chợ xanh đầy trái ngọt
Vải Thanh Hà, Bưởi Diễn… vị thơm nồng
Cầu Chương Dương soi bóng nước mênh mông
Có hàng chục tiệm Kim Hoàn óng ánh
Nơi em ở: Sao Tháp Rùa lấp lánh
Trước hàng hiên, giò lan tím xanh tươi
Trời Thăng Long in đậm nét em cười
Tiếng trong trẻo cho bao người ngóng đợi
Nơi em ở: Có hồn thơ vời vợi
Tứ thơ rung như sóng nước xô bờ
Em rất hiền, nguyên vẹn một vần thơ
Làm say đắm bao con tim mộng ước!
Nơi em ở: Vẫn thanh nhàn như trước
Tiếng reo cười con trẻ mỗi ban mai
Những vần thơ theo nhịp sống hàng ngày
Nơi em ở là nơi anh sẽ đến!
47. BÔNG HOA NỞ MUỘN
97
Nàng Trăng ơi!
Trăng ơi! Có biết ai chờ?
Một mình một bóng thẫn thờ đêm trăng
Mịt mờ khói toả sương giăng
Giậu bên ai đó còn mang cắm rào?
Ngậm ngùi thôi lại nôn nao
Ruột bầu đem nấu lẫn vào canh suông!
Nhện già thõng sợi tơ buông
Lắng nghe tí tách hạt sương dội về
Bao giờ ghé lại thăm quê
Gốc si năm ấy nặng thề vì ai?
Mây chăng chi sợi tơ dài?
Để cho ai đó tiếc hoài duyên xưa
Cái thời ngày nắng đêm mưa
Phòng văn lạnh giá, gió lùa chăn đơn
Chưa từng suy nghĩ thiệt hơn
Dù cho ma quái chơn mơn linh hồn
Mạch sầu vẫn ấp iu luôn
Để cho thi tứ trào tuôn trong ngoài…
THƠ VÕ TOÁN
98
Mối tình Ngâu
Cầu Ô Thước mịt mờ nhân ảnh
Mé Ngân Hà có ánh đường tơ
Một vai bầu rượu túi thơ
Một vai nâng trọn ước mơ cõi đời
Trời đã bắt xa rời riêng nụ
Năm một lần được ủ bờ môi
Nặng lòng thương nhớ đến ai
Nhịp cầu tháng Bảy réo sôi cõi lòng
Tình đau đáu hoài mong đến hẹn
Mưa sụt sùi nặng bén bờ vai
Dải Ngân ngàn dặm rộng dài
Quạ đàn trân trọng cuộc đời thương yêu
Ô Thước nối sớm chiều chung bến
Chức - Ngưu cùng được đến nơi đây
Quặn thương hai trẻ thơ ngây
Cầu Vồng níu lại những ngày chờ mong
Rầu rĩ tháng ngày trông đêm lụn
Quạ bay rồi còn nhúm tình Ngâu
Năm sau Quạ lại chụm đầu
Để Ngưu với Chức vợi sầu tương tư!
48. BÔNG HOA NỞ MUỘN
99
Cảm tác xuân
Mặt trời le lói mé tường đông
Đường đến làng xuân ngập ánh hồng
Chậu quất bảy tầng chiu chít quả
Cành đào tam thế xốn xang bông
Câu thơ nén chặt niềm ao ước
Nét bút vo tròn nỗi nhớ mong
Cánh thiệp ngỡ ngàng câu đối Tết
Phút đâu vang vọng tiếng chiêng đồng.
Thầm kín
Trong lòng giấu trọn một niềm vui
“Phân giải”? Xin xem khúc “Hạ hồi”!
Trong mộng mơ màng trong mộng tưởng
Bập bùng lửa cháy lúc cơm sôi!
THƠ VÕ TOÁN
100
Chữ đồng tâm
Trong lúc mơ màng khúc thẩm âm
Thoáng đâu bắt gặp nét duyên thầm
Xôn xao thi tứ, xôn xao dạ!
Ghi khắc trong lòng một chữ “Tâm”.
Nhớ
Sóng biển xôn xao khúc cảm hoài
In trong tâm tưởng bóng hình ai
Quyện hoà nốt nhạc trong thi tứ
Ngân phím tơ lòng vẳng nhớ ai!
Vướng rào, muốn gỡ, gỡ không ra
Tựa thuở ban đầu: Ta với ta!
Em: Khối nam châm; anh: Bột sắt
Nhạc thơ duyên thắm, bóng không nhoà!
54. BÔNG HOA NỞ MUỘN
111
Lời cuối sách
Duyên tình tự mấy vần thơ
Phải đâu “duyên phận” mà nhờ trời xe?
Chẳng qua tình nghĩa bạn bè
Tặng thơ nhau để sẻ chia nỗi lòng
Thế mà rày nhớ, mai mong
Cứ như là đã phải lòng từ lâu!
Bạc phơ tuyết phủ mái đầu
Răng thì móm mém, còn đâu là tình!
Trong lòng vẫn cứ đinh ninh:
Có thơ, có phú, có mình, có ta!
Kết nhau thành đôi bạn già
Cùng nhau xướng hoạ để mà chung vui
Như khi chia ngọt sẻ bùi
Ở nơi hoạn nạn, ở nơi chiến trường
“Thạch Kim - Thạch Nhọn”(*)
còn thương
Nữa là chung một “Thi trường” với nhau
Nào ai đánh thuế ai đâu
Thả phanh tình tỏ trước sau ngại gì!
Dù ai “chọc ghẹo” chi chi
Duyên già ta cứ cười khì… cho vui!
______________________
(*) “Thạch Kim - Thạch Nhọn”: Lời thơ Phạm Tiến Duật.
THƠ VÕ TOÁN
112
Mục lục
VÕ TOÁN - “BA NHÀ TRONG MỘT” .....................5
LỜI TÁC GIẢ ...........................................................9
1. Thi tứ nhập môn ...........................................11
2. Sắc cờ tháng Ba..............................................13
3. Đêm ngủ ở tiền tiêu......................................16
4. Cảnh sắc quê tôi ............................................17
5. Gửi em - Cô thủ thư .....................................18
6. Đình làng Trấn Xá.........................................20
7. Một thoáng đường Cầu De.........................22
8. Bông hoa nở muộn .......................................23
9. Mùa thị chín.................................................24
10. Khúc quân hành thần tốc ..........................25
11. Xe lướt chiều xuân......................................27
12. Cổ tích Loa kèn............................................28
13. Đò ngang.......................................................30
14. Hà Nội - Ngôi sao hoà bình ......................31
15. Về Đông Anh đi em!...................................34
55. BÔNG HOA NỞ MUỘN
113
16. Khúc hát chiều xuân...................................36
17. Chuyện ông Gióng......................................37
18. Bánh trôi........................................................48
19. Mời trầu.........................................................48
20. Ốc nhồi ..........................................................49
21. Quả mít..........................................................49
22. Tỉnh say.........................................................50
23. Đề đền Sầm Nghi Đống.............................50
24. Gửi Xuân Hương.........................................50
25. Gửi nàng Cổ Nguyệt nức hương xuân...51
26. Giễu sư...........................................................51
27. Học vị giả......................................................52
28. Cảm tác..........................................................53
29. Đường đến làng thơ....................................54
30. Cây trong cửa sắt.........................................57
31. Với nàng thơ.................................................58
32. Phim Trần Thủ Độ ......................................58
33. Quan hề.........................................................59
34. Bức tranh vẽ lại............................................59
35. Chào xuân mới.............................................60
36. Viết dưới trăng.............................................61
37. Tình thi hữu..................................................62
THƠ VÕ TOÁN
114
38. Vui tuổi cao niên .........................................62
39. Nhắn nhủ......................................................63
40. Tìm vận hội...................................................63
41. Tương tư........................................................64
42. Khắc khoải ....................................................64
43. Bâng khuâng ................................................65
44. Chắp cánh ước mơ......................................65
45. Gửi người xa xứ...........................................66
46. Xuân cảm.......................................................66
47. Đau đáu chờ mong......................................67
48. Vẩn vơ............................................................67
49. Trang trải.......................................................68
50. Xuân khai bút...............................................68
51. Hoàn Kiếm bình minh................................69
52. Duyên thơ 1..................................................70
53. Gửi người trên đất khách..........................70
54. Xuân về..........................................................71
55. Xuân đợi........................................................71
56. Khao khát......................................................72
57. Vịnh nàng xuân ...........................................72
58. Tư lự...............................................................73
56. BÔNG HOA NỞ MUỘN
115
59. Thăng Long xuân cảm................................74
60. Sang thu.........................................................75
61. Cây đàn đại đội............................................75
62. Muốn thành thi sĩ........................................76
63. Cưỡi Honđa..................................................76
64. Tệ săn bắn.....................................................77
65. Nguồn thơ.....................................................77
66. Xích lại...........................................................78
67. Tình thu rạo rực...........................................78
68. Nhớ tiếng chày.............................................79
69. Xuân sang......................................................79
70. Lý hoài Nam.................................................80
71. Cô gái chăn tằm...........................................80
72. Tình rừng......................................................81
73. Trăn trở..........................................................81
74. Tình Tam Đảo ..............................................82
75. Thu hoạch .....................................................82
76. Hạ Long.........................................................83
77. Cô giáo làng..................................................83
78. Phút siêu trần...............................................84
79. Xuân giăng mắc...........................................84
THƠ VÕ TOÁN
116
80. Đợi chờ 1 .......................................................85
81. Đợi chờ 2 .......................................................86
82. Duyên thơ 2..................................................87
83. Lỡ bước..........................................................88
84. Xa vắng..........................................................89
85. Viết gì?...........................................................90
86. Một thoáng Tây Nguyên ...........................91
87. Duyên phận..................................................92
88. Khúc nhạc tình.............................................93
89. Duyên lành ...................................................94
90. Nơi em ở........................................................95
91. Nàng Trăng ơi!.............................................96
92. Mối tình ngâu...............................................97
93. Cảm tác Xuân...............................................98
94. Thầm kín.......................................................98
95. Chữ đồng tâm..............................................99
96. Nhớ.................................................................99
Chợ Viềng (Nhạc)............................................104
Trương Chi (Nhạc)..........................................106
Khúc hát cung đàn (Nhạc) ............................108
LỜI CUỐI SÁCH ..................................................110
MỤC LỤC ............................................................111