Cùng tìm hiểu thông tin về cây Chùm ngây, cây kỳ diệu, Moringa Oleifera.
Xem thêm: Sản phẩm từ Chùm ngây - Moringa của công ty TMTM tại Việt Nam
http://tmtmcompany.com/vn/san-pham.html
Cùng tìm hiểu thông tin về cây Chùm ngây, cây kỳ diệu, Moringa Oleifera.
Xem thêm: Sản phẩm từ Chùm ngây - Moringa của công ty TMTM tại Việt Nam
http://tmtmcompany.com/vn/san-pham.html
luận văn nghiên cứu chiết tách xác định thành phần hóa học hoa atiso doLe Ngoc
Từ năm 1992, cây bụp giấm đã du nhập vào Việt Nam và được đỡ đầu bởi nhà khoa học Mai Thị Tấn. Bà đã nhân giống loại cây này trên toàn quốc và đã điều chế từ bụp giấm như trà, mứt, rượu, nước cốt quả. Những sản phẩm này vừa là thực phẩm vừa có nhiều tác dụng dược lý được công nhận bởi chính những người sử dụng nó nên bụp giấm ngày càng được ưa chuộng và trở nên gần gũi hơn trong đời sống.
Cây bụp giấm có tên khoa học là Hibiscus sabdariffa L., thuộc họ bông. Cây cao từ 1,5-2m, thân màu lục hoặc đỏ tía, phân nhánh gần gốc, cành nhẵn hoặc hơi có lông. Lá mọc so le, lá ở gốc nguyên, lá phía trên chia 3-5 thùy hình chân vịt , mép có răng cưa. Hoa đơn độc, mọc ở nách, gần như không có cuống, đường kính từ 8-10cm. Tràng hoa màu vàng hồng hay tía, có khi trắng. Quả nang hình trứng, có lông thô mang đài màu đỏ sáng tồn tại bao quanh quả. Hạt màu đen, gần tròn và thô, chứa nhiều tinh dầu.
Đài hoa bụp giấm là một loại dược liệu rất có lợi cho sức khỏe. Tính theo hàm lượng chất khô đài hoa bụp giấm chứa khoảng 1,5% anthocyanin, axit hữu cơ khoảng 15-30%, các vitamin A, B1, B2, C, E, F và nhiều loại khoáng chất như sắt, đồng, canxi, magie, kẽm…Đài hoa bụp giấm chứa một loại chất chống oxy hóa rất hiếm là Flavonoid lên tới 12%. Chất này oxy hóa chậm hay ngăn cản một cách hữu hiệu quá trình oxy hóa của các gốc tự do, có thể là nguyên nhân khiến các tế bào họat động khác thường. Từ đó giúp làm chậm quá trình lão hóa. Theo nghiên cứu của nhà khoa học dinh dưỡng Diane McKay và đã được trình bày trong hội nghị thường niên của Hiệp hội Tim mạch Mỹ đã chỉ ra rằng: “Chỉ với ba tách trà đài hoa bụp giấm mỗi ngày sẽ hỗ trợ giảm cao huyết áp của những người có nguy cơ mắc các bệnh về tim, đột qụy hay các vấn đề về thận”.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ với đề tài: Nghiên cứu đa dạng di truyền nguồn gen bông cỏ (Gossypium arboreum L.) phục vụ lập bản đồ gen kháng bệnh xanh lùn, cho các bạn làm luận văn tham khảo
luận văn nghiên cứu chiết tách xác định thành phần hóa học hoa atiso doLe Ngoc
Từ năm 1992, cây bụp giấm đã du nhập vào Việt Nam và được đỡ đầu bởi nhà khoa học Mai Thị Tấn. Bà đã nhân giống loại cây này trên toàn quốc và đã điều chế từ bụp giấm như trà, mứt, rượu, nước cốt quả. Những sản phẩm này vừa là thực phẩm vừa có nhiều tác dụng dược lý được công nhận bởi chính những người sử dụng nó nên bụp giấm ngày càng được ưa chuộng và trở nên gần gũi hơn trong đời sống.
Cây bụp giấm có tên khoa học là Hibiscus sabdariffa L., thuộc họ bông. Cây cao từ 1,5-2m, thân màu lục hoặc đỏ tía, phân nhánh gần gốc, cành nhẵn hoặc hơi có lông. Lá mọc so le, lá ở gốc nguyên, lá phía trên chia 3-5 thùy hình chân vịt , mép có răng cưa. Hoa đơn độc, mọc ở nách, gần như không có cuống, đường kính từ 8-10cm. Tràng hoa màu vàng hồng hay tía, có khi trắng. Quả nang hình trứng, có lông thô mang đài màu đỏ sáng tồn tại bao quanh quả. Hạt màu đen, gần tròn và thô, chứa nhiều tinh dầu.
Đài hoa bụp giấm là một loại dược liệu rất có lợi cho sức khỏe. Tính theo hàm lượng chất khô đài hoa bụp giấm chứa khoảng 1,5% anthocyanin, axit hữu cơ khoảng 15-30%, các vitamin A, B1, B2, C, E, F và nhiều loại khoáng chất như sắt, đồng, canxi, magie, kẽm…Đài hoa bụp giấm chứa một loại chất chống oxy hóa rất hiếm là Flavonoid lên tới 12%. Chất này oxy hóa chậm hay ngăn cản một cách hữu hiệu quá trình oxy hóa của các gốc tự do, có thể là nguyên nhân khiến các tế bào họat động khác thường. Từ đó giúp làm chậm quá trình lão hóa. Theo nghiên cứu của nhà khoa học dinh dưỡng Diane McKay và đã được trình bày trong hội nghị thường niên của Hiệp hội Tim mạch Mỹ đã chỉ ra rằng: “Chỉ với ba tách trà đài hoa bụp giấm mỗi ngày sẽ hỗ trợ giảm cao huyết áp của những người có nguy cơ mắc các bệnh về tim, đột qụy hay các vấn đề về thận”.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ với đề tài: Nghiên cứu đa dạng di truyền nguồn gen bông cỏ (Gossypium arboreum L.) phục vụ lập bản đồ gen kháng bệnh xanh lùn, cho các bạn làm luận văn tham khảo
1. huối
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Cây chuối)
Đối với các định nghĩa khác, xem Chuối (định hướng).
Chuối
Phân loại khoa học
Giới (regnum) Plantae
(không phân hạng) Angiospermae
(không phân hạng) Monocots
(không phân hạng) Commelinids
Bộ (ordo) Zingiberales
Họ (familia) Musaceae
Chi (genus) Musa
2. Các loài
Có nguồn gốc lai ghép; xem văn bản
Chuối là tên gọi các loài cây thuộc chi Musa; trái của nó là trái cây được ăn rộng rãi nhất.
Những cây này có gốc từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, nó được trồng
khắp vùng nhiệt đới.[1]
Chuối được trồng ở ít nhất 107 quốc gia.[2]
Ở nhiều vùng trên thế giới và trong thương mại,
"chuối" là từ thường được dùng để chỉ các loại quả chuối mềm và ngọt. Những giống cây
trồng có quả chắc hơn được gọi chuối lá. Cũng có thể cắt chuối mỏng, sau đó đem chiên
hay nướng để ăn giống như khoai tây. Chuối khô cũng được nghiền thành bột chuối.
Quả của những cây chuối dại (ở Việt Nam còn gọi là chuối rừng) có nhiều hột lớn và cứng.
Nhưng hầu hết loại chuối được buôn bán để ăn thiếu hột (xem Trái cây không có hột) vì đã
được thuần hóa lâu đời nên có bộ nhiễm sắc thể tam bội. Có hai loại chuối cơ bản: các
dạngchuối tráng miệng có màu vàng và được ăn khi chín, còn các loại chuối nấu được nấu
khi còn màu xanh. Hầu hết chuối được xuất khẩu thuộc về loại đầu tiên; tuy nhiên, chỉ
khoảng 10–15% tổng sản lượng chuối được xuất khẩu. Hoa Kỳ và các nước trong Liên minh
châu Âu nhập khẩu chuối nhiều nhất.
Mục lục
[ẩn]
• 1 Thực vật học
• 2 Lịch sử
• 3 Hình ảnh
• 4 Chú thích
• 5 Xem thêm
• 6 Liên kết ngoài
Thực vật học[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm: Danh sách các giống chuối
Cây chuối thuộc về họ Chuối. Nó được trồng chủ yếu để lấy trái cây của nó, và ở mức
độ ít hơn là thân và để trang trí. Vì cây thường mọc lên cao, thẳng, và hơi vững, nó
thường bị lầm lẫn với thân cây thật, trong khi "thân" chính của nó là một "thân giả" (tiếng
Anh: pseudostem). Thân giả của một số loài có thể cao tới 2–8 m, với lá kéo dài 3,5 m.
Mỗi thân giả có thể ra 1 buồng chuối màu vàng, xanh, hay ngay cả màu đỏ, trước khi
chết và bị thay bằng thân giả mới. Quả của những cây chuối dại (ở Việt Nam còn gọi là
chuối rừng) có nhiều hột lớn và cứng. Nhưng hầu hết loại chuối được buôn bán để ăn
thiếu hột (xem Trái cây không có hột) vì đã được thuần hóa lâu đời nên có bộ nhiễm sắc
thể đa bội (thường là tam bội). Cây thường mọc thành bụi và được trồng bằng cách tách
rời cây non đem trồng thành bụi mới.
Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới 20 quả, và mỗi buồng có 3–20
nải. Các nải nhìn chung gọi là một buồng, nặng 30–50kg. Một quả trung bình nặng
125 g, trong số đó vào khoảng 75% là nước và 25% là chất khô. Mỗi quả riêng có vỏ dai
chung quanh thịt mềm ăn được. Vỏ và thịt đều ăn được ở dạng tươi hay đã qua chế
3. biến (nấu). Những người phương Tây thường ăn thịt chuối còn tươi và vứt vỏ, trong khi
một số nước Á Đông nấu rồi ăn cả vỏ và thịt. Quả chuối thường có nhiều sợi (gọi là bó
libe) nằm giữa vỏ và thịt. Chuối chứa nhiềuvitamin B6, vitamin C và kali.
Hoa chuối điển hình với hoa đực ở đầu và hoa cái mọc trên cao hơn hoa đực
Cây chuối có thân giả lên tới 6–7,6 m, mọc lên từ một thân ngầm. Lá chuối ra theo hình
xoắn và có thể kéo dài 2,7 m và rộng 60 cm.[3]
Cây chuối là loài thân thảo lớn nhất.[4]
Hoa
chuối thường lưỡng tính, đầu hoa thường ra một hoa đực riêng, không sinh sản, còn
được gọi là bắp chuối, nhưng đôi khi có thể ra thêm – một thân cây chuối
ở Hinigaran, Negros Occidental, Philippines ra năm hoa.[5]
Bắp chuối được dùng như rau
ở Đông Nam Á; nó được hấp, trộn salad, hoặc ăn sống.[6]
Các hoa cái ở trên hoa đực và
không cần được thụ phấn để tạo quả chuối.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Phạm vi phân bố của tổ tiên của chuối ăn hiện đại. Musa acuminatađược thể hiện trong màu xanh lá
cây vàMusa balbisiana trong màu cam.[7]
Chuối được thuần hóa ở Đông Nam Á. Nhiều loài chuối dại vẫn còn mọc lên ở New
Guinea, Malaysia, Indonesia, vàPhilippines. Gần đây, di tích về khảo cổ học và môi
trường cổ tại đầm lầy Kuk ở tỉnh Cao nguyên Tây, Papua New Guinea gợi ý rằng chuối
được trồng ở đấy bắt đầu trễ nhất năm 5000 TCN, nhưng có thể từ 8000 TCN.[8]
Vụ
khám phá này có nghĩa rằng cao nguyên New Guinea là nơi mà chuối được thuần hóa
đầu tiên. Có lẽ những loài chuối dại khác được trồng ở những vùng khác tại Đông Nam
Á.
Một số vùng cô lập ở Trung Đông có thể nuôi chuối từ thời gian trước khi Hồi giáo ra
đời. Có chứng cớ trong văn kiện rằng nhà tiên tri Muhammad biết ăn nó. Sau đó, văn
minh Hồi giáo trải ra nhiều nước, và chuối đi theo. Những văn kiện Hồi giáo (như là bài
thơ và truyện thánh) nói đến nó nhiều lần, bắt đầu từ thế kỷ 9. Vào thế kỷ 10, những văn
kiện Palestine và Ai Cập đã nói đến chuối; từ đấy, chuối lan qua Bắc Phi và Tây Ban
4. Nha Hồi giáo. Thực tế là vào thời Trung cổ, chuối từ Granada (Tây Ban Nha) được coi
là những chuối ngon nhất trong thế giới Ả Rập.[9]
Các phytolith được khám phá trong một số cây chuối hóa thạch ở Cameroon từ thiên
niên kỷ 1 TCN[10]
đã gây ra cuộc tranh luận về lúc bắt đầu trồng cây chuối ở châu Phi. Có
chứng ngôn ngữ học rằng người Madagascar đã biết về chuối vào lúc đó.[11]
Trước các
khám phá này, chứng cớ sớm nhất về sự trồng chuối ở châu Phi có từ cuối thế kỷ 6 CN
về sau.[12]
Người Hồi giáo Ả Rập chắc buôn chuối từ bờ biển đông của châu Phi đến bờ
biển Đại Tây Dương và về phía nam tới Madagascar.[9]
Năm 650, quân đội Hồi giáo
mang chuối đến vùng Palestine.