SlideShare a Scribd company logo
1 of 175
Download to read offline
Pamela Drucberman
V.
Đứngvịtrísố Isách bánchạy trẽnSundayTimes
'Ả
Trẻ emPháp không ném thức
ăn
K
hi con gái tôi được 18 tháng tuổi, chồng tôi và tôi quyết định cho bé đi cùng trong
một kỳ nghỉ hè ngắn. Chúng tôi chọn một thị trấn ở ven bờ biển, cách nhà vài giờ
đi tàu và không quên dặn đi dặn lại khách sạn chuẩn bị cho mình một phồng có
giường cũi cho em bé.
Chúng tôi dùng bữa sáng ở khách sạn. Nhưng bữa trưa và tối chúng tôi ăn ở những
nhà hàng hải sản nhỏ quanh bến cảng. Chúng tôi nhanh chóng phát hiện rằng hai bữa ăn
nhà hàng một ngày đã bị một đứa trẻ mói chập chững biến thành địa ngục. Bean rất lười
ăn, nó chỉ ăn một mẩu bánh mì và nhấm nháp một vài món rán. Sau đó, nó chỉ thích nghịch
ngựm và phá phách. Chỉ vài phút sau, bé bắt đầu làm đổ lọ muối và xé tan nát mấy gói
đường, giấy ăn... Rồi bé đòi nhảy khỏi cái ghế cao của mình để có thể chạy quanh nhà hàng
và lao rầm rập về phía bến cảng.
Phưong châm của chúng tôi là kết thúc bữa ăn thật nhanh. Chúng tôi gọi món trong lúc
ổn định chỗ ngồi, rồi năn nỉ người phục vụ mang nhanh ra một ít bánh mì và mang tất cả
đồ ăn của chúng tôi, cả món khai vị và các món chính, ra cùng một lúc. Trong khi chồng tôi
ăn mấy miếng cá thì tôi phải đảm bảo là Bean không bị người phục vụ đá phải hay lạc mất
ngoài biển. Rồi chúng tôi đổi lại. VI áy náy, chúng tôi để lại một khoản tiền boa lớn để đền
bù cho cả một “chiến trường” toàn những giấy ăn bị xé và món mực tung tóe quanh bàn.
Trên đường về khách sạn, tôi đã thề sẽ không bao giờ đi du lịch, vui choi, thậm chí
cũng không muốn có thêm bất kỳ đứa con nào nữa. Kỳ nghỉ này càng cho tôi thấy đưực
rằng, cuộc sống vui vẻ, thoải mái của vợ chồng tôi cách đó 18 tháng đã vĩnh viễn biến mất.
Sau vài bữa ăn tại nhà hàng, tôi nhận ra rằng các gia đình Pháp quanh mình không khổ
sở như chúng tôi. Thật kỳ lạ, họ vẫn được tận hưởng kỳ nghỉ theo đúng nghĩa dù họ có con
nhỏ. Lũ trẻ con Pháp tầm tuổi như Bean ngồi ngoan ngoãn trên ghế, đợi thức ăn được bung
lên, chúng ăn cá, thậm chí ăn cả rau. Không có tiếng la hét hay khóc mè nheo. Tất cả mọi
người đều thưởng thức món ăn của mình. Và cũng không có mảnh vụn nào vưong vãi xung
quanh bàn của họ.
Dù đã sống ở Pháp vài năm, nhưng tôi vẫn không thể giải thích đưực điều này. Trong
tình cảnh khốn khổ của chúng tôi, dù không thể thay đổi được, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng
dường như có một cách khác. Nhưng chính xác nó là gì? Liệu có phải là ngay từ trong gen
di truyền trẻ em Pháp đã ngoan ngoãn, điềm tĩnh hon con chúng ta? Liệu chúng có bị dụ dỗ
hay đe dọa? Chúng có phải chịu một triết lý nuôi dạy trẻ lạc hậu chỉ thấy mà không nghe
của cha mẹ chúng không?
Mọi thứ dường như không như vậy. Những đứa trẻ Pháp xung quanh chúng tôi trông
không có vẻ gì là sự hãi. Chúng rất vui vẻ, hay nói và ham hiểu biết. Cha mẹ chúng rất tình
cảm và chu đáo. Dường như có một sức mạnh giáo hóa vô hình nào đó trên bàn ăn của họ -
và tôi bắt đầu thấy nghi ngờ, điều có trong cuộc sống của họ - lại không có trong cuộc sống
của chúng tôi?
Tôi bắt đầu suy nghĩ về cách dạy con của các bậc cha mẹ người Pháp, vì nhận ra rằng
mọi chuyện không chỉ khác biệt trong các bữa ăn. Tôi đặt ra rất nhiều câu hỏi. Ví dụ như tại
sao trong hàng trăm lần đi choi ở công viên, tôi chưa bao giờ thấy một đứa trẻ Pháp nào tỏ
ra mất bình tĩnh, cáu kỉnh, giận dữ (ngoại trừ con tôi)? Tại sao những người bạn Pháp của
tôi không phải vội vàng tắt điện thoại khi con họ đòi cái gì đó? Tại sao phòng khách của họ
không bao giờ phải bày la liệt đồ choi, thậm chí phải dựng lều, làm bếp ăn đồ choi cho lũ
trẻ, như cách mà chúng tôi đang phải trải qua?
Và nhiều hon nữa. Tại sao nhiều trẻ em Mỹ tôi gặp lại có một chế độ ăn riêng hoặc chỉ
ăn những thức ăn dành riêng cho trẻ, trong khi những trẻ em Pháp, bạn của con gái tôi lại
ăn được cả cá, rau xanh và ăn tất cả những gì người khác ăn? Ngoại trừ một khoảng thòi
gian nhất định vào buổi chiều, còn trẻ em Pháp chẳng bao giờ đòi ăn vặt.
Tôi không hề nghĩ rằng mình sẽ ngưỡng mộ phưong pháp làm cha mẹ của Pháp. Nó
không phải một điều đặc biệt, như thòi trang hay pho mát Pháp. Chẳng có ai tói Paris để
vùi đầu vào quan điểm của người dân noi đây về quyền cha mẹ. Ngược lại: một người mẹ
Mỹ mà tôi biết ở Paris phát hoảng lên khi thấy các bà mẹ Pháp hiếm khi cho con bú và để
cho đứa con 4 tuổi của mình ngậm ti giả chạy quanh.
Vậy thì làm sao họ lại chưa bao giờ chỉ ra rằng có rất nhiều trẻ em Pháp bắt đầu ngủ
xuyên đêm ở hai hay ba tháng tuổi? vì sao họ không nhắc đến việc trẻ em Pháp không đòi
hỏi sự chú ý thường xuyên của người lớn, và rằng các bé dường như có khả năng nghe từ
“không” mà không bị chán nản?
Chẳng thấy ai buồn đoái hoài gì đến tất cả những điều này. Nhưng càng ngày tôi càng
thấy rõ các cha mẹ Pháp đang tạo ra đưực bầu không khí hoàn toàn khác cho cuộc sống gia
đình của mình. Khi các gia đình người Mỹ tói nhà tôi choi, cha mẹ thường phải dành rất
nhiều thòi gian làm trọng tài trong các cuộc cãi vã giữa những đứa con, hoặc giúp đỡ những
đứa con mói chập chững biết đi chạy loanh quanh trong bếp hay ngồi xếp hình Lego. Ở đó
luôn có tiếng khóc và tiếng dỗ dành. Nhưng khi bạn bè người Pháp tói nhà tôi, thì chúng tôi
cùng ngồi uống cà phê, còn những đứa con của họ vui vẻ tự choi vói nhau.
Cha mẹ Pháp rất quan tâm tói con cái. Nhưng họ không quá lo lắng về tình trạng sức
khỏe của con mình. Cách nhìn nhận điềm tĩnh này giúp họ làm tốt hon trong việc thiết lập
những giói hạn cho trẻ cũng như trong việc trao cho trẻ quyền tự chủ.
Tại Pháp, tôi nhìn thấy một kiểu nuôi dạy trẻ hoàn toàn khác ở Mỹ. Sự tò mò của một
nhà báo cùng vói sự tuyệt vọng của một người mẹ đã kích thích tôi vào cuộc. Vào cuối kỳ
nghỉ kinh khủng của mình, tôi quyết định tìm hiểu xem đâu là điều khác biệt của các bậc
cha mẹ Pháp? Tại sao trẻ em Pháp không ném thức ăn? Tại sao các bậc cha mẹ Pháp lại
không phải là những bậc cha mẹ hay la hét? Sức mạnh giáo hóa, vô hình trong tay các bậc
cha mẹ Pháp là gì? Tôi có thể thay đổi và áp dụng nó cho những đứa con của mình không?
Tôi nhận ra sự khác biệt qua một nghiên cứu do một nhà kinh tế học thực hiện tại
Princeton. Nghiên cứu này so sánh kinh nghiệm chăm sóc trẻ của các bà mẹ có hoàn cảnh
tương tự nhau tại hai thành phố Columbus (Mỹ) và Rennes (Pháp). Kết quả cho biết việc
chăm sóc con cái khiến các bà mẹ Mỹ mệt mỏi hon gấp hai lần so vói các bà mẹ Pháp. Sự
khác biệt này tôi đã quan sát khi đến Paris và trong lần trở lại Mỹ: có một cách gì đó khiến
việc nuôi dạy con của cha mẹ Pháp đỡ vất vả và thú vị hon.
Tôi tin chắc rằng nhũng bí mật trong việc nuôi dạy con của cha mẹ Pháp đang ẩn giấu
trong những điều rất đon giản, chỉ có điều trước đó không ai nhìn ra. Tôi bắt đầu để một
cuốn sổ ghi chép vào túi và luôn mang theo khi đi ra ngoài. Tất cả nhũng lần tói bác sỹ
khám bệnh, đi ăn tối, vui choi đều trở thành cơ hội để tôi quan sát các hành động của cha
mẹ Pháp và tìm ra đâu là quy luật bất thành văn mà họ đang áp dụng.
Ban đầu rất khó nói. Cha mẹ Pháp dường như rất dung hòa giữa hai thái cực vừa cực
kỳ nghiêm khắc vừa hết sức dễ dãi. Có thẩm vấn họ thì cũng không rút ra được gì. Hầu hết
những bậc cha mẹ mà tôi nói chuyện đều khẳng định rằng họ không làm bất cứ điều gì đặc
biệt.
Qua nhiều năm và sau khi đã sinh hai đứa con tại Paris, tôi đã lần ra những manh mối.
Tôi tìm đọc những cuốn sách về nuôi dạy con. Tôi phỏng vấn nhiều bậc cha mẹ và các
chuyên gia. Thậm chí tôi còn nghe lén nhiều người trong khi đi siêu thị. Rốt cuộc, tôi nghĩ
mình đã khám phá ra điều khác biệt của cha mẹ Pháp trong nuôi dạy con cái.
Khi tôi nói “các bậc cha mẹ Pháp” là tôi đang nói một cách khái quát, chứ thật ra mỗi
người mỗi khác. Hầu hết các cha mẹ mà tôi gặp họ đều sống tại Paris và vùng ngoại ô Paris,
họ đều có trình độ đại học, có công việc chuyên môn và có mức thu nhập trên mức thu nhập
trung bình của người Pháp. Tôi đang so sánh họ vói các bậc cha mẹ Mỹ.
Mặc dù vậy, khi tôi đi vòng quanh nước Pháp, tôi thấy rằng quan điểm cơ bản của
những người Paris trung lưu về cách khuyến khích trẻ khá giống vói quan điểm của những
bậc cha mẹ thuộc tầng lóp lao động sống tại các tỉnh lẻ nước Pháp. Thực vậy, tôi thấy rằng
trong khi các bậc cha mẹ Pháp có lẽ không biết chính xác điều họ đang làm, nhưng dường
như tất cả họ đều làm những điều ít nhiều tương tự nhau. Các luật sư khá giả, các nhân
viên chăm sóc tại các trung tâm, các giáo viên trường công hay những cụ già đã từng trách
móc tôi trong công viên, tất cả họ đều nói về những nguyên tắc cơ bản giống nhau. Dường
như họ đang thực hành tất cả những điều đã được viết trong các cuốn sách về trẻ em Pháp
và những tạp chí dành cho cha mẹ mà tôi đã đọc. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng việc có một
đứa trẻ trong các gia đình Pháp không phụ thuộc vào việc lựa chọn một triết lý nuôi dạy
con. Tất cả mọi người đều ít nhiều có những nguyên tắc cơ bản.
Tại sao lại là Pháp? Chắc chắn tôi không có một sự thiên vị, ủng hộ Pháp. Ngược lại, tôi
còn không chắc rằng tôi thích sống ở đây. Nhưng kiểu nuôi dạy con của người Pháp lại là
bức tranh làm nền hoàn hảo cho những vấn đề hiện tại trong cách nuôi dạy con của người
Mỹ. Các bậc cha mẹ người Paris rất hào hứng khi nói về con cái mình, chỉ ra những tố chất
bẩm sinh của chúng, đọc rất nhiều sách về trẻ em. Họ dạy con choi tennis, cho con tham gia
các lóp học vẽ và đưa chúng đi tham quan các bảo tàng.
Tuy nhiên, người Pháp biết cách nuôi dạy con nên họ không cảm thấy bị áp lực. Họ cho
rằng cha mẹ không nhất thiết lúc nào cũng phải kè kè đi theo chăm sóc, phục vụ con mình
và cha mẹ không cần có cảm giác tội lỗi về điều đó. “Vói tôi, tất cả mọi buổi tối là dành cho
gia đình”, một bà mẹ người Pháp nói vói tôi. “Con gái tôi có thể ở vói chúng tôi nếu con bé
muốn, nhưng đó là thòi gian dành cho người lớn.” Các cha mẹ Pháp đều muốn choi vói con
mình, nhưng không phải trong tất cả mọi thòi gian. Trong khi những đứa trẻ Mỹ mói chập
chững biết đi đã đưực cha mẹ thuê gia sư về dạy đọc thì khi đó những đứa trẻ Pháp chỉ học
đi.
Tại Pháp có tất cả các loại dịch vụ công có thể đảm bảo rằng việc nuôi một đứa trẻ sẽ
không khiến các bậc cha mẹ quá căng thẳng, mệt mỏi. Phụ huynh không phải đóng tiền học
phí cho trẻ đi học mẫu giáo, không phải lo lắng về bảo hiểm sức khỏe hay tiền học phí sau
này. Rất nhiều người được nhận tiền mặt hàng tháng - đưực trực tiếp gửi vào tài khoản
ngân hàng của họ - chỉ để phục vụ cho việc chăm nuôi trẻ.
Nhưng những dịch vụ công đó cũng không giải thích được sự khác biệt của cha mẹ
Pháp mà tôi đã chứng kiến. Người Pháp dường như có cả một khuôn khổ hoàn toàn khác
để nuôi dạy trẻ. Khi tôi hỏi các cha mẹ Pháp họ đã rèn luyện những đứa trẻ của mình như
thế nào, thì phải mất ít giây bối rối họ mói hiểu điều tôi hỏi. “À, bạn muốn nói rằng chúng
tôi đã giáo dục những đứa trẻ của mình ra sao ư?” Họ hỏi. “Rèn luyện”, tôi sớm nhận ra
rằng từ đó quá hạn hẹp, chỉ là một loại hiếm khi-được dùng để chỉ sự trừng phạt. Trong khi
đó “giáo dục” (không theo nghĩa phải đến trường học) lại là điều gì đó mà các cha mẹ Pháp
hình dung về chính bản thân họ khi nuôi dạy con trẻ.
Trong nhiều năm nay, có rất nhiều bài viết tuyên truyền về phưong pháp nuôi dạy con
kiểu Mỹ hiện thòi. Có hàng tá cuốn sách cung cấp cho người Mỹ về những lý thuyết để có
thể trở thành những bậc cha mẹ khác biệt.
Tôi không có một lý thuyết nào. Cái mà tôi có, đang trải ra trước mắt tôi, là một xã hội
vói đầy đủ chức năng của nó vói những bậc cha mẹ ngủ tốt, ăn ngon và thư giãn họp lý. Tôi
đang bắt đầu vói kết quả đó và làm việc hết sức để tìm hiểu xem người Pháp đã thực hiện
những điều đó như thế nào. Nó chỉ ra rằng có một kiểu cha mẹ khác biệt, và bạn không chỉ
cần một triết lý nuôi dạy con khác biệt. Bạn chỉ cần có cái nhìn khác biệt về những gì thực
sự có ở một đứa trẻ.
Chương I
Bạn đangmong chờmột đứa con?
L
úc đó là 10 giờ sáng, Trưởng ban biên tập cho gọi tôi lên văn phòng
của ông và bảo tôi đi chăm sóc răng. Ông nói rằng kế hoạch chăm sóc
răng của tôi sẽ kết thúc vào ngày cuối cùng của tôi ờ tờ báo. Tức là
trong năm tuần nữa.
Ngày hôm đó, hon 200 người chúng tôi bị cắt giảm. Tin đó nhanh
chóng làm giá cổ phiếu công ty mẹ tăng mạnh. Tôi có sở hữu một ít cổ phần
và có thể tính đến chuyện bán - vì sự trớ trêu chứ không phải vì lựi nhuận
- để thu lòi từ chính vụ sa thải của mình.
Thay vào đó, tôi lại thẫn thờ đi lang thang quanh khu hạ Manhattan.
Vừa vặn, tròi đổ mưa. Tôi đứng dưói rìa cửa và gọi cho ngưòi đàn ông mà
tối đó tôi định gặp.
“Em vừa bị đuổi việc,” tôi nói.
“Em có suy sụp không?” Anh hỏi. “Em vẫn muốn đi ăn tối chứ?”
Thực ra, tôi thấy nhẹ người. Cuối cùng tôi cũng thoát ra được khỏi công
việc mà - sau gần sáu năm - tôi vẫn không đủ can đảm để từ bỏ. Tôi là
phóng viên cho một tòa soạn nước ngoài ở New York, chuyên viết tin về
khủng hoảng điện năng và tài chính ở Mĩ La tinh. Tôi vẫn thường bị phái đi
đột ngột, chỉ thông báo trước vài giờ, rồi dành cả tuần sống trong khách
sạn. Đã có lúc, các sếp trông đựi những điều tuyệt vòi ở tôi. Họ đã nói về
chức vụ chủ bút^1). Họ đã trả tiền để tôi học tiếng Bồ Đào Nha.
Rồi họ không kỳ vọng vào tôi nữa. Và kỳ lạ thay, tôi thấy chuyện đó
cũng không sao. Tôi rất thích các bộ phim về phóng viên nước ngoài.
Nhưng thực sự ở vị trí đó lại là một việc khác. Tôi thường xuyên chỉ có một
mình, bị trói vào một câu chuyện không có hồi kết, nhận những cuộc gọi từ
những biên tập viên lúc nào cũng muốn nhiều hon nữa. Có lúc tôi hình
dung tin tức giống như là một con bò đấu bằng máy. Những đồng nghiệp
nam của tôi có thể xoay xở để đón những cô vự người Costa Rica hay
Colombia đi theo họ. Hoặc ít nhất họ cũng được ăn tối tại bàn khi về tói
nhà. Nhưng những người đàn ông mà tôi hẹn hò cùng thì ít cơ động hơn.
Vả lại, tôi hiếm khi ở trong thành phố đủ lâu để tói được cuộc hẹn thứ ba.
Tôi thấy nhẹ nhõm khi ròi khỏi tờ báo. Nhưng tôi chưa sẵn sàng trở
thành một kẻ ăn hại cho xã hội. Trong khoảng một tuần sau vụ sa thải, tôi
vẫn tói văn phòng, đồng nghiệp cư xử như thể tôi bị bệnh truyền nhiễm.
Những người tôi đã làm việc cùng nhiều năm tròi chẳng nói chẳng rằng và
tránh bàn tôi ngồi. Một người làm cùng mòi tôi đi ăn một bữa trưa chia
tay, rồi không đi cùng vói tôi vào tòa nhà. Rất lâu sau khi tôi dọn dẹp đồ
của mình, biên tập viên của tôi, một kẻ hèn nhát, nhất định bảo tôi trở lại
văn phòng cho một cuộc phỏng vấn đáng xấu hổ nào đó, ông gợi ý là tôi
nên nộp đơn cho một vị trí thấp hơn, rồi vội vã đi ăn trưa.
Đột nhiên tôi nhận ra rất rõ hai điều: Tôi không muốn viết về chính trị
hay tiền bạc nữa. Và tôi muốn có một người bạn trai. Tôi đang đứng trong
một căn bếp rộng một mét, băn khoăn không biết nên làm gì vói phần đòi
còn lại của mình thì Simon gọi. Chúng tôi gặp nhau sáu tháng trước trong
một quán bar ở Buenos Aires, khi một người bạn chung đưa anh tói buổi
giao lưu của các phóng viên nước ngoài. Anh là một nhà báo người Anh, đã
đến Argentina được mấy ngày để viết một câu chuyện về bóng đá. Tôi được
cử tói để nắm tình hình sụp đổ kinh tế của đất nước này. Hóa ra, chúng tôi
lại đi cùng chuyến bay từ New York. Anh nhớ tôi là cô gái đã lên máy bay
muộn, và dù đã đứng giữa các hàng ghế, tôi nhận ra mình đã để quên chỗ
đồ mua miễn thuế ở phòng chờ và khăng khăng quay lại để tìm. (Tôi mua
sắm chủ yếu ở các sân bay.)
Simon chính là gu của tôi: ngăm đen, rắn chắc và thông minh. (Về sau
anh thêm từ “thấp” vào danh sách này, dù chiều cao ở mức phổ biến nhưng
anh lại lớn lên ở Hà Lan, giữa những người khổng lồ tóc vàng.) Chỉ trong
mấy tiếng gặp gỡ vói anh, tôi nhận ra rằng “tình yêu sét đánh” nghĩa là
ngay lập tức cảm thấy vô cùng bình yên bên ai đó.
Tôi choáng ngọp, nhưng cũng ngập ngừng. Simon vừa tránh thị trường
bất động sản London để mua một căn hộ rẻ tiền ở Paris. Tôi thì đi đi lại lại
giữa Nam Mĩ và New York. Một mối quan hệ xa xôi cách trở vói ai đó ở cái
lục địa thứ ba này có vẻ là một sự cố gắng quá sức. Sau buổi gặp ử
Argentina đó, chúng tôi thỉnh thoảng vẫn liên lạc qua thư điện tử. Nhưng
tôi cố kiềm chế cảm xúc của mình. Tôi hy vọng rằng ở múi giờ của mình
cũng có một người đàn ông ngăm đen, thông minh.
Thấm thoắt đã qua bảy tháng. Khi Simon bất ngờ gọi điện và tôi nói vói
anh rằng tôi vừa bị sa thải, anh không hề tỏ ra ngạc nhiên hay đối xử vói tôi
như thứ đồ bỏ đi. Ngưực lại, dường như anh hài lòng vì đột nhiên tôi lại có
chút thòi gian rỗi. Anh nói rằng anh cảm thấy chúng tôi có “việc còn dang
dở,” và rằng anh muốn tói New York.
“Đó là một ý tưởng tệ hại,” tôi nói. Đê làm gì chứ? Anh không thể
chuyển tói Mỹ, bởi vì anh viết về bóng đá Châu Âu. Tôi không nói tiếng
Pháp, và chẳng bao giờ tính đến chuyện sống ở Paris cả. Dù bỗng nhiên
đưực khá thoải mái di chuyển, tôi lại lo lắng sẽ bị kéo vào quỹ đạo của một
ngưòi khác trước khi kịp có lại một quỹ đạo cho mình.
Simon tói New York, vẫn chiếc áo khoác da ấn tưựng anh mặc hồi ở
Argentina, mang theo bánh mì vòng và cá hồi xông khói anh mua đưực
trong một cửa hàng đồ ăn ngon gần căn hộ của tôi. Một tháng sau, tôi gặp
cha mẹ anh ở London. Sáu tháng sau, tôi bán phần lớn của cải của mình và
chuyển phần còn lại sang Pháp. Bạn bè đều nghĩ rằng tôi đang vội vàng
quá. Tôi lờ họ đi và bước khỏi căn nhà thuê xinh xắn của mình ở New York
vói ba vali đồ khổng lồ và một chiếc hộp đựng tiền xu Nam Mĩ, tôi sẽ tặng
nó cho anh chàng lái xe người Pakistan, người sẽ đưa tôi ra sân bay.
Và, hô biến, tôi trở thành một ngưòi Paris. Tôi chuyển vào căn hộ dành
cho người độc thân vói hai phòng, ở một vùng làm mộc cũ phía Đông Paris.
Tôi bỏ nghề làm báo mảng tài chính và bắt đầu nghiên cứu một cuốn sách.
Cả ngày, Simon và tôi mỗi ngưòi làm việc ở một phòng.
Ánh sáng trong sự lãng mạn mói mẻ của chúng tôi gần như tắt lịm ngay
lập tức, chủ yếu là do các vấn đề về nội thất. Tôi từng đọc trong một cuốn
sách về Phong Thủy rằng trên sàn nhà mà có hàng chồng đồ đạc là dấu hiệu
của sự tuyệt vọng. Vói Simon, điều đó chỉ là dấu hiệu của sự căm ghét mấy
cái giá để đồ. Anh đã khéo léo đầu tư vào một chiếc bàn gỗ đang làm dở to
tướng, choán gần hết phòng khách, và một hệ thống sưởi ga từ thòi tiền sử
- đảm bảo nguồn nước nóng rất bất ổn. Tôi đặc biệt khó chịu vói thói quen
để đám tiền lẻ trong túi vưong vãi khắp sàn của anh, chẳng biết làm sao
đám tiền ấy lại tụ hết vào mấy góc ở mỗi phòng. “Vứt tiền đó đi,” tôi nài nỉ.
Ớbên ngoài căn hộ của chúng tôi, tôi cũng không thấy thoải mái gì. Dù
đang ở giữa thủ đô ẩm thực của thế giói nhưng tôi vẫn không thể xác định
đưực nên ăn cái gì. Cũng như phần lớn phụ nữ Mỹ, tôi tói Paris vói sở
thích ăn uống rất nghiêm ngặt. (Tôi là một người ăn kiêng theo khuynh
hướng Atkins^2).) Đi dạo quanh, tôi cảm thấy như bị đám thực đon toàn
bánh mì và nặng về thịt của các nhà hàng bủa vây. Có một dạo, tôi sống thoi
thóp gần như chỉ vói món trứng tráng và sa lát pho mát dê.
Khi tôi yêu cầu người phục vụ “để nước sốt riêng một bên,” họ nhìn tôi
như thể tôi bị điên. Tôi không hiểu vì sao các siêu thị của Pháp cung cấp tất
cả các loại ngũ cốc Mỹ, trừ loại tôi yêu thích, Grape-Nuts, và vì sao các quầy
cà phê lại không phục vụ sữa không béo.
Tôi biết, không ngất ngây Paris thì có vẻ như thật không biết thưởng
thức. Và công bằng mà nói, tôi bắt đầu nghĩ rằng vấn đề không phải là ở
Paris, mà là ở tôi. New York muốn phụ nữ ở đó hoi điên loạn một chút. Họ
đưực khuyến khích tạo ra quanh mình những lộn xộn thông minh, đáng
yêu, mâu thuẫn - như Sallyte) trong bộ phim Khi Harry gặp Saỉỉy (When
Harry meet Sally), hay Annie Hall(4) trong bộ phim cùng tên. Nhiều bạn bè
ở New York của tôi chi tiền cho trị liệu nhiều hon cả tiền thuê nhà.
Tính cách đó không theo máy bay theo tói Paris. Người phụ nữ Paris
điển hình thì điềm đạm, giản dị, hoi xa cách và cực kỳ quyết đoán. Cô ấy gọi
đồ từ thực đon. Cô không ba hoa về tuổi thơ hay chế độ ăn của mình. Nếu
ở New York, phụ nữ cứ nghiền ngẫm về những rắc rối trong quá khứ của
mình và dọa dẫm đi tìm lại chính mình, thì ở Paris họ lại là người - ít nhất
là vẻ ngoài - chẳng hối tiếc gì cả.
Ngay cả Simon, một người Anh thuần, cũng phải lúng túng trước cách
tôi hoài nghi bản thân và thường xuyên yêu cầu phải nói chuyện về quan hệ
của chúng tôi.
“Anh đang nghĩ về cái gì vậy?” Tôi hỏi anh theo thói quen, thường là lúc
anh đang đọc báo.
“Bóng đá Hà Lan,” câu trả lòi bao giờ cũng thế.
Ớbên ngoài căn hộ của chúng tôi, tôi cũng không thấy thoải mái gì. Dù
đang ở giữa thủ đô ẩm thực của thế giói nhưng tôi vẫn không thể xác định
đưực nên ăn cái gì. Cũng như phần lớn phụ nữ Mỹ, tôi tói Paris vói sở
thích ăn uống rất nghiêm ngặt. (Tôi là một người ăn kiêng theo khuynh
hướng Atkins^2).) Đi dạo quanh, tôi cảm thấy như bị đám thực đon toàn
bánh mì và nặng về thịt của các nhà hàng bủa vây. Có một dạo, tôi sống thoi
thóp gần như chỉ vói món trứng tráng và sa lát pho mát dê.
Khi tôi yêu cầu người phục vụ “để nước sốt riêng một bên,” họ nhìn tôi
như thể tôi bị điên. Tôi không hiểu vì sao các siêu thị của Pháp cung cấp tất
cả các loại ngũ cốc Mỹ, trừ loại tôi yêu thích, Grape-Nuts, và vì sao các quầy
cà phê lại không phục vụ sữa không béo.
Tôi biết, không ngất ngây Paris thì có vẻ như thật không biết thưởng
thức. Và công bằng mà nói, tôi bắt đầu nghĩ rằng vấn đề không phải là ở
Paris, mà là ở tôi. New York muốn phụ nữ ở đó hoi điên loạn một chút. Họ
đưực khuyến khích tạo ra quanh mình những lộn xộn thông minh, đáng
yêu, mâu thuẫn - như Sallyte) trong bộ phim Khi Harry gặp Saỉỉy (When
Harry meet Sally), hay Annie Hall(4) trong bộ phim cùng tên. Nhiều bạn bè
ở New York của tôi chi tiền cho trị liệu nhiều hon cả tiền thuê nhà.
Tính cách đó không theo máy bay theo tói Paris. Người phụ nữ Paris
điển hình thì điềm đạm, giản dị, hoi xa cách và cực kỳ quyết đoán. Cô ấy gọi
đồ từ thực đon. Cô không ba hoa về tuổi thơ hay chế độ ăn của mình. Nếu
ở New York, phụ nữ cứ nghiền ngẫm về những rắc rối trong quá khứ của
mình và dọa dẫm đi tìm lại chính mình, thì ở Paris họ lại là người - ít nhất
là vẻ ngoài - chẳng hối tiếc gì cả.
Ngay cả Simon, một người Anh thuần, cũng phải lúng túng trước cách
tôi hoài nghi bản thân và thường xuyên yêu cầu phải nói chuyện về quan hệ
của chúng tôi.
“Anh đang nghĩ về cái gì vậy?” Tôi hỏi anh theo thói quen, thường là lúc
anh đang đọc báo.
“Bóng đá Hà Lan,” câu trả lòi bao giờ cũng thế.
đều kèm theo một nụ cười nhếch mép. Ấy thế nhưng anh gần như không
bao giờ thực sự cười to, ngay cả khi tôi cố tình đùa. (Mấy người bạn thân
của anh còn không biết rằng anh có má lúm đồng tiền.)
Simon khăng khăng rằng không cười là một thói quen của người Anh.
Nhưng tôi chắc chắn đã nhìn thấy người Anh cưòi. Và dù sao thì, thật là
thất vọng ê chề khi mà cuối cùng lúc tôi đưực nói tiếng Anh vói ai đó, anh
ta lại dường như chẳng buồn nghe.
Cái sự không cười đó cũng vạch ra một hố ngăn cách về văn hóa sâu
hon giữa chúng tôi. Là một người Mỹ, tôi cần tất cả mọi chuyện đều đưực
nói ra. Trên chuyến tàu trở lại Paris sau một kỳ nghỉ cuối tuần vói cha mẹ
Simon, tôi hỏi anh liệu họ có thích tôi không.
“Tất nhiên bố mẹ thích em rồi, em không nhận thấy à?” Anh hỏi.
“Nhưng bố mẹ có nói ra là họ thích em không?” Tôi cự nự.
Đê tìm kiếm sự bầu bạn khác, tôi cày cuốc dọc khắp thành phố vói cả
loạt các “cuộc gặp bạn bè bất ngờ”^ vói những người bạn của đám bạn ở
nhà. Phần lớn cũng là người sống xa nhà. Chẳng ai có vẻ vui mừng khi lắng
nghe một người mói tói đang hoang mang cả. Khá nhiều người dường như
đã coi “sống ở Paris” là một công việc, và là câu trả lòi đa dụng cho câu hỏi
“Bạn làm gì?” Nhiều người tói muộn, như là để chứng minh rằng họ đã
thành dân bản địa. (Về sau tôi biết được rằng người Pháp thường đến đúng
giờ trong các buổi gặp hai ngưòi vói nhau. Họ chỉ lịch sự đến muộn trong
các sự kiện nhóm, trong đó có sinh nhật trẻ em.)
Những nỗ lực ban đầu của tôi để kết bạn vói ngưòi Pháp còn kém
thành công hon. Trong một buổi tiệc, tôi bắt chuyện tưong đối tốt vói một
nhà lịch sử nghệ thuật, người cũng tầm tuổi tôi và nói tiếng Anh rất tốt.
Nhưng khi chúng tôi gặp lại nhau để uống trà ở nhà cô thì rõ ràng là chúng
tôi tuân theo những nghi thức gắn bó giữa phụ nữ hoàn toàn khác biệt. Tôi
sẵn sàng để làm theo phong cách kiểu Mỹ, nghĩa là thú nhận và đồng cảm,
liên tục hùa theo “mình cũng thế”. Cô thanh nhã khều khều miếng bánh
nướng và thảo luận về lý thuyết nghệ thuật. Tôi ra về đói meo và thậm chí
không biết cô có bạn trai hay không.
Sự đồng cảm duy nhất tôi nhận đưực là từ một cuốn sách của Edmund
White, một nhà văn Mỹ sống ở Pháp những năm 1980. Ông là người đầu
tiên xác nhận rằng cảm giác tuyệt vọng và choi voi là một phản ứng tuyệt
đối họp lý khi sống ở Paris. “Hãy hình dung chết đi và biết OTL vì bạn đã
đưực lên thiên đường, cho tói một ngày (hoặc một thế kỷ) bạn bừng tỉnh ra
rằng tâm trạng chủ đạo của mình là u uất, dù bạn liên tục được thuyết phục
rằng hạnh phúc chỉ nằm ngay ở góc đường kia thôi. Điều đó cũng giống
như sống ở Paris trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỉ. Nó là một địa
ngục êm dịu, thoải mái đến nỗi gần giống như thiên đường.”
Bất chấp những nghi ngại về Paris của mình, tôi vẫn khá chắc chắn về
Simon. Tôi đã trở nên cam chịu cái sự thật rằng “ngăm đen” hiển nhiên là
gắn liền vói “bừa bộn”. Và tôi cũng đọc đưực những biểu hiện nhỏ trên mặt
anh tốt hon. Một thoáng nụ cưòi nghĩa là anh hiểu câu chuyện đùa. Nụ
cưòi trọn vẹn hiếm hoi gợi ý sự tán dưong nhiệt liệt. Thậm chí thi thoảng
anh còn nói “cái đó buồn cười thật đấy” bằng một giọng đều đều.
Tôi cũng đưực khích lệ nhờ sự thật là, đối vói một người thô lỗ như
vậy, Simon lại có hàng tá bạn bè thân thiết, lâu năm. Có lẽ chính là thế, phía
sau lóp vỏ châm biếm, anh là một anh chàng bất lực đáng yêu. Anh chất
đầy tủ lạnh của chúng tôi bằng những hàng hóa đóng hộp chưa được mở.
Đê tiết kiệm thòi gian, anh nấu tất cả mọi thứ ở nhiệt độ cao. (Bạn cùng
học về sau nói vói tôi rằng anh nổi tiếng ở trường vì dọn lên món chân gà
nướng bên ngoài cháy đen còn bên trong vẫn đông đá.) Khi tôi chỉ cho anh
cách làm nước sốt sa lát bằng dầu ăn và dấm, anh viết lại công thức, và
hàng năm tròi sau vẫn lôi công thức ra mỗi khi làm bữa tối.
Cũng vẫn là về Simon, chẳng có gì ở Pháp khiến anh phiền lòng cả. Anh
là một ngưòi ngoại quốc từ trong máu. Cha mẹ anh là những nhà nhân loại
học, nuôi anh lớn lên trên khắp thế giói, và từ lúc chào đòi, anh đã đưực họ
đào tạo để dam mê các phong tục địa phưong. Lên 10 tuổi, anh đã sống &
sáu nước (tính cả một năm ở Mỹ). Anh học thêm ngoại ngữ không khác gì
tôi mua thêm giày.
Tôi quyết định rằng, vì Simon, tôi sẽ dốc hết lòng cho Paris. Chúng tôi
làm lễ cưới trong một tòa lâu đài từ thế kỷ XIII phía ngoài Paris vói hào
bao quanh. (Tôi sẽ lờ đi ý nghĩa tưựng trung cho cái hào ấy.) Nhân danh sự
hòa họp trong hôn nhân, chúng tôi thuê một căn hộ lớn hon. Tôi đặt làm
giá sách từ hãng Ikea, và để các bát đụng tiền lẻ trong tất cả các phòng. Tôi
cố gắng tập trung vào con người thực dụng bên trong thay vì nội tâm luôn
luôn bấn loạn của mình. Ớ các nhà hàng, tôi bắt đầu gọi đồ trực tiếp từ
thực đon và thi thoảng nhấm nháp một miếng gan ngỗng vỗ béo thật to.
Tiếng Pháp của tôi bắt đầu bót giống tiếng Tây Ban Nha xuất sắc và bắt đầu
giống tiếng Pháp dở tệ rồi. Chẳng bao lâu cuộc sống của tôi đã gần như ổn
định: Tôi có một văn phòng tại nhà, một thòi hạn phải giao sách, và thậm
chí cả vài người bạn mói nữa.
Simon và tôi cũng đã nói chuyện về việc có con. Chúng tôi đều muốn có
một đứa. Thực ra là tôi thích ba. Và tôi thích cái ý tưởng nuôi con ở Paris,
noi chúng sẽ dễ dàng nói được cả hai thứ tiếng và là công dân quốc tế đích
thực. Ngay cả nếu chúng có lớn lên để trở thành mấy kẻ lập dị, chúng vẫn
có thể nhắc tói việc “lớn lên ở Paris” và ngay lập tức trở nên sành điệu.
Tôi lo lắng về việc mang thai. Cả quãng đòi trưởng thành của mình, tôi
đã nỗ lực rất nhiều để không có thai ngoài ý muốn. Tôi hoàn toàn không
biết liệu mình có tí chút năng khiếu nào cho hướng ngưực lại không. Việc
này hóa ra lại cũng nhanh chóng như thòi gian tán tỉnh của chúng tôi. Ngày
hôm trước, tôi đang tra Google “Làm thế nào để có bầu?” thì dường như
ngay ngày hôm sau, tôi nhìn thấy hai vạch màu hồng trên que thử thai của
Pháp.
Quyết tâm giảm bứt chất “phụ nữ Mỹ” và tăng chất “phụ nữ Pháp” của
tôi lập tức sụp đổ. Đây dường như không phải lúc để tỏ ra là ngưòi bản địa.
Tôi bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng mình phải giám sát chặt chẽ quá trình
mang thai và làm cho thật chính xác. Vài tiếng sau khi báo tin cho Simon,
tôi lên mạng đê sục sạo mấy website về mang thai của Mỹ và hối hả mua
những tài liệu hướng dẫn mang thai ở các quầy bán sách tiếng Anh. Tôi
muốn biết, bằng tiếng Anh thuần túy, chính xác mình phải chú ý điều gì.
Trong mấy ngày, tôi nghiền ngẫm các loại vitamin trước khi sinh và
đâm ra nghiện mục “Việc đó có an toàn không?”(6) và luôn tìm hiểu những
điều nên và không nên trong thòi gian mang thai trên trang BabyCenter.
Những người Mỹ mà tôi biết cũng tin rằng mang thai - và rồi làm mẹ -
sẽ đi kèm vói bài tập về nhà. Bài tập đầu tiên là chọn lựa giữa hàng vô số
những phong cách làm cha mẹ. Tất cả những người tôi xin lòi khuyên lại
giói thiệu đầy tin tưởng những cuốn sách khác nhau. Nhưng thay vì khiến
tôi cảm thấy sẵn sàng hon, quá nhiều lòi khuyên mâu thuẫn khiến cho bọn
trẻ con trở nên bí ẩn và khó hiểu. Chúng là ai và chúng cần gì dường như
phụ thuộc vào việc bạn đọc cuốn sách nào.
Và tôi trở thành chuyên gia trong tất cả những vấn đề thường gặp khi
mang bầu. Trong một bữa trưa, một chị đang mang bầu ngưòi New York
sống ở Paris tuyên bố rằng có năm phần nghìn cơ hội con của chị sẽ bị chết
non. Chị nói rằng dù biết nói như thế là rất kinh khủng và chẳng để làm gì,
nhưng chị không thể kiềm chế được mình. Một người bạn khác, bất hạnh
thay lại có bằng tiến sĩ ngành sức khỏe cộng đồng, lại dành ba tháng đầu
thai kỳ để xếp loại các rủi ro mắc phải tất cả các chứng bệnh có thể có của
trẻ.
Vói quá nhiều nghiên cứu và lo âu, mang thai ngày càng chiếm hết tâm
trí tôi. Tôi dành ngày càng ít thòi gian hơn cho cuốn sách của mình, kế
hoạch là tôi phải nộp trước khi em bé ra đòi. Thay vào đó, tôi liên hệ vói
những bà mẹ mang bầu khác ở Mỹ trong các phòng chat của nhóm những
người đang chờ ngày sinh nở. Giống như tôi, những người phụ nữ này đã
quen vói việc điều chỉnh môi trường của mình, thậm chí nếu việc đó chỉ là
cho sữa đậu nành vào cà phê. Và giống như tôi, họ thấy cái sự kiện nguyên
thủy, mang đặc tính của động vật có vú đang diễn ra bên trong cơ thể họ,
quả là vượt ra ngoài tầm kiểm soát đến mức khó chịu. Lo âu - cũng giống
như nắm chặt lấy chỗ để tay trong lúc máy bay đang rung chuyển - ít nhất
cũng khiến chúng ta cảm thấy nó không đến nỗi không kiểm soát được.
Báo chí về mang thai của Mỹ, nguồn thông tin mà tôi có thể dễ dàng
tiếp cận từ Paris, dường như xếp hàng chờ để truyền dẫn nỗi bất an này.
Nó tập trung vào một điều mà phụ nữ mang thai chắc chắn có thể kiểm
soát: thực phẩm. Các tác giả của cuốn Điều cần biết khi mang thai (What to
Expect When You’re Expecting), cẩm nang mang thai gây lo lắng nổi tiếng
- và bán chạy nhất - của Mỹ nói rằng: “Khi bạn đưa dĩa lên miệng, hãy cân
nhắc: ‘Miếng này liệu có có lựi cho con mình không?’ Nếu có, cứ nhai thoải
mái...”
Tôi biết rằng những điều cấm đoán trong mấy cuốn sách của mình
không quan trọng ngang nhau. Thuốc lá và rượu nhất định là xấu, trong khi
sò, thịt nguội, trứng sống và pho mát chưa tiệt trùng thì chỉ nguy hiểm nếu
chúng bị nhiễm một số loại khuẩn hình que salmonella hiếm gặp. Nhưng
để cho an toàn, tôi tuân thủ chặt chẽ tất cả các điều cấm. Để tránh sò và gan
ngỗng vỗ béo thì đơn giản. Nhưng - vì tôi đang ở Pháp - tôi phát hoảng lên
vì pho mát. “Pho mát Parma trên món mì pasta của tôi đã được tiệt trùng
chưa?” tôi hỏi người phục vụ bàn đang sửng sốt. Simon là người phải chịu
đựng nhiều nhất trong nỗi sợ hãi của tôi: “Anh đã rửa sạch thớt sau khi
chặt gà sống chưa?” “Anh có thực sự yêu đứa con chưa ra đòi không?”
Cuốn Điều cần biết (What to Expect) có một nội dung gọi là Chếđộ ăn
dành cho người mang thai. Ớ đó khẳng định có thê “cải thiện sự phát triển
não của bào thai,” giảm nguy cơ của một số khuyết tật bẩm sinh,” và “thậm
chí có thể giúp con bạn lón lên thành một người khỏe mạnh”. Dường như
mỗi món ăn đều đại diện cho điểm SAT^) tiềm năng. Đừng lo đói: nếu tôi
phát hiện ra mình thiếu một lượng protein vào cuối ngày, Chếđộ ăn dành
cho người mang thai nói rằng tôi nên nhồi thêm một suất sa lát trứng cuối
cùng trước khi đi ngủ. Họ đã hạ gục tôi vói từ “ăn kiêng”. Sau bao nhiêu
năm tròi ăn kiêng để gầy bớt, thật đáng sợ khi “ăn kiêng” để tăng cân.
Chẳng khác gì một phần thưởng vì đã dành nhiều năm thon gọn đủ để tóm
cổ một anh chồng. Các diễn đàn trực tuyến của tôi đầy những bà mẹ tăng
quá so vói giói hạn quy định. Tất nhiên chúng ta ai cũng thích được như
những minh tinh mang bầu gọn gàng trong những tấm áo choàng thòi
thượng của mình, hay những cô người mẫu trên bìa tạp chí Fit Pregnancy.
Tôi cũng có quen một số chị em quả thực được như thế. Nhưng một thông
điệp cạnh tranh của Mỹ lại nói rằng chúng ta nên để cho mình được tự do.
“Cứ thoải mái ĂN đi,” tác giả thân thiện của cuốn Hư&ng dẫn chân tình
nhất cho phụ nữ mang thai (Best Friends’ Guide to Pregnancy), cuốn sách
gối đầu giường của tôi, đã nói, “Phụ nữ mang thai còn thú vui nào nữa?”
Không chỉ đánh mất vóc dáng của mình mà nguy hiểm hơn là tôi còn
không có thòi gian để tận hưởng cuộc sống. Giờ tôi dành thòi gian rỗi để
nghiền ngẫm về các loại xe đẩy lỗi mốt và ghi nhớ những nguyên nhân có
thể có của những cơn đau bụng. Sự tiến hóa từ “phụ nữ” sang “bà mẹ”
dường như quá hiển nhiên. Một trang quảng cáo trên một tờ tạp chí mang
thai của Mỹ mà tôi mua trong một chuyến đi hồi còn ở nhà có hình ảnh
mấy người phụ nữ trong những chiếc sơ mi mềm cùng quần ngủ nam, rồi
nói rằng những trang phục này đáng để mặc suốt cả ngày. Có lẽ để khỏi
phải hoàn thành xong cuốn sách của mình, tôi đã mơ tưởng đến chuyện bỏ
luôn nghề báo và quay sang học đỡ đẻ.
Tình dục đích thực là quân cờ đôminô cuối cùng đổ xuống. Mặc dù về
cơ bản thì chuyện đó là được phép, những cuốn sách như Điều cần biết
(What to Expect) cho rằng quan hệ tình dục trong quá trình mang thai sẽ
làm tử cung co bóp mạnh. “Hoạt động đã đưa bạn vào tình huống này bây
giờ có thể trở thành một trong những vấn đề lớn nhất của bạn,” các tác giả
cảnh báo. Họ tiếp tục mô tả 18 yếu tố ngăn cản cuộc sống tình dục của bạn,
bao gồm cả “sợ rằng việc đưa dưong vật vào âm đạo sẽ gây nhiễm trùng”.
Thòi gian này, để tốt cho sức khỏe và đòi sống tình dục sau sinh, họ
khuyên các bà bầu nên sử dụng thòi gian rảnh rỗi để thực hành bài tập
Kegel, bài tập tác động vào các múi cơ vùng xương chậu, tử cung bàng
quang và ruột; tăng độ co của âm đạo.
Tôi không chắc có ai tuân theo tất cả những lòi khuyên này không.
Cũng như tôi, chắc họ chỉ hấp thụ được một tinh thần đó là tâm lý lo lắng.
Hiện tượng này rất dễ lây lan, ngay cả từ nước ngoài, vốn là một người dễ
bị tác động, có khi lại tốt hơn khi tôi ở cách xa nguồn lây nhiễm. Có thể
khoảng cách sẽ cho tôi chút ít góc nhìn về vấn đề làm cha làm mẹ.
Tôi cũng đã bắt đầu ngờ rằng nuôi một đứa trẻ ở Pháp sẽ tương đối
khác. Khi tôi ôm cái bụng to đùng ngồi trong các quán cà phê ở Pháp, chẳng
có ai nhảy bổ tói để cảnh báo tôi về các hiểm họa của caffeine cả. Ngược lại,
họ đốt thuốc ngay bên cạnh tôi. Câu hỏi duy nhất mà những người lạ đặt
ra, khi họ để ý tói bụng tôi, là “Cô đang đợi một em bé à?” Mất một thòi
gian tôi mói nhận ra là họ không nghĩ rằng tôi có hẹn ăn trưa vói một cậu
nhóc 6 tuổi lêu lổng. Câu này ở Pháp có nghĩa là “Cô đang có bầu đúng
không?”
Tôi đang chờ một em bé. Đó rất có thể là điều quan trọng nhất tôi từng
làm. Bất chấp những dằn vặt về Paris của tôi, có điều gì đó thật dễ chịu khi
mang bầu ở một nơi mà tôi thực sự được miễn nhiễm vói những đánh giá
của người khác.
Khi thu dọn đồ đạc và chuyển tói Paris, tôi không bao giờ tưởng tượng
được rằng sự thay đổi lại là việc mang thai. Giờ tôi bắt đầu lo lắng rằng
Simon có vẻ hơi bị quá giống vói một người ngoại quốc. Sau khi sống ở tất
cả những đất nước kia trong quá trình trưởng thành, đó là trạng thái tự
nhiên của anh. Anh thú nhận là anh cảm thấy gắn bó vói nhiều con người
và thành phố, và không cần một nơi để gọi là mái nhà chính thức của mình.
Anh gọi phong cách này là “chung vách”, giống như dạng nhà liền kề ở
London.
Đã có vài người bạn Anglophone^8) ròi khỏi Pháp, thường là khi công
việc của họ thay đổi. Nhưng công việc của chúng tôi không đòi hỏi chúng
tôi phải ở đây. Không tính đến đĩa pho mát, thực sự chúng tôi ở đây chẳng
vi lý do gì cả. Và “không lý do” - cộng vói một em bé - bắt đầu có vẻ là lý do
mạnh nhất.
Chương 2
Mang thãi Vãsinh con ở Phắp
C
ăn hộ mói của chúng tôi không có mặt trong các tấm bưu thiếp của
Paris. Nó nằm bên vệ đường một khu phố may mặc của người Hoa,
ở đây, chúng tôi liên tục bị mấy người tha lôi những túi rác đựng
toàn quần áo xô đẩy. Chẳng có dấu hiệu nào chứng tỏ chúng tôi đang ở
cùng thành phố vói tháp Eiffel, nhà thờ Đức Bà hay dòng sông Seine uốn
lượn thanh lịch.
Vậy mà, bằng cách nào đó, láng giềng mói lại họp vói chúng tôi. Simon
và tôi mỗi người chọn một quán cà phê gần nhà và rút vào đó mỗi sáng để
gặm nhấm chút niềm vui đưực ở riêng một mình. Ớ đây, các nguyên tắc xã
hội tuân theo những luật lệ xa lạ. Nói năng suồng sã vói người phục vụ thì
không sao, nhưng vói những khách hàng quen khác thì nói chung là không
đưực (trừ khi họ ngồi ở quầy và cũng đang trò chuyện vói người phục vụ).
Dù tách biệt, nhưng tôi vẫn cần mối liên hệ vói con người. Một buổi sáng,
tôi cố gắng bắt chuyện vói một khách quen khác - ngưòi mà trong mấy
tháng liền ngày nào tôi cũng nhìn thấy. Tôi nói vói anh, rất chân thành,
rằng anh trông giống một người Mỹ mà tôi biết.
“Ai cơ, George Clooney^1) ấy à?” Anh ta hỏi vói vẻ giễu cợt. Chúng tôi
không bao giờ nói chuyện thêm lần nào nữa. Tôi tiến gần hơn vói láng
giềng mói. Vỉa hè đông đúc phía ngoài ngôi nhà của chúng tôi mở lên phía
một cái sân nhỏ lát đá cuội, nơi mấy ngôi nhà và căn hộ thấp quay mặt vào
nhau. Cư dân ở đây là một tập họp của các nghệ sĩ, các chuyên gia trẻ tuổi,
những người thất nghiệp bí ẩn và những bà già đi tập tễnh xiêu vẹo trên
những viên gạch lô nhô. Chúng tôi đều sống gần nhau tói nỗi họ buộc phải
biết đến sự có mặt của chúng tôi, dù một vài người vẫn cố làm lơ.
Thật may, hàng xóm bên cạnh nhà, kiến trúc sư Anne, cũng đang mang
bầu và dự sinh trước tôi vài tháng. Dù mắc kẹt trong cơn lốc ăn uống và lo
lắng đặc trưng của dân Anglophone, tôi vẫn không thể không để ý rằng
Anna, và những phụ nữ Pháp mang thai khác mà tôi biết, đều xử lý việc
mang thai rất khác.
Đê bắt đầu, họ không đối xử vói việc mang thai như một dự án nghiên
cứu độc lập. Có rất nhiều sách, tạp chí và website về mang thai ở Pháp.
Nhưng đó không phải những thứ buộc phải đọc, và không ai ngốn ngấu cả
đống thông tin ấy cả. Tuyệt đối không một ai mà tôi gặp đi loanh quanh tìm
mua một triết lý làm cha mẹ, hay nhắc đến tên các phưong pháp khác
nhau. Không có một cuốn sách mói, dạng “phải” đọc nào, các chuyên gia
cũng không áp đặt lên các vị phụ huynh những điều tưong tự như thế.
“Mấy cuốn sách này có thể hữu ích cho những người thiếu tự tin,
nhưng tôi không nghĩ chị có thê vừa dạy con vừa đọc sách đâu. Chị phải
nghe theo cảm xúc của mình,” một người mẹ Paris nói.
Những người phụ nữ Pháp mà tôi gặp không phải ai cũng đặt nặng vấn
đề làm mẹ hay về sức khỏe của con cái họ. Họ tôn thờ, tận tụy và nhận thức
rõ về sự biến đổi to lón trong cuộc sống mà họ sắp trải qua. Nhưng họ biểu
hiện những điều này theo cách khác. Phụ nữ Mỹ thường chứng tỏ sự tận
tâm của mình bằng cách lo lắng và thể hiện ra ngoài rằng chúng tôi sẽ sẵn
sàng hy sinh như thế nào, ngay cả trong lúc mang bầu; trong khi đó, phụ nữ
Pháp biểu hiện sự tận tâm bằng vẻ bình tĩnh bên ngoài và tỏ ra là họ vẫn
chưa từ bỏ lạc thú.
Một tấm ảnh phổ biến rộng rãi trên tờN eu/M ois (Chín tháng) thể hiện
một ngưòi phụ nữ ngăm đen mang bầu nặng nề mặc bộ đồ ren, đang cắn
ngập răng một chiếc bánh nướng và liếm mứt trên ngón tay. “Trong thòi kỳ
mang thai, nuông chiều bản thân là rất quan trọng,” một bài báo khác nói.
“Trên tất cả, hãy chống lại cái cảm giác cám dỗ muốn mượn áo của bạn
đòi.” Một danh sách những yếu tố kích thích tình dục dành cho những
ngưòi sắp làm mẹ bao gồm có sô cô la, gừng, quế, và - điều này thì rất
Pháp - ria mép.
Tôi nhận ra những phụ nữ Pháp bình thường nhìn nhận những lòi kêu
gọi “nổi dậy” này rất nghiêm túc khi Samia, một ngưòi mẹ sống gần nhà
tôi, mòi tôi sang tham quan căn hộ của cô. Cô là con gái của những người
di dân từ Algeri và lón lên ở Chartres. Trong lúc cô lấy tập ảnh trên mặt lò
sưởi thì tôi đang trầm trồ khen những trần nhà cao vút và mấy chùm đèn
của cô.
“Tấm này chụp khi tôi đang mang bầu. Và đây, cái bụng to tướng!” Cô
nói, đưa cho tôi mấy tấm ảnh. Đúng thế thật, trong mấy bức ảnh đó cô cực
kỳ “bầu bí”. Đồng thòi, cô hoàn toàn không mặc áo. Tôi choáng, trước hết
là bỏi chúng tôi vẫn đang xưng hô rất xã giao vói nhau, và giờ cô lại đưa
cho tôi mấy tấm ảnh khỏa thân của chính cô một cách rất hồn nhiên.
Nhưng tôi còn ngạc nhiên vì những tấm ảnh này trông cô cực kỳ quyến rũ.
Samia trông giống như những người mẫu đồ lót trên các tạp chí, mà không
hề vận đồ lót.
Phải nói rằng, Samia lúc nào cũng hoi kiểu cách. Phần lón các ngày cô
đưa đứa con 2 tuổi tói trung tâm trông trẻ ban ngày vói vẻ ngoài như thể cô
vừa bước ra khỏi một bộ phim xã hội đen: một tấm áo choàng thắt đai lưng
gọn ghẽ, mắt kẻ viền đen và một lóp son môi đỏ tưoi mon mởn. Cô là
ngưòi Pháp duy nhất mà tôi biết có đội mũ bê rê (mũ nồi).
Tuy nhiên, Samia chỉ đon giản là tuân theo một nhận thức truyền thống
của Pháp là 40 tuần biến đổi thể chất thành một ngưòi mẹ không nên làm
cho bạn bứt nữ tính đi. Các tạp chí mang thai của Pháp không chỉ nói rằng
phụ nữ có thai có thể quan hệ tình dục; chúng còn giải thích chính xác cần
làm việc đó ra sao. Tạp chí Neu/Mois vạch ra mười tư thế quan hệ trong
thòi gian mang bầu.
Các bậc phụ huynh tưong lai của Pháp không chỉ thản nhiên hom trong
chuyện tình dục mà họ còn bình tĩnh trong cả việc ăn uống nữa. Samia nói
chuyện vói bác sỹ sản khoa mà nghe như một tiết mục kịch vui:
Cô ấy hỏi: “Bác sỹ, tôi có bầu, nhưng lại mê sò cuồng nhiệt. Tôi phải làm
gì bây giờ?” Ông ấy trả lòi: “Ăn sò đi! Rửa cho thật sạch. Nếu có ăn món
sushi thì hãy ăn ở một noi đảm bảo chất lưựng.”
Hình mẫu phụ nữ Pháp hút thuốc và uống rưựu trong suốt thai kỳ đã
lỗi thòi lắm rồi. Hầu hết những ngưòi phụ nữ tôi gặp đều nói rằng thi
thoảng lắm họ mói uống một ly sâm panh hoặc không hề uống chút rượu
nào. Tôi nhìn thấy một người phụ nữ mang thai hút thuốc đúng một lần,
trên phố. Đó có thể là điếu thuốc duy nhất trong tháng của chị ấy.
Vấn đề không phải ử chỗ cái gì cũng đưực chấp nhận, mà là phụ nữ nên
bình tĩnh và tỉnh táo. Không giống tôi, các bà mẹ Pháp mà tôi gặp phân biệt
giữa những thứ gần như chắc chắn là có hại và những thứ chỉ nguy hiểm
khi bị nhiễm bẩn. Một ngưòi khác tôi gặp trong khu láng giềng là Caroline,
một nhà vật lý trị liệu đang mang bầu bảy tháng. Cô nói rằng bác sỹ của cô
không đả động gì đến bất cứ sự kiêng cữ trong ăn uống nào, và cô cũng
không bao giờ hỏi. “Tốt hon là không biết” cô nói. Cô kể vói tôi rằng cô ăn
thịt bò tái kiểu Pháp và tất nhiên là cùng gia đình thưởng thức gan ngỗng
vỗ béo trong dịp Giáng sinh. Cô chỉ đảm bảo ăn ở các nhà hàng tốt hoặc tại
nhà. Nhưựng bộ duy nhất của cô là khi ăn pho mát chưa tiệt trùng, cô cắt
bỏ lóp vỏ ngoài.
Tôi chưa bao giờ tận mắt chứng kiến người phụ nữ mang thai nào ăn
sò. Nếu có, chắc có lẽ tôi sẽ quăng cái thân hình đồ sộ của mình qua bàn mà
ngăn họ lại. Chắc chắn họ phải ngạc nhiên lắm. Đó rõ ràng là lý do vì sao
những người phục vụ bàn ở Pháp lúng túng khi tôi tra hỏi họ về các thành
phần trong từng món. Phụ nữ Pháp thường không quá quan trọng việc đó.
Báo chí về chủ đề mang thai của Pháp không chú trọng vào những kịch
bản tình huống tệ nhất không chắc sẽ xảy ra. Ngược lại, nó gựi ý rằng điều
mà những bà mẹ tưong lai cần nhất là sự an ổn. 9 tháng spa là tựa đề của
một tạp chí Pháp. Hư&ng dẫn dành cho những ngư&i mói làm mẹ (The
Guide for New Mother), một cuốn sổ tay miễn phí do bộ y tế của Pháp hỗ
trự thực hiện, nói rằng những chỉ dẫn về ăn uống sẽ giúp trẻ “phát triển
đồng đều” và rằng phụ nữ nên tìm “niềm cảm hứng” từ những hưong vị
khác nhau. Cuốn sách tuyên bố: “Thai kỳ nên là quãng thòi gian vô cùng
hạnh phúc!”
Tất cả những thứ này có an toàn không? Có vẻ là như thế. Pháp vưựt
hẳn Mỹ ử gần như tất cả các chỉ số về sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tỉ lệ tử
vong của trẻ sơ sinh ở Pháp thấp hon 57% so vói ở Mỹ. Theo tổ chức
Uniceí, khoảng 6,6% trẻ em Pháp có cân nặng khi sinh thấp, so vói con số
8% ở trẻ em Mỹ. Nguy cơ một phụ nữ Mỹ tử vong trong thai kỳ hoặc khi
sinh nở là 1 trong 4.800 ca; ở Pháp là 1 trong 6.900 ca.
Điều thực sự khiến tôi chú ý tói thông điệp của Pháp, rằng mang thai
nên là khoảng thòi gian dễ chịu, không phải là những con số thống kê hay
những người phụ nữ mang thai mà tôi gặp gỡ, đó là một con mèo đang
mang thai. Đó là một cô mèo mảnh mai, mắt xám sống trong khoảnh sân
nhỏ của chúng tôi và sắp đến kỳ sinh nở. Chủ của nó, một họa sĩ xinh đẹp
ngoài 40, kể vói tôi rằng chị định đưa nó đi cắt buồng trứng sau khi bọn
mèo con ra đòi. Nhung chị ấy không thể làm đưực việc đó trước khi con
mèo đưực kinh qua việc sinh nở. “Tôi muốn nó đưực có trải nghiệm đó,”
chị nói.
Tất nhiên, các bà mẹ tương lai ở Pháp không chỉ bình tĩnh hơn chúng tôi.
Giống như con mèo, họ còn mảnh mai hơn nữa. Một số phụ nữ Pháp khi
mang thai có béo lên. Nhìn chung, dường như bạn càng tiến gần vào trung
tâm Paris thì tỉ lệ người béo lại càng tăng. Nhưng những người Paris trung
lưu mà tôi thấy quanh mình trông giống những người nổi tiếng Mỹ trên
thảm đỏ đến kinh ngạc. Họ có cái bụng bầu cỡ cái rổ trong môn bóng rổ
gắn vào mấy đôi chân, cánh tay và bộ hông mảnh dẻ. Nhìn từ phía sau, bạn
thường không thể đoán ra là họ đang có bầu. Có rất nhiều người mang bầu
có được vóc dáng này để tôi thôi không còn trố mắt ngạc nhiên mỗi khi đi
ngang qua một người trên vỉa hè hay trong siêu thị nữa. Chuẩn mực này
của Pháp được mã hóa rất chặt chẽ. Các tính toán cho quá trình thai sản
của Mỹ nói vói tôi rằng, vói chiều cao và hình thể của tôi, tôi phải tăng 18
kg trong quá trình mang thai. Nhưng các tính toán của Pháp lại khuyên tôi
đừng tăng quá 12 kg rưỡi. (Đến lúc tôi biết được điều này thì đã quá
muộn.)
Làm thế nào mà phụ nữ Pháp giữ được trong giói hạn này? Chính là
nhờ áp lực xã hội. Bạn bè, chị em và mẹ chồng công khai truyền đi cái
thông điệp là mang bầu không phải là cái cớ để thoải mái ăn lấy ăn để. (Tôi
thoát được điều tồi tệ nhất của việc này vì mẹ chồng tôi không phải người
Pháp.) Audrey, một nhà báo Pháp có ba con, kể vói tôi rằng cô đã cảnh cáo
cô em dâu người Đức của mình, cô này ban đầu có dáng người cao và thon
gọn.
“Ngay khi có bầu, con bé đã bắt đầu phát tướng. Tôi nhìn mà thất kinh.
Nó bảo tôi, ‘Không, ổn mà, em được phép thư giãn. Em được phép béo lên.
Không vấn đề gì đâu,’... Vói người Pháp chúng tôi, nói thế thì thật là khủng
khiếp. Chúng tôi chẳng bao giờ nói vậy cả.” Cô chêm thêm một câu cạnh
khóe dưới lốt xã hội học: “Tôi nghĩ, về vấn đề mĩ học thì dân Mỹ và Bắc Âu
dễ dãi hơn chúng tôi nhiều.” Người Pháp coi việc phụ nữ mang thai phải
đấu tranh cật lực để giữ cho vóc dáng không bị ảnh hưởng là điều đương
nhiên. Ngoài ra, bác sỹ chuyên về chân đang chăm sóc chân cho tôi cũng
khuyên rằng tôi nên xoa dầu hạnh nhân ngọt lên bụng, để tránh các vết rạn.
(Tôi làm theo rất nghiêm chỉnh và không bị vết rạn nào.) Các tạp chí về chủ
đề làm cha mẹ in những bài viết đặc biệt rất dài về vấn đề làm thế nào để
giảm thiểu tác hại của việc mang thai tói bầu ngực của bạn. (Đừng tăng quá
nhiều cân và phun nước lạnh vào ngực hàng ngày.)
Các bác sỹ Pháp coi những giói hạn tăng cân như các chỉ dụ thiêng
liêng. Người dân Anglophone sống ở Pháp thường bị sốc khi bị bác sỹ sản
khoa trách mắng vì sản phụ tăng cân, dù chỉ một chút xíu. “Chỉ là đàn ông
Pháp cố gắng giữ gìn cho người phụ nữ của họ mảnh mai thôi,” một phụ nữ
Anh, kết hôn vói một ngưòi Pháp, cạu cọ, nhớ lại mấy cuộc hẹn trước khi
sinh của mình ở Paris. Bác sỹ nhi khoa thoải mái bình luận về vòng hai của
một bà mẹ sau sinh khi người này đưa con đến kiểm tra. (Vòng bụng của
tôi chắc sẽ thu hút một cái liếc nhìn đầy lo ngại.)
Lý do chính mà phụ nữ Pháp mang thai không béo lên là do họ rất cẩn
thận, không ăn quá nhiều. Trong các tài liệu hướng dẫn mang thai của
Pháp, không có việc nhồi nhét sa lát trứng vào tối muộn, hay các chỉ dẫn ăn
nhiều hon con đói đòi hỏi nhằm cung cấp chất dinh dưỡng cho bào thai.
Một tài liệu nói rằng nếu vẫn đói, người đó có thể thêm một bữa ăn nhẹ
buổi chiều.
Trong mắt ngưòi Pháp, con thèm ăn của phụ nữ mang thai là một mối
nguy cần đưực chế ngự. Phụ nữ Pháp không để cho bản thân tin - như tôi
tùng nghe phụ nữ Mỹ phàn nàn - bào thai cần bánh pho mát.
Cẩm nang cho các bà mẹ tưong lai (Guidebook for Mothers to be), một
cuốn sách về mang thai của Pháp, nói rằng thay vì xoáy sâu vào con thèm
ăn, phụ nữ nên đánh lạc hướng cơ thể bằng cách ăn một quả táo hoặc một
củ cà rốt sống.
Điều này nghe có vẻ khổ hạnh, nhung không hề. Phụ nữ Pháp không
xem việc có bầu là một cái cớ để ăn quá nhiều, một phần là bởi vì họ không
hề từ bỏ nhũng thức ăn mà họ ưa thích - hay lén lút ăn thật nhiều mấy
món đó - trong phần lớn đoạn đòi trưởng thành của họ. Trong cuốn sách
Phụ nữ Pháp không phát phì (French Women Don’t Get Fat) của mình,
Mireille Guiliano đã giải thích: “Phụ nữ Mỹ ăn uống bí mật quá thường
xuyên, kết quả là cảm giác tội lỗi còn lớn hon cả sự thỏa mãn.” “Làm như
những sự thỏa mãn đó không hề tồn tại, hoặc cố gắng loại chúng ra khỏi
chế độ ăn trong một thòi gian dài rất có thể dẫn tói tăng cân.”
Mặc dù bác sỹ Fernand Lamaze(2) sinh ra tại Pháp nhung các biện pháp
giảm đau hiện nay lại đặc biệt phổ biến ở Pháp. Trong số các bệnh viện phụ
sản và nhà hộ sinh hàng đầu của Pháp, khoảng 87% phụ nữ sử dụng các
biện pháp này. Ớ một số bệnh viện, tỷ lệ này là 98 hay 99%.
Ớ Pháp, các bà mẹ Pháp thường chỉ hỏi tôi về noi tôi định sinh nở mà
không bao giờ hỏi sinh bằng cách nào. Họ dường như không quan tâm. Ớ
Pháp, cách bạn sinh con không quyết định vị trí của bạn trong hệ thống giá
trị hay định nghĩa bạn sẽ là kiểu cha mẹ nào. Chủ yếu, nó chỉ là một cách để
đưa con bạn từ tử cung vào vòng tay bạn một cách an toàn mà thôi.
Ớ Pháp, sinh con mà không có các biện pháp giảm đau không đưực gọi
là sinh con “tự nhiên”(3). Hiện nay, một vài bệnh viện và nhà hộ sinh ở
Pháp còn có những bể nước lớn để sinh con hoặc các trái bóng cao su
khổng lồ để chị em ôm khi lâm bồn. Nhưng không mấy phụ nữ Pháp sử
dụng những công cụ này. 1 hoặc 2% những người sinh con không giảm đau
ở Paris đó, theo tôi, hoặc chính là những người Mỹ điên rồ như tôi, hoặc là
những phụ nữ Pháp không kịp đến bệnh viện.
Ngưòi phụ nữ Pháp suồng sã nhất mà tôi biết là Hélène. Chị đưa ba
đứa nhỏ tói các cuộc cắm trại và cho chúng bú mẹ đến 2 tuổi. Lần sinh nào
Hélène cũng dùng biện pháp giảm đau. Vói chị, điều đó là điều hiển nhiên.
Sự khác biệt giữa Pháp và Mỹ trở nên cực kỳ rõ rệt trong tôi khi, qua mấy
ngưòi bạn chung, tôi gặp Jennifer và Eric. Jennifer là người Mỹ, làm việc
cho một công ty đa quốc gia ở Paris. Eric là người Pháp làm việc trong lĩnh
vực quảng cáo. Họ sống ngay ở vùng ngoại ô Paris, vói hai cô con gái. Khi
Jennifer mang thai lần đầu, Eric cho rằng họ nên tìm một bác sỹ, chọn một
bệnh viện và sinh con. Nhưng Jennifer lại mang về nhà cả chồng sách về trẻ
nhỏ và ép Eric phải nghiên cứu chúng cùng vói cô.
Eric vẫn không thể tin nổi làm thế nào mà Jennifer lại muốn lên kịch
bản cho việc sinh nở. “Cô ấy muốn sinh con trên một quả bóng và trong
một bồn tắm,” anh nhớ lại. Anh kể, vị bác sỹ nói vói cô: “Đây không phải sở
thú hay rạp xiếc, về cơ bản, chị sẽ sinh con giống như mọi người, nằm
ngửa, chân dạng. Và lý do là nếu có vấn đề xảy ra tôi có thể can thiệp đưực.”
Jennifer còn muốn sinh mà không gây mê, để cô có thể cảm nhận được
thế nào là sinh con. “Tôi chưa từng nghe thấy một người phụ nữ nào muốn
chịu đựng nhiều đến thế để có một đứa con cả,” Eric nói.
Khi Jennifer vào phòng đẻ, mọi chuyện trở nên rõ ràng rằng tất cả
những kế hoạch sinh nở của cô đã về con số không: Cô cần phải được làm
thủ thuật. Bác sỹ đưa Eric vào phòng đựi. Cuối cùng, Jennifer hạ sinh một
bé gái khỏe mạnh. Sau đó, trong phòng hồi sức, Eric kể vói cô là anh vừa ăn
một cái bánh sừng bò.
Ba năm sau, Jennifer vẫn sôi máu mỗi lần cô nghĩ đến mẩu bánh mì đó.
“Eric không hề thực sự có mặt [trong phòng đợi] trong suốt cả lúc ấy. Anh
ta ra ngoài và mua bánh sừng bò! Khi họ đẩy tôi vào phòng mổ, Eric ra khỏi
phòng khám, đi xuống phố, vào tiệm bánh và mua một đôi bánh sừng bò.
Anh ta quay về, nhá cái bánh sừng bò của mình!”
Đó không phải là điều mà Jennifer đã hình dung ra. “Chồng tôi phải
ngồi đó mà cắn móng tay, nghĩ rằng: ‘Ôi, sẽ là con trai hay con gái nhỉ?’”, cô
nói. Cô nói rằng gần phòng chờ có một cái máy bán hàng tự động. Đáng lẽ
anh đã có thể mua một túi đậu phông.
Nhưng Eric cũng nổi điên. Phải, đúng là có một cái máy bán hàng tự
động. Nhưng “lúc đó căng thẳng lắm, tôi cần một chút đường,” anh nói.
“Tôi đã chắc chắn là có một hiệu bánh ở ngay góc phố, nhưng hóa ra nó lại
xa hon một chút. Họ đón cô ấy lúc 7 giờ. Tôi biết họ sẽ chuẩn bị trong một
tiếng và vói những việc thế này, tôi nghĩ chắc cô ấy sẽ quay ra lúc 11 giờ.
Vậy nên trong cả thòi gian đó, phải, tôi dành ít nhất 15 phút để ăn cái gì
đó.”
Vói Jennifer, việc Eric theo đuổi cái bánh sừng bò một cách ích kỉ là
dấu hiệu cho thấy anh sẽ không hi sinh sự thoải mái của bản thân vì gia
đình, và đứa con mói sinh. Cô lo lắng rằng anh đầu tư không đủ vào dự án
làm cha mẹ.
Vói Eric việc đó không hề là dấu hiệu cho điều gì đó. Anh cảm thấy
mình toàn tâm toàn ý cho việc sinh nở và là một người cha cực kỳ tận tụy.
Nhưng vào thòi điểm đó, anh lại thấy bình tĩnh, vô tư và hài lòng vói bản
thân đủ để đi xuống đường. Anh muốn làm cha, nhưng anh cũng thèm một
cái bánh sừng bò.
Tôi muốn nghĩ rằng mình là kiểu người vợ sẽ không bị cái bánh sừng bò
làm cho ấm ức, hoặc ít nhất thì Simon cũng là kiểu người chồng sẽ giấu
những việc chẳng đâu vào đâu như thế. Tôi có đưa ra một kế hoạch sinh nở
dạng chỉ dành cho ngưòi lớn, ghi rõ rằng không một hoàn cảnh nào Simon
đưực phép cắt rốn cho em bé. Vì là kiểu người hét toáng lên mỗi khi triệt
lông chân nên tôi không nghĩ mình là một ứng cử viên sáng giá cho việc
sinh nở tự nhiên.
Tôi quan tâm đến chuyện tói bệnh viện đúng giờ hơn. Làm theo lòi
khuyên của một người bạn, tôi đã đăng ký sinh ở một bệnh viện tận bên kia
đầu thành phố. Nếu đứa trẻ đòi ra đòi vào giờ cao điểm thì có thể sẽ có vấn
đề.
Và đó là nếu tôi gọi được taxi. Trong giói những người Anglophone ở
Paris (những người do chỉ ở đây tạm thòi, thường sẽ không có ô tô) có lòi
đồn rằng lái xe taxi Pháp từ chối đón phụ nữ đang đau đẻ. Vì nhiều lý do
khác, sinh trên ghế sau ô tô không hề lý tưởng chút nào. Simon cũng quá
hoảng hốt dù chỉ để đọc chỉ dẫn cho các trường họp sinh khẩn cấp tại nhà
trong cuốn Điều cần biết.
Tử cung tôi bắt đầu co thắt khoảng 8 giờ tối. Như vậy nghĩa là tôi không
thể ăn món mì của Thái mà chúng tôi vừa mua. (Tôi sẽ mơ tưởng về món
mì Thái đó trên bàn đẻ.) Nhưng ít nhất thì đường phố cũng quang đãng.
Simon gọi một chiếc taxi, tôi im lặng khi lên xe. Đê cho người lái xe - một
người đàn ông để ria tầm ngoài 50 - thoải mái soi mói.
Đáng lý tôi không cần phải lo lắng gì. Ngay khi lên đường và nghe tiếng
tôi rên rỉ trên ghế sau, người lái xe trở nên ngây ngất. Ông nói ông đã đợi
cái sự kiện kịch tính này trong cả sự nghiệp tài xế của mình. Khi chúng tôi
đi qua Paris trong bóng tối, tôi nói dây an toàn và trượt xuống sàn xe, rên rỉ
vì cơn đau cứ tăng dần. Đây không phải là triệt lông chân. Tôi từ bỏ ảo
tưởng sinh con tự nhiên hão huyền. Simon mở cửa sổ, hoặc để ô tô có thêm
chút không khí hoặc để khỏa lấp tiếng ồn tôi đang gây ra.
Trong lúc đó, bác tài tăng tốc. Tôi có thể nhìn thấy đèn đường lướt vun
vút qua đầu. Ông bắt đầu kể rất to câu chuyện về sự ra đòi của chính con
mình 25 năm trước đây. “Làm ơn đi chậm lại!” tôi nài nỉ dưới sàn xe, giữa
các cơn co thắt. Simon lặng lẽ và xanh xao, nhìn chằm chằm về phía trước.
“Anh đang nghĩ gì thế?” Tôi hỏi anh.
“Bóng đá Hà Lan,” anh nói.
Khi chúng tôi tói bệnh viện, người lái xe tấp vào lối lên cấp cứu, nhảy ra
khỏi xe và chạy thật nhanh vào trong. Như thể là ông đang nóng lòng cùng
vào sinh vói chúng tôi. Một lát sau ông trở lại, mồ hôi nhễ nhại và thở hổn
hển. “Họ đang chờ hai người đấy!” Ông hét lên.
Tôi khệ nệ bước vào tòa nhà, để Simon trả tiền xe. Ngay lúc nhìn thấy
ngưòi đỡ đẻ, tôi đã tuyên bố bằng thứ tiếng Pháp rõ ràng nhất của mình:
Ve voudraỉs une pérỉdurale!” (Tôi muốn sử dụng gây tê ngoài màng cứng).
Hóa ra là bất chấp niềm đam mê giảm đau khi sinh của ngưòi Pháp,
ngưòi ta không thực hiện chúng theo yêu cầu của tôi. Người đỡ đẻ đưa tôi
vào một phòng khám để kiểm tra cổ tử cung của tôi, rồi ngước lên nhìn tôi
vói một nụ cười ngơ ngác.
Tôi mở chưa đến ba phân, so vói 10 phân cần thiết. “Phụ nữ thường
không yêu cầu giảm đau sóm như vậy,” cô nói. Cô sẽ không gọi người gây
mê đang dở tay vói món mì Thái của anh ta đến vì chuyện này.
Cô có bật lên một bản nhạc nhẹ nhàng nhất mà tôi từng nghe - một loại
nhạc ru con của Tây Tạng - và lắp cho tôi một bộ truyền nước giúp làm
giảm cơn đau. Cuối cùng, tôi thiếp đi vì kiệt sức.
Tôi sẽ không bắt bạn phải nghe chi tiết về ca sinh ngấm thuốc và êm dịu
của tôi. Nhờ có biện pháp giảm đau, quá trình rặn em bé ra có được sự
chính xác và độ mãnh liệt của một động tác yoga, không hề khó chịu. Tôi
tập trung đến nỗi thậm chí tôi còn không để ý khi cô con gái tuổi teen của
bác sỹ sản khoa, sống ở ngay góc phố, nhảy vào sau ca sinh để xin mẹ ít
tiền.
Tình cờ, chuyên gia gây mê, người đỡ đẻ và bác sỹ đều là phụ nữ.
(Simon, yên vị cách xa vị trí “chiến sự”, cũng ở đó.) Đứa bé ra đòi như mặt
tròi đang lên.
Tôi đã đọc được rằng khi sinh ra, bọn trẻ con trông giống cha mình, để
khẳng định mối quan hệ cha con và khuyến khích những ông bố kiếm tiền
cho gia đình. Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi con gái chúng tôi ra đòi là con bé
không đơn giản là giống Simon; nó giống anh y hệt.
Chúng tôi ôm con bé một lúc. Rồi họ mặc cho nó một bộ đồ kiểu Pháp
đơn giản thanh lịch được viện cấp cho, hoàn chỉnh vói một chiếc mũ chỏm
màu nâu tái trên đầu. Chúng tôi đặt cho con bé một cái tên phù họp.
Nhưng vì chiếc mũ đó, chúng tôi thường gọi nó là Bean.
Tôi ở lại viện sáu ngày, tiêu chuẩn thông thường của Pháp. Tôi thấy
chẳng có lý do gì để ra viện cả. Bữa nào cũng có bánh mì tươi nướng
(không cần phải ra ngoài để mua bánh sừng bò) và một khu vườn lốm đốm
nắng để tôi lẻn ra đi dạo. Danh sách rưựu mở rộng tại phòng bao gồm cả
sâm panh.
Như thể để nhấn mạnh rằng có những nguyên tắc làm cha mẹ chung ở
Pháp, bọn trẻ sinh ra ở đây đều đưực kèm theo các chỉ dẫn. Mỗi trẻ sơ sinh
đều đưực phát một cuốn sách bìa mềm gọi là carnet de santé(4), cuốn sách
này sẽ theo lũ trẻ đến 18 tuổi. Các bác sỹ ghi lại từng lần kiểm tra và tiêm
chủng vào cuốn sách này, điền chiều cao, cân nặng và kích thước đầu của
đứa trẻ. Cũng có cả những điều căn bản thông thường về việc nên cho trẻ
ăn gì, cách tắm cho trẻ, khi nào thì đi kiểm tra sức khỏe và làm thế nào để
nhận ra các vấn đề sức khỏe.
Cuốn sách không chuẩn bị cho tôi về sự chuyển biến của Bean. Trong
khoảng tháng đầu tiên, con bé vẫn tiếp tục trông giống hệt Simon, vói đôi
mắt và mái tóc nâu sẫm. Con bé thậm chí còn có cả má lúm đồng tiền của
anh. Nếu có gì để nghi ngừ thì đó chính là ở phía mẹ con bé. Các gen tóc và
mắt nhạt màu của tôi dường như đã thua đứt đuôi các gen ngăm đen Địa
Trung Hải của anh ngay từ vòng đầu tiên.
Nhưng ở khoảng hai tháng tuổi, Bean thay đổi hình dáng. Tóc con bé
chuyển sang vàng hoe, và đôi mắt nâu của nó thì chuyển ngờ ngợ sang màu
xanh. Em bé Địa Trung Hải bé nhỏ của chúng tôi đột nhiên trông như
ngưòi Thụy Điển.
v ề cơ bản, Bean là người Mỹ. (Con bé có thể yêu cầu quyền công dân
Pháp khi nó lớn hơn.) Nhưng tôi ngờ rằng chất Pháp trong người con bé sẽ
vượt cả tôi chỉ trong mấy tháng. Tôi không chắc liệu tôi sẽ nuôi dạy một em
bé Mỹ hay một em bé Pháp. Có lẽ chúng tôi không có sự lựa chọn nào cả.
Chương 3
/ 9 
Làmthê nào đê rèn cho béngủ
mạch cả đêm?
V
ài tuần sau khi chúng tôi đưa Bean về nhà, láng giềng trong khoảng
sân nhỏ bắt đầu hỏi: “Đêm của con bé ổn cả chứ?”
Tất nhiên là con bé không “ngoan cả đêm”. Bé mói hai tháng tuổi (rồi
ba tháng và bốn tháng). Ai cũng biết những trẻ nhỏ như vậy giờ giấc ngủ
rất bất thường. Tôi biết một vài ngưòi Mỹ - hoàn toàn do may mắn - có
con ở tuổi đó đi ngủ lúc 9 giờ tối và thức dậy lúc 7 giờ. Nhưng hầu hết
những cha mẹ mà tôi biết không có đưực một đêm ngủ liền mạch cho tói
khi con họ đưực khoảng 1 tuổi.
Tệ hon, tôi còn biết một bé 4 tuổi vẫn loanh quanh trong phòng bố mẹ
vào ban đêm.
Mấy người bạn Anglophone và gia đình tôi thông cảm vói chuyện này.
Họ hay hỏi những câu hỏi mở hon: “Con bé ngủ thế nào?” Và ngay cả câu
đó cũng không phải là một câu hỏi để lấy thông tin; nó là một cái cớ đê
những bậc phụ huynh kiệt sức đưực trút bầu tâm sự.
Vói chúng tôi, có con nhỏ tự động gắn liền vói việc bị tước đoạt giấc
ngủ. Một tựa đề trên tạp chí Daily Mail của Anh tuyên bố: “Các bậc cha mẹ
của trẻ sơ sinh mất tổng cộng SÁU THÁNG không ngủ trong hai năm đầu
của trẻ,” dẫn ra một nghiên cứu do một công ty sản xuất giường ủy quyền.
Bài báo có vẻ như đáng tin cậy đối vói người đọc. Một người bình luận:
“Đáng buồn là điều này lại đúng. Con gái 1 tuổi nhà chúng tôi không ngủ
trọn vẹn một đêm nào trong 12 tháng, và nếu chúng tôi có được bốn tiếng
để ngủ thì đó đã là một đêm an lành rồi.” Một cuộc thăm dò ý kiến do Quỹ
Giấc ngủ Quốc gia (National Sleep Foundation) của Mỹ đã tìm ra rằng 46%
trẻ chập chững đi thức giấc trong đêm, nhưng chỉ có 11% cha mẹ tin rằng
con của họ có vấn đề về giấc ngủ. Bạn bè ngưòi Anglophone của tôi có xu
hướng nhìn nhận con của mình chỉ có một nhu cầu ngủ duy nhất, và họ
phải tìm cách thích nghi. Một ngày nọ, tôi đi quanh Paris vói một người
bạn Anh khi đứa con trai mói tập đi của cô ấy trèo vào lòng, thò tay xuống
dưói áo và sờ ti mẹ, rồi ngủ ngon lành. Bạn tôi rõ ràng rất ngượng vì tôi
chứng kiến cái cảnh đó, nhưng cô thì thầm rằng đó là cách duy nhất thằng
bé chịu chợp mắt. Cô bế thằng bé đi quanh trong tư thế đó suốt 45 phút
tiếp theo.
Tất nhiên là Simon và tôi đã chọn một chiến lược ngủ. Chiến lưực của
chúng tôi đặt tiền đề trên ý tưởng rằng quan trọng là phải giữ cho bé thức
sau khi ăn.
Khi Bean ra đòi, chúng tôi thực hiện những nỗ lực to lớn để làm điều
này. Đến giờ tôi có thể nói thì nó chẳng có tác dụng gì hết.
Cuối cùng, chúng tôi loại bỏ lý thuyết này và thử các lý thuyết khác.
Chúng tôi giữ cho Bean ở giữa ánh sáng ban ngày cả ngày và ở trong bóng
tối vào ban đêm. Chúng tôi tắm bé vào cùng một thòi điểm mỗi tối và cố
gắng kéo giãn thòi gian giữa mỗi lần ăn của bé. Trong mấy ngày, tôi hầu
như không ăn gì ngoài bánh qui và pho mát Brie, sau khi ai đó nói vói tôi
rằng thức ăn giàu chất béo sẽ giúp sữa của tôi đậm đặc hon. Một người
New York ghé qua nói rằng cô đọc đưực rằng chúng tôi nên tạo những tiếng
suỵt lớn, để mô phỏng âm thanh trong tử cung. Chúng tôi ngoan ngoãn
suỵt hàng giờ liền.
Chẳng có gì có vẻ tạo nên sự khác biệt cả. Ớtháng thứ ba, Bean vẫn
thức giấc vài lần giữa đêm. Chúng tôi có một nghi thức dài mà tôi phải
theo, đó là tôi cho con bú để bé ngủ lại, rồi ôm nó trong hon 15 phút để khi
tôi đặt lại con bé xuống nôi, nó không tỉnh dậy nữa. Cái nhìn về thế giói
tương lai của Simon đột nhiên giống như một lòi nguyền: anh bị ném vào
một con khủng hoảng hàng đêm, tin rằng điều này sẽ kéo dài mãi mãi,
trong khi chứng cận thị của tôi xem ra lại có vẻ như một sự tiến hóa thiên
tài. Tôi không nghĩ xem liệu điều này có kéo dài sáu tháng nữa không (dù
nó sẽ là như vậy); tôi phải chấp nhận từ đêm này qua đêm khác thôi.
Một điều an ủi nữa là điều này hoàn toàn nằm trong dự đoán. Các bậc
cha mẹ của trẻ sơ sinh đương nhiên không được ngủ. Hầu như tất cả các
bậc cha mẹ Mỹ và Anh mà tôi biết đều nói rằng con họ bắt đầu ngủ suốt cả
đêm ở tháng thứ 8 hoặc 9, hay muộn hơn. “Như thế là thực sự sớm,” một
ngưòi bạn đến từ Vermont của Simon nói, hỏi ý kiến vự về thòi điểm mà
những lần thức dậy vào lúc 3 giờ sáng của con trai họ chấm dứt. “Khi nào
nhỉ, lúc 1 tuổi à?” Kristin, luật sư người Anh ở Paris, nói vói tôi rằng đứa
con 16 tháng tuổi của cô ngủ suốt cả đêm, rồi bổ sung: “Uhm, khi tôi nói nó
‘ngủ suốt đêm,’ nghĩa là con bé dậy hai lần. Nhưng mỗi lần chỉ có 5 phút
thôi.”
Tôi thấy đưực an ủi rất nhiều khi nghe về những bậc cha mẹ gặp nhiều
khó khăn hon tôi. Không khó để tìm thấy họ. Chị họ tôi, người ngủ cùng
vói đứa con 10 tháng tuổi, vẫn chưa thể quay lại vói công việc dạy học của
mình, một phần vì chị phải dậy cho con ăn nhiều lần trong đêm. Tôi
thường gọi điện tói để hỏi thăm, “Thằng bé ngủ thế nào?”
Câu chuyện tệ nhất mà tôi đưực nghe là của Alison, một người bạn của
bạn tôi ở thủ đô Washington. Con trai của Alison 11 tháng tuổi. Cô kể vói
tôi rằng trong sáu tháng đầu, cứ hai tiếng cô phải cho bé bú một lần. Lúc
bảy tháng tuổi, bé mói bắt đầu ngủ bốn tiếng liền. Alison - một chuyên gia
marketing vói tấm bằng của một trường đại học danh tiếng thuộc hàng Ivy
League^1) - đành nhắm mắt trước sự kiệt quệ của mình và cái thực tế là sự
nghiệp của cô đang bị đình lại. Cô cảm thấy như mình không có lựa chọn
nào khác ngoài việc tuân theo lịch ngủ dị thường và mệt mỏi của con mình.
“Rèn cho bé tự ngủ” có thể đưực coi là phưong án thay thế cho việc
thức đêm như vậy, vói cách làm này, các bậc cha mẹ để cho trẻ ở một mình
để trẻ “khóc thoải mái”. Tôi cũng nghiên cứu kỹ cả điều này. Có vẻ như nó
dành cho những bé ít nhất là sáu hay bảy tháng tuổi. Alison nói vói tôi rằng
cô đã thử cách đó một đêm, nhưng phải đầu hàng vì cảm giác bất nhẫn. Các
cuộc thảo luận trực tuyến về việc để bé tự ngủ nhanh chóng biến thành
những cuộc cãi cọ sôi nổi, ở đó, những người phản đối đánh giá rằng cách
làm này xét ở góc tốt nhất thì là ích kỉ, còn tệ nhất thì là ngược đãi. “Tôi
thấy ghê tởm việc rèn trẻ tự ngủ,” một mẹ đăng trên trang babble.com. Một
ngưòi khác viết: “Nếu bạn muốn ngủ suốt đêm - đừng có con. Hãy nhận
một đứa 3 tuổi về mà nuôi.”
Mặc dù rèn ngủ nghe có vẻ đáng sợ, Simon và tôi lại khá có cảm tình
vói phưong pháp này về mặt lý thuyết. Nhưng chúng tôi có ấn tưựng rằng
Bean còn quá nhỏ để áp dụng một hình thức quân phiệt như thế. Như
những người bạn và gia đình Anglo của mình, chúng tôi nghĩ Bean thức
giấc vào buổi đêm vì bé đói hoặc vì cần điều gì đó từ chúng tôi, hoặc chỉ vì
đó là điều mà bọn trẻ con làm. Con bé còn rất nhỏ. Vậy nên chúng tôi chiều
theo nó.
Tôi củng nói chuyện vói các cha mẹ người Pháp về giấc ngủ. Họ là hàng
xóm, người quen trong công việc, bạn bè của bạn bè. Họ đều nói rằng con
của họ bắt đầu ngủ cả đêm từ sớm hon rất nhiều. Samia nói rằng con gái
cô, giờ đã đưực 2 tuổi, bắt đầu “ngoan cả đêm” lúc sáu tuần tuổi; cô ghi lại
ngày chính xác. Stephanie, một thanh tra thuế mảnh khảnh sống trong khu
nhà chúng tôi, tỏ ra xấu hổ khi tôi hỏi con trai cô, bé Nino, bắt đầu “ngoan
cả đêm” từ lúc nào.
“Rất, rất, rất là muộn!” Stephanie nói. “Thằng bé bắt đầu ngủ ngoan cả
đêm vào tháng Mưòi một, vậy tức là... bốn tháng tuổi! Vói tôi như thế đã là
muộn lắm rồi.”
Có một số câu chuyện về giấc ngủ ở Pháp có vẻ tốt đẹp đến không
tưởng. Alexandra, làm việc tại một trung tâm chăm sóc ban ngày và sống ở
một khu ngoại ô Paris, nói rằng cả hai cô con gái của cô đều bắt đầu ngủ
suốt đêm gần như từ lúc mói sinh. “Ngay từ trong phòng sản khoa, hai đứa
đã thức dậy đòi ăn lúc khoảng sáu giờ sáng rồi,” cô kể.
Đa số những trẻ em Pháp như thế được cho ăn bằng bình, hoặc bú cả
sữa mẹ và sữa bột. Nhưng điều đó không có vẻ như tạo ra đưực sự khác
biệt quan trọng. Những trẻ em Pháp bú mẹ mà tôi gặp cũng ngoan cả đêm
từ khá sóm. Tôi gặp đưực một vài người mẹ Pháp nói rằng họ thôi cho con
bú khi đi làm trở lại, ở khoảng tháng thứ ba. Nhưng tói lúc đó con họ cũng
đã ngủ ngoan cả đêm rồi.
Ban đầu, tôi cho rằng mình chỉ gặp được một vài bậc cha mẹ may mắn
ngưòi Pháp thôi. Nhưng chẳng bao lâu, bằng chứng trở nên quá rõ ràng:
trẻ ngủ xuyên đêm từ sớm dường như là một tiêu chuẩn ở Pháp.
Cha mẹ Pháp không mong con họ sẽ ngủ ngoan ngay sau khi sinh.
Nhưng đến lúc mà những đêm đứt đoạn bắt đầu có vẻ như không thể chịu
đựng nổi nữa - thường là sau hai hay ba tháng - thì chúng thường chấm
dứt. Các bậc phụ huynh nói về những lần thức giấc giữa đêm như một vấn
đề ngắn hạn chứ không phải là kinh niên. Tất cả mọi người tôi nói chuyện
đều coi việc con họ có thể và gần như chắc chắn sẽ ngoan cả đêm ở khoảng
tháng thứ sáu và thường sóm hon nhiều là chuyện đưong nhiên. “Một số
trẻ có nhịp độ sinh hoạt lúc sáu tuần, những trẻ khác cần bốn tháng để tìm
ra nhịp độ của mình,” một bài báo trong tạp chí Maman! đưa tin. Giấc ngủ,
giấc mơ và bé (Le Sommeil, le rêve et 1’eníant), một tài liệu hướng dẫn về
giấc ngủ bán chạy hàng đầu, nói rằng giữa ba và sáu tháng, “Bé sẽ ngủ trọn
vẹn cả đêm, khoảng tám hay chín tiếng là ít nhất. Cha mẹ cuối cùng sẽ tìm
lại đưực cảm giác dễ chịu của những đêm ngủ trọn giấc.”
Tất nhiên cũng có những ngoại lệ. Đó là lý do vì sao nước Pháp có các
cuốn sách về giấc ngủ cho trẻ và các chuyên gia về giấc ngủ nhi khoa. Có
một số bé ngoan cả đêm ở hai tháng tuổi lại bắt đầu thức giấc vài tháng sau
đó. Tôi có nghe kể về những trẻ em Pháp mất đến một năm mói bắt đầu
ngoan cả đêm. Nhưng sự thật là, trong nhiều năm ở Pháp, tôi không gặp
những trẻ đó. Marion, mẹ của cô bé choi thân vói Bean, nói rằng con trai cô
ngoan cả đêm lúc sáu tháng. Đó là khoảng thòi gian dài nhất trong số
những người bạn và người quen ở Paris của tôi. Phần lớn họ đều giống
như Paul, một kiến trúc sư, anh kể rằng cậu con trai ba tháng rưỡi của
mình ngủ đủ 12 tiếng, từ tám giờ tối tói tám giừ sáng.
Điên đầu là ở chỗ, dù các cha mẹ Pháp có thể nói vói bạn chính xác khi
nào con họ bắt đầu ngủ xuyên đêm, nhưng họ lại không thể giải thích đưực
làm thế nào mà điều đó lại xảy ra. Họ không hề nhắc gì tói việc rèn ngủ,
“Ferberizing” (phưong pháp 7 ngày giúp bé ngủ ngon) - một phưong pháp
giúp bé ngủ ngon do bác sỹ Richard Ferber phát triển - hay bất cứ một
phưong pháp có tên tuổi nào khác. Thực tế, hầu hết các cha mẹ Pháp đều
có vẻ hoi khó chịu khi tôi đề cập tói vấn đề này.
Nói chuyện vói các bậc cha mẹ lớn tuổi hon cũng không giúp ích đưực
gì hon. Một nhà báo Pháp ngoài 50 tuổi - diện chân váy bút chì và đi giày
cao gót đi làm - choáng váng khi biết rằng tôi có vấn đề về giấc ngủ của
con. “Cô không thể cho con bé cái gì đó để nó ngủ sao? Cô biết đấy, thuốc
hay thứ gì đó mà bé thích?” chị hỏi. Tối thiểu nhất thì, cô nói, tôi nên để
con lại cho ai đó và đi nghỉ dưỡng ở một trung tâm làm đẹp nào đó từ một
đến hai tuần.
Tôi không gặp một cha mẹ trẻ Pháp nào cho con họ uống thuốc để ngủ
hay trốn trong phòng tắm hoi. Hầu hết đều khăng khăng rằng con họ tự
học đưực cách ngủ thẳng giấc. Stephanie, thanh tra thuế, khẳng định rằng
cô không can thiệp gì nhiều tói việc đó. “Tôi nghĩ chính là ở đứa trẻ, thằng
bé chính là người quyết định,” cô nói.
Tôi nghe được ý kiến giống như vậy từ Fanny, 33 tuổi, nhà xuất bản của
một tập đoàn tạp chí tài chính. Fanny nói rằng ở quãng ba tháng tuổi, con
trai Antoine của cô tự động bỏ bữa ăn lúc ba giờ sáng và ngủ hết đêm.
“Thằng bé quyết định ngủ,” Fanny giải thích. “Tôi không bao giờ ép
buộc điều gì. Tôi cho nó ăn lúc nó cần ăn. Nó tự điều chỉnh tất cả.”
Cha mẹ Pháp cũng có đưa ra một số mẹo giúp bé ngủ ngon. Gần như tất
cả họ đều nói rằng ở những tháng đầu, họ giữ con bên cạnh, ở noi có nhiều
ánh sáng suốt cả ngày, kể cả để ngủ trưa, và đặt các bé vào giường trong
bóng tối vào buổi đêm. Và hầu như ai cũng nói rằng, từ lúc mói sinh, họ
cẩn thận “quan sát” con mình, và rồi tuân theo “nhịp điệu” của chính các
bé. Các cha mẹ Pháp nói nhiều tói nhịp điệu đến nỗi bạn có thể sẽ nghĩ
rằng họ đang thành lập các ban nhạc rock chứ không phải là đang nuôi con
nữa.
“Từ không tói sáu tháng, tốt nhất là tôn trọng nhịp điệu ngủ của trẻ,”
Alexandra, mẹ của những bé ngủ qua đêm ngay từ lúc mói sinh, giải thích.
Tôi cũng quan sát Bean và thấy rằng nó thường thức giấc vào lúc 3 giờ
sáng. Vậy thì tại sao không có nhịp điệu nào xuất hiện trong nhà chúng tôi?
Nếu ngủ xuyên đêm “cứ thế xảy ra,” tại sao chưa thấy nó “cứ xảy ra” vói
chúng tôi?
Khi tôi trút thất vọng của mình vói Gabrielle, một trong những người
bạn Pháp tôi mói quen, cô khuyên rằng tôi nên xem cuốn sách có tên
L ’enfant et son sommeil (Trẻ nhỏ và giấc ngủ). Cô nói tác giả, Hélène De
Leersnyder, là một bác sỹ nhi chuyên sâu về giấc ngủ nổi tiếng ở Paris.
Cuốn sách rất lan man. Tôi đã quen vói loại sách về trẻ em ở dạng kỹ
năng dễ hiểu của Mỹ. Cuốn sách của De Leersnyder mở đầu bằng cách trích
dẫn lòi Marcel Proust, rồi tung ra lòi ca tụng giấc ngủ thật sâu.
Cuốn Giấc ngủ, con mơ và bé cũng nói rằng một đứa trẻ chỉ có thể ngủ
ngon một khi bé chấp nhận sự tách biệt của mình. “Khám phá ra những
đêm dài yên ả, thanh bình và chấp nhận sự đon độc, đó chẳng phải là dấu
hiệu rằng bé đã tìm lại đưực sự bình yên bên trong, rằng bé đã vượt đưực
qua nỗi buồn ư?”
Ngay cả những phần khoa học trong những cuốn sách này vẫn đầy vẻ
hiện sinh. Cái mà chúng ta gọi là “ngủ chuyển động mắt nhanh”(2) thì
ngưòi Pháp gọi là sommeil paradoxaỉ “giấc ngủ ngược đòi”, gọi như vậy là
bởi cơ thể thì tĩnh mà ý thức thì hoạt động rất mạnh. “Học cách ngủ, học
cách sống, chẳng phải là những khái niệm đồng nghĩa sao?” De Leersnyder
đặt câu hỏi.
Tôi vẫn không chắc là mình nên làm gì vói thông tin này. Tôi không tìm
một siêu lý thuyết về việc cần phải nghĩ thế nào về giấc ngủ của Bean. Tôi
chỉ muốn con bé ngủ. Làm sao tôi có thể tìm ra vì sao trẻ em Pháp ngủ rất
ngon nếu chính cha mẹ chúng cũng không lý giải được? Một bà mẹ biết
phải làm gì để có một đêm nghỉ ngoi yên lành đây?
Thật là kỳ quặc, giây phút mặc khải của tôi về quy luật ngủ của trẻ em Pháp
lại xảy ra khi tôi về thăm New York. Tôi về Mỹ để thăm gia đình, bạn bè và
cũng là để có cái cảm giác trực tiếp về một góc của nghệ thuật làm cha mẹ
kiểu Mỹ. Trong một phần của chuyến đi, tôi lưu lại Tribeca, vùng lân cận ở
khu Hạ Manhattan, noi các tòa nhà công nghiệp đã được chuyển thành các
căn hộ dịch vụ tao nhã. Tôi lang thang ở một sân chơi địa phương, tán
chuyện vói những bà mẹ khác.
Tôi đã nghĩ rằng mình hiểu các tài liệu về cách làm cha mẹ của Mỹ.
Nhưng mấy chị em ở đây lại chứng minh rõ ràng rằng tôi chỉ là một tay
nghiệp dư. Không chỉ là họ đã đọc tất cả mọi thứ, họ còn lắp ghép chính các
phong cách làm cha mẹ của mình như những trang phục thòi thượng
phong phú, đi theo các bậc thầy về giấc ngủ, kỷ luật và thức ăn riêng rẽ. Khi
tôi vô tư đề cập đến khái niệm “phong cách làm cha mẹ theo kiểu gắn bó
vói con” vói một bà mẹ ở Tribeca, cô chấn chỉnh tôi ngay. “Tôi không thích
cụm từ đó, bởi vì ai mà không gắn bó vói con mình chứ?” cô cáu kỉnh nói.
Khi câu chuyện chuyển sang việc con cái họ ngủ ra sao, tôi đã đoán
những người này sẽ đưa ra hàng đống lý thuyết, rồi sau đó buông những
lời than phiền quen thuộc kiểu Mỹ về những đứa nhỏ 1 tuổi thức giấc hai
lần một đêm. Nhưng họ lại không như thế. Thay vào đó, họ nói rằng rất
nhiều trẻ ở Tribeca ngoan cả đêm ở khoảng hai tháng tuổi. Một bà mẹ
nhiếp ảnh gia có nói rằng cô và nhiều mẹ khác đưa con tói một bác sỹ khoa
nhi ở địa phương tên là Michel Cohen.
“Ông ta là người Pháp à?”
“Phải,” cô trả lòi.
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap
Day con kieu Phap

More Related Content

What's hot

De tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voi
De tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voiDe tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voi
De tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voiHà Thu
 
Cú sốc dưỡng dục
Cú sốc dưỡng dụcCú sốc dưỡng dục
Cú sốc dưỡng dụcHà Thu
 
Giao tiep-voi-con-tre-nhu-the-nao
Giao tiep-voi-con-tre-nhu-the-naoGiao tiep-voi-con-tre-nhu-the-nao
Giao tiep-voi-con-tre-nhu-the-naoHà Thu
 
Nhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioi
Nhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioiNhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioi
Nhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioiHà Thu
 
[Sách] Hãy cười lên các con
[Sách] Hãy cười lên các con[Sách] Hãy cười lên các con
[Sách] Hãy cười lên các conĐặng Phương Nam
 
50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt con
50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt con50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt con
50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt congiangcdby05
 
Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3
Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3
Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3Hà Thu
 
Cung con-truong-thanh-1
Cung con-truong-thanh-1Cung con-truong-thanh-1
Cung con-truong-thanh-1Hà Thu
 
Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9
Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9
Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9Hà Thu
 
Giantruanchilathuthach
GiantruanchilathuthachGiantruanchilathuthach
GiantruanchilathuthachHoa Bien
 
Cho toi mot ve di tuoi tho
Cho toi mot ve di tuoi thoCho toi mot ve di tuoi tho
Cho toi mot ve di tuoi thonhatthai1969
 
Noi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noi
Noi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noiNoi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noi
Noi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noiHà Thu
 
Dám thất bại dare to fail
Dám thất bại   dare to failDám thất bại   dare to fail
Dám thất bại dare to failsuccesstuan
 
Cho tôi xin 1 vé đi tuổi thơ
Cho tôi xin 1 vé đi tuổi thơCho tôi xin 1 vé đi tuổi thơ
Cho tôi xin 1 vé đi tuổi thơHằng Six
 
Hay noi-voi-con-rang-con-gioi-lam
Hay noi-voi-con-rang-con-gioi-lamHay noi-voi-con-rang-con-gioi-lam
Hay noi-voi-con-rang-con-gioi-lamHà Thu
 
Vo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imas
Vo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imasVo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imas
Vo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imasQuang Đại Phạm
 
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm conJosé García
 
15 things that you had to learn from your child
15 things that you had to learn from your child15 things that you had to learn from your child
15 things that you had to learn from your childthuonglindo
 

What's hot (19)

De tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voi
De tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voiDe tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voi
De tro-thanh-nguoi-bo-tuyet-voi
 
Cú sốc dưỡng dục
Cú sốc dưỡng dụcCú sốc dưỡng dục
Cú sốc dưỡng dục
 
Giao tiep-voi-con-tre-nhu-the-nao
Giao tiep-voi-con-tre-nhu-the-naoGiao tiep-voi-con-tre-nhu-the-nao
Giao tiep-voi-con-tre-nhu-the-nao
 
Nhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioi
Nhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioiNhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioi
Nhung dua-tre-thong-minh-nhat-the-gioi
 
[Sách] Hãy cười lên các con
[Sách] Hãy cười lên các con[Sách] Hãy cười lên các con
[Sách] Hãy cười lên các con
 
50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt con
50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt con50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt con
50 bí quyết giúp bạn trở thành cha mẹ tuyệt vời trong mắt con
 
Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3
Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3
Cung con-trai-qua-3-nam-cap-3
 
Cung con-truong-thanh-1
Cung con-truong-thanh-1Cung con-truong-thanh-1
Cung con-truong-thanh-1
 
Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9
Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9
Nghe thuat-giao-duc-con-tu-0-9
 
Giantruanchilathuthach
GiantruanchilathuthachGiantruanchilathuthach
Giantruanchilathuthach
 
47 bài học
47 bài học47 bài học
47 bài học
 
Cho toi mot ve di tuoi tho
Cho toi mot ve di tuoi thoCho toi mot ve di tuoi tho
Cho toi mot ve di tuoi tho
 
Noi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noi
Noi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noiNoi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noi
Noi teen-teen-nghe-nghe-teen-teen-noi
 
Dám thất bại dare to fail
Dám thất bại   dare to failDám thất bại   dare to fail
Dám thất bại dare to fail
 
Cho tôi xin 1 vé đi tuổi thơ
Cho tôi xin 1 vé đi tuổi thơCho tôi xin 1 vé đi tuổi thơ
Cho tôi xin 1 vé đi tuổi thơ
 
Hay noi-voi-con-rang-con-gioi-lam
Hay noi-voi-con-rang-con-gioi-lamHay noi-voi-con-rang-con-gioi-lam
Hay noi-voi-con-rang-con-gioi-lam
 
Vo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imas
Vo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imasVo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imas
Vo cung tan nhan vo cung yeu thuong sara imas
 
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
 
15 things that you had to learn from your child
15 things that you had to learn from your child15 things that you had to learn from your child
15 things that you had to learn from your child
 

Viewers also liked

Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01
Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01
Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01phammminhanhdhbk
 
Day con kieu nhat giai doan 0 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 0 tuoiDay con kieu nhat giai doan 0 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 0 tuoiAnna Nguyen
 
Để Con được ốm
Để Con được ốmĐể Con được ốm
Để Con được ốmAnna Nguyen
 
Bí mật của một trí nhớ siêu phàm
Bí mật của một trí nhớ siêu phàmBí mật của một trí nhớ siêu phàm
Bí mật của một trí nhớ siêu phàmphammminhanhdhbk
 
Day con kieu nhat giai doan 1 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 1 tuoiDay con kieu nhat giai doan 1 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 1 tuoiAnna Nguyen
 
Châm ngôn quản lý
Châm ngôn quản lýChâm ngôn quản lý
Châm ngôn quản lýAnna Nguyen
 
Day con kieu nhat giai doan 2 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 2 tuoiDay con kieu nhat giai doan 2 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 2 tuoiAnna Nguyen
 
Dạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn DomanDạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn DomanLê Sơn
 
9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoy
9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoy9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoy
9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoyFabio Antonio
 
Nuoi con khong phai cuoc chien
Nuoi con khong phai cuoc chienNuoi con khong phai cuoc chien
Nuoi con khong phai cuoc chienAnna Nguyen
 
Phuong phap ren luyen tri nho
Phuong phap ren luyen tri nhoPhuong phap ren luyen tri nho
Phuong phap ren luyen tri nhophammminhanhdhbk
 
Dạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn DomanDạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn DomanLê Sơn
 
Dạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn DomanDạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn DomanLê Sơn
 
Tăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn Doman
Tăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn DomanTăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn Doman
Tăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn DomanLê Sơn
 

Viewers also liked (16)

Toni buzan mape uma
Toni buzan   mape umaToni buzan   mape uma
Toni buzan mape uma
 
Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01
Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01
Sach huong-dan-ky-nang-hoc-tap-theo-phuong-phap-buzan 01
 
Day con kieu nhat giai doan 0 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 0 tuoiDay con kieu nhat giai doan 0 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 0 tuoi
 
Để Con được ốm
Để Con được ốmĐể Con được ốm
Để Con được ốm
 
Bí mật của một trí nhớ siêu phàm
Bí mật của một trí nhớ siêu phàmBí mật của một trí nhớ siêu phàm
Bí mật của một trí nhớ siêu phàm
 
Day con kieu nhat giai doan 1 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 1 tuoiDay con kieu nhat giai doan 1 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 1 tuoi
 
Châm ngôn quản lý
Châm ngôn quản lýChâm ngôn quản lý
Châm ngôn quản lý
 
Day con kieu nhat giai doan 2 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 2 tuoiDay con kieu nhat giai doan 2 tuoi
Day con kieu nhat giai doan 2 tuoi
 
Dạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn DomanDạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ biết đọc sớm - Phương pháp Glenn Doman
 
9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoy
9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoy9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoy
9799078 the-speed-reading-book-tony-buzan-235-pg-enjoy
 
Nuoi con khong phai cuoc chien
Nuoi con khong phai cuoc chienNuoi con khong phai cuoc chien
Nuoi con khong phai cuoc chien
 
Phuong phap ren luyen tri nho
Phuong phap ren luyen tri nhoPhuong phap ren luyen tri nho
Phuong phap ren luyen tri nho
 
Lam chu tri_nho_cua_ban
Lam chu tri_nho_cua_banLam chu tri_nho_cua_ban
Lam chu tri_nho_cua_ban
 
Dạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn DomanDạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ học toán - Phương pháp Glenn Doman
 
Dạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn DomanDạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn Doman
Dạy trẻ về thế giới xung quanh - Phương pháp Glenn Doman
 
Tăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn Doman
Tăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn DomanTăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn Doman
Tăng cường trí thông minh cho trẻ - Phương pháp Glenn Doman
 

Similar to Day con kieu Phap

Cách nuôi con lạ lùng trên thế giới
Cách nuôi con lạ lùng trên thế giớiCách nuôi con lạ lùng trên thế giới
Cách nuôi con lạ lùng trên thế giớiGiangcdby06
 
14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với concuongdienbaby02
 
14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với concuongdienbaby02
 
14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với conJosé García
 
Cha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung gi
Cha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung giCha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung gi
Cha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung giAntoree.com
 
Những điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốc
Những điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốcNhững điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốc
Những điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốcCuongdienbaby
 
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm conCuongdienbaby
 
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúcYourKids .vn
 
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuckhosachdientu2015
 
Ebook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
Ebook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phucEbook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
Ebook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phucDuong Millionaire
 
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phucTùng Kinh Bắc
 
Để Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đức
Để Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đứcĐể Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đức
Để Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đứcgiangcdby03
 
Vet cho con trai
Vet cho con traiVet cho con trai
Vet cho con traiHung Duong
 
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúcbauloc
 
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúcCuong Pham
 
Bật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhật
Bật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhậtBật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhật
Bật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhậtcuongdienbaby04
 
Nuoi con khong phai la cuoc chien
Nuoi con khong phai la cuoc chienNuoi con khong phai la cuoc chien
Nuoi con khong phai la cuoc chienQuang Đại Phạm
 
Nuoi con-khong-phai-cuoc-chien
Nuoi con-khong-phai-cuoc-chienNuoi con-khong-phai-cuoc-chien
Nuoi con-khong-phai-cuoc-chienHà Thu
 

Similar to Day con kieu Phap (20)

Cách nuôi con lạ lùng trên thế giới
Cách nuôi con lạ lùng trên thế giớiCách nuôi con lạ lùng trên thế giới
Cách nuôi con lạ lùng trên thế giới
 
14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con
 
14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con
 
14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con14 điều mọi người cha cần nói với con
14 điều mọi người cha cần nói với con
 
Cha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung gi
Cha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung giCha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung gi
Cha me muon day tieng anh cho con can phai chu y nhung gi
 
Những điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốc
Những điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốcNhững điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốc
Những điều khiến một bà mẹ mỹ ngạc nhiên khi làm mẹ ở trung quốc
 
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
20 tình huống thể hiện sự khác biệt trời vực giữa bố và mẹ khi chăm con
 
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
 
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
 
Ebook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
Ebook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phucEbook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
Ebook - 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
 
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc 7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
 
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
7 thoi quen tao gia dinh hanh phuc
 
Để Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đức
Để Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đứcĐể Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đức
Để Con thua từ vạch xuất phát - cách dạy con nên người của cha mẹ đức
 
Vet cho con trai
Vet cho con traiVet cho con trai
Vet cho con trai
 
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
 
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc
 
Bật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhật
Bật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhậtBật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhật
Bật mí những chuyện chưa từng kể về cách nuôi dạy con của mẹ nhật
 
Nuoi con khong phai la cuoc chien
Nuoi con khong phai la cuoc chienNuoi con khong phai la cuoc chien
Nuoi con khong phai la cuoc chien
 
Nuoi con-khong-phai-cuoc-chien
Nuoi con-khong-phai-cuoc-chienNuoi con-khong-phai-cuoc-chien
Nuoi con-khong-phai-cuoc-chien
 
Tâm sự của cha mẹ khi về già
Tâm sự của cha mẹ khi về giàTâm sự của cha mẹ khi về già
Tâm sự của cha mẹ khi về già
 

More from Anna Nguyen

Ăn dặm kiểu nhật
Ăn dặm kiểu nhậtĂn dặm kiểu nhật
Ăn dặm kiểu nhậtAnna Nguyen
 
Ăn dặm không nước mắt
Ăn dặm không nước mắtĂn dặm không nước mắt
Ăn dặm không nước mắtAnna Nguyen
 
Cẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻ
Cẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻCẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻ
Cẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻAnna Nguyen
 
Kỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàng
Kỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàngKỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàng
Kỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàngAnna Nguyen
 
Đào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đề
Đào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đềĐào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đề
Đào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đềAnna Nguyen
 
Kỹ năng nghe và trả lời điện thoại
Kỹ năng nghe và trả lời điện thoạiKỹ năng nghe và trả lời điện thoại
Kỹ năng nghe và trả lời điện thoạiAnna Nguyen
 
HOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANH
HOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANHHOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANH
HOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANHAnna Nguyen
 
Salary surveys 2016 vn Adecco; Robert Walters
Salary surveys 2016 vn  Adecco; Robert WaltersSalary surveys 2016 vn  Adecco; Robert Walters
Salary surveys 2016 vn Adecco; Robert WaltersAnna Nguyen
 
Job street vietnam-salary-report-2016
Job street vietnam-salary-report-2016Job street vietnam-salary-report-2016
Job street vietnam-salary-report-2016Anna Nguyen
 
Adecco vietnam-salary-guide-2016
Adecco vietnam-salary-guide-2016Adecco vietnam-salary-guide-2016
Adecco vietnam-salary-guide-2016Anna Nguyen
 
Thai nghén sinh đẻ và chăm sóc em bé
Thai nghén sinh đẻ và chăm sóc em béThai nghén sinh đẻ và chăm sóc em bé
Thai nghén sinh đẻ và chăm sóc em béAnna Nguyen
 
Tong hop ve sua me betibuti 20150214
Tong hop ve sua me betibuti 20150214Tong hop ve sua me betibuti 20150214
Tong hop ve sua me betibuti 20150214Anna Nguyen
 
Nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹNuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹAnna Nguyen
 
Dạy con kiểu Nhật
Dạy con kiểu NhậtDạy con kiểu Nhật
Dạy con kiểu NhậtAnna Nguyen
 
Cẩm nang-content-marketing admicro
Cẩm nang-content-marketing admicroCẩm nang-content-marketing admicro
Cẩm nang-content-marketing admicroAnna Nguyen
 
Quytrinhxaydungvadanhgiakpi
QuytrinhxaydungvadanhgiakpiQuytrinhxaydungvadanhgiakpi
QuytrinhxaydungvadanhgiakpiAnna Nguyen
 
Suc manh cua ngon tu words that win
Suc manh cua ngon tu   words that winSuc manh cua ngon tu   words that win
Suc manh cua ngon tu words that winAnna Nguyen
 
Giới thiệu về BSC
Giới thiệu về BSCGiới thiệu về BSC
Giới thiệu về BSCAnna Nguyen
 
Salary report-vn 2015 - job street
Salary report-vn 2015 - job streetSalary report-vn 2015 - job street
Salary report-vn 2015 - job streetAnna Nguyen
 
Adecco vietnam salary_guide_2015
Adecco vietnam salary_guide_2015Adecco vietnam salary_guide_2015
Adecco vietnam salary_guide_2015Anna Nguyen
 

More from Anna Nguyen (20)

Ăn dặm kiểu nhật
Ăn dặm kiểu nhậtĂn dặm kiểu nhật
Ăn dặm kiểu nhật
 
Ăn dặm không nước mắt
Ăn dặm không nước mắtĂn dặm không nước mắt
Ăn dặm không nước mắt
 
Cẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻ
Cẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻCẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻ
Cẩm nang các giai đoạn phát triển của trẻ
 
Kỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàng
Kỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàngKỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàng
Kỹ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàng
 
Đào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đề
Đào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đềĐào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đề
Đào tạo siêu ngắn - cách giải quyết vấn đề
 
Kỹ năng nghe và trả lời điện thoại
Kỹ năng nghe và trả lời điện thoạiKỹ năng nghe và trả lời điện thoại
Kỹ năng nghe và trả lời điện thoại
 
HOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANH
HOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANHHOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANH
HOP DONG LAO DONG MAU - BAN TIENG ANH
 
Salary surveys 2016 vn Adecco; Robert Walters
Salary surveys 2016 vn  Adecco; Robert WaltersSalary surveys 2016 vn  Adecco; Robert Walters
Salary surveys 2016 vn Adecco; Robert Walters
 
Job street vietnam-salary-report-2016
Job street vietnam-salary-report-2016Job street vietnam-salary-report-2016
Job street vietnam-salary-report-2016
 
Adecco vietnam-salary-guide-2016
Adecco vietnam-salary-guide-2016Adecco vietnam-salary-guide-2016
Adecco vietnam-salary-guide-2016
 
Thai nghén sinh đẻ và chăm sóc em bé
Thai nghén sinh đẻ và chăm sóc em béThai nghén sinh đẻ và chăm sóc em bé
Thai nghén sinh đẻ và chăm sóc em bé
 
Tong hop ve sua me betibuti 20150214
Tong hop ve sua me betibuti 20150214Tong hop ve sua me betibuti 20150214
Tong hop ve sua me betibuti 20150214
 
Nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹNuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ
 
Dạy con kiểu Nhật
Dạy con kiểu NhậtDạy con kiểu Nhật
Dạy con kiểu Nhật
 
Cẩm nang-content-marketing admicro
Cẩm nang-content-marketing admicroCẩm nang-content-marketing admicro
Cẩm nang-content-marketing admicro
 
Quytrinhxaydungvadanhgiakpi
QuytrinhxaydungvadanhgiakpiQuytrinhxaydungvadanhgiakpi
Quytrinhxaydungvadanhgiakpi
 
Suc manh cua ngon tu words that win
Suc manh cua ngon tu   words that winSuc manh cua ngon tu   words that win
Suc manh cua ngon tu words that win
 
Giới thiệu về BSC
Giới thiệu về BSCGiới thiệu về BSC
Giới thiệu về BSC
 
Salary report-vn 2015 - job street
Salary report-vn 2015 - job streetSalary report-vn 2015 - job street
Salary report-vn 2015 - job street
 
Adecco vietnam salary_guide_2015
Adecco vietnam salary_guide_2015Adecco vietnam salary_guide_2015
Adecco vietnam salary_guide_2015
 

Day con kieu Phap

  • 1. Pamela Drucberman V. Đứngvịtrísố Isách bánchạy trẽnSundayTimes 'Ả
  • 2. Trẻ emPháp không ném thức ăn K hi con gái tôi được 18 tháng tuổi, chồng tôi và tôi quyết định cho bé đi cùng trong một kỳ nghỉ hè ngắn. Chúng tôi chọn một thị trấn ở ven bờ biển, cách nhà vài giờ đi tàu và không quên dặn đi dặn lại khách sạn chuẩn bị cho mình một phồng có giường cũi cho em bé. Chúng tôi dùng bữa sáng ở khách sạn. Nhưng bữa trưa và tối chúng tôi ăn ở những nhà hàng hải sản nhỏ quanh bến cảng. Chúng tôi nhanh chóng phát hiện rằng hai bữa ăn nhà hàng một ngày đã bị một đứa trẻ mói chập chững biến thành địa ngục. Bean rất lười ăn, nó chỉ ăn một mẩu bánh mì và nhấm nháp một vài món rán. Sau đó, nó chỉ thích nghịch ngựm và phá phách. Chỉ vài phút sau, bé bắt đầu làm đổ lọ muối và xé tan nát mấy gói đường, giấy ăn... Rồi bé đòi nhảy khỏi cái ghế cao của mình để có thể chạy quanh nhà hàng và lao rầm rập về phía bến cảng. Phưong châm của chúng tôi là kết thúc bữa ăn thật nhanh. Chúng tôi gọi món trong lúc ổn định chỗ ngồi, rồi năn nỉ người phục vụ mang nhanh ra một ít bánh mì và mang tất cả đồ ăn của chúng tôi, cả món khai vị và các món chính, ra cùng một lúc. Trong khi chồng tôi ăn mấy miếng cá thì tôi phải đảm bảo là Bean không bị người phục vụ đá phải hay lạc mất ngoài biển. Rồi chúng tôi đổi lại. VI áy náy, chúng tôi để lại một khoản tiền boa lớn để đền bù cho cả một “chiến trường” toàn những giấy ăn bị xé và món mực tung tóe quanh bàn. Trên đường về khách sạn, tôi đã thề sẽ không bao giờ đi du lịch, vui choi, thậm chí cũng không muốn có thêm bất kỳ đứa con nào nữa. Kỳ nghỉ này càng cho tôi thấy đưực rằng, cuộc sống vui vẻ, thoải mái của vợ chồng tôi cách đó 18 tháng đã vĩnh viễn biến mất. Sau vài bữa ăn tại nhà hàng, tôi nhận ra rằng các gia đình Pháp quanh mình không khổ sở như chúng tôi. Thật kỳ lạ, họ vẫn được tận hưởng kỳ nghỉ theo đúng nghĩa dù họ có con nhỏ. Lũ trẻ con Pháp tầm tuổi như Bean ngồi ngoan ngoãn trên ghế, đợi thức ăn được bung lên, chúng ăn cá, thậm chí ăn cả rau. Không có tiếng la hét hay khóc mè nheo. Tất cả mọi người đều thưởng thức món ăn của mình. Và cũng không có mảnh vụn nào vưong vãi xung quanh bàn của họ. Dù đã sống ở Pháp vài năm, nhưng tôi vẫn không thể giải thích đưực điều này. Trong tình cảnh khốn khổ của chúng tôi, dù không thể thay đổi được, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng dường như có một cách khác. Nhưng chính xác nó là gì? Liệu có phải là ngay từ trong gen di truyền trẻ em Pháp đã ngoan ngoãn, điềm tĩnh hon con chúng ta? Liệu chúng có bị dụ dỗ hay đe dọa? Chúng có phải chịu một triết lý nuôi dạy trẻ lạc hậu chỉ thấy mà không nghe
  • 3. của cha mẹ chúng không? Mọi thứ dường như không như vậy. Những đứa trẻ Pháp xung quanh chúng tôi trông không có vẻ gì là sự hãi. Chúng rất vui vẻ, hay nói và ham hiểu biết. Cha mẹ chúng rất tình cảm và chu đáo. Dường như có một sức mạnh giáo hóa vô hình nào đó trên bàn ăn của họ - và tôi bắt đầu thấy nghi ngờ, điều có trong cuộc sống của họ - lại không có trong cuộc sống của chúng tôi? Tôi bắt đầu suy nghĩ về cách dạy con của các bậc cha mẹ người Pháp, vì nhận ra rằng mọi chuyện không chỉ khác biệt trong các bữa ăn. Tôi đặt ra rất nhiều câu hỏi. Ví dụ như tại sao trong hàng trăm lần đi choi ở công viên, tôi chưa bao giờ thấy một đứa trẻ Pháp nào tỏ ra mất bình tĩnh, cáu kỉnh, giận dữ (ngoại trừ con tôi)? Tại sao những người bạn Pháp của tôi không phải vội vàng tắt điện thoại khi con họ đòi cái gì đó? Tại sao phòng khách của họ không bao giờ phải bày la liệt đồ choi, thậm chí phải dựng lều, làm bếp ăn đồ choi cho lũ trẻ, như cách mà chúng tôi đang phải trải qua? Và nhiều hon nữa. Tại sao nhiều trẻ em Mỹ tôi gặp lại có một chế độ ăn riêng hoặc chỉ ăn những thức ăn dành riêng cho trẻ, trong khi những trẻ em Pháp, bạn của con gái tôi lại ăn được cả cá, rau xanh và ăn tất cả những gì người khác ăn? Ngoại trừ một khoảng thòi gian nhất định vào buổi chiều, còn trẻ em Pháp chẳng bao giờ đòi ăn vặt. Tôi không hề nghĩ rằng mình sẽ ngưỡng mộ phưong pháp làm cha mẹ của Pháp. Nó không phải một điều đặc biệt, như thòi trang hay pho mát Pháp. Chẳng có ai tói Paris để vùi đầu vào quan điểm của người dân noi đây về quyền cha mẹ. Ngược lại: một người mẹ Mỹ mà tôi biết ở Paris phát hoảng lên khi thấy các bà mẹ Pháp hiếm khi cho con bú và để cho đứa con 4 tuổi của mình ngậm ti giả chạy quanh. Vậy thì làm sao họ lại chưa bao giờ chỉ ra rằng có rất nhiều trẻ em Pháp bắt đầu ngủ xuyên đêm ở hai hay ba tháng tuổi? vì sao họ không nhắc đến việc trẻ em Pháp không đòi hỏi sự chú ý thường xuyên của người lớn, và rằng các bé dường như có khả năng nghe từ “không” mà không bị chán nản? Chẳng thấy ai buồn đoái hoài gì đến tất cả những điều này. Nhưng càng ngày tôi càng thấy rõ các cha mẹ Pháp đang tạo ra đưực bầu không khí hoàn toàn khác cho cuộc sống gia đình của mình. Khi các gia đình người Mỹ tói nhà tôi choi, cha mẹ thường phải dành rất nhiều thòi gian làm trọng tài trong các cuộc cãi vã giữa những đứa con, hoặc giúp đỡ những đứa con mói chập chững biết đi chạy loanh quanh trong bếp hay ngồi xếp hình Lego. Ở đó luôn có tiếng khóc và tiếng dỗ dành. Nhưng khi bạn bè người Pháp tói nhà tôi, thì chúng tôi cùng ngồi uống cà phê, còn những đứa con của họ vui vẻ tự choi vói nhau. Cha mẹ Pháp rất quan tâm tói con cái. Nhưng họ không quá lo lắng về tình trạng sức khỏe của con mình. Cách nhìn nhận điềm tĩnh này giúp họ làm tốt hon trong việc thiết lập những giói hạn cho trẻ cũng như trong việc trao cho trẻ quyền tự chủ. Tại Pháp, tôi nhìn thấy một kiểu nuôi dạy trẻ hoàn toàn khác ở Mỹ. Sự tò mò của một nhà báo cùng vói sự tuyệt vọng của một người mẹ đã kích thích tôi vào cuộc. Vào cuối kỳ nghỉ kinh khủng của mình, tôi quyết định tìm hiểu xem đâu là điều khác biệt của các bậc
  • 4. cha mẹ Pháp? Tại sao trẻ em Pháp không ném thức ăn? Tại sao các bậc cha mẹ Pháp lại không phải là những bậc cha mẹ hay la hét? Sức mạnh giáo hóa, vô hình trong tay các bậc cha mẹ Pháp là gì? Tôi có thể thay đổi và áp dụng nó cho những đứa con của mình không? Tôi nhận ra sự khác biệt qua một nghiên cứu do một nhà kinh tế học thực hiện tại Princeton. Nghiên cứu này so sánh kinh nghiệm chăm sóc trẻ của các bà mẹ có hoàn cảnh tương tự nhau tại hai thành phố Columbus (Mỹ) và Rennes (Pháp). Kết quả cho biết việc chăm sóc con cái khiến các bà mẹ Mỹ mệt mỏi hon gấp hai lần so vói các bà mẹ Pháp. Sự khác biệt này tôi đã quan sát khi đến Paris và trong lần trở lại Mỹ: có một cách gì đó khiến việc nuôi dạy con của cha mẹ Pháp đỡ vất vả và thú vị hon. Tôi tin chắc rằng nhũng bí mật trong việc nuôi dạy con của cha mẹ Pháp đang ẩn giấu trong những điều rất đon giản, chỉ có điều trước đó không ai nhìn ra. Tôi bắt đầu để một cuốn sổ ghi chép vào túi và luôn mang theo khi đi ra ngoài. Tất cả nhũng lần tói bác sỹ khám bệnh, đi ăn tối, vui choi đều trở thành cơ hội để tôi quan sát các hành động của cha mẹ Pháp và tìm ra đâu là quy luật bất thành văn mà họ đang áp dụng. Ban đầu rất khó nói. Cha mẹ Pháp dường như rất dung hòa giữa hai thái cực vừa cực kỳ nghiêm khắc vừa hết sức dễ dãi. Có thẩm vấn họ thì cũng không rút ra được gì. Hầu hết những bậc cha mẹ mà tôi nói chuyện đều khẳng định rằng họ không làm bất cứ điều gì đặc biệt. Qua nhiều năm và sau khi đã sinh hai đứa con tại Paris, tôi đã lần ra những manh mối. Tôi tìm đọc những cuốn sách về nuôi dạy con. Tôi phỏng vấn nhiều bậc cha mẹ và các chuyên gia. Thậm chí tôi còn nghe lén nhiều người trong khi đi siêu thị. Rốt cuộc, tôi nghĩ mình đã khám phá ra điều khác biệt của cha mẹ Pháp trong nuôi dạy con cái. Khi tôi nói “các bậc cha mẹ Pháp” là tôi đang nói một cách khái quát, chứ thật ra mỗi người mỗi khác. Hầu hết các cha mẹ mà tôi gặp họ đều sống tại Paris và vùng ngoại ô Paris, họ đều có trình độ đại học, có công việc chuyên môn và có mức thu nhập trên mức thu nhập trung bình của người Pháp. Tôi đang so sánh họ vói các bậc cha mẹ Mỹ. Mặc dù vậy, khi tôi đi vòng quanh nước Pháp, tôi thấy rằng quan điểm cơ bản của những người Paris trung lưu về cách khuyến khích trẻ khá giống vói quan điểm của những bậc cha mẹ thuộc tầng lóp lao động sống tại các tỉnh lẻ nước Pháp. Thực vậy, tôi thấy rằng trong khi các bậc cha mẹ Pháp có lẽ không biết chính xác điều họ đang làm, nhưng dường như tất cả họ đều làm những điều ít nhiều tương tự nhau. Các luật sư khá giả, các nhân viên chăm sóc tại các trung tâm, các giáo viên trường công hay những cụ già đã từng trách móc tôi trong công viên, tất cả họ đều nói về những nguyên tắc cơ bản giống nhau. Dường như họ đang thực hành tất cả những điều đã được viết trong các cuốn sách về trẻ em Pháp và những tạp chí dành cho cha mẹ mà tôi đã đọc. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng việc có một đứa trẻ trong các gia đình Pháp không phụ thuộc vào việc lựa chọn một triết lý nuôi dạy con. Tất cả mọi người đều ít nhiều có những nguyên tắc cơ bản. Tại sao lại là Pháp? Chắc chắn tôi không có một sự thiên vị, ủng hộ Pháp. Ngược lại, tôi còn không chắc rằng tôi thích sống ở đây. Nhưng kiểu nuôi dạy con của người Pháp lại là
  • 5. bức tranh làm nền hoàn hảo cho những vấn đề hiện tại trong cách nuôi dạy con của người Mỹ. Các bậc cha mẹ người Paris rất hào hứng khi nói về con cái mình, chỉ ra những tố chất bẩm sinh của chúng, đọc rất nhiều sách về trẻ em. Họ dạy con choi tennis, cho con tham gia các lóp học vẽ và đưa chúng đi tham quan các bảo tàng. Tuy nhiên, người Pháp biết cách nuôi dạy con nên họ không cảm thấy bị áp lực. Họ cho rằng cha mẹ không nhất thiết lúc nào cũng phải kè kè đi theo chăm sóc, phục vụ con mình và cha mẹ không cần có cảm giác tội lỗi về điều đó. “Vói tôi, tất cả mọi buổi tối là dành cho gia đình”, một bà mẹ người Pháp nói vói tôi. “Con gái tôi có thể ở vói chúng tôi nếu con bé muốn, nhưng đó là thòi gian dành cho người lớn.” Các cha mẹ Pháp đều muốn choi vói con mình, nhưng không phải trong tất cả mọi thòi gian. Trong khi những đứa trẻ Mỹ mói chập chững biết đi đã đưực cha mẹ thuê gia sư về dạy đọc thì khi đó những đứa trẻ Pháp chỉ học đi. Tại Pháp có tất cả các loại dịch vụ công có thể đảm bảo rằng việc nuôi một đứa trẻ sẽ không khiến các bậc cha mẹ quá căng thẳng, mệt mỏi. Phụ huynh không phải đóng tiền học phí cho trẻ đi học mẫu giáo, không phải lo lắng về bảo hiểm sức khỏe hay tiền học phí sau này. Rất nhiều người được nhận tiền mặt hàng tháng - đưực trực tiếp gửi vào tài khoản ngân hàng của họ - chỉ để phục vụ cho việc chăm nuôi trẻ. Nhưng những dịch vụ công đó cũng không giải thích được sự khác biệt của cha mẹ Pháp mà tôi đã chứng kiến. Người Pháp dường như có cả một khuôn khổ hoàn toàn khác để nuôi dạy trẻ. Khi tôi hỏi các cha mẹ Pháp họ đã rèn luyện những đứa trẻ của mình như thế nào, thì phải mất ít giây bối rối họ mói hiểu điều tôi hỏi. “À, bạn muốn nói rằng chúng tôi đã giáo dục những đứa trẻ của mình ra sao ư?” Họ hỏi. “Rèn luyện”, tôi sớm nhận ra rằng từ đó quá hạn hẹp, chỉ là một loại hiếm khi-được dùng để chỉ sự trừng phạt. Trong khi đó “giáo dục” (không theo nghĩa phải đến trường học) lại là điều gì đó mà các cha mẹ Pháp hình dung về chính bản thân họ khi nuôi dạy con trẻ. Trong nhiều năm nay, có rất nhiều bài viết tuyên truyền về phưong pháp nuôi dạy con kiểu Mỹ hiện thòi. Có hàng tá cuốn sách cung cấp cho người Mỹ về những lý thuyết để có thể trở thành những bậc cha mẹ khác biệt. Tôi không có một lý thuyết nào. Cái mà tôi có, đang trải ra trước mắt tôi, là một xã hội vói đầy đủ chức năng của nó vói những bậc cha mẹ ngủ tốt, ăn ngon và thư giãn họp lý. Tôi đang bắt đầu vói kết quả đó và làm việc hết sức để tìm hiểu xem người Pháp đã thực hiện những điều đó như thế nào. Nó chỉ ra rằng có một kiểu cha mẹ khác biệt, và bạn không chỉ cần một triết lý nuôi dạy con khác biệt. Bạn chỉ cần có cái nhìn khác biệt về những gì thực sự có ở một đứa trẻ.
  • 6. Chương I Bạn đangmong chờmột đứa con? L úc đó là 10 giờ sáng, Trưởng ban biên tập cho gọi tôi lên văn phòng của ông và bảo tôi đi chăm sóc răng. Ông nói rằng kế hoạch chăm sóc răng của tôi sẽ kết thúc vào ngày cuối cùng của tôi ờ tờ báo. Tức là trong năm tuần nữa. Ngày hôm đó, hon 200 người chúng tôi bị cắt giảm. Tin đó nhanh chóng làm giá cổ phiếu công ty mẹ tăng mạnh. Tôi có sở hữu một ít cổ phần và có thể tính đến chuyện bán - vì sự trớ trêu chứ không phải vì lựi nhuận - để thu lòi từ chính vụ sa thải của mình. Thay vào đó, tôi lại thẫn thờ đi lang thang quanh khu hạ Manhattan. Vừa vặn, tròi đổ mưa. Tôi đứng dưói rìa cửa và gọi cho ngưòi đàn ông mà tối đó tôi định gặp. “Em vừa bị đuổi việc,” tôi nói. “Em có suy sụp không?” Anh hỏi. “Em vẫn muốn đi ăn tối chứ?” Thực ra, tôi thấy nhẹ người. Cuối cùng tôi cũng thoát ra được khỏi công việc mà - sau gần sáu năm - tôi vẫn không đủ can đảm để từ bỏ. Tôi là phóng viên cho một tòa soạn nước ngoài ở New York, chuyên viết tin về khủng hoảng điện năng và tài chính ở Mĩ La tinh. Tôi vẫn thường bị phái đi đột ngột, chỉ thông báo trước vài giờ, rồi dành cả tuần sống trong khách sạn. Đã có lúc, các sếp trông đựi những điều tuyệt vòi ở tôi. Họ đã nói về chức vụ chủ bút^1). Họ đã trả tiền để tôi học tiếng Bồ Đào Nha. Rồi họ không kỳ vọng vào tôi nữa. Và kỳ lạ thay, tôi thấy chuyện đó cũng không sao. Tôi rất thích các bộ phim về phóng viên nước ngoài. Nhưng thực sự ở vị trí đó lại là một việc khác. Tôi thường xuyên chỉ có một mình, bị trói vào một câu chuyện không có hồi kết, nhận những cuộc gọi từ
  • 7. những biên tập viên lúc nào cũng muốn nhiều hon nữa. Có lúc tôi hình dung tin tức giống như là một con bò đấu bằng máy. Những đồng nghiệp nam của tôi có thể xoay xở để đón những cô vự người Costa Rica hay Colombia đi theo họ. Hoặc ít nhất họ cũng được ăn tối tại bàn khi về tói nhà. Nhưng những người đàn ông mà tôi hẹn hò cùng thì ít cơ động hơn. Vả lại, tôi hiếm khi ở trong thành phố đủ lâu để tói được cuộc hẹn thứ ba. Tôi thấy nhẹ nhõm khi ròi khỏi tờ báo. Nhưng tôi chưa sẵn sàng trở thành một kẻ ăn hại cho xã hội. Trong khoảng một tuần sau vụ sa thải, tôi vẫn tói văn phòng, đồng nghiệp cư xử như thể tôi bị bệnh truyền nhiễm. Những người tôi đã làm việc cùng nhiều năm tròi chẳng nói chẳng rằng và tránh bàn tôi ngồi. Một người làm cùng mòi tôi đi ăn một bữa trưa chia tay, rồi không đi cùng vói tôi vào tòa nhà. Rất lâu sau khi tôi dọn dẹp đồ của mình, biên tập viên của tôi, một kẻ hèn nhát, nhất định bảo tôi trở lại văn phòng cho một cuộc phỏng vấn đáng xấu hổ nào đó, ông gợi ý là tôi nên nộp đơn cho một vị trí thấp hơn, rồi vội vã đi ăn trưa. Đột nhiên tôi nhận ra rất rõ hai điều: Tôi không muốn viết về chính trị hay tiền bạc nữa. Và tôi muốn có một người bạn trai. Tôi đang đứng trong một căn bếp rộng một mét, băn khoăn không biết nên làm gì vói phần đòi còn lại của mình thì Simon gọi. Chúng tôi gặp nhau sáu tháng trước trong một quán bar ở Buenos Aires, khi một người bạn chung đưa anh tói buổi giao lưu của các phóng viên nước ngoài. Anh là một nhà báo người Anh, đã đến Argentina được mấy ngày để viết một câu chuyện về bóng đá. Tôi được cử tói để nắm tình hình sụp đổ kinh tế của đất nước này. Hóa ra, chúng tôi lại đi cùng chuyến bay từ New York. Anh nhớ tôi là cô gái đã lên máy bay muộn, và dù đã đứng giữa các hàng ghế, tôi nhận ra mình đã để quên chỗ đồ mua miễn thuế ở phòng chờ và khăng khăng quay lại để tìm. (Tôi mua sắm chủ yếu ở các sân bay.) Simon chính là gu của tôi: ngăm đen, rắn chắc và thông minh. (Về sau anh thêm từ “thấp” vào danh sách này, dù chiều cao ở mức phổ biến nhưng anh lại lớn lên ở Hà Lan, giữa những người khổng lồ tóc vàng.) Chỉ trong mấy tiếng gặp gỡ vói anh, tôi nhận ra rằng “tình yêu sét đánh” nghĩa là ngay lập tức cảm thấy vô cùng bình yên bên ai đó. Tôi choáng ngọp, nhưng cũng ngập ngừng. Simon vừa tránh thị trường bất động sản London để mua một căn hộ rẻ tiền ở Paris. Tôi thì đi đi lại lại giữa Nam Mĩ và New York. Một mối quan hệ xa xôi cách trở vói ai đó ở cái
  • 8. lục địa thứ ba này có vẻ là một sự cố gắng quá sức. Sau buổi gặp ử Argentina đó, chúng tôi thỉnh thoảng vẫn liên lạc qua thư điện tử. Nhưng tôi cố kiềm chế cảm xúc của mình. Tôi hy vọng rằng ở múi giờ của mình cũng có một người đàn ông ngăm đen, thông minh. Thấm thoắt đã qua bảy tháng. Khi Simon bất ngờ gọi điện và tôi nói vói anh rằng tôi vừa bị sa thải, anh không hề tỏ ra ngạc nhiên hay đối xử vói tôi như thứ đồ bỏ đi. Ngưực lại, dường như anh hài lòng vì đột nhiên tôi lại có chút thòi gian rỗi. Anh nói rằng anh cảm thấy chúng tôi có “việc còn dang dở,” và rằng anh muốn tói New York. “Đó là một ý tưởng tệ hại,” tôi nói. Đê làm gì chứ? Anh không thể chuyển tói Mỹ, bởi vì anh viết về bóng đá Châu Âu. Tôi không nói tiếng Pháp, và chẳng bao giờ tính đến chuyện sống ở Paris cả. Dù bỗng nhiên đưực khá thoải mái di chuyển, tôi lại lo lắng sẽ bị kéo vào quỹ đạo của một ngưòi khác trước khi kịp có lại một quỹ đạo cho mình. Simon tói New York, vẫn chiếc áo khoác da ấn tưựng anh mặc hồi ở Argentina, mang theo bánh mì vòng và cá hồi xông khói anh mua đưực trong một cửa hàng đồ ăn ngon gần căn hộ của tôi. Một tháng sau, tôi gặp cha mẹ anh ở London. Sáu tháng sau, tôi bán phần lớn của cải của mình và chuyển phần còn lại sang Pháp. Bạn bè đều nghĩ rằng tôi đang vội vàng quá. Tôi lờ họ đi và bước khỏi căn nhà thuê xinh xắn của mình ở New York vói ba vali đồ khổng lồ và một chiếc hộp đựng tiền xu Nam Mĩ, tôi sẽ tặng nó cho anh chàng lái xe người Pakistan, người sẽ đưa tôi ra sân bay. Và, hô biến, tôi trở thành một ngưòi Paris. Tôi chuyển vào căn hộ dành cho người độc thân vói hai phòng, ở một vùng làm mộc cũ phía Đông Paris. Tôi bỏ nghề làm báo mảng tài chính và bắt đầu nghiên cứu một cuốn sách. Cả ngày, Simon và tôi mỗi ngưòi làm việc ở một phòng. Ánh sáng trong sự lãng mạn mói mẻ của chúng tôi gần như tắt lịm ngay lập tức, chủ yếu là do các vấn đề về nội thất. Tôi từng đọc trong một cuốn sách về Phong Thủy rằng trên sàn nhà mà có hàng chồng đồ đạc là dấu hiệu của sự tuyệt vọng. Vói Simon, điều đó chỉ là dấu hiệu của sự căm ghét mấy cái giá để đồ. Anh đã khéo léo đầu tư vào một chiếc bàn gỗ đang làm dở to tướng, choán gần hết phòng khách, và một hệ thống sưởi ga từ thòi tiền sử - đảm bảo nguồn nước nóng rất bất ổn. Tôi đặc biệt khó chịu vói thói quen để đám tiền lẻ trong túi vưong vãi khắp sàn của anh, chẳng biết làm sao đám tiền ấy lại tụ hết vào mấy góc ở mỗi phòng. “Vứt tiền đó đi,” tôi nài nỉ.
  • 9. Ớbên ngoài căn hộ của chúng tôi, tôi cũng không thấy thoải mái gì. Dù đang ở giữa thủ đô ẩm thực của thế giói nhưng tôi vẫn không thể xác định đưực nên ăn cái gì. Cũng như phần lớn phụ nữ Mỹ, tôi tói Paris vói sở thích ăn uống rất nghiêm ngặt. (Tôi là một người ăn kiêng theo khuynh hướng Atkins^2).) Đi dạo quanh, tôi cảm thấy như bị đám thực đon toàn bánh mì và nặng về thịt của các nhà hàng bủa vây. Có một dạo, tôi sống thoi thóp gần như chỉ vói món trứng tráng và sa lát pho mát dê. Khi tôi yêu cầu người phục vụ “để nước sốt riêng một bên,” họ nhìn tôi như thể tôi bị điên. Tôi không hiểu vì sao các siêu thị của Pháp cung cấp tất cả các loại ngũ cốc Mỹ, trừ loại tôi yêu thích, Grape-Nuts, và vì sao các quầy cà phê lại không phục vụ sữa không béo. Tôi biết, không ngất ngây Paris thì có vẻ như thật không biết thưởng thức. Và công bằng mà nói, tôi bắt đầu nghĩ rằng vấn đề không phải là ở Paris, mà là ở tôi. New York muốn phụ nữ ở đó hoi điên loạn một chút. Họ đưực khuyến khích tạo ra quanh mình những lộn xộn thông minh, đáng yêu, mâu thuẫn - như Sallyte) trong bộ phim Khi Harry gặp Saỉỉy (When Harry meet Sally), hay Annie Hall(4) trong bộ phim cùng tên. Nhiều bạn bè ở New York của tôi chi tiền cho trị liệu nhiều hon cả tiền thuê nhà. Tính cách đó không theo máy bay theo tói Paris. Người phụ nữ Paris điển hình thì điềm đạm, giản dị, hoi xa cách và cực kỳ quyết đoán. Cô ấy gọi đồ từ thực đon. Cô không ba hoa về tuổi thơ hay chế độ ăn của mình. Nếu ở New York, phụ nữ cứ nghiền ngẫm về những rắc rối trong quá khứ của mình và dọa dẫm đi tìm lại chính mình, thì ở Paris họ lại là người - ít nhất là vẻ ngoài - chẳng hối tiếc gì cả. Ngay cả Simon, một người Anh thuần, cũng phải lúng túng trước cách tôi hoài nghi bản thân và thường xuyên yêu cầu phải nói chuyện về quan hệ của chúng tôi. “Anh đang nghĩ về cái gì vậy?” Tôi hỏi anh theo thói quen, thường là lúc anh đang đọc báo. “Bóng đá Hà Lan,” câu trả lòi bao giờ cũng thế.
  • 10. Ớbên ngoài căn hộ của chúng tôi, tôi cũng không thấy thoải mái gì. Dù đang ở giữa thủ đô ẩm thực của thế giói nhưng tôi vẫn không thể xác định đưực nên ăn cái gì. Cũng như phần lớn phụ nữ Mỹ, tôi tói Paris vói sở thích ăn uống rất nghiêm ngặt. (Tôi là một người ăn kiêng theo khuynh hướng Atkins^2).) Đi dạo quanh, tôi cảm thấy như bị đám thực đon toàn bánh mì và nặng về thịt của các nhà hàng bủa vây. Có một dạo, tôi sống thoi thóp gần như chỉ vói món trứng tráng và sa lát pho mát dê. Khi tôi yêu cầu người phục vụ “để nước sốt riêng một bên,” họ nhìn tôi như thể tôi bị điên. Tôi không hiểu vì sao các siêu thị của Pháp cung cấp tất cả các loại ngũ cốc Mỹ, trừ loại tôi yêu thích, Grape-Nuts, và vì sao các quầy cà phê lại không phục vụ sữa không béo. Tôi biết, không ngất ngây Paris thì có vẻ như thật không biết thưởng thức. Và công bằng mà nói, tôi bắt đầu nghĩ rằng vấn đề không phải là ở Paris, mà là ở tôi. New York muốn phụ nữ ở đó hoi điên loạn một chút. Họ đưực khuyến khích tạo ra quanh mình những lộn xộn thông minh, đáng yêu, mâu thuẫn - như Sallyte) trong bộ phim Khi Harry gặp Saỉỉy (When Harry meet Sally), hay Annie Hall(4) trong bộ phim cùng tên. Nhiều bạn bè ở New York của tôi chi tiền cho trị liệu nhiều hon cả tiền thuê nhà. Tính cách đó không theo máy bay theo tói Paris. Người phụ nữ Paris điển hình thì điềm đạm, giản dị, hoi xa cách và cực kỳ quyết đoán. Cô ấy gọi đồ từ thực đon. Cô không ba hoa về tuổi thơ hay chế độ ăn của mình. Nếu ở New York, phụ nữ cứ nghiền ngẫm về những rắc rối trong quá khứ của mình và dọa dẫm đi tìm lại chính mình, thì ở Paris họ lại là người - ít nhất là vẻ ngoài - chẳng hối tiếc gì cả. Ngay cả Simon, một người Anh thuần, cũng phải lúng túng trước cách tôi hoài nghi bản thân và thường xuyên yêu cầu phải nói chuyện về quan hệ của chúng tôi. “Anh đang nghĩ về cái gì vậy?” Tôi hỏi anh theo thói quen, thường là lúc anh đang đọc báo. “Bóng đá Hà Lan,” câu trả lòi bao giờ cũng thế.
  • 11. đều kèm theo một nụ cười nhếch mép. Ấy thế nhưng anh gần như không bao giờ thực sự cười to, ngay cả khi tôi cố tình đùa. (Mấy người bạn thân của anh còn không biết rằng anh có má lúm đồng tiền.) Simon khăng khăng rằng không cười là một thói quen của người Anh. Nhưng tôi chắc chắn đã nhìn thấy người Anh cưòi. Và dù sao thì, thật là thất vọng ê chề khi mà cuối cùng lúc tôi đưực nói tiếng Anh vói ai đó, anh ta lại dường như chẳng buồn nghe. Cái sự không cười đó cũng vạch ra một hố ngăn cách về văn hóa sâu hon giữa chúng tôi. Là một người Mỹ, tôi cần tất cả mọi chuyện đều đưực nói ra. Trên chuyến tàu trở lại Paris sau một kỳ nghỉ cuối tuần vói cha mẹ Simon, tôi hỏi anh liệu họ có thích tôi không. “Tất nhiên bố mẹ thích em rồi, em không nhận thấy à?” Anh hỏi. “Nhưng bố mẹ có nói ra là họ thích em không?” Tôi cự nự. Đê tìm kiếm sự bầu bạn khác, tôi cày cuốc dọc khắp thành phố vói cả loạt các “cuộc gặp bạn bè bất ngờ”^ vói những người bạn của đám bạn ở nhà. Phần lớn cũng là người sống xa nhà. Chẳng ai có vẻ vui mừng khi lắng nghe một người mói tói đang hoang mang cả. Khá nhiều người dường như đã coi “sống ở Paris” là một công việc, và là câu trả lòi đa dụng cho câu hỏi “Bạn làm gì?” Nhiều người tói muộn, như là để chứng minh rằng họ đã thành dân bản địa. (Về sau tôi biết được rằng người Pháp thường đến đúng giờ trong các buổi gặp hai ngưòi vói nhau. Họ chỉ lịch sự đến muộn trong các sự kiện nhóm, trong đó có sinh nhật trẻ em.) Những nỗ lực ban đầu của tôi để kết bạn vói ngưòi Pháp còn kém thành công hon. Trong một buổi tiệc, tôi bắt chuyện tưong đối tốt vói một nhà lịch sử nghệ thuật, người cũng tầm tuổi tôi và nói tiếng Anh rất tốt. Nhưng khi chúng tôi gặp lại nhau để uống trà ở nhà cô thì rõ ràng là chúng tôi tuân theo những nghi thức gắn bó giữa phụ nữ hoàn toàn khác biệt. Tôi sẵn sàng để làm theo phong cách kiểu Mỹ, nghĩa là thú nhận và đồng cảm, liên tục hùa theo “mình cũng thế”. Cô thanh nhã khều khều miếng bánh nướng và thảo luận về lý thuyết nghệ thuật. Tôi ra về đói meo và thậm chí không biết cô có bạn trai hay không. Sự đồng cảm duy nhất tôi nhận đưực là từ một cuốn sách của Edmund White, một nhà văn Mỹ sống ở Pháp những năm 1980. Ông là người đầu
  • 12. tiên xác nhận rằng cảm giác tuyệt vọng và choi voi là một phản ứng tuyệt đối họp lý khi sống ở Paris. “Hãy hình dung chết đi và biết OTL vì bạn đã đưực lên thiên đường, cho tói một ngày (hoặc một thế kỷ) bạn bừng tỉnh ra rằng tâm trạng chủ đạo của mình là u uất, dù bạn liên tục được thuyết phục rằng hạnh phúc chỉ nằm ngay ở góc đường kia thôi. Điều đó cũng giống như sống ở Paris trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỉ. Nó là một địa ngục êm dịu, thoải mái đến nỗi gần giống như thiên đường.” Bất chấp những nghi ngại về Paris của mình, tôi vẫn khá chắc chắn về Simon. Tôi đã trở nên cam chịu cái sự thật rằng “ngăm đen” hiển nhiên là gắn liền vói “bừa bộn”. Và tôi cũng đọc đưực những biểu hiện nhỏ trên mặt anh tốt hon. Một thoáng nụ cưòi nghĩa là anh hiểu câu chuyện đùa. Nụ cưòi trọn vẹn hiếm hoi gợi ý sự tán dưong nhiệt liệt. Thậm chí thi thoảng anh còn nói “cái đó buồn cười thật đấy” bằng một giọng đều đều. Tôi cũng đưực khích lệ nhờ sự thật là, đối vói một người thô lỗ như vậy, Simon lại có hàng tá bạn bè thân thiết, lâu năm. Có lẽ chính là thế, phía sau lóp vỏ châm biếm, anh là một anh chàng bất lực đáng yêu. Anh chất đầy tủ lạnh của chúng tôi bằng những hàng hóa đóng hộp chưa được mở. Đê tiết kiệm thòi gian, anh nấu tất cả mọi thứ ở nhiệt độ cao. (Bạn cùng học về sau nói vói tôi rằng anh nổi tiếng ở trường vì dọn lên món chân gà nướng bên ngoài cháy đen còn bên trong vẫn đông đá.) Khi tôi chỉ cho anh cách làm nước sốt sa lát bằng dầu ăn và dấm, anh viết lại công thức, và hàng năm tròi sau vẫn lôi công thức ra mỗi khi làm bữa tối. Cũng vẫn là về Simon, chẳng có gì ở Pháp khiến anh phiền lòng cả. Anh là một ngưòi ngoại quốc từ trong máu. Cha mẹ anh là những nhà nhân loại học, nuôi anh lớn lên trên khắp thế giói, và từ lúc chào đòi, anh đã đưực họ đào tạo để dam mê các phong tục địa phưong. Lên 10 tuổi, anh đã sống & sáu nước (tính cả một năm ở Mỹ). Anh học thêm ngoại ngữ không khác gì tôi mua thêm giày. Tôi quyết định rằng, vì Simon, tôi sẽ dốc hết lòng cho Paris. Chúng tôi làm lễ cưới trong một tòa lâu đài từ thế kỷ XIII phía ngoài Paris vói hào bao quanh. (Tôi sẽ lờ đi ý nghĩa tưựng trung cho cái hào ấy.) Nhân danh sự hòa họp trong hôn nhân, chúng tôi thuê một căn hộ lớn hon. Tôi đặt làm giá sách từ hãng Ikea, và để các bát đụng tiền lẻ trong tất cả các phòng. Tôi cố gắng tập trung vào con người thực dụng bên trong thay vì nội tâm luôn luôn bấn loạn của mình. Ớ các nhà hàng, tôi bắt đầu gọi đồ trực tiếp từ
  • 13. thực đon và thi thoảng nhấm nháp một miếng gan ngỗng vỗ béo thật to. Tiếng Pháp của tôi bắt đầu bót giống tiếng Tây Ban Nha xuất sắc và bắt đầu giống tiếng Pháp dở tệ rồi. Chẳng bao lâu cuộc sống của tôi đã gần như ổn định: Tôi có một văn phòng tại nhà, một thòi hạn phải giao sách, và thậm chí cả vài người bạn mói nữa. Simon và tôi cũng đã nói chuyện về việc có con. Chúng tôi đều muốn có một đứa. Thực ra là tôi thích ba. Và tôi thích cái ý tưởng nuôi con ở Paris, noi chúng sẽ dễ dàng nói được cả hai thứ tiếng và là công dân quốc tế đích thực. Ngay cả nếu chúng có lớn lên để trở thành mấy kẻ lập dị, chúng vẫn có thể nhắc tói việc “lớn lên ở Paris” và ngay lập tức trở nên sành điệu. Tôi lo lắng về việc mang thai. Cả quãng đòi trưởng thành của mình, tôi đã nỗ lực rất nhiều để không có thai ngoài ý muốn. Tôi hoàn toàn không biết liệu mình có tí chút năng khiếu nào cho hướng ngưực lại không. Việc này hóa ra lại cũng nhanh chóng như thòi gian tán tỉnh của chúng tôi. Ngày hôm trước, tôi đang tra Google “Làm thế nào để có bầu?” thì dường như ngay ngày hôm sau, tôi nhìn thấy hai vạch màu hồng trên que thử thai của Pháp. Quyết tâm giảm bứt chất “phụ nữ Mỹ” và tăng chất “phụ nữ Pháp” của tôi lập tức sụp đổ. Đây dường như không phải lúc để tỏ ra là ngưòi bản địa. Tôi bị ám ảnh bởi ý tưởng rằng mình phải giám sát chặt chẽ quá trình mang thai và làm cho thật chính xác. Vài tiếng sau khi báo tin cho Simon, tôi lên mạng đê sục sạo mấy website về mang thai của Mỹ và hối hả mua những tài liệu hướng dẫn mang thai ở các quầy bán sách tiếng Anh. Tôi muốn biết, bằng tiếng Anh thuần túy, chính xác mình phải chú ý điều gì. Trong mấy ngày, tôi nghiền ngẫm các loại vitamin trước khi sinh và đâm ra nghiện mục “Việc đó có an toàn không?”(6) và luôn tìm hiểu những điều nên và không nên trong thòi gian mang thai trên trang BabyCenter. Những người Mỹ mà tôi biết cũng tin rằng mang thai - và rồi làm mẹ - sẽ đi kèm vói bài tập về nhà. Bài tập đầu tiên là chọn lựa giữa hàng vô số những phong cách làm cha mẹ. Tất cả những người tôi xin lòi khuyên lại giói thiệu đầy tin tưởng những cuốn sách khác nhau. Nhưng thay vì khiến tôi cảm thấy sẵn sàng hon, quá nhiều lòi khuyên mâu thuẫn khiến cho bọn trẻ con trở nên bí ẩn và khó hiểu. Chúng là ai và chúng cần gì dường như phụ thuộc vào việc bạn đọc cuốn sách nào.
  • 14. Và tôi trở thành chuyên gia trong tất cả những vấn đề thường gặp khi mang bầu. Trong một bữa trưa, một chị đang mang bầu ngưòi New York sống ở Paris tuyên bố rằng có năm phần nghìn cơ hội con của chị sẽ bị chết non. Chị nói rằng dù biết nói như thế là rất kinh khủng và chẳng để làm gì, nhưng chị không thể kiềm chế được mình. Một người bạn khác, bất hạnh thay lại có bằng tiến sĩ ngành sức khỏe cộng đồng, lại dành ba tháng đầu thai kỳ để xếp loại các rủi ro mắc phải tất cả các chứng bệnh có thể có của trẻ. Vói quá nhiều nghiên cứu và lo âu, mang thai ngày càng chiếm hết tâm trí tôi. Tôi dành ngày càng ít thòi gian hơn cho cuốn sách của mình, kế hoạch là tôi phải nộp trước khi em bé ra đòi. Thay vào đó, tôi liên hệ vói những bà mẹ mang bầu khác ở Mỹ trong các phòng chat của nhóm những người đang chờ ngày sinh nở. Giống như tôi, những người phụ nữ này đã quen vói việc điều chỉnh môi trường của mình, thậm chí nếu việc đó chỉ là cho sữa đậu nành vào cà phê. Và giống như tôi, họ thấy cái sự kiện nguyên thủy, mang đặc tính của động vật có vú đang diễn ra bên trong cơ thể họ, quả là vượt ra ngoài tầm kiểm soát đến mức khó chịu. Lo âu - cũng giống như nắm chặt lấy chỗ để tay trong lúc máy bay đang rung chuyển - ít nhất cũng khiến chúng ta cảm thấy nó không đến nỗi không kiểm soát được. Báo chí về mang thai của Mỹ, nguồn thông tin mà tôi có thể dễ dàng tiếp cận từ Paris, dường như xếp hàng chờ để truyền dẫn nỗi bất an này. Nó tập trung vào một điều mà phụ nữ mang thai chắc chắn có thể kiểm soát: thực phẩm. Các tác giả của cuốn Điều cần biết khi mang thai (What to Expect When You’re Expecting), cẩm nang mang thai gây lo lắng nổi tiếng - và bán chạy nhất - của Mỹ nói rằng: “Khi bạn đưa dĩa lên miệng, hãy cân nhắc: ‘Miếng này liệu có có lựi cho con mình không?’ Nếu có, cứ nhai thoải mái...” Tôi biết rằng những điều cấm đoán trong mấy cuốn sách của mình không quan trọng ngang nhau. Thuốc lá và rượu nhất định là xấu, trong khi sò, thịt nguội, trứng sống và pho mát chưa tiệt trùng thì chỉ nguy hiểm nếu chúng bị nhiễm một số loại khuẩn hình que salmonella hiếm gặp. Nhưng để cho an toàn, tôi tuân thủ chặt chẽ tất cả các điều cấm. Để tránh sò và gan ngỗng vỗ béo thì đơn giản. Nhưng - vì tôi đang ở Pháp - tôi phát hoảng lên vì pho mát. “Pho mát Parma trên món mì pasta của tôi đã được tiệt trùng chưa?” tôi hỏi người phục vụ bàn đang sửng sốt. Simon là người phải chịu đựng nhiều nhất trong nỗi sợ hãi của tôi: “Anh đã rửa sạch thớt sau khi
  • 15. chặt gà sống chưa?” “Anh có thực sự yêu đứa con chưa ra đòi không?” Cuốn Điều cần biết (What to Expect) có một nội dung gọi là Chếđộ ăn dành cho người mang thai. Ớ đó khẳng định có thê “cải thiện sự phát triển não của bào thai,” giảm nguy cơ của một số khuyết tật bẩm sinh,” và “thậm chí có thể giúp con bạn lón lên thành một người khỏe mạnh”. Dường như mỗi món ăn đều đại diện cho điểm SAT^) tiềm năng. Đừng lo đói: nếu tôi phát hiện ra mình thiếu một lượng protein vào cuối ngày, Chếđộ ăn dành cho người mang thai nói rằng tôi nên nhồi thêm một suất sa lát trứng cuối cùng trước khi đi ngủ. Họ đã hạ gục tôi vói từ “ăn kiêng”. Sau bao nhiêu năm tròi ăn kiêng để gầy bớt, thật đáng sợ khi “ăn kiêng” để tăng cân. Chẳng khác gì một phần thưởng vì đã dành nhiều năm thon gọn đủ để tóm cổ một anh chồng. Các diễn đàn trực tuyến của tôi đầy những bà mẹ tăng quá so vói giói hạn quy định. Tất nhiên chúng ta ai cũng thích được như những minh tinh mang bầu gọn gàng trong những tấm áo choàng thòi thượng của mình, hay những cô người mẫu trên bìa tạp chí Fit Pregnancy. Tôi cũng có quen một số chị em quả thực được như thế. Nhưng một thông điệp cạnh tranh của Mỹ lại nói rằng chúng ta nên để cho mình được tự do. “Cứ thoải mái ĂN đi,” tác giả thân thiện của cuốn Hư&ng dẫn chân tình nhất cho phụ nữ mang thai (Best Friends’ Guide to Pregnancy), cuốn sách gối đầu giường của tôi, đã nói, “Phụ nữ mang thai còn thú vui nào nữa?” Không chỉ đánh mất vóc dáng của mình mà nguy hiểm hơn là tôi còn không có thòi gian để tận hưởng cuộc sống. Giờ tôi dành thòi gian rỗi để nghiền ngẫm về các loại xe đẩy lỗi mốt và ghi nhớ những nguyên nhân có thể có của những cơn đau bụng. Sự tiến hóa từ “phụ nữ” sang “bà mẹ” dường như quá hiển nhiên. Một trang quảng cáo trên một tờ tạp chí mang thai của Mỹ mà tôi mua trong một chuyến đi hồi còn ở nhà có hình ảnh mấy người phụ nữ trong những chiếc sơ mi mềm cùng quần ngủ nam, rồi nói rằng những trang phục này đáng để mặc suốt cả ngày. Có lẽ để khỏi phải hoàn thành xong cuốn sách của mình, tôi đã mơ tưởng đến chuyện bỏ luôn nghề báo và quay sang học đỡ đẻ. Tình dục đích thực là quân cờ đôminô cuối cùng đổ xuống. Mặc dù về cơ bản thì chuyện đó là được phép, những cuốn sách như Điều cần biết (What to Expect) cho rằng quan hệ tình dục trong quá trình mang thai sẽ làm tử cung co bóp mạnh. “Hoạt động đã đưa bạn vào tình huống này bây giờ có thể trở thành một trong những vấn đề lớn nhất của bạn,” các tác giả cảnh báo. Họ tiếp tục mô tả 18 yếu tố ngăn cản cuộc sống tình dục của bạn,
  • 16. bao gồm cả “sợ rằng việc đưa dưong vật vào âm đạo sẽ gây nhiễm trùng”. Thòi gian này, để tốt cho sức khỏe và đòi sống tình dục sau sinh, họ khuyên các bà bầu nên sử dụng thòi gian rảnh rỗi để thực hành bài tập Kegel, bài tập tác động vào các múi cơ vùng xương chậu, tử cung bàng quang và ruột; tăng độ co của âm đạo. Tôi không chắc có ai tuân theo tất cả những lòi khuyên này không. Cũng như tôi, chắc họ chỉ hấp thụ được một tinh thần đó là tâm lý lo lắng. Hiện tượng này rất dễ lây lan, ngay cả từ nước ngoài, vốn là một người dễ bị tác động, có khi lại tốt hơn khi tôi ở cách xa nguồn lây nhiễm. Có thể khoảng cách sẽ cho tôi chút ít góc nhìn về vấn đề làm cha làm mẹ. Tôi cũng đã bắt đầu ngờ rằng nuôi một đứa trẻ ở Pháp sẽ tương đối khác. Khi tôi ôm cái bụng to đùng ngồi trong các quán cà phê ở Pháp, chẳng có ai nhảy bổ tói để cảnh báo tôi về các hiểm họa của caffeine cả. Ngược lại, họ đốt thuốc ngay bên cạnh tôi. Câu hỏi duy nhất mà những người lạ đặt ra, khi họ để ý tói bụng tôi, là “Cô đang đợi một em bé à?” Mất một thòi gian tôi mói nhận ra là họ không nghĩ rằng tôi có hẹn ăn trưa vói một cậu nhóc 6 tuổi lêu lổng. Câu này ở Pháp có nghĩa là “Cô đang có bầu đúng không?” Tôi đang chờ một em bé. Đó rất có thể là điều quan trọng nhất tôi từng làm. Bất chấp những dằn vặt về Paris của tôi, có điều gì đó thật dễ chịu khi mang bầu ở một nơi mà tôi thực sự được miễn nhiễm vói những đánh giá của người khác. Khi thu dọn đồ đạc và chuyển tói Paris, tôi không bao giờ tưởng tượng được rằng sự thay đổi lại là việc mang thai. Giờ tôi bắt đầu lo lắng rằng Simon có vẻ hơi bị quá giống vói một người ngoại quốc. Sau khi sống ở tất cả những đất nước kia trong quá trình trưởng thành, đó là trạng thái tự nhiên của anh. Anh thú nhận là anh cảm thấy gắn bó vói nhiều con người và thành phố, và không cần một nơi để gọi là mái nhà chính thức của mình. Anh gọi phong cách này là “chung vách”, giống như dạng nhà liền kề ở London. Đã có vài người bạn Anglophone^8) ròi khỏi Pháp, thường là khi công việc của họ thay đổi. Nhưng công việc của chúng tôi không đòi hỏi chúng tôi phải ở đây. Không tính đến đĩa pho mát, thực sự chúng tôi ở đây chẳng vi lý do gì cả. Và “không lý do” - cộng vói một em bé - bắt đầu có vẻ là lý do
  • 18. Chương 2 Mang thãi Vãsinh con ở Phắp C ăn hộ mói của chúng tôi không có mặt trong các tấm bưu thiếp của Paris. Nó nằm bên vệ đường một khu phố may mặc của người Hoa, ở đây, chúng tôi liên tục bị mấy người tha lôi những túi rác đựng toàn quần áo xô đẩy. Chẳng có dấu hiệu nào chứng tỏ chúng tôi đang ở cùng thành phố vói tháp Eiffel, nhà thờ Đức Bà hay dòng sông Seine uốn lượn thanh lịch. Vậy mà, bằng cách nào đó, láng giềng mói lại họp vói chúng tôi. Simon và tôi mỗi người chọn một quán cà phê gần nhà và rút vào đó mỗi sáng để gặm nhấm chút niềm vui đưực ở riêng một mình. Ớ đây, các nguyên tắc xã hội tuân theo những luật lệ xa lạ. Nói năng suồng sã vói người phục vụ thì không sao, nhưng vói những khách hàng quen khác thì nói chung là không đưực (trừ khi họ ngồi ở quầy và cũng đang trò chuyện vói người phục vụ). Dù tách biệt, nhưng tôi vẫn cần mối liên hệ vói con người. Một buổi sáng, tôi cố gắng bắt chuyện vói một khách quen khác - ngưòi mà trong mấy tháng liền ngày nào tôi cũng nhìn thấy. Tôi nói vói anh, rất chân thành, rằng anh trông giống một người Mỹ mà tôi biết. “Ai cơ, George Clooney^1) ấy à?” Anh ta hỏi vói vẻ giễu cợt. Chúng tôi không bao giờ nói chuyện thêm lần nào nữa. Tôi tiến gần hơn vói láng giềng mói. Vỉa hè đông đúc phía ngoài ngôi nhà của chúng tôi mở lên phía một cái sân nhỏ lát đá cuội, nơi mấy ngôi nhà và căn hộ thấp quay mặt vào nhau. Cư dân ở đây là một tập họp của các nghệ sĩ, các chuyên gia trẻ tuổi, những người thất nghiệp bí ẩn và những bà già đi tập tễnh xiêu vẹo trên những viên gạch lô nhô. Chúng tôi đều sống gần nhau tói nỗi họ buộc phải biết đến sự có mặt của chúng tôi, dù một vài người vẫn cố làm lơ. Thật may, hàng xóm bên cạnh nhà, kiến trúc sư Anne, cũng đang mang bầu và dự sinh trước tôi vài tháng. Dù mắc kẹt trong cơn lốc ăn uống và lo lắng đặc trưng của dân Anglophone, tôi vẫn không thể không để ý rằng
  • 19. Anna, và những phụ nữ Pháp mang thai khác mà tôi biết, đều xử lý việc mang thai rất khác. Đê bắt đầu, họ không đối xử vói việc mang thai như một dự án nghiên cứu độc lập. Có rất nhiều sách, tạp chí và website về mang thai ở Pháp. Nhưng đó không phải những thứ buộc phải đọc, và không ai ngốn ngấu cả đống thông tin ấy cả. Tuyệt đối không một ai mà tôi gặp đi loanh quanh tìm mua một triết lý làm cha mẹ, hay nhắc đến tên các phưong pháp khác nhau. Không có một cuốn sách mói, dạng “phải” đọc nào, các chuyên gia cũng không áp đặt lên các vị phụ huynh những điều tưong tự như thế. “Mấy cuốn sách này có thể hữu ích cho những người thiếu tự tin, nhưng tôi không nghĩ chị có thê vừa dạy con vừa đọc sách đâu. Chị phải nghe theo cảm xúc của mình,” một người mẹ Paris nói. Những người phụ nữ Pháp mà tôi gặp không phải ai cũng đặt nặng vấn đề làm mẹ hay về sức khỏe của con cái họ. Họ tôn thờ, tận tụy và nhận thức rõ về sự biến đổi to lón trong cuộc sống mà họ sắp trải qua. Nhưng họ biểu hiện những điều này theo cách khác. Phụ nữ Mỹ thường chứng tỏ sự tận tâm của mình bằng cách lo lắng và thể hiện ra ngoài rằng chúng tôi sẽ sẵn sàng hy sinh như thế nào, ngay cả trong lúc mang bầu; trong khi đó, phụ nữ Pháp biểu hiện sự tận tâm bằng vẻ bình tĩnh bên ngoài và tỏ ra là họ vẫn chưa từ bỏ lạc thú. Một tấm ảnh phổ biến rộng rãi trên tờN eu/M ois (Chín tháng) thể hiện một ngưòi phụ nữ ngăm đen mang bầu nặng nề mặc bộ đồ ren, đang cắn ngập răng một chiếc bánh nướng và liếm mứt trên ngón tay. “Trong thòi kỳ mang thai, nuông chiều bản thân là rất quan trọng,” một bài báo khác nói. “Trên tất cả, hãy chống lại cái cảm giác cám dỗ muốn mượn áo của bạn đòi.” Một danh sách những yếu tố kích thích tình dục dành cho những ngưòi sắp làm mẹ bao gồm có sô cô la, gừng, quế, và - điều này thì rất Pháp - ria mép. Tôi nhận ra những phụ nữ Pháp bình thường nhìn nhận những lòi kêu gọi “nổi dậy” này rất nghiêm túc khi Samia, một ngưòi mẹ sống gần nhà tôi, mòi tôi sang tham quan căn hộ của cô. Cô là con gái của những người di dân từ Algeri và lón lên ở Chartres. Trong lúc cô lấy tập ảnh trên mặt lò sưởi thì tôi đang trầm trồ khen những trần nhà cao vút và mấy chùm đèn của cô.
  • 20. “Tấm này chụp khi tôi đang mang bầu. Và đây, cái bụng to tướng!” Cô nói, đưa cho tôi mấy tấm ảnh. Đúng thế thật, trong mấy bức ảnh đó cô cực kỳ “bầu bí”. Đồng thòi, cô hoàn toàn không mặc áo. Tôi choáng, trước hết là bỏi chúng tôi vẫn đang xưng hô rất xã giao vói nhau, và giờ cô lại đưa cho tôi mấy tấm ảnh khỏa thân của chính cô một cách rất hồn nhiên. Nhưng tôi còn ngạc nhiên vì những tấm ảnh này trông cô cực kỳ quyến rũ. Samia trông giống như những người mẫu đồ lót trên các tạp chí, mà không hề vận đồ lót. Phải nói rằng, Samia lúc nào cũng hoi kiểu cách. Phần lón các ngày cô đưa đứa con 2 tuổi tói trung tâm trông trẻ ban ngày vói vẻ ngoài như thể cô vừa bước ra khỏi một bộ phim xã hội đen: một tấm áo choàng thắt đai lưng gọn ghẽ, mắt kẻ viền đen và một lóp son môi đỏ tưoi mon mởn. Cô là ngưòi Pháp duy nhất mà tôi biết có đội mũ bê rê (mũ nồi). Tuy nhiên, Samia chỉ đon giản là tuân theo một nhận thức truyền thống của Pháp là 40 tuần biến đổi thể chất thành một ngưòi mẹ không nên làm cho bạn bứt nữ tính đi. Các tạp chí mang thai của Pháp không chỉ nói rằng phụ nữ có thai có thể quan hệ tình dục; chúng còn giải thích chính xác cần làm việc đó ra sao. Tạp chí Neu/Mois vạch ra mười tư thế quan hệ trong thòi gian mang bầu. Các bậc phụ huynh tưong lai của Pháp không chỉ thản nhiên hom trong chuyện tình dục mà họ còn bình tĩnh trong cả việc ăn uống nữa. Samia nói chuyện vói bác sỹ sản khoa mà nghe như một tiết mục kịch vui: Cô ấy hỏi: “Bác sỹ, tôi có bầu, nhưng lại mê sò cuồng nhiệt. Tôi phải làm gì bây giờ?” Ông ấy trả lòi: “Ăn sò đi! Rửa cho thật sạch. Nếu có ăn món sushi thì hãy ăn ở một noi đảm bảo chất lưựng.” Hình mẫu phụ nữ Pháp hút thuốc và uống rưựu trong suốt thai kỳ đã lỗi thòi lắm rồi. Hầu hết những ngưòi phụ nữ tôi gặp đều nói rằng thi thoảng lắm họ mói uống một ly sâm panh hoặc không hề uống chút rượu nào. Tôi nhìn thấy một người phụ nữ mang thai hút thuốc đúng một lần, trên phố. Đó có thể là điếu thuốc duy nhất trong tháng của chị ấy. Vấn đề không phải ử chỗ cái gì cũng đưực chấp nhận, mà là phụ nữ nên bình tĩnh và tỉnh táo. Không giống tôi, các bà mẹ Pháp mà tôi gặp phân biệt giữa những thứ gần như chắc chắn là có hại và những thứ chỉ nguy hiểm khi bị nhiễm bẩn. Một ngưòi khác tôi gặp trong khu láng giềng là Caroline,
  • 21. một nhà vật lý trị liệu đang mang bầu bảy tháng. Cô nói rằng bác sỹ của cô không đả động gì đến bất cứ sự kiêng cữ trong ăn uống nào, và cô cũng không bao giờ hỏi. “Tốt hon là không biết” cô nói. Cô kể vói tôi rằng cô ăn thịt bò tái kiểu Pháp và tất nhiên là cùng gia đình thưởng thức gan ngỗng vỗ béo trong dịp Giáng sinh. Cô chỉ đảm bảo ăn ở các nhà hàng tốt hoặc tại nhà. Nhưựng bộ duy nhất của cô là khi ăn pho mát chưa tiệt trùng, cô cắt bỏ lóp vỏ ngoài. Tôi chưa bao giờ tận mắt chứng kiến người phụ nữ mang thai nào ăn sò. Nếu có, chắc có lẽ tôi sẽ quăng cái thân hình đồ sộ của mình qua bàn mà ngăn họ lại. Chắc chắn họ phải ngạc nhiên lắm. Đó rõ ràng là lý do vì sao những người phục vụ bàn ở Pháp lúng túng khi tôi tra hỏi họ về các thành phần trong từng món. Phụ nữ Pháp thường không quá quan trọng việc đó. Báo chí về chủ đề mang thai của Pháp không chú trọng vào những kịch bản tình huống tệ nhất không chắc sẽ xảy ra. Ngược lại, nó gựi ý rằng điều mà những bà mẹ tưong lai cần nhất là sự an ổn. 9 tháng spa là tựa đề của một tạp chí Pháp. Hư&ng dẫn dành cho những ngư&i mói làm mẹ (The Guide for New Mother), một cuốn sổ tay miễn phí do bộ y tế của Pháp hỗ trự thực hiện, nói rằng những chỉ dẫn về ăn uống sẽ giúp trẻ “phát triển đồng đều” và rằng phụ nữ nên tìm “niềm cảm hứng” từ những hưong vị khác nhau. Cuốn sách tuyên bố: “Thai kỳ nên là quãng thòi gian vô cùng hạnh phúc!” Tất cả những thứ này có an toàn không? Có vẻ là như thế. Pháp vưựt hẳn Mỹ ử gần như tất cả các chỉ số về sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở Pháp thấp hon 57% so vói ở Mỹ. Theo tổ chức Uniceí, khoảng 6,6% trẻ em Pháp có cân nặng khi sinh thấp, so vói con số 8% ở trẻ em Mỹ. Nguy cơ một phụ nữ Mỹ tử vong trong thai kỳ hoặc khi sinh nở là 1 trong 4.800 ca; ở Pháp là 1 trong 6.900 ca. Điều thực sự khiến tôi chú ý tói thông điệp của Pháp, rằng mang thai nên là khoảng thòi gian dễ chịu, không phải là những con số thống kê hay những người phụ nữ mang thai mà tôi gặp gỡ, đó là một con mèo đang mang thai. Đó là một cô mèo mảnh mai, mắt xám sống trong khoảnh sân nhỏ của chúng tôi và sắp đến kỳ sinh nở. Chủ của nó, một họa sĩ xinh đẹp ngoài 40, kể vói tôi rằng chị định đưa nó đi cắt buồng trứng sau khi bọn mèo con ra đòi. Nhung chị ấy không thể làm đưực việc đó trước khi con mèo đưực kinh qua việc sinh nở. “Tôi muốn nó đưực có trải nghiệm đó,”
  • 22. chị nói. Tất nhiên, các bà mẹ tương lai ở Pháp không chỉ bình tĩnh hơn chúng tôi. Giống như con mèo, họ còn mảnh mai hơn nữa. Một số phụ nữ Pháp khi mang thai có béo lên. Nhìn chung, dường như bạn càng tiến gần vào trung tâm Paris thì tỉ lệ người béo lại càng tăng. Nhưng những người Paris trung lưu mà tôi thấy quanh mình trông giống những người nổi tiếng Mỹ trên thảm đỏ đến kinh ngạc. Họ có cái bụng bầu cỡ cái rổ trong môn bóng rổ gắn vào mấy đôi chân, cánh tay và bộ hông mảnh dẻ. Nhìn từ phía sau, bạn thường không thể đoán ra là họ đang có bầu. Có rất nhiều người mang bầu có được vóc dáng này để tôi thôi không còn trố mắt ngạc nhiên mỗi khi đi ngang qua một người trên vỉa hè hay trong siêu thị nữa. Chuẩn mực này của Pháp được mã hóa rất chặt chẽ. Các tính toán cho quá trình thai sản của Mỹ nói vói tôi rằng, vói chiều cao và hình thể của tôi, tôi phải tăng 18 kg trong quá trình mang thai. Nhưng các tính toán của Pháp lại khuyên tôi đừng tăng quá 12 kg rưỡi. (Đến lúc tôi biết được điều này thì đã quá muộn.) Làm thế nào mà phụ nữ Pháp giữ được trong giói hạn này? Chính là nhờ áp lực xã hội. Bạn bè, chị em và mẹ chồng công khai truyền đi cái thông điệp là mang bầu không phải là cái cớ để thoải mái ăn lấy ăn để. (Tôi thoát được điều tồi tệ nhất của việc này vì mẹ chồng tôi không phải người Pháp.) Audrey, một nhà báo Pháp có ba con, kể vói tôi rằng cô đã cảnh cáo cô em dâu người Đức của mình, cô này ban đầu có dáng người cao và thon gọn. “Ngay khi có bầu, con bé đã bắt đầu phát tướng. Tôi nhìn mà thất kinh. Nó bảo tôi, ‘Không, ổn mà, em được phép thư giãn. Em được phép béo lên. Không vấn đề gì đâu,’... Vói người Pháp chúng tôi, nói thế thì thật là khủng khiếp. Chúng tôi chẳng bao giờ nói vậy cả.” Cô chêm thêm một câu cạnh khóe dưới lốt xã hội học: “Tôi nghĩ, về vấn đề mĩ học thì dân Mỹ và Bắc Âu dễ dãi hơn chúng tôi nhiều.” Người Pháp coi việc phụ nữ mang thai phải đấu tranh cật lực để giữ cho vóc dáng không bị ảnh hưởng là điều đương nhiên. Ngoài ra, bác sỹ chuyên về chân đang chăm sóc chân cho tôi cũng khuyên rằng tôi nên xoa dầu hạnh nhân ngọt lên bụng, để tránh các vết rạn. (Tôi làm theo rất nghiêm chỉnh và không bị vết rạn nào.) Các tạp chí về chủ đề làm cha mẹ in những bài viết đặc biệt rất dài về vấn đề làm thế nào để giảm thiểu tác hại của việc mang thai tói bầu ngực của bạn. (Đừng tăng quá nhiều cân và phun nước lạnh vào ngực hàng ngày.)
  • 23. Các bác sỹ Pháp coi những giói hạn tăng cân như các chỉ dụ thiêng liêng. Người dân Anglophone sống ở Pháp thường bị sốc khi bị bác sỹ sản khoa trách mắng vì sản phụ tăng cân, dù chỉ một chút xíu. “Chỉ là đàn ông Pháp cố gắng giữ gìn cho người phụ nữ của họ mảnh mai thôi,” một phụ nữ Anh, kết hôn vói một ngưòi Pháp, cạu cọ, nhớ lại mấy cuộc hẹn trước khi sinh của mình ở Paris. Bác sỹ nhi khoa thoải mái bình luận về vòng hai của một bà mẹ sau sinh khi người này đưa con đến kiểm tra. (Vòng bụng của tôi chắc sẽ thu hút một cái liếc nhìn đầy lo ngại.) Lý do chính mà phụ nữ Pháp mang thai không béo lên là do họ rất cẩn thận, không ăn quá nhiều. Trong các tài liệu hướng dẫn mang thai của Pháp, không có việc nhồi nhét sa lát trứng vào tối muộn, hay các chỉ dẫn ăn nhiều hon con đói đòi hỏi nhằm cung cấp chất dinh dưỡng cho bào thai. Một tài liệu nói rằng nếu vẫn đói, người đó có thể thêm một bữa ăn nhẹ buổi chiều. Trong mắt ngưòi Pháp, con thèm ăn của phụ nữ mang thai là một mối nguy cần đưực chế ngự. Phụ nữ Pháp không để cho bản thân tin - như tôi tùng nghe phụ nữ Mỹ phàn nàn - bào thai cần bánh pho mát. Cẩm nang cho các bà mẹ tưong lai (Guidebook for Mothers to be), một cuốn sách về mang thai của Pháp, nói rằng thay vì xoáy sâu vào con thèm ăn, phụ nữ nên đánh lạc hướng cơ thể bằng cách ăn một quả táo hoặc một củ cà rốt sống. Điều này nghe có vẻ khổ hạnh, nhung không hề. Phụ nữ Pháp không xem việc có bầu là một cái cớ để ăn quá nhiều, một phần là bởi vì họ không hề từ bỏ nhũng thức ăn mà họ ưa thích - hay lén lút ăn thật nhiều mấy món đó - trong phần lớn đoạn đòi trưởng thành của họ. Trong cuốn sách Phụ nữ Pháp không phát phì (French Women Don’t Get Fat) của mình, Mireille Guiliano đã giải thích: “Phụ nữ Mỹ ăn uống bí mật quá thường xuyên, kết quả là cảm giác tội lỗi còn lớn hon cả sự thỏa mãn.” “Làm như những sự thỏa mãn đó không hề tồn tại, hoặc cố gắng loại chúng ra khỏi chế độ ăn trong một thòi gian dài rất có thể dẫn tói tăng cân.” Mặc dù bác sỹ Fernand Lamaze(2) sinh ra tại Pháp nhung các biện pháp giảm đau hiện nay lại đặc biệt phổ biến ở Pháp. Trong số các bệnh viện phụ sản và nhà hộ sinh hàng đầu của Pháp, khoảng 87% phụ nữ sử dụng các biện pháp này. Ớ một số bệnh viện, tỷ lệ này là 98 hay 99%.
  • 24. Ớ Pháp, các bà mẹ Pháp thường chỉ hỏi tôi về noi tôi định sinh nở mà không bao giờ hỏi sinh bằng cách nào. Họ dường như không quan tâm. Ớ Pháp, cách bạn sinh con không quyết định vị trí của bạn trong hệ thống giá trị hay định nghĩa bạn sẽ là kiểu cha mẹ nào. Chủ yếu, nó chỉ là một cách để đưa con bạn từ tử cung vào vòng tay bạn một cách an toàn mà thôi. Ớ Pháp, sinh con mà không có các biện pháp giảm đau không đưực gọi là sinh con “tự nhiên”(3). Hiện nay, một vài bệnh viện và nhà hộ sinh ở Pháp còn có những bể nước lớn để sinh con hoặc các trái bóng cao su khổng lồ để chị em ôm khi lâm bồn. Nhưng không mấy phụ nữ Pháp sử dụng những công cụ này. 1 hoặc 2% những người sinh con không giảm đau ở Paris đó, theo tôi, hoặc chính là những người Mỹ điên rồ như tôi, hoặc là những phụ nữ Pháp không kịp đến bệnh viện. Ngưòi phụ nữ Pháp suồng sã nhất mà tôi biết là Hélène. Chị đưa ba đứa nhỏ tói các cuộc cắm trại và cho chúng bú mẹ đến 2 tuổi. Lần sinh nào Hélène cũng dùng biện pháp giảm đau. Vói chị, điều đó là điều hiển nhiên. Sự khác biệt giữa Pháp và Mỹ trở nên cực kỳ rõ rệt trong tôi khi, qua mấy ngưòi bạn chung, tôi gặp Jennifer và Eric. Jennifer là người Mỹ, làm việc cho một công ty đa quốc gia ở Paris. Eric là người Pháp làm việc trong lĩnh vực quảng cáo. Họ sống ngay ở vùng ngoại ô Paris, vói hai cô con gái. Khi Jennifer mang thai lần đầu, Eric cho rằng họ nên tìm một bác sỹ, chọn một bệnh viện và sinh con. Nhưng Jennifer lại mang về nhà cả chồng sách về trẻ nhỏ và ép Eric phải nghiên cứu chúng cùng vói cô. Eric vẫn không thể tin nổi làm thế nào mà Jennifer lại muốn lên kịch bản cho việc sinh nở. “Cô ấy muốn sinh con trên một quả bóng và trong một bồn tắm,” anh nhớ lại. Anh kể, vị bác sỹ nói vói cô: “Đây không phải sở thú hay rạp xiếc, về cơ bản, chị sẽ sinh con giống như mọi người, nằm ngửa, chân dạng. Và lý do là nếu có vấn đề xảy ra tôi có thể can thiệp đưực.” Jennifer còn muốn sinh mà không gây mê, để cô có thể cảm nhận được thế nào là sinh con. “Tôi chưa từng nghe thấy một người phụ nữ nào muốn chịu đựng nhiều đến thế để có một đứa con cả,” Eric nói. Khi Jennifer vào phòng đẻ, mọi chuyện trở nên rõ ràng rằng tất cả những kế hoạch sinh nở của cô đã về con số không: Cô cần phải được làm thủ thuật. Bác sỹ đưa Eric vào phòng đựi. Cuối cùng, Jennifer hạ sinh một bé gái khỏe mạnh. Sau đó, trong phòng hồi sức, Eric kể vói cô là anh vừa ăn
  • 25. một cái bánh sừng bò. Ba năm sau, Jennifer vẫn sôi máu mỗi lần cô nghĩ đến mẩu bánh mì đó. “Eric không hề thực sự có mặt [trong phòng đợi] trong suốt cả lúc ấy. Anh ta ra ngoài và mua bánh sừng bò! Khi họ đẩy tôi vào phòng mổ, Eric ra khỏi phòng khám, đi xuống phố, vào tiệm bánh và mua một đôi bánh sừng bò. Anh ta quay về, nhá cái bánh sừng bò của mình!” Đó không phải là điều mà Jennifer đã hình dung ra. “Chồng tôi phải ngồi đó mà cắn móng tay, nghĩ rằng: ‘Ôi, sẽ là con trai hay con gái nhỉ?’”, cô nói. Cô nói rằng gần phòng chờ có một cái máy bán hàng tự động. Đáng lẽ anh đã có thể mua một túi đậu phông. Nhưng Eric cũng nổi điên. Phải, đúng là có một cái máy bán hàng tự động. Nhưng “lúc đó căng thẳng lắm, tôi cần một chút đường,” anh nói. “Tôi đã chắc chắn là có một hiệu bánh ở ngay góc phố, nhưng hóa ra nó lại xa hon một chút. Họ đón cô ấy lúc 7 giờ. Tôi biết họ sẽ chuẩn bị trong một tiếng và vói những việc thế này, tôi nghĩ chắc cô ấy sẽ quay ra lúc 11 giờ. Vậy nên trong cả thòi gian đó, phải, tôi dành ít nhất 15 phút để ăn cái gì đó.” Vói Jennifer, việc Eric theo đuổi cái bánh sừng bò một cách ích kỉ là dấu hiệu cho thấy anh sẽ không hi sinh sự thoải mái của bản thân vì gia đình, và đứa con mói sinh. Cô lo lắng rằng anh đầu tư không đủ vào dự án làm cha mẹ. Vói Eric việc đó không hề là dấu hiệu cho điều gì đó. Anh cảm thấy mình toàn tâm toàn ý cho việc sinh nở và là một người cha cực kỳ tận tụy. Nhưng vào thòi điểm đó, anh lại thấy bình tĩnh, vô tư và hài lòng vói bản thân đủ để đi xuống đường. Anh muốn làm cha, nhưng anh cũng thèm một cái bánh sừng bò. Tôi muốn nghĩ rằng mình là kiểu người vợ sẽ không bị cái bánh sừng bò làm cho ấm ức, hoặc ít nhất thì Simon cũng là kiểu người chồng sẽ giấu những việc chẳng đâu vào đâu như thế. Tôi có đưa ra một kế hoạch sinh nở dạng chỉ dành cho ngưòi lớn, ghi rõ rằng không một hoàn cảnh nào Simon đưực phép cắt rốn cho em bé. Vì là kiểu người hét toáng lên mỗi khi triệt lông chân nên tôi không nghĩ mình là một ứng cử viên sáng giá cho việc sinh nở tự nhiên.
  • 26. Tôi quan tâm đến chuyện tói bệnh viện đúng giờ hơn. Làm theo lòi khuyên của một người bạn, tôi đã đăng ký sinh ở một bệnh viện tận bên kia đầu thành phố. Nếu đứa trẻ đòi ra đòi vào giờ cao điểm thì có thể sẽ có vấn đề. Và đó là nếu tôi gọi được taxi. Trong giói những người Anglophone ở Paris (những người do chỉ ở đây tạm thòi, thường sẽ không có ô tô) có lòi đồn rằng lái xe taxi Pháp từ chối đón phụ nữ đang đau đẻ. Vì nhiều lý do khác, sinh trên ghế sau ô tô không hề lý tưởng chút nào. Simon cũng quá hoảng hốt dù chỉ để đọc chỉ dẫn cho các trường họp sinh khẩn cấp tại nhà trong cuốn Điều cần biết. Tử cung tôi bắt đầu co thắt khoảng 8 giờ tối. Như vậy nghĩa là tôi không thể ăn món mì của Thái mà chúng tôi vừa mua. (Tôi sẽ mơ tưởng về món mì Thái đó trên bàn đẻ.) Nhưng ít nhất thì đường phố cũng quang đãng. Simon gọi một chiếc taxi, tôi im lặng khi lên xe. Đê cho người lái xe - một người đàn ông để ria tầm ngoài 50 - thoải mái soi mói. Đáng lý tôi không cần phải lo lắng gì. Ngay khi lên đường và nghe tiếng tôi rên rỉ trên ghế sau, người lái xe trở nên ngây ngất. Ông nói ông đã đợi cái sự kiện kịch tính này trong cả sự nghiệp tài xế của mình. Khi chúng tôi đi qua Paris trong bóng tối, tôi nói dây an toàn và trượt xuống sàn xe, rên rỉ vì cơn đau cứ tăng dần. Đây không phải là triệt lông chân. Tôi từ bỏ ảo tưởng sinh con tự nhiên hão huyền. Simon mở cửa sổ, hoặc để ô tô có thêm chút không khí hoặc để khỏa lấp tiếng ồn tôi đang gây ra. Trong lúc đó, bác tài tăng tốc. Tôi có thể nhìn thấy đèn đường lướt vun vút qua đầu. Ông bắt đầu kể rất to câu chuyện về sự ra đòi của chính con mình 25 năm trước đây. “Làm ơn đi chậm lại!” tôi nài nỉ dưới sàn xe, giữa các cơn co thắt. Simon lặng lẽ và xanh xao, nhìn chằm chằm về phía trước. “Anh đang nghĩ gì thế?” Tôi hỏi anh. “Bóng đá Hà Lan,” anh nói. Khi chúng tôi tói bệnh viện, người lái xe tấp vào lối lên cấp cứu, nhảy ra khỏi xe và chạy thật nhanh vào trong. Như thể là ông đang nóng lòng cùng vào sinh vói chúng tôi. Một lát sau ông trở lại, mồ hôi nhễ nhại và thở hổn hển. “Họ đang chờ hai người đấy!” Ông hét lên.
  • 27. Tôi khệ nệ bước vào tòa nhà, để Simon trả tiền xe. Ngay lúc nhìn thấy ngưòi đỡ đẻ, tôi đã tuyên bố bằng thứ tiếng Pháp rõ ràng nhất của mình: Ve voudraỉs une pérỉdurale!” (Tôi muốn sử dụng gây tê ngoài màng cứng). Hóa ra là bất chấp niềm đam mê giảm đau khi sinh của ngưòi Pháp, ngưòi ta không thực hiện chúng theo yêu cầu của tôi. Người đỡ đẻ đưa tôi vào một phòng khám để kiểm tra cổ tử cung của tôi, rồi ngước lên nhìn tôi vói một nụ cười ngơ ngác. Tôi mở chưa đến ba phân, so vói 10 phân cần thiết. “Phụ nữ thường không yêu cầu giảm đau sóm như vậy,” cô nói. Cô sẽ không gọi người gây mê đang dở tay vói món mì Thái của anh ta đến vì chuyện này. Cô có bật lên một bản nhạc nhẹ nhàng nhất mà tôi từng nghe - một loại nhạc ru con của Tây Tạng - và lắp cho tôi một bộ truyền nước giúp làm giảm cơn đau. Cuối cùng, tôi thiếp đi vì kiệt sức. Tôi sẽ không bắt bạn phải nghe chi tiết về ca sinh ngấm thuốc và êm dịu của tôi. Nhờ có biện pháp giảm đau, quá trình rặn em bé ra có được sự chính xác và độ mãnh liệt của một động tác yoga, không hề khó chịu. Tôi tập trung đến nỗi thậm chí tôi còn không để ý khi cô con gái tuổi teen của bác sỹ sản khoa, sống ở ngay góc phố, nhảy vào sau ca sinh để xin mẹ ít tiền. Tình cờ, chuyên gia gây mê, người đỡ đẻ và bác sỹ đều là phụ nữ. (Simon, yên vị cách xa vị trí “chiến sự”, cũng ở đó.) Đứa bé ra đòi như mặt tròi đang lên. Tôi đã đọc được rằng khi sinh ra, bọn trẻ con trông giống cha mình, để khẳng định mối quan hệ cha con và khuyến khích những ông bố kiếm tiền cho gia đình. Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi con gái chúng tôi ra đòi là con bé không đơn giản là giống Simon; nó giống anh y hệt. Chúng tôi ôm con bé một lúc. Rồi họ mặc cho nó một bộ đồ kiểu Pháp đơn giản thanh lịch được viện cấp cho, hoàn chỉnh vói một chiếc mũ chỏm màu nâu tái trên đầu. Chúng tôi đặt cho con bé một cái tên phù họp. Nhưng vì chiếc mũ đó, chúng tôi thường gọi nó là Bean. Tôi ở lại viện sáu ngày, tiêu chuẩn thông thường của Pháp. Tôi thấy chẳng có lý do gì để ra viện cả. Bữa nào cũng có bánh mì tươi nướng
  • 28. (không cần phải ra ngoài để mua bánh sừng bò) và một khu vườn lốm đốm nắng để tôi lẻn ra đi dạo. Danh sách rưựu mở rộng tại phòng bao gồm cả sâm panh. Như thể để nhấn mạnh rằng có những nguyên tắc làm cha mẹ chung ở Pháp, bọn trẻ sinh ra ở đây đều đưực kèm theo các chỉ dẫn. Mỗi trẻ sơ sinh đều đưực phát một cuốn sách bìa mềm gọi là carnet de santé(4), cuốn sách này sẽ theo lũ trẻ đến 18 tuổi. Các bác sỹ ghi lại từng lần kiểm tra và tiêm chủng vào cuốn sách này, điền chiều cao, cân nặng và kích thước đầu của đứa trẻ. Cũng có cả những điều căn bản thông thường về việc nên cho trẻ ăn gì, cách tắm cho trẻ, khi nào thì đi kiểm tra sức khỏe và làm thế nào để nhận ra các vấn đề sức khỏe. Cuốn sách không chuẩn bị cho tôi về sự chuyển biến của Bean. Trong khoảng tháng đầu tiên, con bé vẫn tiếp tục trông giống hệt Simon, vói đôi mắt và mái tóc nâu sẫm. Con bé thậm chí còn có cả má lúm đồng tiền của anh. Nếu có gì để nghi ngừ thì đó chính là ở phía mẹ con bé. Các gen tóc và mắt nhạt màu của tôi dường như đã thua đứt đuôi các gen ngăm đen Địa Trung Hải của anh ngay từ vòng đầu tiên. Nhưng ở khoảng hai tháng tuổi, Bean thay đổi hình dáng. Tóc con bé chuyển sang vàng hoe, và đôi mắt nâu của nó thì chuyển ngờ ngợ sang màu xanh. Em bé Địa Trung Hải bé nhỏ của chúng tôi đột nhiên trông như ngưòi Thụy Điển. v ề cơ bản, Bean là người Mỹ. (Con bé có thể yêu cầu quyền công dân Pháp khi nó lớn hơn.) Nhưng tôi ngờ rằng chất Pháp trong người con bé sẽ vượt cả tôi chỉ trong mấy tháng. Tôi không chắc liệu tôi sẽ nuôi dạy một em bé Mỹ hay một em bé Pháp. Có lẽ chúng tôi không có sự lựa chọn nào cả.
  • 29. Chương 3 / 9 Làmthê nào đê rèn cho béngủ mạch cả đêm? V ài tuần sau khi chúng tôi đưa Bean về nhà, láng giềng trong khoảng sân nhỏ bắt đầu hỏi: “Đêm của con bé ổn cả chứ?” Tất nhiên là con bé không “ngoan cả đêm”. Bé mói hai tháng tuổi (rồi ba tháng và bốn tháng). Ai cũng biết những trẻ nhỏ như vậy giờ giấc ngủ rất bất thường. Tôi biết một vài ngưòi Mỹ - hoàn toàn do may mắn - có con ở tuổi đó đi ngủ lúc 9 giờ tối và thức dậy lúc 7 giờ. Nhưng hầu hết những cha mẹ mà tôi biết không có đưực một đêm ngủ liền mạch cho tói khi con họ đưực khoảng 1 tuổi. Tệ hon, tôi còn biết một bé 4 tuổi vẫn loanh quanh trong phòng bố mẹ vào ban đêm. Mấy người bạn Anglophone và gia đình tôi thông cảm vói chuyện này. Họ hay hỏi những câu hỏi mở hon: “Con bé ngủ thế nào?” Và ngay cả câu đó cũng không phải là một câu hỏi để lấy thông tin; nó là một cái cớ đê những bậc phụ huynh kiệt sức đưực trút bầu tâm sự. Vói chúng tôi, có con nhỏ tự động gắn liền vói việc bị tước đoạt giấc ngủ. Một tựa đề trên tạp chí Daily Mail của Anh tuyên bố: “Các bậc cha mẹ của trẻ sơ sinh mất tổng cộng SÁU THÁNG không ngủ trong hai năm đầu của trẻ,” dẫn ra một nghiên cứu do một công ty sản xuất giường ủy quyền. Bài báo có vẻ như đáng tin cậy đối vói người đọc. Một người bình luận: “Đáng buồn là điều này lại đúng. Con gái 1 tuổi nhà chúng tôi không ngủ trọn vẹn một đêm nào trong 12 tháng, và nếu chúng tôi có được bốn tiếng để ngủ thì đó đã là một đêm an lành rồi.” Một cuộc thăm dò ý kiến do Quỹ Giấc ngủ Quốc gia (National Sleep Foundation) của Mỹ đã tìm ra rằng 46% trẻ chập chững đi thức giấc trong đêm, nhưng chỉ có 11% cha mẹ tin rằng
  • 30. con của họ có vấn đề về giấc ngủ. Bạn bè ngưòi Anglophone của tôi có xu hướng nhìn nhận con của mình chỉ có một nhu cầu ngủ duy nhất, và họ phải tìm cách thích nghi. Một ngày nọ, tôi đi quanh Paris vói một người bạn Anh khi đứa con trai mói tập đi của cô ấy trèo vào lòng, thò tay xuống dưói áo và sờ ti mẹ, rồi ngủ ngon lành. Bạn tôi rõ ràng rất ngượng vì tôi chứng kiến cái cảnh đó, nhưng cô thì thầm rằng đó là cách duy nhất thằng bé chịu chợp mắt. Cô bế thằng bé đi quanh trong tư thế đó suốt 45 phút tiếp theo. Tất nhiên là Simon và tôi đã chọn một chiến lược ngủ. Chiến lưực của chúng tôi đặt tiền đề trên ý tưởng rằng quan trọng là phải giữ cho bé thức sau khi ăn. Khi Bean ra đòi, chúng tôi thực hiện những nỗ lực to lớn để làm điều này. Đến giờ tôi có thể nói thì nó chẳng có tác dụng gì hết. Cuối cùng, chúng tôi loại bỏ lý thuyết này và thử các lý thuyết khác. Chúng tôi giữ cho Bean ở giữa ánh sáng ban ngày cả ngày và ở trong bóng tối vào ban đêm. Chúng tôi tắm bé vào cùng một thòi điểm mỗi tối và cố gắng kéo giãn thòi gian giữa mỗi lần ăn của bé. Trong mấy ngày, tôi hầu như không ăn gì ngoài bánh qui và pho mát Brie, sau khi ai đó nói vói tôi rằng thức ăn giàu chất béo sẽ giúp sữa của tôi đậm đặc hon. Một người New York ghé qua nói rằng cô đọc đưực rằng chúng tôi nên tạo những tiếng suỵt lớn, để mô phỏng âm thanh trong tử cung. Chúng tôi ngoan ngoãn suỵt hàng giờ liền. Chẳng có gì có vẻ tạo nên sự khác biệt cả. Ớtháng thứ ba, Bean vẫn thức giấc vài lần giữa đêm. Chúng tôi có một nghi thức dài mà tôi phải theo, đó là tôi cho con bú để bé ngủ lại, rồi ôm nó trong hon 15 phút để khi tôi đặt lại con bé xuống nôi, nó không tỉnh dậy nữa. Cái nhìn về thế giói tương lai của Simon đột nhiên giống như một lòi nguyền: anh bị ném vào một con khủng hoảng hàng đêm, tin rằng điều này sẽ kéo dài mãi mãi, trong khi chứng cận thị của tôi xem ra lại có vẻ như một sự tiến hóa thiên tài. Tôi không nghĩ xem liệu điều này có kéo dài sáu tháng nữa không (dù nó sẽ là như vậy); tôi phải chấp nhận từ đêm này qua đêm khác thôi. Một điều an ủi nữa là điều này hoàn toàn nằm trong dự đoán. Các bậc cha mẹ của trẻ sơ sinh đương nhiên không được ngủ. Hầu như tất cả các bậc cha mẹ Mỹ và Anh mà tôi biết đều nói rằng con họ bắt đầu ngủ suốt cả đêm ở tháng thứ 8 hoặc 9, hay muộn hơn. “Như thế là thực sự sớm,” một
  • 31. ngưòi bạn đến từ Vermont của Simon nói, hỏi ý kiến vự về thòi điểm mà những lần thức dậy vào lúc 3 giờ sáng của con trai họ chấm dứt. “Khi nào nhỉ, lúc 1 tuổi à?” Kristin, luật sư người Anh ở Paris, nói vói tôi rằng đứa con 16 tháng tuổi của cô ngủ suốt cả đêm, rồi bổ sung: “Uhm, khi tôi nói nó ‘ngủ suốt đêm,’ nghĩa là con bé dậy hai lần. Nhưng mỗi lần chỉ có 5 phút thôi.” Tôi thấy đưực an ủi rất nhiều khi nghe về những bậc cha mẹ gặp nhiều khó khăn hon tôi. Không khó để tìm thấy họ. Chị họ tôi, người ngủ cùng vói đứa con 10 tháng tuổi, vẫn chưa thể quay lại vói công việc dạy học của mình, một phần vì chị phải dậy cho con ăn nhiều lần trong đêm. Tôi thường gọi điện tói để hỏi thăm, “Thằng bé ngủ thế nào?” Câu chuyện tệ nhất mà tôi đưực nghe là của Alison, một người bạn của bạn tôi ở thủ đô Washington. Con trai của Alison 11 tháng tuổi. Cô kể vói tôi rằng trong sáu tháng đầu, cứ hai tiếng cô phải cho bé bú một lần. Lúc bảy tháng tuổi, bé mói bắt đầu ngủ bốn tiếng liền. Alison - một chuyên gia marketing vói tấm bằng của một trường đại học danh tiếng thuộc hàng Ivy League^1) - đành nhắm mắt trước sự kiệt quệ của mình và cái thực tế là sự nghiệp của cô đang bị đình lại. Cô cảm thấy như mình không có lựa chọn nào khác ngoài việc tuân theo lịch ngủ dị thường và mệt mỏi của con mình. “Rèn cho bé tự ngủ” có thể đưực coi là phưong án thay thế cho việc thức đêm như vậy, vói cách làm này, các bậc cha mẹ để cho trẻ ở một mình để trẻ “khóc thoải mái”. Tôi cũng nghiên cứu kỹ cả điều này. Có vẻ như nó dành cho những bé ít nhất là sáu hay bảy tháng tuổi. Alison nói vói tôi rằng cô đã thử cách đó một đêm, nhưng phải đầu hàng vì cảm giác bất nhẫn. Các cuộc thảo luận trực tuyến về việc để bé tự ngủ nhanh chóng biến thành những cuộc cãi cọ sôi nổi, ở đó, những người phản đối đánh giá rằng cách làm này xét ở góc tốt nhất thì là ích kỉ, còn tệ nhất thì là ngược đãi. “Tôi thấy ghê tởm việc rèn trẻ tự ngủ,” một mẹ đăng trên trang babble.com. Một ngưòi khác viết: “Nếu bạn muốn ngủ suốt đêm - đừng có con. Hãy nhận một đứa 3 tuổi về mà nuôi.” Mặc dù rèn ngủ nghe có vẻ đáng sợ, Simon và tôi lại khá có cảm tình vói phưong pháp này về mặt lý thuyết. Nhưng chúng tôi có ấn tưựng rằng Bean còn quá nhỏ để áp dụng một hình thức quân phiệt như thế. Như những người bạn và gia đình Anglo của mình, chúng tôi nghĩ Bean thức giấc vào buổi đêm vì bé đói hoặc vì cần điều gì đó từ chúng tôi, hoặc chỉ vì
  • 32. đó là điều mà bọn trẻ con làm. Con bé còn rất nhỏ. Vậy nên chúng tôi chiều theo nó. Tôi củng nói chuyện vói các cha mẹ người Pháp về giấc ngủ. Họ là hàng xóm, người quen trong công việc, bạn bè của bạn bè. Họ đều nói rằng con của họ bắt đầu ngủ cả đêm từ sớm hon rất nhiều. Samia nói rằng con gái cô, giờ đã đưực 2 tuổi, bắt đầu “ngoan cả đêm” lúc sáu tuần tuổi; cô ghi lại ngày chính xác. Stephanie, một thanh tra thuế mảnh khảnh sống trong khu nhà chúng tôi, tỏ ra xấu hổ khi tôi hỏi con trai cô, bé Nino, bắt đầu “ngoan cả đêm” từ lúc nào. “Rất, rất, rất là muộn!” Stephanie nói. “Thằng bé bắt đầu ngủ ngoan cả đêm vào tháng Mưòi một, vậy tức là... bốn tháng tuổi! Vói tôi như thế đã là muộn lắm rồi.” Có một số câu chuyện về giấc ngủ ở Pháp có vẻ tốt đẹp đến không tưởng. Alexandra, làm việc tại một trung tâm chăm sóc ban ngày và sống ở một khu ngoại ô Paris, nói rằng cả hai cô con gái của cô đều bắt đầu ngủ suốt đêm gần như từ lúc mói sinh. “Ngay từ trong phòng sản khoa, hai đứa đã thức dậy đòi ăn lúc khoảng sáu giờ sáng rồi,” cô kể. Đa số những trẻ em Pháp như thế được cho ăn bằng bình, hoặc bú cả sữa mẹ và sữa bột. Nhưng điều đó không có vẻ như tạo ra đưực sự khác biệt quan trọng. Những trẻ em Pháp bú mẹ mà tôi gặp cũng ngoan cả đêm từ khá sóm. Tôi gặp đưực một vài người mẹ Pháp nói rằng họ thôi cho con bú khi đi làm trở lại, ở khoảng tháng thứ ba. Nhưng tói lúc đó con họ cũng đã ngủ ngoan cả đêm rồi. Ban đầu, tôi cho rằng mình chỉ gặp được một vài bậc cha mẹ may mắn ngưòi Pháp thôi. Nhưng chẳng bao lâu, bằng chứng trở nên quá rõ ràng: trẻ ngủ xuyên đêm từ sớm dường như là một tiêu chuẩn ở Pháp. Cha mẹ Pháp không mong con họ sẽ ngủ ngoan ngay sau khi sinh. Nhưng đến lúc mà những đêm đứt đoạn bắt đầu có vẻ như không thể chịu đựng nổi nữa - thường là sau hai hay ba tháng - thì chúng thường chấm dứt. Các bậc phụ huynh nói về những lần thức giấc giữa đêm như một vấn đề ngắn hạn chứ không phải là kinh niên. Tất cả mọi người tôi nói chuyện đều coi việc con họ có thể và gần như chắc chắn sẽ ngoan cả đêm ở khoảng tháng thứ sáu và thường sóm hon nhiều là chuyện đưong nhiên. “Một số trẻ có nhịp độ sinh hoạt lúc sáu tuần, những trẻ khác cần bốn tháng để tìm
  • 33. ra nhịp độ của mình,” một bài báo trong tạp chí Maman! đưa tin. Giấc ngủ, giấc mơ và bé (Le Sommeil, le rêve et 1’eníant), một tài liệu hướng dẫn về giấc ngủ bán chạy hàng đầu, nói rằng giữa ba và sáu tháng, “Bé sẽ ngủ trọn vẹn cả đêm, khoảng tám hay chín tiếng là ít nhất. Cha mẹ cuối cùng sẽ tìm lại đưực cảm giác dễ chịu của những đêm ngủ trọn giấc.” Tất nhiên cũng có những ngoại lệ. Đó là lý do vì sao nước Pháp có các cuốn sách về giấc ngủ cho trẻ và các chuyên gia về giấc ngủ nhi khoa. Có một số bé ngoan cả đêm ở hai tháng tuổi lại bắt đầu thức giấc vài tháng sau đó. Tôi có nghe kể về những trẻ em Pháp mất đến một năm mói bắt đầu ngoan cả đêm. Nhưng sự thật là, trong nhiều năm ở Pháp, tôi không gặp những trẻ đó. Marion, mẹ của cô bé choi thân vói Bean, nói rằng con trai cô ngoan cả đêm lúc sáu tháng. Đó là khoảng thòi gian dài nhất trong số những người bạn và người quen ở Paris của tôi. Phần lớn họ đều giống như Paul, một kiến trúc sư, anh kể rằng cậu con trai ba tháng rưỡi của mình ngủ đủ 12 tiếng, từ tám giờ tối tói tám giừ sáng. Điên đầu là ở chỗ, dù các cha mẹ Pháp có thể nói vói bạn chính xác khi nào con họ bắt đầu ngủ xuyên đêm, nhưng họ lại không thể giải thích đưực làm thế nào mà điều đó lại xảy ra. Họ không hề nhắc gì tói việc rèn ngủ, “Ferberizing” (phưong pháp 7 ngày giúp bé ngủ ngon) - một phưong pháp giúp bé ngủ ngon do bác sỹ Richard Ferber phát triển - hay bất cứ một phưong pháp có tên tuổi nào khác. Thực tế, hầu hết các cha mẹ Pháp đều có vẻ hoi khó chịu khi tôi đề cập tói vấn đề này. Nói chuyện vói các bậc cha mẹ lớn tuổi hon cũng không giúp ích đưực gì hon. Một nhà báo Pháp ngoài 50 tuổi - diện chân váy bút chì và đi giày cao gót đi làm - choáng váng khi biết rằng tôi có vấn đề về giấc ngủ của con. “Cô không thể cho con bé cái gì đó để nó ngủ sao? Cô biết đấy, thuốc hay thứ gì đó mà bé thích?” chị hỏi. Tối thiểu nhất thì, cô nói, tôi nên để con lại cho ai đó và đi nghỉ dưỡng ở một trung tâm làm đẹp nào đó từ một đến hai tuần. Tôi không gặp một cha mẹ trẻ Pháp nào cho con họ uống thuốc để ngủ hay trốn trong phòng tắm hoi. Hầu hết đều khăng khăng rằng con họ tự học đưực cách ngủ thẳng giấc. Stephanie, thanh tra thuế, khẳng định rằng cô không can thiệp gì nhiều tói việc đó. “Tôi nghĩ chính là ở đứa trẻ, thằng bé chính là người quyết định,” cô nói. Tôi nghe được ý kiến giống như vậy từ Fanny, 33 tuổi, nhà xuất bản của
  • 34. một tập đoàn tạp chí tài chính. Fanny nói rằng ở quãng ba tháng tuổi, con trai Antoine của cô tự động bỏ bữa ăn lúc ba giờ sáng và ngủ hết đêm. “Thằng bé quyết định ngủ,” Fanny giải thích. “Tôi không bao giờ ép buộc điều gì. Tôi cho nó ăn lúc nó cần ăn. Nó tự điều chỉnh tất cả.” Cha mẹ Pháp cũng có đưa ra một số mẹo giúp bé ngủ ngon. Gần như tất cả họ đều nói rằng ở những tháng đầu, họ giữ con bên cạnh, ở noi có nhiều ánh sáng suốt cả ngày, kể cả để ngủ trưa, và đặt các bé vào giường trong bóng tối vào buổi đêm. Và hầu như ai cũng nói rằng, từ lúc mói sinh, họ cẩn thận “quan sát” con mình, và rồi tuân theo “nhịp điệu” của chính các bé. Các cha mẹ Pháp nói nhiều tói nhịp điệu đến nỗi bạn có thể sẽ nghĩ rằng họ đang thành lập các ban nhạc rock chứ không phải là đang nuôi con nữa. “Từ không tói sáu tháng, tốt nhất là tôn trọng nhịp điệu ngủ của trẻ,” Alexandra, mẹ của những bé ngủ qua đêm ngay từ lúc mói sinh, giải thích. Tôi cũng quan sát Bean và thấy rằng nó thường thức giấc vào lúc 3 giờ sáng. Vậy thì tại sao không có nhịp điệu nào xuất hiện trong nhà chúng tôi? Nếu ngủ xuyên đêm “cứ thế xảy ra,” tại sao chưa thấy nó “cứ xảy ra” vói chúng tôi? Khi tôi trút thất vọng của mình vói Gabrielle, một trong những người bạn Pháp tôi mói quen, cô khuyên rằng tôi nên xem cuốn sách có tên L ’enfant et son sommeil (Trẻ nhỏ và giấc ngủ). Cô nói tác giả, Hélène De Leersnyder, là một bác sỹ nhi chuyên sâu về giấc ngủ nổi tiếng ở Paris. Cuốn sách rất lan man. Tôi đã quen vói loại sách về trẻ em ở dạng kỹ năng dễ hiểu của Mỹ. Cuốn sách của De Leersnyder mở đầu bằng cách trích dẫn lòi Marcel Proust, rồi tung ra lòi ca tụng giấc ngủ thật sâu. Cuốn Giấc ngủ, con mơ và bé cũng nói rằng một đứa trẻ chỉ có thể ngủ ngon một khi bé chấp nhận sự tách biệt của mình. “Khám phá ra những đêm dài yên ả, thanh bình và chấp nhận sự đon độc, đó chẳng phải là dấu hiệu rằng bé đã tìm lại đưực sự bình yên bên trong, rằng bé đã vượt đưực qua nỗi buồn ư?” Ngay cả những phần khoa học trong những cuốn sách này vẫn đầy vẻ hiện sinh. Cái mà chúng ta gọi là “ngủ chuyển động mắt nhanh”(2) thì
  • 35. ngưòi Pháp gọi là sommeil paradoxaỉ “giấc ngủ ngược đòi”, gọi như vậy là bởi cơ thể thì tĩnh mà ý thức thì hoạt động rất mạnh. “Học cách ngủ, học cách sống, chẳng phải là những khái niệm đồng nghĩa sao?” De Leersnyder đặt câu hỏi. Tôi vẫn không chắc là mình nên làm gì vói thông tin này. Tôi không tìm một siêu lý thuyết về việc cần phải nghĩ thế nào về giấc ngủ của Bean. Tôi chỉ muốn con bé ngủ. Làm sao tôi có thể tìm ra vì sao trẻ em Pháp ngủ rất ngon nếu chính cha mẹ chúng cũng không lý giải được? Một bà mẹ biết phải làm gì để có một đêm nghỉ ngoi yên lành đây? Thật là kỳ quặc, giây phút mặc khải của tôi về quy luật ngủ của trẻ em Pháp lại xảy ra khi tôi về thăm New York. Tôi về Mỹ để thăm gia đình, bạn bè và cũng là để có cái cảm giác trực tiếp về một góc của nghệ thuật làm cha mẹ kiểu Mỹ. Trong một phần của chuyến đi, tôi lưu lại Tribeca, vùng lân cận ở khu Hạ Manhattan, noi các tòa nhà công nghiệp đã được chuyển thành các căn hộ dịch vụ tao nhã. Tôi lang thang ở một sân chơi địa phương, tán chuyện vói những bà mẹ khác. Tôi đã nghĩ rằng mình hiểu các tài liệu về cách làm cha mẹ của Mỹ. Nhưng mấy chị em ở đây lại chứng minh rõ ràng rằng tôi chỉ là một tay nghiệp dư. Không chỉ là họ đã đọc tất cả mọi thứ, họ còn lắp ghép chính các phong cách làm cha mẹ của mình như những trang phục thòi thượng phong phú, đi theo các bậc thầy về giấc ngủ, kỷ luật và thức ăn riêng rẽ. Khi tôi vô tư đề cập đến khái niệm “phong cách làm cha mẹ theo kiểu gắn bó vói con” vói một bà mẹ ở Tribeca, cô chấn chỉnh tôi ngay. “Tôi không thích cụm từ đó, bởi vì ai mà không gắn bó vói con mình chứ?” cô cáu kỉnh nói. Khi câu chuyện chuyển sang việc con cái họ ngủ ra sao, tôi đã đoán những người này sẽ đưa ra hàng đống lý thuyết, rồi sau đó buông những lời than phiền quen thuộc kiểu Mỹ về những đứa nhỏ 1 tuổi thức giấc hai lần một đêm. Nhưng họ lại không như thế. Thay vào đó, họ nói rằng rất nhiều trẻ ở Tribeca ngoan cả đêm ở khoảng hai tháng tuổi. Một bà mẹ nhiếp ảnh gia có nói rằng cô và nhiều mẹ khác đưa con tói một bác sỹ khoa nhi ở địa phương tên là Michel Cohen. “Ông ta là người Pháp à?” “Phải,” cô trả lòi.