SlideShare a Scribd company logo
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI
TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Bản chất pháp lý của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Ý nghĩa của việc quy định chế định các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các trường hợp
loại trừ TNHS có ý nghĩa trên một số bình diện sau:
1) Những trường hợp loại trừ TNHS là một trong những chế định cơ bản
phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS nói
riêng trong Nhà nước pháp quyền [14, tr.503].
2) Trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn áp dụng PLHS hiện
nay xung quanh những vấn đề khái niệm, hệ thống và bản chất pháp lý của chế
định này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau cần phải được nhà làm luật
khẳng định dứt khoát về mặt lập pháp [14, tr.503]. Từ đó, có cách
hiểu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm cho việc áp dụng chế
định này chính xác và đúng pháp luật.
3) Việc tiếp tục phân tích khoa học để làm sáng tỏ về mặt lý luận để tìm
ra những trường hợp loại trừ TNHS trong thực tiễn, đồng thời đưa ra một mô
hình lý luận nhằm hoàn thiện chế định đang được nghiên cứu là một nhiệm vụ
không kém phần quan trọng và cần thiết của khoa học luật hình sự Việt Nam
[14, tr.503].
4) Việc quy định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam
giúp cho mọi người vững tin hơn khi hành động, chủ động đấu tranh chống lại
10
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Nhà nước cấm, từ bỏ ý định hoặc hành
vi có hại cho xã hội mà mình tưởng lầm là không trái pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, góp phần xây dựng một xã hội
công bằng, văn minh.
5) Việc quy định và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS
trong PLHS Việt Nam góp phần làm cho pháp luật từng bước đi vào cuộc sống,
loại trừ những quy phạm không phù hợp với cuộc sống cũng như kịp thời bổ
sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội cần có sự can thiệp của
pháp luật.
Tóm lại, quy định vấn đề các trường hợp loại trừ TNHS trong luật hình sự
Việt Nam có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý rất quan trọng trong việc xác
định ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, bảo đảm xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật trong mỗi trường hợp tương ứng, cũng như phát huy tinh
thần chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong số đó lại có trường
hợp được Nhà nước khuyến khích, khen thưởng như: thực hiện hành vi trong
phòng vệ chính đáng và trong tình thế cấp thiết vì chúng là những hành vi có ích
cho xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng [56, tr.19].
1.1.2. Một số quan điểm chủ yếu về bản chất pháp lý của chế định
các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Cho đến nay vấn đề bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS
như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ… vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau dưới đây [14, tr.510 – 512]:
1) Trong khoa học luật hình sự Liên Xô trước đây và khoa học luật hình
sự Liên Bang Nga hiện nay có một số quan điểm như sau về bản chất pháp lý
của các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, cụ thể là:
a) Một số GS.TSKH luật, Viện sĩ Viện HLKH Liên Xô trước đây
(Piôntkôvxki A.A, Rômaskin P.X và Trkhikvađze V.M) viết “Chúng không những
chỉ là các tình tiết loại trừ cấu thành tội phạm trong hành vi được thực hiện”.
11
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
b) GS.TSKH luật Xlutxki I.I coi các trường hợp này là các tình tiết loại
trừ TNHS và phân chia chúng thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất – các tình
tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của hành vi (bao gồm: phòng
vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt giữ người phạm tội, tình
thế cấp thiết, chấp hành lệnh hợp pháp, thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp
và công vụ, thực hiện quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ); nhóm thứ hai
– các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tình phải bị xử phạt của
hành vi (bao gồm: tự nguyện đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của người bị hại,
tính chất nhỏ nhặt của vi phạm pháp luật, sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi
của tình hình chính trị - xã hội, hết thời hiệu truy tố hình sự và hết thời hiệu của
bản án); nhóm thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi (bao gồm: sự cưỡng bức về thể xác, sức mạnh không thể chống lại
được).
c) Bên cạnh các quan điểm đã nêu, quan điểm của GS.TSKH luật
Naumôv A.V là rõ hơn cả, khi ông viết: “Tất cả các trường hợp này đều loại
trừ cả tính trái PLHS, cả tính nguy hiểm cho xã hội, cả tính chất lỗi, cả tính
phải bị xử phạt của hành vi và do đó, cả tính chất tội phạm của nó”.
d) Sau khi nhà làm luật Liên Bang Nga đã chính thức ghi nhận trong
Chương 8 BLHS năm 1996 hiện hành, bản chất pháp lý của những trường hợp
này là “Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” (các Điều
37 - 42), thì hầu hết các nhà hình sự học Nga đều đồng nhất với quan điểm coi
chúng chính là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi;…
2) Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay về bản chất pháp
lý của các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn tồn tại năm quan điểm chính như
sau [14, tr.512-513]:
a) Hầu hết các nhà hình sự học (PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, TS Ngô
Ngọc Thủy, TS Nguyễn Mạnh Kháng…) đều coi chúng là các tình tiết loại trừ
12
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và quan điểm này được thể hiện
trong hầu hết các giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung).
b) PGS.TS Kiều Đình Thụ quan niệm chúng là những tình tiết loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự.
c) TS. Nguyễn Ngọc Chí và ThS. Đinh Văn Quế có cùng chung một
quan điểm – đều gọi chúng là các trường hợp loại trừ TNHS.
d) Tác giả Phạm Hải Đăng quan niệm chúng là những trường hợp
không phải là tội phạm.
e) Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm của GS.TSKH Lê Văn
Cảm khi cho rằng bản chất pháp lý đó là các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính
chất tội phạm của hành vi với các lý do sau đây [14, tr.513, 515, 516):
Nếu phân tích theo phép biện chứng duy vật và logic của vấn đề, thì trong
nghiên cứu khoa học bao giờ người nghiên cứu cũng phải lần lượt đi theo thứ
tự từ A rồi mới đến B, C… (chứ không thể chưa qua A, mà lại đi thẳng vào B
rồi mới quay lại khẳng định cho A là làm ngược).
Theo cách hiểu trên thì tội phạm tự bản thân nó là một hành vi, nên khi
bàn về bản chất pháp lý của hành vi đó chúng ta cần phải lần lượt phân tích
theo một thứ tự gồm hai bước: Bước 1 – phân tích các dấu hiệu (A) của nó xem
thử hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu không phải là tội phạm thì
do thiếu dấu hiệu nào trong năm dấu hiệu được thừa nhận chung mà tính chất
tội phạm của nó được loại trừ; bước 2 – bàn về vấn đề trách nhiệm hình sự với
tính chất là hậu quả của việc thực hiện hành vi đó (B) trong từng trường hợp
tương ứng cụ thể như thế nào (được loại trừ TNHS - nếu hành vi không phải là
tội phạm hoặc là phải chịu TNHS - nếu nó là tội phạm), chứ không thể ngay từ
đầu đã bỏ qua bước 1 để sang bước 2.
Nếu xem xét như bước 1 đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy rõ bản chất
pháp lý của tất cả sáu trường hợp đang nghiên cứu trong Phần chung BLHS
13
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Việt Nam năm 1999 hiện hành (bao gồm: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực
hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi được thực hiện
bởi người không có năng lực trách nhiệm hình sự, phòng vệ chính đáng, tình
thế cấp thiết và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể) đều là
các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi vì việc gây thiệt hại về mặt
pháp lý hình sự trong các trường hợp này đều thiếu một trong các dấu hiệu của
tội phạm.
Như vậy, xuất phát tự sự phân tích trên có thể nhận thấy:
 Ngay từ bước 1 chúng ta đã khẳng định được sự loại trừ tính chất tội
phạm của hành vi trong sáu trường hợp đã nêu trên được quy định trong Phần
chung BLHS Việt Nam năm 1999 và tương ứng như vậy, theo nguyên tắc
pháp chế không có tội phạm, không có hình phạt nếu luật không quy định thì
đương nhiên chúng là những trường hợp loại trừ TNHS hay nói một cách khác
– trong cả sáu trường hợp này chủ thể của hành vi không có TNHS.
 Chúng ta không thể khẳng định rằng chúng là những trường hợp loại
trừ “tính chất nguy hiểm cho xã hội” của hành vi, vì việc gây thiệt hại về mặt
pháp lý hình sự trong tất cả những trường hợp này rõ rang đều nguy hiểm cho
xã hội.
 Chúng ta không thể gọi chúng là những trường hợp loại trừ tính “trái
pháp luật” của hành vi, vì nếu là trái pháp luật, thì những trường hợp này sẽ có
giới hạn rất rộng, bao gồm cả các hành vi cần phải được điều chỉnh bởi một số
ngành luật khác nữa chứ không chỉ bởi PLHS.

 Đồng thời, không thể bỏ qua bước 1 mà vội đi thẳng sang bước 2 để
khẳng định ngay hậu quả của việc thực hiện hành vi rằng chúng là những
trường hợp “loại trừ trách nhiệm hình sự” được.
Từ những lập luận khoa học trên GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã khẳng
định: “Dưới góc độ pháp lý hình sự, bản chất pháp lý chung, đầy đủ và toàn
14
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
diện của tất cả sáu trường hợp đã nêu trong Phần chung BLHS năm 1999 là
các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” [14, tr.517].
Tuy đồng tình với quan điểm khoa học của GS.TSKH. Lê Văn Cảm về
bản chất pháp lý của sáu trường hợp như: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực
hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu TNHS, hành vi được thực hiện bởi người
không có năng lực TNHS, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể là các trường hợp (tình tiết) loại trừ
tính chất tội phạm của hành vi. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả
xin phép được sử dụng thuật ngữ “các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự” bởi lẽ nó không mâu thuẫn với thuật ngữ “các trường hợp (tình tiết) loại
trừ tính chất tội phạm của hành vi” vì suy cho cùng thì hậu quả pháp lý hình
sự mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – không
phải chịu trách nhiệm hình sự [Xem: 56, tr.19]. Hơn nữa việc sử dụng thuật ngữ
“các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” là phù hợp với quy định tại Dự
thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) và phù hợp với thực tiễn xét xử.
1.1.3. Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của
chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Điều 2 BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 quy định: "Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự". Như vậy, chỉ một người phạm một tội do BLHS quy định mới
phải chịu TNHS. Pháp luật Việt Nam quy định, một người phải chịu TNHS khi
đáp ứng đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có một số hành vi tuy về hình thức có các
dấu hiệu cấu thành của một tội phạm cụ thể, nhưng về nội dung những hành vi
đó lại chứa đựng một số tình tiết làm loại trừ tính chất tội phạm của hành vi
(hoặc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi) hay nói cách khác, do thiếu
15
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên hành vi ấy không bị coi
là tội phạm và người thực hiện nó không phải chịu TNHS (hay được loại trừ
TNHS). Các hành vi ấy thực tế gây thiệt hại cho Nhà nước, cho tổ chức hoặc
cá nhân nào đó, nhưng nhìn từ góc độ lợi ích xã hội, cộng đồng và yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm… thì thiệt hại đó là không đáng kể so với lợi ích
mà các hành vi đó mang lại.
1) Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của các
trường hợp loại trừ TNHS thể hiện trong BLHS Việt Nam hiện hành.
BLHS Việt Nam hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như các
trường hợp loại trừ TNHS thành một chế định riêng biệt mà mới chỉ quy định
sáu trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự cùng một chương với các quy
định về tội phạm (Chương III) bao gồm:
a) Sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực
hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong
trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả
của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
b) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (khoản 1, Điều 13
BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh”.
c) Phòng vệ chính đáng (khoản 1, Điều 15 BLHS Việt Nam năm
1999): “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người
khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các
lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.
16
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
d) Tình thế cấp thiết (khoản 1, Điều 16 BLHS Việt Nam năm 1999):
“Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực
tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại
nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết
không phải là tội phạm”.
e) Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể chưa được quy định
thành một điều luật riêng, nó được quy định tại khoản 4, Điều 8 BLHS Việt
Nam năm 1999 với tên gọi “Khái niệm tội phạm”như sau: “Những hành vi tuy
có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
f) Hành vi do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện
cũng chưa được quy định thành một khoản, điều luật riêng biệt mà đó chỉ là
quy định gián tiếp từ Điều 12 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định về “tuổi
chịu trách nhiệm hình sự” như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”. Như vậy, người chưa đủ 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu
TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội.
Nghiên cứu BLHS Việt Nam hiện hành cho thấy vẫn chưa có sự thống nhất
trong việc sử dụng thuật ngữ tên gọi các trường hợp này (Xem: 41, tr.18): hành vi
có tính chất nguy hiểm không đáng kể, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì
“không phải là tội phạm”; sự kiện bất ngờ, hành vi do người chưa đủ tuổi chịu
TNHS thực hiện, tình trạng không có năng lực TNHS thì “không phải chịu trách
nhiệm hình sự” hay trong Phần các tội phạm BKHS Việt Nam
17
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
năm 1999, các nhà làm luật Việt Nam còn quy định một trường hợp được coi
là “không có tội” (khoản 6 điều 289 BLHS quy định về tội đưa hối lộ)… Thuật
ngữ “loại trừ trách nhiệm hình sự” duy nhất được sử dụng tại đoạn 2 điều 53
BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
Như vậy, tuy có sự khác nhau về tên gọi với từng trường hợp cụ thể
nhưng bản chất và hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – được loại trừ tính chất tội phạm của hành
vi, hay nói cách khác hậu quả pháp lý là không phải chịu trách nhiệm hình sự.
(Xem: 41, tr.19). Tuy nhiên việc quy định chung các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự cùng một Chương với các quy định về tội phạm làm cho hình
thức mâu thuẫn với nội dung, chưa thể hiện đầy đủ và rõ ràng bản chất pháp lý
của chế định này.
2) Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của các
trường hợp loại trừ TNHS thể hiện trong Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi
năm 2015).
Dự thảo BLHS Việt Nam sửa đổi năm 2015 đã có nhiều tiến bộ khi ghi
nhận chế định các trường hợp loại trừ TNHS thành một Chương riêng biệt trong
BLHS (Chương IV) với tên gọi “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự”. Việc quy định chế định này thành một chương riêng trong Dự thảo BLHS
Việt Nam năm 2015 đã đảm bảo được sự thống nhất, đồng bộ trong nhận thức
của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng những quy định về chế
định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; bên cạnh đó nó còn thể hiện
sự phát triển trong công tác lập pháp khi ghi nhận trên thực tế nguyên tắc tiến
bộ và dân chủ của pháp luật hình sự nhằm bảo vệ một cách vững chắc các quyền
con người cũng như lợi ích của xã hội.
Xung quanh vấn đề tên gọi của Chương IV được quy định trong Dự thảo
BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) thì vẫn còn nhiều tranh luận. Bên
18
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cạnh tên gọi như trong Dự thảo hiện nay là “Những trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự” thì có ý kiến đề nghị nên quy định là “Các trường hợp loại trừ
tính chất tội phạm của hành vi” với các lập luận như GS.TSKH Lê Văn Cảm
đã phân tích (được tác giả luận văn đề cập đến ở phần trên). Theo quan điểm
của tác giả luận văn, xét cho cùng hai tên gọi trên có bản chất pháp lý giống
nhau, nhưng một thuật ngữ thể hiện nguyên nhân và một thuật ngữ thể hiện hậu
quả pháp lý, chúng không mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu khoa
học đề cập đến vấn đề bản chất thì nên nói đến những cái cốt lõi, sâu xa, nguyên
nhân bên trong thì thuật ngữ “Các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi” là hợp lý hơn.
Chương IV quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
(Dự thảo BLHS sửa đổi năm 2015) bao gồm bảy điều, tương ứng với bảy trường
hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự. Bên cạnh các trường hợp được loại trừ
trách nhiệm hình sự như đang quy định trong BLHS hiện hành như: sự kiện bất
ngờ (Điều 20); tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21);
phòng vệ chính đáng (Điều 22) và tình thế cấp thiết (Điều 23) thì Dự thảo mới
còn quy định thêm ba trường hợp sau đây cũng được loại trừ trách nhiệm hình
sự bao gồm: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp (Điều 24); rủi ro
trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
mới (Điều 25); thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (Điều 26).
Việc quy định thêm các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự trong
BLHS thể hiện tính chất nhân đạo trong pháp luật của Nhà nước ta, tăng cường
vai trò bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, bên cạnh đó việc quy
định này cũng phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới, góp phần động
viên, khuyến khích người dân tham gia đấu tranh, phòng chống tội phạm;
khuyến khích sự sáng tạo trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, tạo động lực phát triển kinh tế và xã hội.
19
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2. Vai trò của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự trong việc bảo vệ các quyền con ngƣời.
Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là một trong những chế định
phản ánh rõ nét nguyên tắc nhân đạo, bảo vệ các quyền con người của chính
sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Các trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được quy định trong luật hình sự Việt Nam thể
hiện sự cụ thể hóa các quy định của pháp luật đối với vấn đề bảo vệ quyền con
người.
Trong bất cứ nhànước nào , tôịphaṃ luôn làhành vi nguy hiểm cho xa ̃
hôịxâm phaṃ đến lơị ích c ủa các tập thể, cá nhân trong xã hội, đồng thời nó
cũng xâm phạ m đến quyền con người . Đólànhững quyền đươc ̣sống , quyền
tư ̣do, sức khỏe, danh dư,̣ nhân phẩm vàcác quyền lơị ich́ khác của con người.
Viêc ̣bảo vê ̣quyền con người trong linh̃ vưc ̣hinh̀ sư ̣đươc ̣xem xét ởhai khiá
cạnh đó là quyền con người của cá nhân sống trong xã hội đòi hỏi cần được
bảo vệ trước hành vi xâm phạm của tội phạm và quyền của những người vi
phạm pháp luật xâm phạm đến quyền của người khác , khi nào vàởmức đô ̣
nào thì họ bị coi là tội phạm . Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự chính là
bảo vệ quyền con người ở khía cạnh thứ hai, tức là bảo vệ quyền của những
người có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác nhưng không
phải mọi trường hợp đều bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự.
Con người cóquyền đươc ̣sống trong môi trường an toàn trong đócó sư ̣an toàn
pháp lý. Sẽ là bất công nếu t ất cả các hành vi gây thiệt hại đều bị coi là
tôịphaṃ vàphải chiụ hinh̀ phaṭ . Trong thực tiễn có rất nhiều trường hợp người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích của người khác
nhưng họ không có lỗi; hoặc họ thực hiện hành vi vi phạm xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, tổ chức cá nhân khác nhưng nhằm bảo vệ những lợi ích lớn
hơn… thì cần được xem xét đối với các hành vi đó nhằm
20
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Vấn đề bảo vệ quyền con người bằng chế
định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được nhà nước ta đảm bảo
thực hiện bằng các cơ chế sau đây:
1.2.1 Bảo vệ quyền con người thông qua việc quy định trong BLHS
Việt Nam hiện hành các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự.
Vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật nói chung không những
được Nhà nước ta ghi nhận trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến
pháp mà bảo vệ quyền con người còn là mục đích, quan điểm và nội dung xuyên
suốt trong toàn bộ bản Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các Bộ luật, văn bản
dưới luật khác.
Việc ghi nhận trong PLHS thực định những trường hợp được loại trừ
trách nhiệm hình sự tại các Điều 8, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 15, Điều
16 BLHS Việt Nam hiện hành và các quy định tại Chương IV dự thảo BLHS
Việt Nam sửa đổi năm 2015 về các trường hợp được loại trừ TNHS là những
hành vi mặc dù xét về mặt hình thức, hành vi gây nên thiệt hại có dấu hiệu của
hành vi nào đó bị luật hình sự cấm nhưng chủ thể của hành vi vẫn không
bị coi là người phạm tội nên không phải chịu TNHS bởi các lý do như: để bảo
vệ lợi ích của xã hội hay của Nhà nước, cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của
chính chủ thể hành vi gây thiệt hại hoặc của người khác tránh khỏi sự xâm hại
hoặc khả năng thực tế gây nên thiệt hại của tội phạm; để khuyến khích việc đạt
được mục đích có ích cho xã hội hoặc cho Nhà nước bằng hành vi hợp lý và
hợp pháp; vì mục đích nhân đạo… đã thể hiện rõ nét cơ chế bảo vệ quyền con
người bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS của Nhà nước ta. Việc ghi
nhận các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong BLHS hiện hành tạo cơ
sở pháp lý vững chắc để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của mình.
21
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Vai trò của việc bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam được thể
hiện rõ trong sáu trường hợp được BLHS Việt Nam hiện hành quy định được
loại trừ trách nhiệm hình sự sau đây:
1.2.1.1 Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự do sự kiện bất ngờ.
1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự do sự kiện bất ngờ là do thiếu một
trong những dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình
sự - hành vi đó không có tính chất lỗi (một trong những yếu tố của mặt chủ
quan), tức là có thiệt hại xảy ra trong thực tế khách quan nhưng khi gây nên
thiệt hại đó chủ thể không có thái độ tâm lý (được thể hiện dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý) đối với hành vi cũng như đối với hậu quả của hành vi đó
[14, tr.523].
2) Những điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự do sự kiện bất ngờ là
khi chủ thể của hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự đã không thể
thấy trước hậu quả của hành vi hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả. Ta
lần lượt xem xét từng trường hợp:
a) Không thể thấy trước hậu quả của hành vi, không thể thấy trước
được hậu quả của hành vi là trước khi thực hiện hành vi (hành động hoặc không
hành động), do hoàn cảnh khách quan cũng như các tình tiết cụ thể của vụ án
mà người có hành vi không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội và sẽ gây ra hậu quả, sự nhận thức này của họ có cơ sở khoa học và được
mọi người thừa nhận, ai trong hoàn cảnh này đều không thể thấy trước hậu quả
sẽ xảy ra, nhưng thực tế hậu quả lại xảy ra.Việc giải quyết mâu thuẫn giữa cái
tất yếu (hậu quả xảy ra) với nhận thức của người có hành vi gây ra hậu quả đó
không phải bao giờ cũng dễ dàng. Thông thường người có hành vi gây ra hậu
quả đó cho rằng mình không thể thấy trước hậu quả, còn
22
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
người bị thiệt hại thì lại cho rằng người có hành vi có thể thấy trước hậu quả
nhưng vẫn hành động. Vì vậy, khi đánh giá một người có hành vi gây hậu quả
có thể thấy trước được hậu quả của hành vi hay không phải căn cứ vào điều
kiện khách quan hoặc chủ quan khi xảy ra sự việc:
 Về khách quan, trong hoàn cảnh cụ thể đó, bất kỳ ai cũng không thể
thấy trước được hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm.
 Về chủ quan, các đặc điểm về nhân thân của người có hành vi gây
thiệt hại như: tuổi, trình độ hiểu biết, bệnh tật và các đặc điểm nhân thân khác
ảnh hưởng đến nhận thức của họ.
b) Không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi. Không buộc phải
thấy trước hậu quả của hành vi là trước khi thực hiện hành vi, do hoàn cảnh
khách quan cũng như các tình tiết cụ thể của vụ án mà người có hành vi không
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, cũng như hậu quả
nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra và có khả năng thấy trước hậu quả của hành
vi, nhưng theo pháp luật không buộc họ phải thấy trước hậu quả của hành vi và
nếu có hậu quả xảy ra thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
nguy hiểm đó.
Khi đặt vấn đề không buộc người gây thiệt hại phải thấy trước hành vi
của mình gây ra hậu quả, không chỉ căn cứ vào các văn bản pháp luật cụ thể
nào của Nhà nước quy định về việc không buộc mà còn phải căn cứ vào hoàn
cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, trình độ nhận thức của người gây thiệt hại và các
tình tiết khác.Thông thường, nếu mọi người nói chung rơi vào hoàn cảnh đó thì
cũng không thấy được hậu quả xảy ra, thì người gây thiệt hại cũng được công
nhận là gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ [36, tr.76].
Như vậy, luật hình sự quy định hành vi gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ
được loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm đảm bảo quyền lợi cho những người
thực hiện hành vi nguy hiểm nhưng không có lỗi khi gây ra hành vi đó, họ
23
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
không dự liệu được rằng hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng và
pháp luật không bắt buộc họ phải thấy trước hậu quả trong những trường hợp
như vậy. Đây là một trong những quy định của pháp luật thể hiện tính công
bằng, nhân đạo của pháp luật Việt Nam.
1.2.1.2 Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự đối với hành vi do người không có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện.
1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự: của hành vi gây thiệt hại trong
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là sự thiếu một trong các dấu
hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự - người thực
hiện hành vi đó không có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là có thiệt hại xảy
ra trong thực tế khách quan, nhưng khi gây thiệt hại đó chủ thể đã mất đi khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình [14, tr.536].
2) Những điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự do tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự:
a) Khi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự, chủ thể của hành vi đang ở
trong tình trạng bị bệnh lý tâm thần hoặc bệnh khác. Đây là dấu hiệu về mặt y
học, về dấu hiệu này thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
luật hình sự bảo vệ phải đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cho đến nay
chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm
hình sự quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như
thực tiễn xét xử đã thừa nhận rằng, bệnh tâm thần có các dạng cụ thể khác nhau
và có các mức độ khác nhau như: tâm thần phân liệt, loạn tâm thần, thiểu năng
tâm thần (với các mức nặng nhẹ khác nhau như ngu, đần, thộn) có thể là bệnh
tâm thần kinh niên hoặc rối loạn tạm thời… “Các bệnh khác” được nêu trong
điều luật trong điều luật không phải là bệnh tâm thần
24
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhưng cũng có thể làm rối loạn tâm thần (ví dụ: rối loạn tâm thần do chấn
thương não; sốt rét ở nhiệt độ quá cao gây mê sảng) [Xem: 6, tr.125].
b) Chủ thể hoàn toàn không thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội và quy định của pháp luật hình sự về hành vi do mình thực hiện; hoặc chủ
thể hoàn toàn không thể điều khiển được hành vi do mình thực hiện. Đây là dấu
hiệu tâm lý, về dấu hiệu này người trong tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự phải là người đã mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình. Cụ thể: Về lý trí, người đó không có năng lực đánh giá
được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình là đúng hay sai, không nhận thức
được các yêu cầu của xã hội liên quan đến hành vi đang thực hiện;
về ý chí, người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự không
có khả năng điều khiển hành vi của mình, không kiềm chế được việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện một xử sự khác không gây nguy
hiểm cho xã hội. Thêm vào đó, từ “hoặc” quy định tại khoản 1 Điều 13 cho
phép ta khẳng định, tiêu chuẩn tâm lý chỉ yêu cầu một người hoặc là mất khả
năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi, một trong hai dấu hiệu
đó đã thoả mãn thì điều kiện này coi như thoả mãn [6, tr.125].
Bộ luật hình sự quy định thêm trường hợp người ở trong tình trạng không
có năng lực trách nhiệm hình sự là người tuy không bị mất khả năng nhận thức
nhưng đã bị mất khả năng điều khiển hành vi của mình đó là người về lý trí,
tuy có khả năng đánh giá được ý nghĩa của xã hội về hành vi của mình, biết
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng do rối loạn hay xung đột bệnh
lý đã không kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.
Như vậy, để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
của một người cần phải thoả mãn đồng thời hai dấu hiệu – dấu hiệu y học (mắc
bệnh) và dấu hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển).
Hai dấu hiệu này có mối quan hệ chặt chẽ nhau, dấu hiệu y học với vai
25
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý giữ vai trò là kết quả. Tiêu chuẩn y học
là điều kiện cần để xem xét một người có năng lực trách nhiệm hình sự hay
không. Tiêu chuẩn tâm lý là điều kiện đủ để xác định người đó không có năng
lực trách nhiệm hình sự.
Như vậy, pháp luật quy định hành vi nguy hiểm cho xã hội do người
không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện được loại trừ trách nhiệm hình
sự nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người bị hạn chế về thể chất và tinh thần
khiến họ không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, hoặc
nhận thức được nhưng không có khả năng điều khiển được hành vi đó. Tình
trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự bản thân con người đó không hề mong
muốn cũng không tự đặt mình vào tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự,
vì vậy xét về bản chất người không có năng lực trách nhiệm hình sự không có
lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
1.2.1.3 Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự do phòng vệ chính đáng.
Thông thường, một hành vi khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm
thì hành vi đó bị coi là tội phạm và bị áp dụng hình phạt. Tuy nhiên, luật hình
sự nước ta lại quy định một số hành vi trên thực tế có đầy đủ các dấu hiệu hình
thức của một loại tội phạm nhưng không phải là tội phạm, trong đó có phòng
vệ chính đáng.
Về mặt khách quan, phòng vệ chính đáng đã có hành vi gây thiệt hại cho
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ một cách cố ý, nhưng vẫn được
Nhà nước khuyến khích thực hiện.
1) Căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp phòng vệ
chính đáng là do thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt
hại về mặt pháp lý hình sự - phòng vệ chính đáng không bị pháp luật hình sự
quy định là tội phạm, tức là có thiệt hại (hoặc khả năng gây thiệt hại)
26
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng do tính hợp lý và sự cần thiết của hành
vi phòng vệ so với hành vi xâm hại nên nhà làm luật không coi hành vi phòng
vệ (mặc dù có những dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự cấm) là tội
phạm.
2) Điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp phòng vệ
chính đáng: nghiên cứu khái niệm phòng vệ chính đáng được quy định tại khoản
1 Điều 15 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, chúng ta thấy rằng, để được xác
định là phòng vệ chính đáng, hành vi phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện nhất
định, nếu thiếu một trong những điều kiện thì hành vi không thể được coi là
phòng vệ chính đáng. Những điều kiện đó bao gồm:
a) Hành vi phòng vệ được thực hiện khi đang có hành vi xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Hành vi xâm hại không nhất thiết là chỉ xâm hại đến lợi ích của người phòng
vệ, mà nó có thể xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, quyền và lợi ích
chính đáng của cá nhân khác. Những lợi ích bị xâm hại này thường là những
lợi ích về nhân thân (tính mạng, sức khoẻ, tự do, nhân phẩm) hoặc quyền sở
hữu…Với quy định này pháp luật cho phép người phòng vệ không chỉ bảo vệ
lợi ích chính đáng của bản thân mà còn có thể bảo vệ lợi ích chính đáng của
Nhà nước, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào khác. Đa phần, hành vi xâm hại
trong phòng vệ chính đáng được thực hiện qua những hành động của kẻ tấn
công (như hành động cướp, hành động hiếp dâm, hành động trộm cắp…) nhưng
cá biệt có thể qua không hành động (như hành vi không cấp cứu người bị tai
nạn của bác sĩ mà không có lý do chính đáng). Chế định phòng vệ chính đáng
cho phép và khuyến khích công dân, khi có điều kiện, tự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, của người khác, nhưng không có nghĩa là cho công dân
phản ứng, hành động tự do khi chống trả các hành vi xâm hại các lợi ích đó [6,
tr.182].
27
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
b) Hành vi xâm hại trái pháp luật, nguy hiểm đáng kể cho xã hội: theo
quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự thì chỉ phát sinh quyền phòng vệ khi có
hành vi xâm phạm lợi ích Nhà nước, xâm phạm các quyền hoặc lợi ích hợp
pháp của bất kỳ tổ chức, công dân nào. Hay nói cách khác, phòng vệ chính đáng
là hành vi chống lại hành vi bất hợp pháp. Việc chống lại những hành vi hợp
pháp như bắt giữ người phạm tội, thi hành công vụ của cán bộ, công chức Nhà
nước…không thể được coi là phòng vệ chính đáng.
Hành vi xâm hại trái pháp luật phải nguy hiểm đáng kể cho xã hội tức là
hành vi xâm hại làm cơ sở phát sinh quyền phòng vệ phải thể hiện rõ tính chất
nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đang gây thiệt hại hoặc đang đe dọa tức khắc
gây thiệt hại ở mức độ đáng kể cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành
vi xâm hại này, có thể cấu thành tội phạm hoặc chưa cấu thành tội phạm nhưng
đã có dấu hiệu khách quan của một tội phạm cụ thể. Thực tế, không phải lúc
nào người chống trả cũng có thể nhận thức được hành vi tấn công đã cấu thành
tội phạm hay chưa. Vì vậy, chỉ cần hành vi xâm hại có một số dấu hiệu khách
quan biểu hiện đó là một hành vi phạm tội thì hành vi xâm hại coi như thỏa
mãn.
c) Hành vi xâm hại phải có tính hiện tại và hiện hữu.
 Hành vi xâm hại phải có tính hiện tại, tức là hành vi đó đang xảy ra
hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc mà chưa kết thúc mới trở thành cơ sở phát sinh
quyền phòng vệ chính đáng. Như vậy, quyền phòng vệ chính đáng của công
dân bắt đầu xuất hiện khi hành vi xâm hại bắt đầu và sẽ thực hiện, trực tiếp đe
dọa các lợi ích được pháp luật bảo vệ và tồn tại cho đến khi hành vi xâm hại
kết thúc, ví dụ: bọn cướp tấn công, đe dọa, thì cần phải phòng vệ ngay khi bọn
cướp yêu cầu giao tài sản, nếu không giao sẽ bị giết, chứ không thể đợi đến khi
bọn cướp thực hiện hành vi giết, thì lúc này hậu quả nguy hiểm đã xảy ra. Vì
vậy, phải xem xét thời điểm bắt đầu và kết thúc hành vi xâm hại
28
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cho mỗi trường hợp phòng vệ cụ thể, cần phải xem đầy đủ, toàn diện các tình
tiết, các sự kiện, hoàn cảnh xảy ra vụ án...Khi hành vi xâm hại chưa bắt đầu,
chưa trực tiếp đe doạ các lợi ích hợp pháp và hành vi gây thiệt hại chưa thật sự
xảy ra, không có cơ sở chứng tỏ hành vi gây thiệt hại sẽ xảy ra tức khắc mà đã
thực hiện hành vi phòng vệ thì trường hợp này khoa học pháp lý hình sự gọi là
“phòng vệ quá sớm”.
Ngược lại, khi hành vi xâm hại đã kết thúc mới thực hiện hành vi phòng
vệ thì trường hợp này khoa học pháp lý hình sự gọi là “phòng vệ quá muộn”
[6, tr.186].
 Hành vi xâm hại phải có tính hiện hữu, điều này đòi hỏi hành vi gây
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại có xảy ra trên thực tế, tức nó phải tồn tại
khách quan chứ không phải tưởng tượng ra và hành vi chống trả là nhằm ngăn
chặn hành vi tấn công, bảo vệ lợi ích bị xâm hại. Hành phòng vệ được xem là
hợp pháp khi hành vi tấn công là có thật. Nếu hành vi chống trả một hành vi tấn
công không có thật, khoa học pháp lý hình sự gọi là “phòng vệ tưởng tượng”.
Phòng vệ tưởng tượng phải chịu trách nhiệm hình sự [Xem: 6, tr.186].
d) Hành động chống trả phải nhằm vào chính người đang có hành vi tấn
công gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi chống trả phải nhằm vào chính người
tấn công – vào chính nguồn đang gây nguy hiểm cho xã hội chứ không cho
phép nhằm vào người thứ ba, vì có như vậy mới đạt được mục đích của phòng
vệ chính đáng là ngăn chặn một cách tích cực sự tấn công, hạn chế thiệt hại do
sự tấn công đó đe doạ gây ra. Sự chống trả này của người phòng vệ có thể trực
tiếp nhằm vào người tấn công (tính mạng, sức khoẻ, tự do) hoặc chỉ nhằm vào
công cụ phương tiện phạm tội mà người đó đang sử dụng. Nhưng bằng hình
thức nào chăng nữa thì sự chống trả đều có thể gây thiệt hại nhất định cho kẻ
tấn công. Trường hợp hành vi phòng vệ không gây thiệt hại
29
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cho bản thân người có hành vi xâm hại mà lại gây thiệt hại cho người khác thì
tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương
ứng hoặc trách nhiệm pháp lý khác.
Trường hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức
khoẻ cho người có hành vi xâm phạm mà lại gây thiệt hại khác, mà việc gây
thiệt hại đó của người phòng vệ không liên quan đến hành vi xâm phạm thì
cũng không được coi là hành vi phòng vệ.
Mục đích của phòng vệ chính đáng là bảo vệ các lợi ích hợp pháp khỏi
sự xâm hại của hành vi tấn công bằng cách gây thiệt hại cho chính bản thân
người có hành vi xâm hại. Nhưng không phải mọi trường hợp chống trả gây
thiệt hại đều được pháp luật thừa nhận là phòng vệ chính đáng. Bộ luật hình sự
nước ta chỉ thừa nhận là phòng vệ chính đáng khi hành vi chống trả và gây thiệt
hại cho người tấn công là cần thiết. Người có hành vi chống trả không cần thiết
hoặc vượt quá mức cần thiết phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự. Sự chống trả của người phòng vệ phải là sự chống trả cần thiết.
Điều này có nghĩa, biện pháp chống trả của người phòng vệ (phương tiện,
phương pháp, thiệt hại) đặt trong hoàn cảnh cụ thể phải là biện pháp cần thiết
để có thể ngăn chặn được sự tấn công, hạn chế những thiệt hại mà người tấn
công có thể gây ra. Tuy nhiên, hiện nay luật chưa quy định cũng như chưa có
văn bản hướng dẫn như thế nào là “cần thiết”. Thực tiễn áp dụng, việc đánh
giá sự chống trả là cần thiết hay không không phải là sự so sánh đơn thuần giữa
thiệt hại đã gây ra cho người tấn công và thiệt hại người tấn công đe doạ gây
ra. Thông thường trong phòng vệ chính đáng thiệt hại do người phòng vệ gây
ra nhỏ hơn thiệt hại do người tấn công đe dọa gây ra. Vì phòng vệ chính đáng
không phải là biện pháp trả thù mà là biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi
nguy hiểm cho xã hội, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, nhưng cũng có một số
trường hợp người phòng vệ gây ra cho người tấn công
30
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
một thiệt hại lớn hơn. Nhưng điều này không có nghĩa là cho phép người phòng
vệ được gây thiệt hại bất kỳ theo ý muốn của mình. Tính cần thiết trong phòng
vệ chính đáng cũng không chỉ là sự so sánh giữa các phương pháp, phương tiện
mà người phòng vệ và người tấn công sử dụng, đòi hỏi như vậy là không thực
tế và không phù hợp với mục đích của phòng vệ chính đáng. Để xác định sự
chống trả có cần thiết hay không, trước hết phải căn cứ vào tính chất của các
lợi ích bị xâm phạm, tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan
khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ:
 Lợi ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu, thì hành vi chống
trả càng phải mạnh mẽ bấy nhiêu.

 Tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm càng nguy hiểm và
nghiêm trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải quyết liệt bấy nhiêu.

Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn
cứ vào nhiều yếu tố khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm
và bên phòng vệ, thời gian, không gian xảy ra sự việc, công cụ phương tiện sử
dụng để xâm hại hoặc chống trả...

Tóm lại, trong trường hợp phòng vệ chính đáng, người phòng vệ có thể
có nhiều cách phòng vệ với mức độ khác nhau, có cách gây thiệt hại ít cho
người tấn công, có cách gây thiệt hại nhiều cho người tấn công. Việc người
phòng vệ lựa chọn cách nào là tuỳ thuộc vào khả năng đánh giá của họ, tuỳ
thuộc vào tâm lý của họ lúc phòng vệ, miễn sao cách chống trả đó không phải
là “quá mức cần thiết”. Tức là, hành vi phòng vệ cũng phải có mức độ vì ở
mức cần thiết mới được coi là chính đáng, có ích cho xã hội.
Mỗi con người đều có quyền bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội, do đó
họ có quyền phòng vệ để chống trả lại các mối nguy hiểm thực sự đang đe dọa
đến cuộc sống bình yên của họ và những người xung quanh. Vì thế, những hành
vi phòng vệ một cách chính đáng, hợp lý nếu gây thiệt hại cũng
31
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Pháp luật
hình sự Việt Nam quy định phòng vệ chính đáng là một trong những trường
hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự là rất phù hợp với thực tiễn và mang tính
nhân đạo cao.
1.2.1.4. Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự do tình thế cấp thiết.
1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự cho hành vi gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết là do thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm trong việc gây
thiệt hại về mặt pháp lý hình sự - thiếu tính trái pháp luật của hành vi (tình thế
cấp thiết không bị pháp luật hình sự quy định là tội phạm). Tức là có sự nguy
hiểm (hoặc khả năng nguy hiểm) xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng do
tính hợp lý và tương ứng của thiệt hại gây nên trong tình thế cấp thiết nhỏ hơn
so với thiệt hại cần ngăn ngừa, nên nhà làm luật không coi việc gây thiệt hại do
tình thế cấp thiết (mặc dù có những dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự
cấm) là tội phạm [14, tr.555]. Hành động trong tình thế cấp
thiết được coi là hành vi tích cực được khích lệ, pháp luật tạo cơ sở pháp lý
cho công dân thực hiện để bảo vệ có hiệu quả các lợi ích hợp pháp.
2) Điều kiện loại trừ trách nhiệm hình sự cho hành vi gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết: để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không
phải chịu trách nhiệm hình sự cần phải thỏa mãn những điều kiện nhất định.
Những điều kiện đó là:
a) Sự nguy hiểm cần ngăn ngừa trong tình thế cấp thiết nhất định phải
đang đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức hoặc lợi ích chính đáng của công
dân. Điều kiện này là cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết
là có sự nguy hiểm đe dọa các lợi ích hợp pháp. Lợi ích được pháp luật bảo vệ
phải là lợi ích chính đáng. Nguồn gốc gây ra sự nguy hiểm đối với lợi ích hợp
pháp được pháp luật bảo vệ có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác
32
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhau như: hành vi nguy hiểm của con người (cố ý hoặc vô ý; do người có hoặc
không có năng lực hành vi thực hiện), tác động của thiên nhiên (lũ lụt, cháy,
sét đánh…), thiết bị máy móc bị hư hỏng, súc vật tấn công…
Ngoài ra, sự nguy hiểm đang đe dọa gây thiệt hại phải là sự nguy hiểm
đe dọa ngay tức khắc thì mới được coi là trong trường hợp tình thế cấp thiết.
Nếu sự đe dọa đó còn chưa xảy ra hoặc đã kết thúc mà đã hành động để gây
thiệt hại thì không thể coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết [Xem: 13,
tr.556].
b) Sự nguy hiểm đang đe dọa phải có tính hiện tại và thực tế. Sự nguy
hiểm tuy mới đe dọa ngay tức khắc đến các lợi ích cần bảo vệ, nhưng phải là
sự nguy hiểm thực tế và hiện hữu. Nghĩa là, nguồn nguy hiểm đang tồn tại
khách quan và có khả năng gây ra thiệt hại trên thực tế, nếu không có hành vi
gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết thì hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Tính hiện tại
của nguồn nguy hiển được đánh giá tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, có thể là nó
sẽ gây ra thiệt hại ngay tức khắc hoặc sẽ gây thiệt hại trong một thời gian nhất
định nào đó [Xem: 6, tr.192]. Điều kiện thứ hai này cho thấy mối quan hệ nhân
quả giữa sự nguy hiểm với các lợi ích cần bảo vệ, nhưng phải là sự nguy hiểm
thực tế, phải có thật, tồn tại khách quan, tạo sự đe dọa trực tiếp gây nên thiệt
hại hoặc đã bắt đầu gây nên thiệt hại, không phải do tưởng tượng ra
[Xem: 14, tr.556]. Có thể nói nguồn nguy hiểm đang xảy ra có quan hệ nhân
quả với những thiệt hại cho lợi ích hợp pháp có nguy cơ thực tế sẽ xảy xa.
Nếu sự nguy hiểm đó không chứa đựng khả năng thực tế gây ra hậu quả
cho xã hội mà chỉ do phán đoán chủ quan của người gây ra thiệt hại thì không
được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết.
c) Việc gây thiệt hại là biện pháp duy nhất và cuối cùng để khắc phục sự
nguy hiểm vì trong tình thế đó không còn cách nào khác. Trong tình thế cấp
thiết việc gây thiệt hại cho một lợi ích hợp pháp nào đó để bảo vệ một lợi
33
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ích hợp pháp khác phải là biện pháp duy nhất và cuối cùng “không còn cách
nào khác”. Tức là trong tình huống cụ thể đó không còn biện pháp nào hiệu
quả hơn, ít gây thiệt hại hơn và có khả năng ngăn chặn, khắc phục, hạn chế thiệt
hại do sự nguy hiểm thực tế đang đe dọa gây ra cho xã hội. Nếu ngoài hành vi
được thực hiện mà đang còn tồn tại một khả năng hành động khác có thể không
gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại mà hành vi được thực hiện gây
nên, thì trong trường hợp đó không được coi là tình thế cấp thiết. Điều này đòi
hỏi chủ thể rơi vào trường hợp này phải có sự đánh giá thật chính xác, nhanh
chóng khả năng gây thiệt hại tức khắc của nguồn nguy hiểm và phải chọn
phương án phù hợp [Xem: 6, tr.189-190]. Việc gây thiệt hại để tránh một thiệt
hại lớn hơn phải cân nhắc kỹ lưỡng xem đó có phải là phương án cuối cùng và
duy nhất chưa.
Tuy nhiên, trong thực tế, khi gặp phải trường hợp nguồn nguy hiểm đang
đe dọa gây ra một thiệt hại cụ thể, không phải ai cũng có thể sáng suốt đánh giá
và cân nhắc để lựa chọn một phương án tối ưu. Thực tế này đòi hỏi khi đánh
giá một hành vi gây thiệt hại có thuộc trường hợp trong tình thế cấp thiết hay
không và phương pháp mà người có hành vi sử dụng có phải là phương pháp
duy nhất và cuối cùng hay không, phải căn cứ vào điều kiện khách quan và khả
năng chủ quan của người thực hiện hành vi. Chẳng hạn: một dãy nhà tập thể
bắt đầu cháy, cạnh đó có nguồn nước nhưng chỉ có một người ở đó và với khả
năng của họ thì họ không thể chữa được bằng nước mà biện pháp duy nhất đối
với họ đó là dỡ bỏ một đoạn mái nhà để ngăn chặn đám cháy lan rộng. Trong
trường hợp này, về mặt khách quan có nhiều biện pháp để dập tắt đám cháy,
nhưng về chủ quan của người chữa cháy với khả năng của họ, thì họ không còn
cách nào khác là phải dỡ bỏ một đoạn nhà khác để ngăn ngừa đám cháy.
34
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
d) Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần
ngăn ngừa. Mục đích đặt ra đối với chế định tình thế cấp thiết là tạo cơ sở pháp
lý để động viên, khuyến khích công dân mạnh dạn hành động trong tình thế cấp
thiết biết hy sinh một lợi ích nhỏ để bảo vệ có hiệu quả một lợi ích lớn hơn cho
xã hội. Chính vì vậy, điều kiện bắt buộc trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn
thiệt hại cần phòng ngừa.
Trong tình thế cấp thiết, thiệt hại không bị giới hạn như trong trường hợp
phòng vệ chính đáng. Trong tình thế cấp thiết, thiệt hại gây ra có thể đối với sở
hữu về tài sản, tính mạng, sức khoẻ hoặc các thiệt hại khác. Tuy nhiên, thông
thường việc gây ra thiệt hại là đối với sở hữu tài sản. Việc gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết cũng không bị giới hạn đối với người đang có hành vi xâm hại
mà có thể gây thiệt hại cho xã hội hoặc một người nào đó không có liên quan.
Thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn thiệt hại muốn tránh (xét
về cả tính chất và mức độ). Việc so sánh hai lợi ích này không phải lúc nào
cũng dễ dàng mà đòi hỏi chúng ta khi đánh giá so sánh giữa hai loại thiệt hại
cũng cần phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, bởi vì thiệt hại gây ra
là có thật còn thiệt hại muốn tránh lại là trừu tượng, vô hình không thể cân, đo,
đong, điếm được, nó chỉ là cái có thể xảy ra hoặc cùng lắm là tất yếu sẽ xảy ra
nếu không được ngăn chặn. Pháp luật không quy định sẵn các tình huống cụ
thể trong tình thế cấp thiết, nên khi nào có sự nguy hiểm đe dọa đến các lợi ích
cần bảo vệ và một người đứng trước tình thế đó với trách nhiệm của mình lại
có hai nghĩa vụ cùng phải thực hiện một lúc mà chỉ thực hiện được một nghĩa
vụ, đòi hỏi phải lựa chọn biện pháp nào đó sao cho phù hợp với lợi ích xã hội
để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn buộc phải gây thiệt hại nhỏ hơn, thì mới
được pháp luật thừa nhận là ở trong tình thế cấp thiết
[Xem: 6, tr.193].
35
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2.1.5. Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng
kể.
1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp gây thiệt hại về
mặt pháp lý hình sự nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của nó không đáng kể là
do thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt
pháp lý hình sự, tức hành vi ấy không bị pháp luật hình sự quy định là tội phạm.
Hành vi đó, có thể có thiệt hại (hoặc có khả năng gây thiệt hại) xảy ra trong
thực tế khách quan, nhưng do tính chất và mức độ nhỏ nhặt của thiệt hại đó,
nên nhà làm luật không coi hành vi ấy (mặc dù có những dấu hiệu của hành vi
nào đó bị luật hình sự cấm) là tội phạm [14, tr.541].
2) Điều kiện để tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể
được loại trừ trách nhiệm hình sự, chúng ta cần xem xét một cách tổng thể các
yếu tố có liên quan đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Có như vậy,
mới có thể đánh giá được hết hành vi nào có tính chất nguy hiểm cho xã hội là
đáng kể và hành vi nào là không đáng kể cho xã hội. Các yếu tố đó bao gồm:
a) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào tính chất của
quan hệ xã hội bị xâm hại được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội càng quan
trọng bao nhiêu thì tính chất của hành vi đó càng nguy hiểm bấy nhiêu.
b) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào tính chất và
mức độ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội bị xâm hại.
Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại thực tế hay khả năng gây ra thiệt hại, có thể
là thiệt hại vật chất (xác định bởi số lượng, trọng lượng, phần trăm…) hoặc phi
vật chất (uy tín, danh dự, lợi ích tinh thần…). Thiệt hại hoặc khả năng gây thiệt
hại càng cao bao nhiêu thì tính nguy hiểm cho xã hội càng cao bấy nhiêu.
c) Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi còn phụ thuộc vào tính
chất của hành vi khách quan. Thông qua diễn biến của hành vi phạm tội,
36
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
chúng ta có thể biết được trạng thái tâm lý của kẻ phạm tội khi thực hiện hành
vi. Phương thức thực hiện hành vi càng nguy hiểm, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt,
công cụ, phương tiện càng hiện đại thì tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
càng cao.
d) Tính chất nguy hiểm cho xã hội còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ
lỗi. Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô
ý. Một hành vi được thực hiện với lỗi cố ý bao giờ cũng nguy hiểm hơn nếu nó
xâm phạm đến cùng một khách thể và gây thiệt hại vật chất như nhau.
e) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào động cơ, mục
đích của người có hành vi phạm tội. Động cơ, mục đích của kẻ phạm tội khi
thực hiện hành vi phạm tội cũng là yếu tố ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm. Động cơ, mục đích càng đê hèn, xấu xa thì tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm càng cao. Ngược lại, hành vi ấy có thể được xem là
tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể và sẽ được loại trừ trách nhiệm hình
sự.
f) Tính nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chính
trị xã hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra.
g) Tính chất nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào nhân thân người có
hành vi phạm tội. Hành vi của con người luôn có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Cùng một hành vi nhưng ở người này là một biểu hiện nhất thời, đột xuất
nhưng ở người kia lại là kết quả của một quá trình nhận thức và tính toán sâu
sắc. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn phương pháp, thủ đoạn thực
hiện hành vi cũng như quyết tâm thực hiện hành vi. Nhân thân càng xấu tính
nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện càng cao.
Như vậy, pháp luật hình sự quy định những hành vi tuy có dấu hiệu tội
phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là
tội phạm và được xử lý bằng biện pháp khác nhằm phân biệt hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội nào là tội phạm và hành vi nguy hiểm nào không phải là tội
37
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào tính chất quan hệ xã hội bị
xâm hại, mức độ gây thiệt hại, động cơ, mục đích, công cụ…phạm tội để xác
định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi từ đó xác định hành vi đó có phải
là tội phạm hay không. Tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự, đây là một
dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm
pháp lý nào khác. Người chịu trách nhiệm hình sự phải bị tước bỏ hoặc hạn chế
các quyền tự do, các quyền về thể chất, về vật chất hoặc tinh thần và thậm chí
tước bỏ cả tính mạng của chủ thể đó (nếu bị áp dụng hình phạt tử hình). Do đó,
việc pháp luật quy định những hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể
thì được loại trừ trách nhiệm hình sự thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt
Nam, hạn chế tội phạm và bảo đảm các quyền cơ bản nêu trên của con người
(nếu bị coi là tội phạm thì các quyền cơ bản đó sẽ bị hạn chế hoặc bị tước bỏ)
1.2.1.6. Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự đối với hành vi được thực hiện do người chưa đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự.
1) Căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây thiệt hại về
mặt pháp lý hình sự nhưng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là sự thiếu
một trong các dấu hiệu của tội phạm – người thực hiện hành vi đó chưa đủ tuổi
để chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự, tức là có thiệt
hại xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng khi gây thiệt hại đó chủ thể chưa
đạt đến độ tuổi để có khả năng nhận thức được hoặc khả năng điều khiển được
hành vi của mình.
2) Những điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự của hành vi gây thiệt
hại về mặt pháp lý hình sự nhưng do sự chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
là [14, tr.529]:
38
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
a) Khi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự, chủ thể của hành vi phải là
người mà theo các quy định của PLHS không phải chịu trách nhiệm hình sự vì
chưa đủ tuổi.
b) Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đó phải được quy định một cách cụ
thể và rõ ràng trong PLHS (chứ không thể là trong các ngành luật phi hình sự
khác).
c) Chính vì chưa đạt đến độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đó theo luật
định nên chủ thể không có khả năng nhận thức được hoặc khả năng điều khiển
được hành vi của mình khi gây ra thiệt hại.
Pháp luật hình sự Việt Nam có quy định trên nhằm bảo vệ quyền trẻ em,
người chưa thành niên phạm tội, những người chưa phát triển hoàn thiện
về thể chất cũng như tinh thần do đó hiểu biết về cuộc sống và pháp luật còn
hạn chế, cần được giáo dục, cải tạo hơn là áp dụng hình phạt.
1.2.2 Bảo vệ quyền con người bằng cơ chế giám sát, khiếu nại tố cáo
và xử lý vi phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến các trường hợp
được loại trừ trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh việc ghi nhận trong pháp luật hình sự hiện hành các trường hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự, vấn đề bảo vệ quyền con người bằng chế định này
còn được nhà nước đảm bảo bằng cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của Quốc
hội, các tổ chức chính trị - xã hội, giám sát của nhân dân… đối với các hoạt
động thực thi pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng. Đồng thời có biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện có vi phạm các quy
định của pháp luật về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với các
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Cùng với cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm, nhà nước ta còn
đảm bảo quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự thông
39
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
qua quyền khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu phát hiện ra
sai phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đảm
bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là biện pháp quan trọng tạo
điều kiện cho công dân phát hiện các vi phạm quyền tự do dân chủ của mình
được pháp luật quy định. Bằng cách giải quyết khiếu nại đối với các hành vi,
quyết định trái pháp luật xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; tố cáo
đối với hành vi vi phạm quyền công dân liên quan đến các trường hợp loại trừ
trách nhiệm hình sự, nhà nước không chỉ xử lý cơ quan, cá nhân
vi phạm mà quan trọng hơn nữa là chấm dứt hành vi vi phạm và phục hồi quyền
hoặc lợi ích hợp pháp của công dân bị vi phạm. Chương XXXV của BLTTHS
năm 2003 lần đầu tiên quy định về quyền khiếu nại, tố cáo cũng như trách
nhiệm của người có thẩm quyền thay mặt nhà nước trong việc giải quyết các
khiếu nại, tố cáo của công dân, nhằm khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
hại hoặc bồi thường thiệt hại cho họ. BLTTHS quy định cơ quan, tổ chức, cá
nhân không chỉ có quyền khiếu nại quyết định tố tụng mà còn có
quyền khiếu nại cả hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi tố tụng đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hơp pháp của mình (Điều 325); người khiếu nại có quyền
được khôi phục quyền, lợi ích bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại do quyết
định, hành vi trái pháp luật gây ra (Điều 326); người bị khiếu nại có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trái pháp luật
của mình gây ra cho người khiếu nại (Điều 327).
Đối với những hành vi vi phạm của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến các trường
hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (ví dụ: trường hợp sự kiện bất ngờ lại xác định
là có lỗi của người thực hiện hành vi; hành vi do người không có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện lại xác định người thực hiện hành vi
40
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
có năng lực trách nhiệm hình sự; trường hợp phòng vệ chính đáng cơ quan tiến
hành tố tụng lại xác định là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…) tùy từng
mức độ vi phạm trong việc đánh giá hiện thực khách quan của vụ án mà người
vi phạm có thể bị áp dụng các biện pháp kỷ luật hoặc bị khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử theo quy định của luật tố tụng hình sự.
KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Khi nghiên cứu chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự thì
việc xác định rõ bản chất pháp lý của chế định này là hết sức cần thiết. Xung
quanh vấn đề này vẫn còn nhiều tranh luận khác nhau dẫn đến các tên gọi khác
nhau về chế định trên. Qua những lập luận, phân tích trong luận văn người viết
đã đưa ra được các quan điểm chủ yếu của các nhà làm luật Việt Nam, cũng
như các quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học luật pháp về bản chất pháp
lý của chế định này để từ đó xác định được bản chất pháp lý chính xác của chế
định trên.
Bên cạnh đó, bằng việc phân tích vai trò của việc bảo vệ các quyền con
người bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, luận văn đã
chỉ rõ được các căn cứ cũng như điều kiện để các trường hợp: sự kiện bất ngờ,
phòng vệ chính đáng, tính trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, tình
thế cấp thiết, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể và hành vi
được thực hiện do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được loại trừ
trách nhiệm hình sự. Phân tích làm rõ được các quyền con người được bảo vệ
bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp
trên. Đồng thời làm rõ được cơ chế bảo vệ các quyền con người bằng chế định
các trường hợp hợp loại trừ trách nhiệm hình sự thông qua việc ghi nhận chế
định trong trong pháp luật hình sự hiện hành cũng như quy định về cơ chế kiểm
tra, giám sát, xử lý vi phạm, bồi thường oan sai và quyền khiếu nại, tố
41
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với vi phạm của các cơ quan tiến hành
tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Như vậy, Chương I của luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận xung
quanh chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự và vai trò bảo vệ
quyền con người bằng chế định trên từ đó thấy được ý nghĩa của việc quy định
chế định này trong BLHS. Tuy nhiên, để thấy rõ hơn được vai trò bảo vệ quyền
con người bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, chúng ta
cần phân tích thực trạng các quy phạm của chế định đó, nêu ra được những ưu
điểm cần phải phát huy và những khuyết điểm, hạn chế cần phải sửa đổi để từng
bước hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm
tăng cường vai trò bảo vệ các quyền con người.

More Related Content

Similar to Cơ sở lý luận về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.docx

Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài SảnCơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương
Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cươngMột số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương
Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương
MyLan2014
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trướcThuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiĐịnh tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khacVe toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
Hung Nguyen
 
Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Trần Đức Anh
 
Tiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.doc
Tiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.docTiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.doc
Tiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.doc
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 👉👉 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤
 
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng SơnLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Cơ sở lý luận về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.docx (20)

Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài SảnCơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
 
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Thuộc Về Nhân Thâ...
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
 
Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương
Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cươngMột số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương
Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
 
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trướcThuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
Thuê Viết TIỂU LUẬN LUẬT HÌNH SỰ 1 - Cập nhật giá 5ph trước
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiĐịnh tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
 
Ve toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khacVe toi la nhuc nguoi khac
Ve toi la nhuc nguoi khac
 
Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)Tailieu.vncty.com th s-11(1)
Tailieu.vncty.com th s-11(1)
 
Tiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.doc
Tiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.docTiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.doc
Tiểu luận môn pháp luật đại cương - Các giai đoạn phạm tội.doc
 
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Việc Giải Quyết Vấn Đề Dân Sự Trong Điều Tra, Tru...
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng SơnLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍

Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho.docx
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho.docxCơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho.docx
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docx
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docxCơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docx
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ.docx
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ.docxCơ sở lý luận về công tác lưu trữ.docx
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docx
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docxCơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docx
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docx
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docxCơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docx
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docx
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docxCơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docx
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docxCơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docx
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docxCơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docx
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docx
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docxCơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docx
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docx
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docxCơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docx
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docxCơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet.docx
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet.docxCơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet.docx

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)

Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho.docx
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho.docxCơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho.docx
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho.docx
 
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docx
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docxCơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docx
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự.docx
 
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ.docx
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ.docxCơ sở lý luận về công tác lưu trữ.docx
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ.docx
 
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docx
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docxCơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docx
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp.docx
 
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docx
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docxCơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docx
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động.docx
 
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doan...
 
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ ...
 
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docx
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docxCơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docx
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay.docx
 
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền củ...
 
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân qu...
 
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
 
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docxCơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí.docx
 
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docx
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docxCơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docx
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận.docx
 
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docx
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docxCơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docx
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở.docx
 
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp...
 
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docx
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docxCơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docx
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính.docx
 
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo d...
 
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài ...
 
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docxCơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường.docx
 
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet.docx
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet.docxCơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet.docx
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet.docx
 

Recently uploaded

Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
PhiTrnHngRui
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
PowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptx
PowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptxPowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptx
PowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptx
PhuongMai559533
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
nvlinhchi1612
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
nhanviet247
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
giangnguyen312210254
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
onLongV
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 

Recently uploaded (14)

Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
PowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptx
PowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptxPowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptx
PowerPoint Đuổi hình bắt chữ. hay vui có thưognrpptx
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 

Cơ sở lý luận về chế định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.docx

  • 1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƢỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Bản chất pháp lý của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Ý nghĩa của việc quy định chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa trên một số bình diện sau: 1) Những trường hợp loại trừ TNHS là một trong những chế định cơ bản phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS nói riêng trong Nhà nước pháp quyền [14, tr.503]. 2) Trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn áp dụng PLHS hiện nay xung quanh những vấn đề khái niệm, hệ thống và bản chất pháp lý của chế định này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau cần phải được nhà làm luật khẳng định dứt khoát về mặt lập pháp [14, tr.503]. Từ đó, có cách hiểu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm cho việc áp dụng chế định này chính xác và đúng pháp luật. 3) Việc tiếp tục phân tích khoa học để làm sáng tỏ về mặt lý luận để tìm ra những trường hợp loại trừ TNHS trong thực tiễn, đồng thời đưa ra một mô hình lý luận nhằm hoàn thiện chế định đang được nghiên cứu là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng và cần thiết của khoa học luật hình sự Việt Nam [14, tr.503]. 4) Việc quy định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam giúp cho mọi người vững tin hơn khi hành động, chủ động đấu tranh chống lại 10
  • 2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Nhà nước cấm, từ bỏ ý định hoặc hành vi có hại cho xã hội mà mình tưởng lầm là không trái pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh. 5) Việc quy định và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam góp phần làm cho pháp luật từng bước đi vào cuộc sống, loại trừ những quy phạm không phù hợp với cuộc sống cũng như kịp thời bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội cần có sự can thiệp của pháp luật. Tóm lại, quy định vấn đề các trường hợp loại trừ TNHS trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý rất quan trọng trong việc xác định ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong mỗi trường hợp tương ứng, cũng như phát huy tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong số đó lại có trường hợp được Nhà nước khuyến khích, khen thưởng như: thực hiện hành vi trong phòng vệ chính đáng và trong tình thế cấp thiết vì chúng là những hành vi có ích cho xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng [56, tr.19]. 1.1.2. Một số quan điểm chủ yếu về bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự Cho đến nay vấn đề bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ… vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau dưới đây [14, tr.510 – 512]: 1) Trong khoa học luật hình sự Liên Xô trước đây và khoa học luật hình sự Liên Bang Nga hiện nay có một số quan điểm như sau về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, cụ thể là: a) Một số GS.TSKH luật, Viện sĩ Viện HLKH Liên Xô trước đây (Piôntkôvxki A.A, Rômaskin P.X và Trkhikvađze V.M) viết “Chúng không những chỉ là các tình tiết loại trừ cấu thành tội phạm trong hành vi được thực hiện”. 11
  • 3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 b) GS.TSKH luật Xlutxki I.I coi các trường hợp này là các tình tiết loại trừ TNHS và phân chia chúng thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất – các tình tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của hành vi (bao gồm: phòng vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt giữ người phạm tội, tình thế cấp thiết, chấp hành lệnh hợp pháp, thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp và công vụ, thực hiện quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ); nhóm thứ hai – các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tình phải bị xử phạt của hành vi (bao gồm: tự nguyện đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của người bị hại, tính chất nhỏ nhặt của vi phạm pháp luật, sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội, hết thời hiệu truy tố hình sự và hết thời hiệu của bản án); nhóm thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi (bao gồm: sự cưỡng bức về thể xác, sức mạnh không thể chống lại được). c) Bên cạnh các quan điểm đã nêu, quan điểm của GS.TSKH luật Naumôv A.V là rõ hơn cả, khi ông viết: “Tất cả các trường hợp này đều loại trừ cả tính trái PLHS, cả tính nguy hiểm cho xã hội, cả tính chất lỗi, cả tính phải bị xử phạt của hành vi và do đó, cả tính chất tội phạm của nó”. d) Sau khi nhà làm luật Liên Bang Nga đã chính thức ghi nhận trong Chương 8 BLHS năm 1996 hiện hành, bản chất pháp lý của những trường hợp này là “Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” (các Điều 37 - 42), thì hầu hết các nhà hình sự học Nga đều đồng nhất với quan điểm coi chúng chính là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi;… 2) Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn tồn tại năm quan điểm chính như sau [14, tr.512-513]: a) Hầu hết các nhà hình sự học (PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, TS Ngô Ngọc Thủy, TS Nguyễn Mạnh Kháng…) đều coi chúng là các tình tiết loại trừ 12
  • 4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và quan điểm này được thể hiện trong hầu hết các giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung). b) PGS.TS Kiều Đình Thụ quan niệm chúng là những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. c) TS. Nguyễn Ngọc Chí và ThS. Đinh Văn Quế có cùng chung một quan điểm – đều gọi chúng là các trường hợp loại trừ TNHS. d) Tác giả Phạm Hải Đăng quan niệm chúng là những trường hợp không phải là tội phạm. e) Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm khi cho rằng bản chất pháp lý đó là các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi với các lý do sau đây [14, tr.513, 515, 516): Nếu phân tích theo phép biện chứng duy vật và logic của vấn đề, thì trong nghiên cứu khoa học bao giờ người nghiên cứu cũng phải lần lượt đi theo thứ tự từ A rồi mới đến B, C… (chứ không thể chưa qua A, mà lại đi thẳng vào B rồi mới quay lại khẳng định cho A là làm ngược). Theo cách hiểu trên thì tội phạm tự bản thân nó là một hành vi, nên khi bàn về bản chất pháp lý của hành vi đó chúng ta cần phải lần lượt phân tích theo một thứ tự gồm hai bước: Bước 1 – phân tích các dấu hiệu (A) của nó xem thử hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu không phải là tội phạm thì do thiếu dấu hiệu nào trong năm dấu hiệu được thừa nhận chung mà tính chất tội phạm của nó được loại trừ; bước 2 – bàn về vấn đề trách nhiệm hình sự với tính chất là hậu quả của việc thực hiện hành vi đó (B) trong từng trường hợp tương ứng cụ thể như thế nào (được loại trừ TNHS - nếu hành vi không phải là tội phạm hoặc là phải chịu TNHS - nếu nó là tội phạm), chứ không thể ngay từ đầu đã bỏ qua bước 1 để sang bước 2. Nếu xem xét như bước 1 đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy rõ bản chất pháp lý của tất cả sáu trường hợp đang nghiên cứu trong Phần chung BLHS 13
  • 5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Việt Nam năm 1999 hiện hành (bao gồm: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi được thực hiện bởi người không có năng lực trách nhiệm hình sự, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể) đều là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi vì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong các trường hợp này đều thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm. Như vậy, xuất phát tự sự phân tích trên có thể nhận thấy:  Ngay từ bước 1 chúng ta đã khẳng định được sự loại trừ tính chất tội phạm của hành vi trong sáu trường hợp đã nêu trên được quy định trong Phần chung BLHS Việt Nam năm 1999 và tương ứng như vậy, theo nguyên tắc pháp chế không có tội phạm, không có hình phạt nếu luật không quy định thì đương nhiên chúng là những trường hợp loại trừ TNHS hay nói một cách khác – trong cả sáu trường hợp này chủ thể của hành vi không có TNHS.  Chúng ta không thể khẳng định rằng chúng là những trường hợp loại trừ “tính chất nguy hiểm cho xã hội” của hành vi, vì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong tất cả những trường hợp này rõ rang đều nguy hiểm cho xã hội.  Chúng ta không thể gọi chúng là những trường hợp loại trừ tính “trái pháp luật” của hành vi, vì nếu là trái pháp luật, thì những trường hợp này sẽ có giới hạn rất rộng, bao gồm cả các hành vi cần phải được điều chỉnh bởi một số ngành luật khác nữa chứ không chỉ bởi PLHS.   Đồng thời, không thể bỏ qua bước 1 mà vội đi thẳng sang bước 2 để khẳng định ngay hậu quả của việc thực hiện hành vi rằng chúng là những trường hợp “loại trừ trách nhiệm hình sự” được. Từ những lập luận khoa học trên GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã khẳng định: “Dưới góc độ pháp lý hình sự, bản chất pháp lý chung, đầy đủ và toàn 14
  • 6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 diện của tất cả sáu trường hợp đã nêu trong Phần chung BLHS năm 1999 là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” [14, tr.517]. Tuy đồng tình với quan điểm khoa học của GS.TSKH. Lê Văn Cảm về bản chất pháp lý của sáu trường hợp như: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu TNHS, hành vi được thực hiện bởi người không có năng lực TNHS, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể là các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả xin phép được sử dụng thuật ngữ “các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” bởi lẽ nó không mâu thuẫn với thuật ngữ “các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” vì suy cho cùng thì hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – không phải chịu trách nhiệm hình sự [Xem: 56, tr.19]. Hơn nữa việc sử dụng thuật ngữ “các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” là phù hợp với quy định tại Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) và phù hợp với thực tiễn xét xử. 1.1.3. Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự Điều 2 BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Như vậy, chỉ một người phạm một tội do BLHS quy định mới phải chịu TNHS. Pháp luật Việt Nam quy định, một người phải chịu TNHS khi đáp ứng đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có một số hành vi tuy về hình thức có các dấu hiệu cấu thành của một tội phạm cụ thể, nhưng về nội dung những hành vi đó lại chứa đựng một số tình tiết làm loại trừ tính chất tội phạm của hành vi (hoặc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi) hay nói cách khác, do thiếu 15
  • 7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên hành vi ấy không bị coi là tội phạm và người thực hiện nó không phải chịu TNHS (hay được loại trừ TNHS). Các hành vi ấy thực tế gây thiệt hại cho Nhà nước, cho tổ chức hoặc cá nhân nào đó, nhưng nhìn từ góc độ lợi ích xã hội, cộng đồng và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm… thì thiệt hại đó là không đáng kể so với lợi ích mà các hành vi đó mang lại. 1) Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS thể hiện trong BLHS Việt Nam hiện hành. BLHS Việt Nam hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như các trường hợp loại trừ TNHS thành một chế định riêng biệt mà mới chỉ quy định sáu trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự cùng một chương với các quy định về tội phạm (Chương III) bao gồm: a) Sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. b) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (khoản 1, Điều 13 BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”. c) Phòng vệ chính đáng (khoản 1, Điều 15 BLHS Việt Nam năm 1999): “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”. 16
  • 8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 d) Tình thế cấp thiết (khoản 1, Điều 16 BLHS Việt Nam năm 1999): “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm”. e) Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể chưa được quy định thành một điều luật riêng, nó được quy định tại khoản 4, Điều 8 BLHS Việt Nam năm 1999 với tên gọi “Khái niệm tội phạm”như sau: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. f) Hành vi do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện cũng chưa được quy định thành một khoản, điều luật riêng biệt mà đó chỉ là quy định gián tiếp từ Điều 12 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định về “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, người chưa đủ 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội. Nghiên cứu BLHS Việt Nam hiện hành cho thấy vẫn chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ tên gọi các trường hợp này (Xem: 41, tr.18): hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì “không phải là tội phạm”; sự kiện bất ngờ, hành vi do người chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện, tình trạng không có năng lực TNHS thì “không phải chịu trách nhiệm hình sự” hay trong Phần các tội phạm BKHS Việt Nam 17
  • 9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 năm 1999, các nhà làm luật Việt Nam còn quy định một trường hợp được coi là “không có tội” (khoản 6 điều 289 BLHS quy định về tội đưa hối lộ)… Thuật ngữ “loại trừ trách nhiệm hình sự” duy nhất được sử dụng tại đoạn 2 điều 53 BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Như vậy, tuy có sự khác nhau về tên gọi với từng trường hợp cụ thể nhưng bản chất và hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – được loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, hay nói cách khác hậu quả pháp lý là không phải chịu trách nhiệm hình sự. (Xem: 41, tr.19). Tuy nhiên việc quy định chung các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự cùng một Chương với các quy định về tội phạm làm cho hình thức mâu thuẫn với nội dung, chưa thể hiện đầy đủ và rõ ràng bản chất pháp lý của chế định này. 2) Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS thể hiện trong Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015). Dự thảo BLHS Việt Nam sửa đổi năm 2015 đã có nhiều tiến bộ khi ghi nhận chế định các trường hợp loại trừ TNHS thành một Chương riêng biệt trong BLHS (Chương IV) với tên gọi “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự”. Việc quy định chế định này thành một chương riêng trong Dự thảo BLHS Việt Nam năm 2015 đã đảm bảo được sự thống nhất, đồng bộ trong nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng những quy định về chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; bên cạnh đó nó còn thể hiện sự phát triển trong công tác lập pháp khi ghi nhận trên thực tế nguyên tắc tiến bộ và dân chủ của pháp luật hình sự nhằm bảo vệ một cách vững chắc các quyền con người cũng như lợi ích của xã hội. Xung quanh vấn đề tên gọi của Chương IV được quy định trong Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) thì vẫn còn nhiều tranh luận. Bên 18
  • 10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cạnh tên gọi như trong Dự thảo hiện nay là “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” thì có ý kiến đề nghị nên quy định là “Các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” với các lập luận như GS.TSKH Lê Văn Cảm đã phân tích (được tác giả luận văn đề cập đến ở phần trên). Theo quan điểm của tác giả luận văn, xét cho cùng hai tên gọi trên có bản chất pháp lý giống nhau, nhưng một thuật ngữ thể hiện nguyên nhân và một thuật ngữ thể hiện hậu quả pháp lý, chúng không mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề bản chất thì nên nói đến những cái cốt lõi, sâu xa, nguyên nhân bên trong thì thuật ngữ “Các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” là hợp lý hơn. Chương IV quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (Dự thảo BLHS sửa đổi năm 2015) bao gồm bảy điều, tương ứng với bảy trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự. Bên cạnh các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự như đang quy định trong BLHS hiện hành như: sự kiện bất ngờ (Điều 20); tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21); phòng vệ chính đáng (Điều 22) và tình thế cấp thiết (Điều 23) thì Dự thảo mới còn quy định thêm ba trường hợp sau đây cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự bao gồm: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp (Điều 24); rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới (Điều 25); thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên (Điều 26). Việc quy định thêm các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự trong BLHS thể hiện tính chất nhân đạo trong pháp luật của Nhà nước ta, tăng cường vai trò bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, bên cạnh đó việc quy định này cũng phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới, góp phần động viên, khuyến khích người dân tham gia đấu tranh, phòng chống tội phạm; khuyến khích sự sáng tạo trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo động lực phát triển kinh tế và xã hội. 19
  • 11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 1.2. Vai trò của chế định các trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong việc bảo vệ các quyền con ngƣời. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là một trong những chế định phản ánh rõ nét nguyên tắc nhân đạo, bảo vệ các quyền con người của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được quy định trong luật hình sự Việt Nam thể hiện sự cụ thể hóa các quy định của pháp luật đối với vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong bất cứ nhànước nào , tôịphaṃ luôn làhành vi nguy hiểm cho xa ̃ hôịxâm phaṃ đến lơị ích c ủa các tập thể, cá nhân trong xã hội, đồng thời nó cũng xâm phạ m đến quyền con người . Đólànhững quyền đươc ̣sống , quyền tư ̣do, sức khỏe, danh dư,̣ nhân phẩm vàcác quyền lơị ich́ khác của con người. Viêc ̣bảo vê ̣quyền con người trong linh̃ vưc ̣hinh̀ sư ̣đươc ̣xem xét ởhai khiá cạnh đó là quyền con người của cá nhân sống trong xã hội đòi hỏi cần được bảo vệ trước hành vi xâm phạm của tội phạm và quyền của những người vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền của người khác , khi nào vàởmức đô ̣ nào thì họ bị coi là tội phạm . Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự chính là bảo vệ quyền con người ở khía cạnh thứ hai, tức là bảo vệ quyền của những người có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác nhưng không phải mọi trường hợp đều bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự. Con người cóquyền đươc ̣sống trong môi trường an toàn trong đócó sư ̣an toàn pháp lý. Sẽ là bất công nếu t ất cả các hành vi gây thiệt hại đều bị coi là tôịphaṃ vàphải chiụ hinh̀ phaṭ . Trong thực tiễn có rất nhiều trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích của người khác nhưng họ không có lỗi; hoặc họ thực hiện hành vi vi phạm xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức cá nhân khác nhưng nhằm bảo vệ những lợi ích lớn hơn… thì cần được xem xét đối với các hành vi đó nhằm 20
  • 12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Vấn đề bảo vệ quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được nhà nước ta đảm bảo thực hiện bằng các cơ chế sau đây: 1.2.1 Bảo vệ quyền con người thông qua việc quy định trong BLHS Việt Nam hiện hành các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự. Vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật nói chung không những được Nhà nước ta ghi nhận trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp mà bảo vệ quyền con người còn là mục đích, quan điểm và nội dung xuyên suốt trong toàn bộ bản Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các Bộ luật, văn bản dưới luật khác. Việc ghi nhận trong PLHS thực định những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự tại các Điều 8, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 15, Điều 16 BLHS Việt Nam hiện hành và các quy định tại Chương IV dự thảo BLHS Việt Nam sửa đổi năm 2015 về các trường hợp được loại trừ TNHS là những hành vi mặc dù xét về mặt hình thức, hành vi gây nên thiệt hại có dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự cấm nhưng chủ thể của hành vi vẫn không bị coi là người phạm tội nên không phải chịu TNHS bởi các lý do như: để bảo vệ lợi ích của xã hội hay của Nhà nước, cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của chính chủ thể hành vi gây thiệt hại hoặc của người khác tránh khỏi sự xâm hại hoặc khả năng thực tế gây nên thiệt hại của tội phạm; để khuyến khích việc đạt được mục đích có ích cho xã hội hoặc cho Nhà nước bằng hành vi hợp lý và hợp pháp; vì mục đích nhân đạo… đã thể hiện rõ nét cơ chế bảo vệ quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ TNHS của Nhà nước ta. Việc ghi nhận các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong BLHS hiện hành tạo cơ sở pháp lý vững chắc để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. 21
  • 13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Vai trò của việc bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam được thể hiện rõ trong sáu trường hợp được BLHS Việt Nam hiện hành quy định được loại trừ trách nhiệm hình sự sau đây: 1.2.1.1 Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do sự kiện bất ngờ. 1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự do sự kiện bất ngờ là do thiếu một trong những dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự - hành vi đó không có tính chất lỗi (một trong những yếu tố của mặt chủ quan), tức là có thiệt hại xảy ra trong thực tế khách quan nhưng khi gây nên thiệt hại đó chủ thể không có thái độ tâm lý (được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý) đối với hành vi cũng như đối với hậu quả của hành vi đó [14, tr.523]. 2) Những điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự do sự kiện bất ngờ là khi chủ thể của hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự đã không thể thấy trước hậu quả của hành vi hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả. Ta lần lượt xem xét từng trường hợp: a) Không thể thấy trước hậu quả của hành vi, không thể thấy trước được hậu quả của hành vi là trước khi thực hiện hành vi (hành động hoặc không hành động), do hoàn cảnh khách quan cũng như các tình tiết cụ thể của vụ án mà người có hành vi không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và sẽ gây ra hậu quả, sự nhận thức này của họ có cơ sở khoa học và được mọi người thừa nhận, ai trong hoàn cảnh này đều không thể thấy trước hậu quả sẽ xảy ra, nhưng thực tế hậu quả lại xảy ra.Việc giải quyết mâu thuẫn giữa cái tất yếu (hậu quả xảy ra) với nhận thức của người có hành vi gây ra hậu quả đó không phải bao giờ cũng dễ dàng. Thông thường người có hành vi gây ra hậu quả đó cho rằng mình không thể thấy trước hậu quả, còn 22
  • 14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 người bị thiệt hại thì lại cho rằng người có hành vi có thể thấy trước hậu quả nhưng vẫn hành động. Vì vậy, khi đánh giá một người có hành vi gây hậu quả có thể thấy trước được hậu quả của hành vi hay không phải căn cứ vào điều kiện khách quan hoặc chủ quan khi xảy ra sự việc:  Về khách quan, trong hoàn cảnh cụ thể đó, bất kỳ ai cũng không thể thấy trước được hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm.  Về chủ quan, các đặc điểm về nhân thân của người có hành vi gây thiệt hại như: tuổi, trình độ hiểu biết, bệnh tật và các đặc điểm nhân thân khác ảnh hưởng đến nhận thức của họ. b) Không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi. Không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi là trước khi thực hiện hành vi, do hoàn cảnh khách quan cũng như các tình tiết cụ thể của vụ án mà người có hành vi không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, cũng như hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra và có khả năng thấy trước hậu quả của hành vi, nhưng theo pháp luật không buộc họ phải thấy trước hậu quả của hành vi và nếu có hậu quả xảy ra thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm đó. Khi đặt vấn đề không buộc người gây thiệt hại phải thấy trước hành vi của mình gây ra hậu quả, không chỉ căn cứ vào các văn bản pháp luật cụ thể nào của Nhà nước quy định về việc không buộc mà còn phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, trình độ nhận thức của người gây thiệt hại và các tình tiết khác.Thông thường, nếu mọi người nói chung rơi vào hoàn cảnh đó thì cũng không thấy được hậu quả xảy ra, thì người gây thiệt hại cũng được công nhận là gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ [36, tr.76]. Như vậy, luật hình sự quy định hành vi gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ được loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm đảm bảo quyền lợi cho những người thực hiện hành vi nguy hiểm nhưng không có lỗi khi gây ra hành vi đó, họ 23
  • 15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 không dự liệu được rằng hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng và pháp luật không bắt buộc họ phải thấy trước hậu quả trong những trường hợp như vậy. Đây là một trong những quy định của pháp luật thể hiện tính công bằng, nhân đạo của pháp luật Việt Nam. 1.2.1.2 Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với hành vi do người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. 1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự: của hành vi gây thiệt hại trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là sự thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự - người thực hiện hành vi đó không có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là có thiệt hại xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng khi gây thiệt hại đó chủ thể đã mất đi khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình [14, tr.536]. 2) Những điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự do tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: a) Khi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự, chủ thể của hành vi đang ở trong tình trạng bị bệnh lý tâm thần hoặc bệnh khác. Đây là dấu hiệu về mặt y học, về dấu hiệu này thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự bảo vệ phải đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận rằng, bệnh tâm thần có các dạng cụ thể khác nhau và có các mức độ khác nhau như: tâm thần phân liệt, loạn tâm thần, thiểu năng tâm thần (với các mức nặng nhẹ khác nhau như ngu, đần, thộn) có thể là bệnh tâm thần kinh niên hoặc rối loạn tạm thời… “Các bệnh khác” được nêu trong điều luật trong điều luật không phải là bệnh tâm thần 24
  • 16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhưng cũng có thể làm rối loạn tâm thần (ví dụ: rối loạn tâm thần do chấn thương não; sốt rét ở nhiệt độ quá cao gây mê sảng) [Xem: 6, tr.125]. b) Chủ thể hoàn toàn không thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội và quy định của pháp luật hình sự về hành vi do mình thực hiện; hoặc chủ thể hoàn toàn không thể điều khiển được hành vi do mình thực hiện. Đây là dấu hiệu tâm lý, về dấu hiệu này người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người đã mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Cụ thể: Về lý trí, người đó không có năng lực đánh giá được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình là đúng hay sai, không nhận thức được các yêu cầu của xã hội liên quan đến hành vi đang thực hiện; về ý chí, người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự không có khả năng điều khiển hành vi của mình, không kiềm chế được việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện một xử sự khác không gây nguy hiểm cho xã hội. Thêm vào đó, từ “hoặc” quy định tại khoản 1 Điều 13 cho phép ta khẳng định, tiêu chuẩn tâm lý chỉ yêu cầu một người hoặc là mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi, một trong hai dấu hiệu đó đã thoả mãn thì điều kiện này coi như thoả mãn [6, tr.125]. Bộ luật hình sự quy định thêm trường hợp người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người tuy không bị mất khả năng nhận thức nhưng đã bị mất khả năng điều khiển hành vi của mình đó là người về lý trí, tuy có khả năng đánh giá được ý nghĩa của xã hội về hành vi của mình, biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng do rối loạn hay xung đột bệnh lý đã không kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó. Như vậy, để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự của một người cần phải thoả mãn đồng thời hai dấu hiệu – dấu hiệu y học (mắc bệnh) và dấu hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển). Hai dấu hiệu này có mối quan hệ chặt chẽ nhau, dấu hiệu y học với vai 25
  • 17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý giữ vai trò là kết quả. Tiêu chuẩn y học là điều kiện cần để xem xét một người có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Tiêu chuẩn tâm lý là điều kiện đủ để xác định người đó không có năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, pháp luật quy định hành vi nguy hiểm cho xã hội do người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện được loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người bị hạn chế về thể chất và tinh thần khiến họ không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, hoặc nhận thức được nhưng không có khả năng điều khiển được hành vi đó. Tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự bản thân con người đó không hề mong muốn cũng không tự đặt mình vào tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự, vì vậy xét về bản chất người không có năng lực trách nhiệm hình sự không có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. 1.2.1.3 Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do phòng vệ chính đáng. Thông thường, một hành vi khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì hành vi đó bị coi là tội phạm và bị áp dụng hình phạt. Tuy nhiên, luật hình sự nước ta lại quy định một số hành vi trên thực tế có đầy đủ các dấu hiệu hình thức của một loại tội phạm nhưng không phải là tội phạm, trong đó có phòng vệ chính đáng. Về mặt khách quan, phòng vệ chính đáng đã có hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ một cách cố ý, nhưng vẫn được Nhà nước khuyến khích thực hiện. 1) Căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp phòng vệ chính đáng là do thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự - phòng vệ chính đáng không bị pháp luật hình sự quy định là tội phạm, tức là có thiệt hại (hoặc khả năng gây thiệt hại) 26
  • 18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng do tính hợp lý và sự cần thiết của hành vi phòng vệ so với hành vi xâm hại nên nhà làm luật không coi hành vi phòng vệ (mặc dù có những dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự cấm) là tội phạm. 2) Điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp phòng vệ chính đáng: nghiên cứu khái niệm phòng vệ chính đáng được quy định tại khoản 1 Điều 15 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, chúng ta thấy rằng, để được xác định là phòng vệ chính đáng, hành vi phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện nhất định, nếu thiếu một trong những điều kiện thì hành vi không thể được coi là phòng vệ chính đáng. Những điều kiện đó bao gồm: a) Hành vi phòng vệ được thực hiện khi đang có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Hành vi xâm hại không nhất thiết là chỉ xâm hại đến lợi ích của người phòng vệ, mà nó có thể xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân khác. Những lợi ích bị xâm hại này thường là những lợi ích về nhân thân (tính mạng, sức khoẻ, tự do, nhân phẩm) hoặc quyền sở hữu…Với quy định này pháp luật cho phép người phòng vệ không chỉ bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân mà còn có thể bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào khác. Đa phần, hành vi xâm hại trong phòng vệ chính đáng được thực hiện qua những hành động của kẻ tấn công (như hành động cướp, hành động hiếp dâm, hành động trộm cắp…) nhưng cá biệt có thể qua không hành động (như hành vi không cấp cứu người bị tai nạn của bác sĩ mà không có lý do chính đáng). Chế định phòng vệ chính đáng cho phép và khuyến khích công dân, khi có điều kiện, tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, nhưng không có nghĩa là cho công dân phản ứng, hành động tự do khi chống trả các hành vi xâm hại các lợi ích đó [6, tr.182]. 27
  • 19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 b) Hành vi xâm hại trái pháp luật, nguy hiểm đáng kể cho xã hội: theo quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự thì chỉ phát sinh quyền phòng vệ khi có hành vi xâm phạm lợi ích Nhà nước, xâm phạm các quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bất kỳ tổ chức, công dân nào. Hay nói cách khác, phòng vệ chính đáng là hành vi chống lại hành vi bất hợp pháp. Việc chống lại những hành vi hợp pháp như bắt giữ người phạm tội, thi hành công vụ của cán bộ, công chức Nhà nước…không thể được coi là phòng vệ chính đáng. Hành vi xâm hại trái pháp luật phải nguy hiểm đáng kể cho xã hội tức là hành vi xâm hại làm cơ sở phát sinh quyền phòng vệ phải thể hiện rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đang gây thiệt hại hoặc đang đe dọa tức khắc gây thiệt hại ở mức độ đáng kể cho quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành vi xâm hại này, có thể cấu thành tội phạm hoặc chưa cấu thành tội phạm nhưng đã có dấu hiệu khách quan của một tội phạm cụ thể. Thực tế, không phải lúc nào người chống trả cũng có thể nhận thức được hành vi tấn công đã cấu thành tội phạm hay chưa. Vì vậy, chỉ cần hành vi xâm hại có một số dấu hiệu khách quan biểu hiện đó là một hành vi phạm tội thì hành vi xâm hại coi như thỏa mãn. c) Hành vi xâm hại phải có tính hiện tại và hiện hữu.  Hành vi xâm hại phải có tính hiện tại, tức là hành vi đó đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc mà chưa kết thúc mới trở thành cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng. Như vậy, quyền phòng vệ chính đáng của công dân bắt đầu xuất hiện khi hành vi xâm hại bắt đầu và sẽ thực hiện, trực tiếp đe dọa các lợi ích được pháp luật bảo vệ và tồn tại cho đến khi hành vi xâm hại kết thúc, ví dụ: bọn cướp tấn công, đe dọa, thì cần phải phòng vệ ngay khi bọn cướp yêu cầu giao tài sản, nếu không giao sẽ bị giết, chứ không thể đợi đến khi bọn cướp thực hiện hành vi giết, thì lúc này hậu quả nguy hiểm đã xảy ra. Vì vậy, phải xem xét thời điểm bắt đầu và kết thúc hành vi xâm hại 28
  • 20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cho mỗi trường hợp phòng vệ cụ thể, cần phải xem đầy đủ, toàn diện các tình tiết, các sự kiện, hoàn cảnh xảy ra vụ án...Khi hành vi xâm hại chưa bắt đầu, chưa trực tiếp đe doạ các lợi ích hợp pháp và hành vi gây thiệt hại chưa thật sự xảy ra, không có cơ sở chứng tỏ hành vi gây thiệt hại sẽ xảy ra tức khắc mà đã thực hiện hành vi phòng vệ thì trường hợp này khoa học pháp lý hình sự gọi là “phòng vệ quá sớm”. Ngược lại, khi hành vi xâm hại đã kết thúc mới thực hiện hành vi phòng vệ thì trường hợp này khoa học pháp lý hình sự gọi là “phòng vệ quá muộn” [6, tr.186].  Hành vi xâm hại phải có tính hiện hữu, điều này đòi hỏi hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại có xảy ra trên thực tế, tức nó phải tồn tại khách quan chứ không phải tưởng tượng ra và hành vi chống trả là nhằm ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ lợi ích bị xâm hại. Hành phòng vệ được xem là hợp pháp khi hành vi tấn công là có thật. Nếu hành vi chống trả một hành vi tấn công không có thật, khoa học pháp lý hình sự gọi là “phòng vệ tưởng tượng”. Phòng vệ tưởng tượng phải chịu trách nhiệm hình sự [Xem: 6, tr.186]. d) Hành động chống trả phải nhằm vào chính người đang có hành vi tấn công gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi chống trả phải nhằm vào chính người tấn công – vào chính nguồn đang gây nguy hiểm cho xã hội chứ không cho phép nhằm vào người thứ ba, vì có như vậy mới đạt được mục đích của phòng vệ chính đáng là ngăn chặn một cách tích cực sự tấn công, hạn chế thiệt hại do sự tấn công đó đe doạ gây ra. Sự chống trả này của người phòng vệ có thể trực tiếp nhằm vào người tấn công (tính mạng, sức khoẻ, tự do) hoặc chỉ nhằm vào công cụ phương tiện phạm tội mà người đó đang sử dụng. Nhưng bằng hình thức nào chăng nữa thì sự chống trả đều có thể gây thiệt hại nhất định cho kẻ tấn công. Trường hợp hành vi phòng vệ không gây thiệt hại 29
  • 21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cho bản thân người có hành vi xâm hại mà lại gây thiệt hại cho người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng hoặc trách nhiệm pháp lý khác. Trường hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm mà lại gây thiệt hại khác, mà việc gây thiệt hại đó của người phòng vệ không liên quan đến hành vi xâm phạm thì cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Mục đích của phòng vệ chính đáng là bảo vệ các lợi ích hợp pháp khỏi sự xâm hại của hành vi tấn công bằng cách gây thiệt hại cho chính bản thân người có hành vi xâm hại. Nhưng không phải mọi trường hợp chống trả gây thiệt hại đều được pháp luật thừa nhận là phòng vệ chính đáng. Bộ luật hình sự nước ta chỉ thừa nhận là phòng vệ chính đáng khi hành vi chống trả và gây thiệt hại cho người tấn công là cần thiết. Người có hành vi chống trả không cần thiết hoặc vượt quá mức cần thiết phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Sự chống trả của người phòng vệ phải là sự chống trả cần thiết. Điều này có nghĩa, biện pháp chống trả của người phòng vệ (phương tiện, phương pháp, thiệt hại) đặt trong hoàn cảnh cụ thể phải là biện pháp cần thiết để có thể ngăn chặn được sự tấn công, hạn chế những thiệt hại mà người tấn công có thể gây ra. Tuy nhiên, hiện nay luật chưa quy định cũng như chưa có văn bản hướng dẫn như thế nào là “cần thiết”. Thực tiễn áp dụng, việc đánh giá sự chống trả là cần thiết hay không không phải là sự so sánh đơn thuần giữa thiệt hại đã gây ra cho người tấn công và thiệt hại người tấn công đe doạ gây ra. Thông thường trong phòng vệ chính đáng thiệt hại do người phòng vệ gây ra nhỏ hơn thiệt hại do người tấn công đe dọa gây ra. Vì phòng vệ chính đáng không phải là biện pháp trả thù mà là biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp, nhưng cũng có một số trường hợp người phòng vệ gây ra cho người tấn công 30
  • 22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 một thiệt hại lớn hơn. Nhưng điều này không có nghĩa là cho phép người phòng vệ được gây thiệt hại bất kỳ theo ý muốn của mình. Tính cần thiết trong phòng vệ chính đáng cũng không chỉ là sự so sánh giữa các phương pháp, phương tiện mà người phòng vệ và người tấn công sử dụng, đòi hỏi như vậy là không thực tế và không phù hợp với mục đích của phòng vệ chính đáng. Để xác định sự chống trả có cần thiết hay không, trước hết phải căn cứ vào tính chất của các lợi ích bị xâm phạm, tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ:  Lợi ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu, thì hành vi chống trả càng phải mạnh mẽ bấy nhiêu.   Tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm càng nguy hiểm và nghiêm trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải quyết liệt bấy nhiêu.  Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ, thời gian, không gian xảy ra sự việc, công cụ phương tiện sử dụng để xâm hại hoặc chống trả...  Tóm lại, trong trường hợp phòng vệ chính đáng, người phòng vệ có thể có nhiều cách phòng vệ với mức độ khác nhau, có cách gây thiệt hại ít cho người tấn công, có cách gây thiệt hại nhiều cho người tấn công. Việc người phòng vệ lựa chọn cách nào là tuỳ thuộc vào khả năng đánh giá của họ, tuỳ thuộc vào tâm lý của họ lúc phòng vệ, miễn sao cách chống trả đó không phải là “quá mức cần thiết”. Tức là, hành vi phòng vệ cũng phải có mức độ vì ở mức cần thiết mới được coi là chính đáng, có ích cho xã hội. Mỗi con người đều có quyền bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội, do đó họ có quyền phòng vệ để chống trả lại các mối nguy hiểm thực sự đang đe dọa đến cuộc sống bình yên của họ và những người xung quanh. Vì thế, những hành vi phòng vệ một cách chính đáng, hợp lý nếu gây thiệt hại cũng 31
  • 23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 không bị coi là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định phòng vệ chính đáng là một trong những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự là rất phù hợp với thực tiễn và mang tính nhân đạo cao. 1.2.1.4. Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do tình thế cấp thiết. 1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự cho hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là do thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự - thiếu tính trái pháp luật của hành vi (tình thế cấp thiết không bị pháp luật hình sự quy định là tội phạm). Tức là có sự nguy hiểm (hoặc khả năng nguy hiểm) xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng do tính hợp lý và tương ứng của thiệt hại gây nên trong tình thế cấp thiết nhỏ hơn so với thiệt hại cần ngăn ngừa, nên nhà làm luật không coi việc gây thiệt hại do tình thế cấp thiết (mặc dù có những dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự cấm) là tội phạm [14, tr.555]. Hành động trong tình thế cấp thiết được coi là hành vi tích cực được khích lệ, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện để bảo vệ có hiệu quả các lợi ích hợp pháp. 2) Điều kiện loại trừ trách nhiệm hình sự cho hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết: để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu trách nhiệm hình sự cần phải thỏa mãn những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó là: a) Sự nguy hiểm cần ngăn ngừa trong tình thế cấp thiết nhất định phải đang đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức hoặc lợi ích chính đáng của công dân. Điều kiện này là cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết là có sự nguy hiểm đe dọa các lợi ích hợp pháp. Lợi ích được pháp luật bảo vệ phải là lợi ích chính đáng. Nguồn gốc gây ra sự nguy hiểm đối với lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác 32
  • 24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhau như: hành vi nguy hiểm của con người (cố ý hoặc vô ý; do người có hoặc không có năng lực hành vi thực hiện), tác động của thiên nhiên (lũ lụt, cháy, sét đánh…), thiết bị máy móc bị hư hỏng, súc vật tấn công… Ngoài ra, sự nguy hiểm đang đe dọa gây thiệt hại phải là sự nguy hiểm đe dọa ngay tức khắc thì mới được coi là trong trường hợp tình thế cấp thiết. Nếu sự đe dọa đó còn chưa xảy ra hoặc đã kết thúc mà đã hành động để gây thiệt hại thì không thể coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết [Xem: 13, tr.556]. b) Sự nguy hiểm đang đe dọa phải có tính hiện tại và thực tế. Sự nguy hiểm tuy mới đe dọa ngay tức khắc đến các lợi ích cần bảo vệ, nhưng phải là sự nguy hiểm thực tế và hiện hữu. Nghĩa là, nguồn nguy hiểm đang tồn tại khách quan và có khả năng gây ra thiệt hại trên thực tế, nếu không có hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết thì hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Tính hiện tại của nguồn nguy hiển được đánh giá tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, có thể là nó sẽ gây ra thiệt hại ngay tức khắc hoặc sẽ gây thiệt hại trong một thời gian nhất định nào đó [Xem: 6, tr.192]. Điều kiện thứ hai này cho thấy mối quan hệ nhân quả giữa sự nguy hiểm với các lợi ích cần bảo vệ, nhưng phải là sự nguy hiểm thực tế, phải có thật, tồn tại khách quan, tạo sự đe dọa trực tiếp gây nên thiệt hại hoặc đã bắt đầu gây nên thiệt hại, không phải do tưởng tượng ra [Xem: 14, tr.556]. Có thể nói nguồn nguy hiểm đang xảy ra có quan hệ nhân quả với những thiệt hại cho lợi ích hợp pháp có nguy cơ thực tế sẽ xảy xa. Nếu sự nguy hiểm đó không chứa đựng khả năng thực tế gây ra hậu quả cho xã hội mà chỉ do phán đoán chủ quan của người gây ra thiệt hại thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết. c) Việc gây thiệt hại là biện pháp duy nhất và cuối cùng để khắc phục sự nguy hiểm vì trong tình thế đó không còn cách nào khác. Trong tình thế cấp thiết việc gây thiệt hại cho một lợi ích hợp pháp nào đó để bảo vệ một lợi 33
  • 25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 ích hợp pháp khác phải là biện pháp duy nhất và cuối cùng “không còn cách nào khác”. Tức là trong tình huống cụ thể đó không còn biện pháp nào hiệu quả hơn, ít gây thiệt hại hơn và có khả năng ngăn chặn, khắc phục, hạn chế thiệt hại do sự nguy hiểm thực tế đang đe dọa gây ra cho xã hội. Nếu ngoài hành vi được thực hiện mà đang còn tồn tại một khả năng hành động khác có thể không gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại mà hành vi được thực hiện gây nên, thì trong trường hợp đó không được coi là tình thế cấp thiết. Điều này đòi hỏi chủ thể rơi vào trường hợp này phải có sự đánh giá thật chính xác, nhanh chóng khả năng gây thiệt hại tức khắc của nguồn nguy hiểm và phải chọn phương án phù hợp [Xem: 6, tr.189-190]. Việc gây thiệt hại để tránh một thiệt hại lớn hơn phải cân nhắc kỹ lưỡng xem đó có phải là phương án cuối cùng và duy nhất chưa. Tuy nhiên, trong thực tế, khi gặp phải trường hợp nguồn nguy hiểm đang đe dọa gây ra một thiệt hại cụ thể, không phải ai cũng có thể sáng suốt đánh giá và cân nhắc để lựa chọn một phương án tối ưu. Thực tế này đòi hỏi khi đánh giá một hành vi gây thiệt hại có thuộc trường hợp trong tình thế cấp thiết hay không và phương pháp mà người có hành vi sử dụng có phải là phương pháp duy nhất và cuối cùng hay không, phải căn cứ vào điều kiện khách quan và khả năng chủ quan của người thực hiện hành vi. Chẳng hạn: một dãy nhà tập thể bắt đầu cháy, cạnh đó có nguồn nước nhưng chỉ có một người ở đó và với khả năng của họ thì họ không thể chữa được bằng nước mà biện pháp duy nhất đối với họ đó là dỡ bỏ một đoạn mái nhà để ngăn chặn đám cháy lan rộng. Trong trường hợp này, về mặt khách quan có nhiều biện pháp để dập tắt đám cháy, nhưng về chủ quan của người chữa cháy với khả năng của họ, thì họ không còn cách nào khác là phải dỡ bỏ một đoạn nhà khác để ngăn ngừa đám cháy. 34
  • 26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 d) Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Mục đích đặt ra đối với chế định tình thế cấp thiết là tạo cơ sở pháp lý để động viên, khuyến khích công dân mạnh dạn hành động trong tình thế cấp thiết biết hy sinh một lợi ích nhỏ để bảo vệ có hiệu quả một lợi ích lớn hơn cho xã hội. Chính vì vậy, điều kiện bắt buộc trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn thiệt hại cần phòng ngừa. Trong tình thế cấp thiết, thiệt hại không bị giới hạn như trong trường hợp phòng vệ chính đáng. Trong tình thế cấp thiết, thiệt hại gây ra có thể đối với sở hữu về tài sản, tính mạng, sức khoẻ hoặc các thiệt hại khác. Tuy nhiên, thông thường việc gây ra thiệt hại là đối với sở hữu tài sản. Việc gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết cũng không bị giới hạn đối với người đang có hành vi xâm hại mà có thể gây thiệt hại cho xã hội hoặc một người nào đó không có liên quan. Thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn thiệt hại muốn tránh (xét về cả tính chất và mức độ). Việc so sánh hai lợi ích này không phải lúc nào cũng dễ dàng mà đòi hỏi chúng ta khi đánh giá so sánh giữa hai loại thiệt hại cũng cần phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, bởi vì thiệt hại gây ra là có thật còn thiệt hại muốn tránh lại là trừu tượng, vô hình không thể cân, đo, đong, điếm được, nó chỉ là cái có thể xảy ra hoặc cùng lắm là tất yếu sẽ xảy ra nếu không được ngăn chặn. Pháp luật không quy định sẵn các tình huống cụ thể trong tình thế cấp thiết, nên khi nào có sự nguy hiểm đe dọa đến các lợi ích cần bảo vệ và một người đứng trước tình thế đó với trách nhiệm của mình lại có hai nghĩa vụ cùng phải thực hiện một lúc mà chỉ thực hiện được một nghĩa vụ, đòi hỏi phải lựa chọn biện pháp nào đó sao cho phù hợp với lợi ích xã hội để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn buộc phải gây thiệt hại nhỏ hơn, thì mới được pháp luật thừa nhận là ở trong tình thế cấp thiết [Xem: 6, tr.193]. 35
  • 27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 1.2.1.5. Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể. 1) Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của nó không đáng kể là do thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự, tức hành vi ấy không bị pháp luật hình sự quy định là tội phạm. Hành vi đó, có thể có thiệt hại (hoặc có khả năng gây thiệt hại) xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng do tính chất và mức độ nhỏ nhặt của thiệt hại đó, nên nhà làm luật không coi hành vi ấy (mặc dù có những dấu hiệu của hành vi nào đó bị luật hình sự cấm) là tội phạm [14, tr.541]. 2) Điều kiện để tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể được loại trừ trách nhiệm hình sự, chúng ta cần xem xét một cách tổng thể các yếu tố có liên quan đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Có như vậy, mới có thể đánh giá được hết hành vi nào có tính chất nguy hiểm cho xã hội là đáng kể và hành vi nào là không đáng kể cho xã hội. Các yếu tố đó bao gồm: a) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội càng quan trọng bao nhiêu thì tính chất của hành vi đó càng nguy hiểm bấy nhiêu. b) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào tính chất và mức độ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội bị xâm hại. Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại thực tế hay khả năng gây ra thiệt hại, có thể là thiệt hại vật chất (xác định bởi số lượng, trọng lượng, phần trăm…) hoặc phi vật chất (uy tín, danh dự, lợi ích tinh thần…). Thiệt hại hoặc khả năng gây thiệt hại càng cao bao nhiêu thì tính nguy hiểm cho xã hội càng cao bấy nhiêu. c) Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi còn phụ thuộc vào tính chất của hành vi khách quan. Thông qua diễn biến của hành vi phạm tội, 36
  • 28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 chúng ta có thể biết được trạng thái tâm lý của kẻ phạm tội khi thực hiện hành vi. Phương thức thực hiện hành vi càng nguy hiểm, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, công cụ, phương tiện càng hiện đại thì tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm càng cao. d) Tính chất nguy hiểm cho xã hội còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ lỗi. Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Một hành vi được thực hiện với lỗi cố ý bao giờ cũng nguy hiểm hơn nếu nó xâm phạm đến cùng một khách thể và gây thiệt hại vật chất như nhau. e) Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào động cơ, mục đích của người có hành vi phạm tội. Động cơ, mục đích của kẻ phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội cũng là yếu tố ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Động cơ, mục đích càng đê hèn, xấu xa thì tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm càng cao. Ngược lại, hành vi ấy có thể được xem là tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể và sẽ được loại trừ trách nhiệm hình sự. f) Tính nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chính trị xã hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra. g) Tính chất nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào nhân thân người có hành vi phạm tội. Hành vi của con người luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cùng một hành vi nhưng ở người này là một biểu hiện nhất thời, đột xuất nhưng ở người kia lại là kết quả của một quá trình nhận thức và tính toán sâu sắc. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi cũng như quyết tâm thực hiện hành vi. Nhân thân càng xấu tính nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện càng cao. Như vậy, pháp luật hình sự quy định những hành vi tuy có dấu hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng biện pháp khác nhằm phân biệt hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và hành vi nguy hiểm nào không phải là tội 37
  • 29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào tính chất quan hệ xã hội bị xâm hại, mức độ gây thiệt hại, động cơ, mục đích, công cụ…phạm tội để xác định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi từ đó xác định hành vi đó có phải là tội phạm hay không. Tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự, đây là một dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Người chịu trách nhiệm hình sự phải bị tước bỏ hoặc hạn chế các quyền tự do, các quyền về thể chất, về vật chất hoặc tinh thần và thậm chí tước bỏ cả tính mạng của chủ thể đó (nếu bị áp dụng hình phạt tử hình). Do đó, việc pháp luật quy định những hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể thì được loại trừ trách nhiệm hình sự thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, hạn chế tội phạm và bảo đảm các quyền cơ bản nêu trên của con người (nếu bị coi là tội phạm thì các quyền cơ bản đó sẽ bị hạn chế hoặc bị tước bỏ) 1.2.1.6. Vấn đề bảo vệ các quyền con người trong trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với hành vi được thực hiện do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. 1) Căn cứ để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự nhưng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là sự thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm – người thực hiện hành vi đó chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự, tức là có thiệt hại xảy ra trong thực tế khách quan, nhưng khi gây thiệt hại đó chủ thể chưa đạt đến độ tuổi để có khả năng nhận thức được hoặc khả năng điều khiển được hành vi của mình. 2) Những điều kiện để loại trừ trách nhiệm hình sự của hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự nhưng do sự chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là [14, tr.529]: 38
  • 30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 a) Khi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự, chủ thể của hành vi phải là người mà theo các quy định của PLHS không phải chịu trách nhiệm hình sự vì chưa đủ tuổi. b) Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đó phải được quy định một cách cụ thể và rõ ràng trong PLHS (chứ không thể là trong các ngành luật phi hình sự khác). c) Chính vì chưa đạt đến độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đó theo luật định nên chủ thể không có khả năng nhận thức được hoặc khả năng điều khiển được hành vi của mình khi gây ra thiệt hại. Pháp luật hình sự Việt Nam có quy định trên nhằm bảo vệ quyền trẻ em, người chưa thành niên phạm tội, những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất cũng như tinh thần do đó hiểu biết về cuộc sống và pháp luật còn hạn chế, cần được giáo dục, cải tạo hơn là áp dụng hình phạt. 1.2.2 Bảo vệ quyền con người bằng cơ chế giám sát, khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự. Bên cạnh việc ghi nhận trong pháp luật hình sự hiện hành các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, vấn đề bảo vệ quyền con người bằng chế định này còn được nhà nước đảm bảo bằng cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của Quốc hội, các tổ chức chính trị - xã hội, giám sát của nhân dân… đối với các hoạt động thực thi pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đồng thời có biện pháp xử lý kịp thời khi phát hiện có vi phạm các quy định của pháp luật về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Cùng với cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm, nhà nước ta còn đảm bảo quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự thông 39
  • 31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 qua quyền khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu phát hiện ra sai phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là biện pháp quan trọng tạo điều kiện cho công dân phát hiện các vi phạm quyền tự do dân chủ của mình được pháp luật quy định. Bằng cách giải quyết khiếu nại đối với các hành vi, quyết định trái pháp luật xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; tố cáo đối với hành vi vi phạm quyền công dân liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, nhà nước không chỉ xử lý cơ quan, cá nhân vi phạm mà quan trọng hơn nữa là chấm dứt hành vi vi phạm và phục hồi quyền hoặc lợi ích hợp pháp của công dân bị vi phạm. Chương XXXV của BLTTHS năm 2003 lần đầu tiên quy định về quyền khiếu nại, tố cáo cũng như trách nhiệm của người có thẩm quyền thay mặt nhà nước trong việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, nhằm khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại hoặc bồi thường thiệt hại cho họ. BLTTHS quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân không chỉ có quyền khiếu nại quyết định tố tụng mà còn có quyền khiếu nại cả hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi tố tụng đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hơp pháp của mình (Điều 325); người khiếu nại có quyền được khôi phục quyền, lợi ích bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại do quyết định, hành vi trái pháp luật gây ra (Điều 326); người bị khiếu nại có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trái pháp luật của mình gây ra cho người khiếu nại (Điều 327). Đối với những hành vi vi phạm của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (ví dụ: trường hợp sự kiện bất ngờ lại xác định là có lỗi của người thực hiện hành vi; hành vi do người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện lại xác định người thực hiện hành vi 40
  • 32. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 có năng lực trách nhiệm hình sự; trường hợp phòng vệ chính đáng cơ quan tiến hành tố tụng lại xác định là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…) tùy từng mức độ vi phạm trong việc đánh giá hiện thực khách quan của vụ án mà người vi phạm có thể bị áp dụng các biện pháp kỷ luật hoặc bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của luật tố tụng hình sự. KẾT LUẬN CHƢƠNG I Khi nghiên cứu chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự thì việc xác định rõ bản chất pháp lý của chế định này là hết sức cần thiết. Xung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều tranh luận khác nhau dẫn đến các tên gọi khác nhau về chế định trên. Qua những lập luận, phân tích trong luận văn người viết đã đưa ra được các quan điểm chủ yếu của các nhà làm luật Việt Nam, cũng như các quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học luật pháp về bản chất pháp lý của chế định này để từ đó xác định được bản chất pháp lý chính xác của chế định trên. Bên cạnh đó, bằng việc phân tích vai trò của việc bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, luận văn đã chỉ rõ được các căn cứ cũng như điều kiện để các trường hợp: sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tính trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, tình thế cấp thiết, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể và hành vi được thực hiện do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được loại trừ trách nhiệm hình sự. Phân tích làm rõ được các quyền con người được bảo vệ bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp trên. Đồng thời làm rõ được cơ chế bảo vệ các quyền con người bằng chế định các trường hợp hợp loại trừ trách nhiệm hình sự thông qua việc ghi nhận chế định trong trong pháp luật hình sự hiện hành cũng như quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, bồi thường oan sai và quyền khiếu nại, tố 41
  • 33. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Như vậy, Chương I của luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận xung quanh chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự và vai trò bảo vệ quyền con người bằng chế định trên từ đó thấy được ý nghĩa của việc quy định chế định này trong BLHS. Tuy nhiên, để thấy rõ hơn được vai trò bảo vệ quyền con người bằng chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, chúng ta cần phân tích thực trạng các quy phạm của chế định đó, nêu ra được những ưu điểm cần phải phát huy và những khuyết điểm, hạn chế cần phải sửa đổi để từng bước hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm tăng cường vai trò bảo vệ các quyền con người.