5. 3
BNTT-Piano
Giáo trình dạy piano Methode Rose là một giáo trình dạy học đàn piano nổi tiếng của
Pháp do Ernes Van de Velde biên soạn. Đây là quyển sách dành cho người mới bắt đầu.
Giáo trình chủ yếu được sử dụng để giảng dạy trong năm thứ nhất học đàn piano. Giáo
trình đã được biên dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha,
tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Nhật và đặc biệt đã được in ra chữ nổi Brai dành cho người khiếm
thị. Giáo trình đã được tái bản nhiều lần và được rất nhiều dịch giả dịch sang tiếng Việt.
Có rất nhiều giáo trình trên thị trường, nhưng phổ biến nhất hiện nay vẫn là Methode
Rose, rất nhiều cơ sở dạy piano sử dụng bộ giáo trình này để giảng dạy. Hiệu quả khi theo
học giáo trình cho người mới bắt đầu học piano là rất rõ ràng và đã được kiểm chứng.
Methode Rose đã được chứng minh bởi sự phổ biến của nó. Các bạn cần tin tưởng và bám
sát theo giáo trình mà luyện tập. Giáo trình sẽ giới thiệu đến các bạn những bài tập rất
đơn giản, cung cấp kiến thức nền vững chắc để các bạn có thể phát huy khả năng piano
của bản thân.
Phương pháp và chương trình giảng dạy của Methode Rose được cấu trúc theo nguyên
tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, theo lối móc xích: Người học cần nắm vững
kiến thức của bài trước rồi mới hiểu và sang bài tiếp theo được. Thông qua giáo trình,
người học sẽ được học kỹ năng nghe, nhận biết, thuộc lòng các ký tự âm nhạc, cao độ, tiết
tấu… kỹ thuật chuyển ngón, biểu diễn độc tấu và hòa tấu nhạc cụ. Bộ giáo trình không
tuân theo một cấp độ nhất định nào nhưng đưa ra những kiến thức, bài tập theo một trình
tự hợp lý.
Với những hướng dẫn chi tiết, cụ thể và rất dễ hiểu giúp người học có được những kiến
thức cơ bản đầu tiên trong quá trình học đàn piano: Bài học về khóa Sol, các bài tập với
năm ngón, bài học về nhịp, bài học về khóa Fa... Các bài học và bài tập thực hành được sắp
xếp theo mức độ khó tăng dần từ trình độ 1 đến trình độ 6:
- Trình độ 1: Hướng dẫn người học về tư thế ngồi đàn, bài tập 5 ngón tay, quãng, nhịp,
khóa Sol, khóa Fa, các dạng trường độ cơ bản và dấu chấm dôi.
- Trình độ 2: Các bài tập sử dụng đồng thời hai khóa, dấu luyến và những bản nhạc
nhỏ.
- Trình độ 3: Chương trình học lúc nà bắt đầu khó hơn với những nốt có quãng xa
hơn, bắt đầu làm quen với những ký hiệu thăng, dấu lặng...
- Trình độ 4: Các bài học dành riêng về dấu móc đơn và những loại nhịp mới, tiết tấu
khác nhau và các nốt ngân dài, ký hiệu giáng…
- Trình độ 5: Các dạng bài tập về kỹ thuật giãn ngón, rút ngón, chuyển ngón, đàn hợp
âm (gồm nhiều nốt).
- Trình độ 6: Bao gồm tất cả các dạng đã học ở năm trình độ trên nhưng được triển
khai thêm, kết hợp với những ký hiệu thay đổi sắc thái âm thanh (mạnh – nhẹ) khác nhau
và những trích đoạn trong một số tác phẩm nổi tiếng.
Trong Methode Rose, ngoài việc đưa ra những bài tập về kỹ thuật, về những tiết tấu
điển hình cần luyện tập và xử lý thuần thục còn có những tiểu phẩm nước ngoài giúp cho
người học thêm hào hứng học tập. Nhìn chung Methode Rose đã nghiên cứu và xây dựng
được một lộ trình kiến thức hợp lý và khoa học, giúp người học có được một kỹ năng chơi
đàn tương đối hoàn thiện sau khi đã học xong quyển giáo trình.
Bất kỳ quyển sách nào cũng có không nhiều thì ít những mặt hạn chế, Methode Rose
cũng vậy. Mặc dù được sử dụng rộng rãi nhưng nhiều giảng viên và học sinh đã nhận ra
một vài điểm thiếu sót trong quá trình giảng dạy và học đàn piano. Methode Rose dẫn
dắt người học bước ngay vào quá trình tập đàn và không cung cấp nhiều về mặt kiến thức
nhạc lý, chính vì thế chúng ta cần có một giáo trình nhạc lý căn bản để học song song với
Methode Rose.
Tuy nhiên, Methode Rose đã đưa ra được một hệ thống kỹ thuật tương đối hoàn chỉnh.
Các bài đầu có quy định số ngón giống nhau từ Đô đến Sol giúp cho người học có được cảm
giác ngón tay, nhanh làm quen được với phím đàn. Bắt đầu từ trình độ 3 các quy định số
ngón mới bắt đầu giãn ra, mở rộng hơn để người học từng bước làm quen “đánh đến đâu
chắc đến đấy” về ngón tay, học sinh sẽ không bị quá căng thẳng vì kiến thức được đưa vào
dần dần mà không phải mỗi bài một kỹ thuật mới khác nhau.
Ngay từ bài đầu tiên, học sinh đã được làm quen với vị trí các nốt cao (các nốt ở quãng
8 thứ 2), giúp học sinh đẩy nhanh được tiến độ học tập mà không phải mất thời gian để
làm quen lại với những vị trí nốt cao (quãng 8 thứ 2) như một số giáo trình cơ bản khác.
Methode Rose rất có tính khoa học ở chỗ mỗi trình độ, mỗi phần đều có sự liên kết chặt chẽ
với nhau (phần sau lúc nào cũng bao gồm cả những kiến thức của các phần trước). Điều
này đã tạo nên tính thống nhất cao và khoa học của giáo trình. Lượng kiến thức phân bố
đều, không quá nhiều, không quá ít khi đưa kiến thức và kỹ thuật mới vào. Hơn nữa các
bài được lựa chọn trong giáo trình đều là những bài có giai điệu hay, dễ thuộc, bám sát
được những nội dung cần học, không để bị loãng, hổng kiến thức cũ và mới.
Với lượng kiến thức phân bổ khoa học của Methode Rose, chúng ta sẽ được học theo
một lộ trình hợp lý, lượng kiến thức đầy đủ. Nếu có thêm sự dẫn dắt của giáo viên, bám
sát theo giáo trình, và chăm chỉ luyện tập, các bạn sẽ sớm nâng cao những kỹ năng cơ bản
khi chơi đàn piano.
BNTT-Piano
Đà Lạt, tháng 8/2020
Lời giới thiệu
6. 4 BNTT-Piano
Chiếc đàn épinette do Antonnius Iréna
đóng năm 1564 và đã được vua Henri III
ban tặng cho Beaujoyeulx.
ĐÀN ÉPINETTE
Đàn épinette được cấu tạo
bởi các dây kim loại căng trên
một bàn hòa âm bằng gỗ, mỗi dây
tương ứng với một nốt. Khi chơi
đàn người ta sử dụng một chiếc
ngòi bút gảy lên những sợi dây để
tạo ra âm thanh.
ĐÀN CLAVECIN
Đàn clavecin có hình dáng giống như chiếc đàn grand piano ngày nay. Đàn clavecin được trang trí nhiều
hoa văn họa tiết giàu tính hội họa và có bàn phím gồm 5 quãng 8. Một số đàn clavecin có 2 bàn phím giống
như hình trên. Cứ hai hoặc ba dây kim loại thì tương ứng với một phím và âm thanh được tạo ra khi dùng các
lông quạ hay lưỡi da thuộc gảy vào các dây này.
7. 5
BNTT-Piano
ĐÀN PIANO-FORTE
Piano-forte được ghép từ hai
từ tiếng Ý: piano có nghĩa là êm
dịu, yếu; forte có nghĩa là vang,
mạnh. Âm thanh của đàn piano-
forte được tạo ra bởi những chiếc
búa gõ vào dây đàn. Đó chính là
điểm khác biệt căn bản giữa đàn
piano-forte so với đàn clavecin.
Đàn piano ngày nay, sau nhiều
cải tiến, vẫn dựa trên cơ chế hoạt
động này.
Chiếc đàn piano-forte của M. J. Chénier và sau đó
thuộc về J. Wolber. Trên chiếc đàn này Rouget de
L’Isle đã sáng tác bài “La Marseillaise”.
Đàn Piano và những bậc thầy
Trước đây Methode Rose đã có những tóm lược về lịch sử
âm nhạc, tuy nhiên bảng tóm tắt đó đã không còn phù hợp với
những đòi hỏi của văn hóa hiện nay.
Càng ngày, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của
âm nhạc. Sự phát triển hài hòa của nó từ thế kỷ này sang thế kỷ
khác quả là một điều kỳ diệu.
Trong khuôn khổ cuốn sách này, chúng tôi muốn giới thiệu
đến những bạn trẻ học piano một vài nét về những nhà soạn
nhạc nổi tiếng và những bậc kỳ tài của nhạc cụ này.
Qua những hình ảnh ở trang bên, chúng ta có thể thấy rằng
chiếc đàn piano ngày nay là thành quả của một quá trình nghiên
cứu tìm tòi của nhiều thế hệ nhạc sĩ và nghệ nhân tài hoa.
Trong số những tiền nhân của dương cầm, chúng tôi đặc
biệt nhắc tới cây đàn CLAVECIN bởi rất nhiều các bậc thầy vĩ đại
đã sáng tác trên cây đàn này.
Trường phái đàn Clavecin của Pháp thế kỷ XVII – XVIII nổi
bật với những tên tuổi như:
Chambonières (1602-1672) với các tác phẩm tự sự và vũ
khúc; d’Andrieu, Clerambault và Francois Couperin
vĩ đại (1688-1733) đã cho ra đời bốn quyển sách bao gồm các
8. 6 BNTT-Piano
bản nhạc dành cho đàn Clavecin với tên gọi Ordres, những tác
phẩm này toát lên phong cách lịch lãm, hàm súc và mỹ lệ đặc
trưng cho tâm hồn người Pháp. Rameau (1683-1764) nổi tiếng
với các vở nhạc kịch, ông là một nhà cách tân về hòa âm, cũng
như một bậc thầy đàn Clavecin với các tác phẩm khuôn mẫu
cho phong cách cổ điển Pháp.
Những tác giả người Ý: Frescobaldi (1583-1643),
Pasquini (1637-1710) – một nhạc sĩ tài năng với tác phẩm Suites
de Danses (liên khúc nhạc khiêu vũ); Domenico Scarlatti
(1685-1757) cùng các tác phẩm hòa nhạc Esercizi rất nổi bật với
phong cách lịch lãm mang tới cho người nghe những cảm xúc
thăng hoa.
Trong số các nhạc sĩ người Đức, trước kết phải kể đến Jean
Sébastien Bach (1685-1750) – tên tuổi nổi bật trong các bậc
thầy của âm nhạc cổ điển và cho tới nay thì những tác phẩm
của ông vẫn luôn giữ vững ngôi vị số một trong kho tàng các
tác phẩm dành cho thể loại Clavecin nói riêng và đàn phím nói
chung. Bach vốn là người có phong cách giản dị. Trong quãng
thời gian làm giáo viên, nhạc công đàn organ, chỉ huy dàn đồng
ca nhà thờ, ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm cho đàn đại
phong cầm, cho đồng ca và hòa tấu. Chúng tôi chỉ xin kể ra đây
các tác phẩm tiêu biểu nhất của ông dành cho đàn Clavecin:
Les Petit Manuel de Clavecin pour Anna Magdalena Bach (sách
dạy đàn clavecin dành cho Anna Magdalena Bach - vợ ông), Suite
Françaises (Liên khúc Pháp), Inventions à 2 et 3 voix (những bản
Invention cho 2 và 3 bè), Le Clavecin bien tempéré (đàn Clavecin
rất điều hòa) (1719).
Mộttrongsố20ngườiconcủaông, Philippe Emmanuel
Bach rất nổi tiếng bởi chính ông là người sáng tạo ra thể loại
Sonate.
Hændel (1685-1759) sinh ra ở Đức nhưng sống, làm việc
và nổi tiếng ở Anh. Ông là tác giả của Suites pour Clavecin (liên
khúc cho đàn clavecin).
Chúng ta cũng không thể không kể đến bậc thiên tài của
mọi thời đại: Mozart (1756-1791). Sinh ra tại Salzbourg thuộc
vùng Autriche nước Áo, Mozart bắt đầu soạn nhạc từ năm 4
tuổi, cậu sáng tác những bản nhạc Menuet (vũ khúc cung đình
gốc Pháp) rất đáng yêu cho đàn Clavecin. Từ 6 tới 10 tuổi, thần
đồng Mozart theo cha đi biểu diễn khắp châu Âu, mở những
buổi hòa nhạc lớn thu hút sự chú ý, thán phục và ngưỡng mộ
của công chúng. Tới đâu ông cũng được hoan nghênh, săn đón
và chiều chuộng. Có giai thoại kể rằng, năm 1762, tại cung điện
hoàng gia ở thủ đô Vienne, cậu bé thần đồng Mozart, lúc đó 6
tuổi, bỗng trượt chân ngã trên sàn trơn, một nàng quận chúa
nhỏ vội đến đỡ cậu dậy và an ủi. Mozart lấy làm cảm kích và
nói: “Cô tốt quá, tôi muốn cưới cô làm vợ!”... Nàng quận chúa
nhỏ đó sau này đã trở thành nữ hoàng Pháp Marie Antoinette
bất hạnh!
Mozart đã viết những tuyệt tác bất hủ: Les Noces de Figaro
(đám cưới Figaro), La Flûte Enchantée (cây sáo thần). Ông cũng
chính là tác giả của Pièces pour Clavecin (những bản nhạc dành
Cây đàn Clavecin của Mozart
9. 7
BNTT-Piano
cho đàn clavecin), những bản Sonate … Ông qua đời ở tuổi 35 và
được an táng cách sơ sài do gia cảnh nghèo khó.
Haydn (1732-1809) đã biên soạn trên 30 bản Sonate, 20 bản
Concerto dành cho piano… Duyên dáng, tinh tế và khác biệt, là
những nét nổi bật về phong cách trong các tác phẩm của ông.
Ông cũng chính là người thầy đã dạy hòa âm cho Beethoven.
Tiếp theo là ba bậc thầy có vị trí khiêm tốn hơn: Clementi
(1752-1832), Dussek (1791-1812) và Steibelt (1765-1823). Các
bạn có thể cảm nhận nét duyên ngầm đặc trung của thế kỷ
XVIII qua những bản Sonatine (sonate nhỏ) và những tác phẩm
dễ tập của họ.
Với Beethoven (1770-1827), có thể nói nhân loại đã chạm
đến đỉnh cao của âm nhạc. Nhà soạn nhạc thiên tài này là tác giả
của những bản giao hưởng luôn đem đến cho chúng ta những
cảm xúc sâu sắc. Ông dành một tình yêu đặc biệt cho cây đàn
piano và đã sáng tác rất nhiều tác phẩm ở thể loại Fantasia,
Variation, Bagatelle, Rondo, Prelude, 6 bản Sonatine và 32 bản
Sonate. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông phải kể đến là
Sonate Clair de Lune (sonate ánh trăng), Appasionata, Aurore.
Beethoven thường hay đi dạo một mình ở các miền quê,
nhờ đó các sáng tác của ông diễn tả được chất thơ sâu lắng của
thiên nhiên. Nhưng cuộc đời của ông rất bất hạnh bởi những
chật vật mưu sinh và sớm bị điếc. Có thể nói, Beethoven chính
là gạch nối, là bản lề giữa thời kỳ cổ điển và lãng mạn.
Trong số những nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn, chúng
ta có thể kể tới:
C. M. Weber (1786-1826), tác giả của những bản Sonate,
Polonaise và bản l’Invitation à la Valse (lời mời khiêu vũ).
Schubert (1797-1828) được biết đến nhiều nhất qua
những bản nhạc mang âm hưởng Đức, và bên cạnh đó là các
sáng tác dành riêng cho piano như tập Moment musical hay
Impromptus, mà chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được
những cảm xúc chân thật cùng nguồn cảm hứng tươi mới trong
âm nhạc của ông.
Mendelssohn (1809-1847), tác giả của những Romances
sans paroles (bài ca không lời).
Schumann (1810-1856) là một nhạc sĩ với lối sáng tác có xu
hướng cách tân rất táo bạo. Trong lĩnh vực sáng tác cho piano,
ông đã để lại cho chúng ta các tác phẩm như Papillons (bươm
bướm), Carnaval (ngày hội giả trang), Scènes d’Enfants (cảnh
tượng trẻ thơ), Aranesques (vũ điệu Ả rập), Novelettes (nhạc thể
loại tự do cho piano), Albums pour la jeunesse (tuyển tập cho
thanh niên), những bản Concerto, Sonate, những tác phẩm
dành cho hai người biểu diễn…
Cũng trong thời kỳ này, Stephen Heller, Czerny đã
viết rất nhiều khúc luyện tập dành cho piano mà các bạn sẽ có
dịp làm quen trong thời gian tới.
Franz Liszt (1811-1886) là một trong những tài năng xuất
chúng đương thời. Những tác phẩm của ông gây được tiếng vang
lớntrongdưluậnnhưngcũngvấpphảikhôngítnhữngkhókhăn.
Những tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến như những bản
Concerto, Sonate cung Si thứ, Etudes transcendantes (những
khúc luyện tập cao cấp), Années de Pèlerinages (những năm
tháng hàng hương), Méphisto Valse (điệu valse Mephitsto), Saint
François d’Assise prêchant aux oiseaux (thánh Phanxicô Assise
giảng đạo cho loài chim), Saint François de Paule marchant sur
les flots (thánh Phanxicô Phaolô bước trên những con sóng), 15
khúc Rhapsodies Hongroise (phóng tác Hungari)…
Tên tuổi của nghệ sĩ dương cầm lỗi lạc thời kỳ lãng mạn –
Frédéric Chopin (1810-1849) – chắc hẳn đã quen thuộc với
các bạn. Sau này, các bạn có thể sẽ cảm nhận được sức hút thực
10. 8 BNTT-Piano
sự của người nhạc sĩ được mệnh danh là “thi sĩ của cây đàn
piano” qua các tác phẩm của ông. Chopin lướt trên phím đàn
bằng tất cả những cảm nhận sâu lắng nhất về sự chuyển động
của âm thanh. Đặc biệt ông chỉ sáng tác các nhạc phẩm dành
cho đàn piano. Các tác phẩm ở thể loại Concerto, Polonaise,
Mazurka, Valse, Étude, Prélude, Nocturne, Marche Funèbre,
cho chúng ta thấy một tâm hồn mơ mộng dịu dàng mà đắm say.
Brahms (1833-1897) là một tài năng vĩ đại khác. Ông là
nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn cuối cùng của Đức. Ông còn
được biết đến là một nhà thơ với phong cách hoàn toàn khác với
Chopin. Các sáng tác của ông mang tính xây dựng nhiều hơn là
sự duyên dáng, quyến rũ. Tác phẩm của ông tiêu biểu ở các thể
loại như Variation, Rhapsodie, Danse Hongroise, Concerto…
Berlioz vĩ đại (1803-1869) là một trong những vinh quang
của nền nghệ thuật quốc gia Pháp, nhưng có một điều đặc biệt,
ông không phải là nghệ sĩ dương cầm và chẳng hề ưa những
nghệ sĩ dương cầm! Ngược lại, Saint Saens (1835-1922) đã
từng là thần đồng piano trước khi trở thành một nhà soạn nhạc
có kỹ năng điêu luyện nhưng lại hơi khô khan.
César Franck (1822-1890) – một nghệ sĩ dương cầm tiếng
tăm đã viết rất nhiều các tác phẩm với một nguồn cảm hứng dạt
dào như Prélude, Choral và Fugue, Aria, Final…
Emmanuel Chanbrier (1841-1894) soạn nên những
nhạc phẩm có tính chất khác biệt, hài hước và châm biếm như
Pièces Pittoresques (những khúc nhạc hay), Bourrée Fantasque
(những chuyện khôi hài).
Gabriel Faure (1845-1924) là một nhạc sĩ có phong cách
cổ điển tiêu biểu và chuẩn mực mang tâm hồn Pháp được thể
hiện qua những giai điệu trong trẻo, mượt mà tựa như thơ. Ông
đã để lại cho chúng ta các tác phẩm ở các thể loại như Prélude,
Impromptu, Barcarolle, Nocturne, Theme et variations…
TiếptheolàmộtnhàcáchtânnổitiếngngườiPháp: Claude
Debussy (1862-1918), người đã châm ngòi cho một cuộc cách
mạng âm nhạc thực sự. Ông đã tạo nên những hòa âm mới mẻ,
tinh tế, bay bổng, đầy màu sắc với những cung bậc nhẹ nhàng,
mượt mà. Đàn piano chiếm một vị trí ưu tiên trong các sáng tác
của ông: Arabesques (điệu vũ ba lê - 1888), Ballade (1890), Suite
Bergamasque (liên khúc Bergamasque), Clair de Lune (dưới ánh
trăng), Estamples, l’Isle Joyeuse (đảo vui), Images (hình ảnh),
Étude, Children’s Corner (1908), Prélude (1910)… Có thể thấy
rằng ảnh hưởng của Debussy là rất đáng kể.
Maurice Ravel (1875-1937) cũng sử dụng kỹ thuật hòa
âm giống Debussy nhưng các sáng tác của ông cô đọng hơn,
trong sáng hơn. Trong các sáng tác của Ravel dành cho piano,
đặc biệt phải kể tới Jeux d’Eau (trò chơi dưới nước - 1901), Miroirs
(những tấm gương), những bản Sonatine, Gaspard de la nuit
(Gaspard trong đêm), Valses nobles et sentimentales (những điệu
valse cao quý và trữ tình” - 1911), le Tombeau de Couperin (lăng
mộ của Couperin)…
Bây giờ chúng ta đi một vòng quanh châu Âu.
ỞnướcNga,cómộttrườngpháiđànpianohếtsứcđộcđáomà
yếu tổ nổi bật chính là màu sắc đã được hình thành từ năm 1850
và tồn tại cho đến ngày nay với các tên tuổi như Balakirew
(1836-1910) với tác phẩm Islamey và Rachmaninoff với các
bản Prélude.
11. 9
BNTT-Piano
Ngoài ra phải kể đến các nhạc sĩ như Moussorgsky (1830-
1881), tác giả của tập nhạc nổi tiếng Tableaux d’une Exposition
(những bức tranh trong phòng triển lãm - 1874), Scriabine với
10 bản Sonate và Prokofieff, sinh năm 1891, với bản Visions
Fugitives (những ảo ảnh thoáng qua).
Đất nước Ba Lan được biết đến với nhạc sĩ thiên tài
Paderewski, người đã trở thành tổng thống nước Cộng hòa
Ba Lan sau thế chiến thứ nhất (1914-1918).
Ở Na Uy, Grieg (1843-1907) được biết đến là tác giả của
tác phẩm nổi tiếng Concerto en la mineur (bản concerto cung la
thứ) với tiết tấu tương phản hết sức độc đáo.
Trường phái dương cầm Tây Ban Nha những năm 1890 đến
1920 đã mang đến cho chúng ta một luồng gió mới với chất liệu
mang âm hưởng dân ca bán đảo Tây Ban Nha như Albeniz
(1860-1909) với các tác phẩm Cordoba, Ibéria hay Granados
(1867-1916) với Goyescas, Danzas Espanoplas, Zarzuelas.
Tác giả Manuel de Falla (1876) nổi tiếng với sáng tác
Vie brève (cuộc sống ngắn ngủi) cũng đã viết cho đàn piano
những tác phẩm mang đầy màu sắc Tây Ban Nha.
Bây giờ chúng ta hãy cùng quay trở lại nước Pháp với
Stravinsky. Ông sinh năm 1882 tại Nga nhưng nhập quốc
tịch Pháp, và sau này là quốc tịch Mỹ, là người đi tiên phong
trong việc sử dụng kỹ thuật “đa điệu thức và đa điệu tính” (tức
là pha trộn nhiều giọng điệu với nhau). Ông nổi tiếng với các vở
ba lê nhưng cũng để lại cho chúng ta một bản Concerto cho đàn
piano. Cùng chung trường phái đa âm còn có các nhạc sĩ:
Honegger (1892) là một nhạc sĩ trữ tình mà mãnh liệt.
Chúng ta có thể cảm nhận được nơi ông ảnh hưởng từ Bach qua
các sáng tác mang tiết tấu hiện đại và hết sức sinh động.
Darius Milhaud (1892) với ngón đàn tinh tế và điêu luyện.
Francis Poulene (1899) độc đáo và tinh tế mang đậm
nét truyền thống Pháp với tác phẩm Mouvements perpétuels
(những chuyển động không ngừng) dành cho đàn piano.
***
Ngày nay, nhiều nhạc sĩ trẻ cũng dành sự quan tâm và sáng
tác nhạc cho đàn piano, các bạn sẽ được dần dần làm quen với
họ.
Các bạn đã bước đầu làm quen với cây đàn piano – một loại
nhạc cụ với sức sáng tạo không giới hạn, hãy nghĩ đến những
niềm vui mà các bạn sẽ có được khi đã vượt qua những khó khăn
ban đầu. Nó giúp cho tâm hồn các bạn rộng mở hơn, phong phú
hơn, chứ không chỉ là một thú vui đơn thuần. Biết đâu trong số
các bạn sẽ có những người trở thành nghệ sĩ piano tài danh hay
một nhà soạn nhạc thiên tài trong tương lai và viết tiếp những
dòng vẻ vang của trang lịch sử này.
Đàn grand-piano hiện đại
12. 10 BNTT-Piano
Ngồi vào chính giữa đàn sao cho mặt đối diện với
nốt Mi trung tâm. Hai chân buông tự nhiên, đầu thẳng
và hai cánh tay thật mềm mại. Thả lỏng bàn tay không
gồng cứng, đặt tay sao cho ngón cái nằm ngang hàng
với ngón út. Các ngón tay cong tự nhiên. Không bao
giờ để ngón cái nằm ra ngoài các phím đàn.
TRÌNH ĐỘ 1
a b
BÀI HỌC VỀ KHÓA SOL
Sol La Si Do Re Mi Fa Sol La Si Do Re Mi Fa Sol
13. 11
BNTT-Piano
Bài tập với 5 ngón tay - Các quãng liền ngón và các nốt liền bậc
Trước tiên hãy tập chơi từng tay một, sau đó mới kết hợp cả hai tay cùng lúc.
Dãy chữ số ghi phía trên khuông nhạc là ký hiệu các ngón của tay phải, ghi phía dưới khuông nhạc là ký hiệu
cho các ngón tay trái, với ngón cái là số 1 cho tới ngón út là số 5.
Tay trái sẽ chơi ở vị trí thấp hơn tay phải một hoặc hai quãng tám.
Fa
Sol
Trở lại từ đầu
Trở lại từ đầu
Mi
Ré
Fa Sol
Mi
Ré
Do
3 2
4
2
5
1
4
3
3
5
2
4
3 4
2
4
1
5
2
3
3
1
4
2
3 2
4
2
5
1
4
3
3
5
2
4
3 4
2
4
1
5
2
3
3
1
4
2
2
5
1
3 4
2
4 3
2 3
5
1
1
3 2
4
2
2 3
4 3
4
5
1
5
2
4
4
2
4 5
2 1
5
1
3 4
3 2
3
3
1 2
5 4
2
4
2 1
4
2
4
3
3
3
3
4
2 5
3 4
2
4 3
2 3
5
1
1
3 2
4
2
2 3
4 3
4
5
1
5
2
4
4
3
3
5 4
1 2
4
2
4 5
2 1
3
3
3
3
1 2
5 4
2
4
2 1
4 5
2
4
3
3
3
3
4
2
4
2
5
1
5
4
3
2
1
24. 22 BNTT-Piano
Fa Sol La Si Do Re Mi Fa Sol La Si Do Re Mi Fa
Mi
Ré
Ré
Do
Mi
Fa
Ré
Do
Fa
Fa
Mi
Ré
Sol
Fa
Sol
Fa
Mi
Fa
Sol
Fa
Do
Do
Ré
Mi
Fa
1
2
3
4
3
2
2
5
2
1
4
1
5
1 2
1
2
4
2
5
4
2 1
4 5
3
2
3
4
2
2
3
4
2
3
4
3
4
4
3
2
3
5
2
2
3
4
3
2
1
3
4
4
1
2
5
4
5
5
4
4
3
2 3
2
1
1
2
3
4
2
1
4
3
BÀI HỌC VỀ KHÓA FA
Tay trái chơi các nốt ghi
trên bản nhạc.
Tay phải chơi đồng âm
cao hơn tay trái một
quãng 8
Hãy tập tốt từng tay rồi
kết hợp cả hai tay.
26. 24 BNTT-Piano
TRÌNH ĐỘ 2
a b
Bắt đầu từ trình độ 2, các bạn sẽ sử dụng khóa Fa, và việc luyện tập sẽ chia thành hai phần.
Các bạn sẽ học phối hợp cùng lúc:
1. Phần đầu gồm các Bài tập diễn tấu nhằm mục đích luyện cho các ngón tay thật mềm dẻo, và phần Bài học
để vừa phát triển khả năng diễn tấu vừa làm quen dần với nhịp.
2. Phần tiếp theo là phần Thư giãn, bao gồm các đoạn nhạc ngắn, dễ chơi, dễ thuộc. Đây là một phần thực sự
bổ ích, chắc chắn sẽ mang đến cho các bạn sự hứng thú và thoải mái.
BÀI TẬP - BÀI HỌC
Vị trí Do trên hai khóa
Tay phải đàn khóa Sol (dòng trên)
Tay trái đàn khóa Fa (dòng dưới)
1
5
1
5
2
1
1 2
1
42. 40 BNTT-Piano
TRÌNH ĐỘ 3
a b
Các bài học trong trình độ 3 sẽ khó hơn một chút. Trước tiên, các bạn phải tập luyện chơi các nốt nhạc ở các
quãng xa hơn, đặc biệt là tay trái; sau đó các bạn sẽ được học lần lượt về dấu thăng, dấu chấm dôi và các dấu lặng.
Các đoạn có nét chấm lướt (hình vòng cung với các nét đứt) là những đoạn tương đối khó, các bạn nên tập
luyện riêng những đoạn này nhiều lần.
Bắt đầu từ phần này, chúng tôi sẽ hạn chế ghi chú các vị trí nốt. Các số ngón tay ghi trên khuông nhạc sẽ gợi ý
cho các bạn nhận biết vị trí đặt tay trên phím.
BÀI TẬP - BÀI HỌC
Quãng 6 (quãng cách nhau 6 nốt nhạc)
5
1
1 5
5 1
5 1 5
1 5 1
1
5
5 4 1
2 5
5 1
1 5
1
5 1 5
1 1
1
5
5
5
1
5
1
3
3
4 1
2 5
2 1
4 5
5
1
5 1
1 5
1
5
5 1
1
1
5
5
1 5
1
1 5
1 5
5
5 3 1
1 3 5
5
1
5 1
1 5
4
2
5
1
3
2
1
58. 56 BNTT-Piano
TRÌNH ĐỘ 4
a b
Trình độ 4 dành riêng để học về dấu móc đơn. Các bạn cũng sẽ được làm quen với các loại nhịp mới, các tiết
tấu khác nhau, các nốt ngân dài... Những điều này đòi hỏi các bạn phải tập trung và cố gắng nhiều hơn.
BÀI HỌC VỀ NỐT MÓC ĐƠN
Cứ 2 nốt móc đơn thì có trường độ bằng 1 nốt đen
Chúng ta có thể đếm:
1. Theo nốt móc đơn
(mỗi móc đơn gõ 1 phách)
2. Theo nốt đen
(mỗi nốt đen gõ 1 phách)
Hoặc có thể đếm theo kiểu này:
Xướng âm trước, rồi mới đàn sau
6
2
4
4
3
3
2 và
và 1
2
1
5
3 4
6 1
2 và 3
1 và
2 3
1
và 2
2 1
2
2 1
3 4 5
1 2
2 3
3 1
1 và
1
1 2
B
D
C
A
3
3
3
3
2
4
5
1
4
4
2
2
4
3
3
2
4
1
5
1
5
1
3
2
1
82. 80 BNTT-Piano
4
2
5
1
2
4
5 3
1 3
3
3
1
5
1 2 3
5 4 3
3 5
3 1
1 2
5 4
5
1
5 1
1 5
2
4
5 1
1 5
5 3
1 3
1
5
3
3
5 3
1 3
2 1
4 5
5 3
1 3
1
5
5 1 2
1 5 4
2 3
4 3
1
5
3 5
3 1
5 1 2
1 5 4
2
1
TRÌNH ĐỘ 5
a b
Ở trình độ 5, các bạn sẽ học thêm các kỹ thuật giãn ngón, rút ngón và các hợp âm nhiều nốt.
Các bài tập sẽ khó hơn vì cần phài tập cho các ngón tay mềm dẻo hơn, điêu luyện hơn, qua đó tạo nên một
nền tảng căn bản giúp các bạn đạt đến một trình độ diễn tấu vừng chắc và phong phú hơn.
Ở mỗi dạng bài học sẽ có những khó khăn nhất định, đòi hỏi các bạn phải dành nhiều thời gian luyện tập (nhất
là những đoạn được đánh dấu bằng những dấu chấm lướt như các bạn đã từng gặp trước đây).
Trong giai đoạn này, hãy tiếp tục duy trì và nghiêm túc tới vấn đề xướng âm để có thể đạt tới độ nhanh nhạy
sao cho cùng một lúc vừa đọc được đúng tên nốt mà vẫn giữ đúng cao độ cũng như tiết tấu. Điều này chắc chắn sẽ
giúp các bạn càm thấy việc chơi đàn trở nên dễ dàng và hứng thú hơn.
Bài tập
Bài tập giãn ngón tay
Đàn 5 lần
Đàn 4 lần