xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
ANH NGỮ_ HOA_GIẢNG CÁC THỦ NHÃN TÂM CHÚ ĐẠI BI.pdf
1. Page 1 of 146
TUYÊN HÓA HÒA THƯỢNG
ĐẠI BI ĐÀ LA NI
TỨ THẬP NHỊ THỦ NHÃN
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
Bác sĩ Trần Văn Nghĩa
phiên dịch
2. NHƢ Ý CHÂU THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu Chúng-sanh nào muốn đƣợc giàu lớn, có nhiều thứ châu báu đồ
dùng, nên cầu nơi Tay cầm Châu-Nhƣ-Ý.”
Thần-chú rằng: Ma Ra Ma Ra [25]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra
Kệ tụng:
Thanh hương bảo đỉnh hóa tam thiên
Như ý kim ngao du cửu uyên
Thiện Tài Long Nữ tiếu huyên huyên
Phật giáo diệu pháp nhữ yếu tham
Kệ dịch:
Đỉnh hƣơng nhập diệu khắp ba ngàn
Rùa ngọc chín tầng nhƣ ý chơi.
Cầu học Phật môn vô thƣợng pháp
Huyên thuyên Long Nữ Thiện Tài cƣời
3. QUYẾN SÁCH THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: Nếu bị các việc khuấy rối, muốn đƣợc an ổn, nên cầu nơi Tay cầm dây
Quyến-Sách.”
Thần-chú rằng: Ma Ra Na Ra [62]
Chơn-ngôn rằng: Án– chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Quyến sách thủ thị khổn ma thằng
Bàng môn quỉ quái nan độn hình
Câu lưu pháp bảo đa biến hóa
Trừ tà phù chánh bí văn linh.
Kệ dịch:
Tay làm mạng lƣới trói quân ma
Lối quỉ đƣờng yêu khó chạy xa.
Pháp thần biến hóa muôn hình trạng
Phép luật uy linh rõ chánh tà
4. BẢO BÁT THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi Tay cầm Bát-Báu.”
Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Hê Rị [42]
Chơn-ngôn rằng: Án– chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Bát vạn tứ thiên bệnh ma triền
Bảo bát cam lộ khả ly thuyên
Bồ đề tát đỏa tự tại quán
Từ bi phổ độ hóa hữu duyên.
Kệ dịch:
Ma bệnh buộc ràng tám vạn tƣ
Bát vàng sƣơng ngọc tịnh tâm hƣ
Tự tại Quán Âm Bồ Tát hạnh
Duyên lành nhiếp thụ đại tâm từ
5. BẢO KIẾM THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lƣợng, nên cầu nơi Tay cầm
Kiếm-Báu.”
Thần-chú rằng: Địa Rị Sắc Ni Na [50]
Chơn-ngôn rằng: Án– đế thế đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Bảo kiếm phi quang thấu tam tam
Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên
Pháp giới yêu khí tòng tư tức
Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn
Kệ dịch:
Gƣơm lồng bóng thép ba ngàn cõi
Si mị võng lƣợng phục thần oai
Yêu khí tiêu trừ trong pháp giới
Hoằng dƣơng chánh giáo độ muôn loàI
6. BẠT CHIẾT LA THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả thiên-ma và thần, nên cầu nơi Tay cầm cây
Bạt-Chiết-La.”
Thần-chú rằng: Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]
Chơn-ngôn rằng: Án– nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Pháp lôi cao kình cảnh ngoan minh
Pháp cổ phủ xao chấn quý lung
Pháp vân phổ âm lợi vạn vật
Pháp vũ biến sái nhuận quần sinh
Kệ dịch:
Pháp nhƣ sấm dậy tỉnh ngƣời ngu
Trống pháp êm tai kẻ điếc, mù
Mây pháp ngang trời che vạn vật
Nhƣ mƣa rƣới đất nhuận quần sinh
7. KIM CANG XỬ THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi Tay cầm Chày Kim-
Cang.”
Thần-chú rằng: Ta Ra Ta Ra [43]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Hàng phục oán ma kinh quỉ thần
Vũ trụ cát tường chánh khí tồn
Hộ pháp vệ giáo công huân phổ
Tăng già hợp hòa đạo dịch hưng.
Kệ dịch:
Hàng phục oán ma khiếp quỉ thần
Đất trời tƣơi nhuận khí thanh trần
Giữ gìn giáo pháp nơi nơi tỏ
Tăng già hòa hợp đạo thịnh hƣng
8. THÍ VÔ ÚY THỦ NHÃN
Kinh nói rằng:” Nếu muốn trừ TÁNH ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi Tay
Thí-Vô-Úy.”
Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt ra nẵng dã, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Thu tận thiên ma pháp bảo kỳ
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Vạn bệnh hồi xuân tăng phước thọ
Thí vô úy thủ độ quần mê.
Kệ dịch:
Phi thƣờng pháp bảo trói thiên ma
Nghiệp chƣớng tiêu trừ thú Bồ đề
Dứt bệnh ngày xuân tăng phúc thọ
Đƣa tay vô úy độ quần mê
9. NHẬT TINH MA NI THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi Tay
cầm châu Nhựt-Tinh-Ma-Ni.”
Thần-chú rằng: Thất Phật Ra Da [32]
Chơn-ngôn rằng: Án– độ tỷ, ca dã độ tỷ, bát ra phạ rị nãnh, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Tâm địa quang minh chiếu thế gian
Lục căn thanh tịnh hỗ dụng huyền
Ngu si chuyển thành chân trí huệ
Hắc ám biến tác cự hỏa diệm.
Kệ dịch:
Đất tâm trong sáng chiếu thế gian
Dùng thế cho nhau cả sáu căn
Ngu muội chuyển thành chân trí tuệ
Tối tăm đổi lấy lửa rực hồng
10. NGUYỆT TINH MANI THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn đƣợc mát mẻ hết bịnh, nên cầu nơi Tay cầm
châu Nguyệt-Tinh Ma-Ni.”
Thần-chú rằng: Độ Lô Độ Lô [28]
Chơn-ngôn rằng: Án– tô tất địa yết rị, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn
Triền miên sàng đệ bội thương thảm
Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán
Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn
Kệ dịch:
Bệnh vì khí nóng ngấm vào thân
Trên giƣờng trăn trở khổ nhân đôi
Ngọc phóng luồng trăng tƣơi khí lạnh
Xua tan hoạn nạn nhuận đất trời
11. BẢO CUNG THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc làm quan, lên chức, nên cầu nơi Tay cầm Cung-Báu.”
Thần-chú rằng: Phạt Sa Phạt Sâm[39]
Chơn-ngôn rằng: Án– A tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Tướng quân anh dũng mạnh vô địch
Bảo cung tại thủ xạ gian di
Khải toàn cao xướng vinh quan bổng
Ích chức gia thăng lạc hữu dư
Kệ dịch:
Vô địch tƣớng quân khí hùng anh
Cung báu trong tay diệt ngụy tà
Quan tƣớc điểm tô câu tán tụng
Chức vị càng thêm lợi nƣớc nhà
12. BẢO TIỄN THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi Tay cầm Tên-Báu.”
Thần-chú rằng: Ba Dạ Ma Na [51]
Chơn-ngôn rằng: Án– Ca mạ lã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Tiễn xạ cường địch đảm lạc hàn
Khắc thù chí thắng thao tả khoán
Nhân Quý tướng quân bình liễu loạn
Khải ca cao xướng lạc quần thiên
Kệ dịch:
Mật lạnh theo tên vào kẻ dữ
Khắc phục lòng thù đoạt chiến công
Nhân Quý tƣớng quân an giặc loạn
Khúc hát ngày về ấm trời hồng
13. DƢƠNG CHI THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi Tay cầm cành Dƣơng-
Liễu.”
Thần-chú rằng: Mục Ðế Lệ [35]
Chơn-ngôn rằng:
Án– Tô tất địa, Ca rị phạ rị, đa nẩm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn
đà, hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Dương chi thủ nhãn độ quần manh
Phiền nhiệt bệnh khổ đắc thanh lương
Khô mộc phùng xuân trọng mậu thịnh
Tử nhi bất vong thọ vĩnh xương
Kệ dịch:
Phổ độ chúng sinh một cành dƣơng
Não phiền nóng bỏng hóa thanh lƣơng.
Xuân đến cây khô đơm lộc biếc
Chết mà không mất lại miên trƣờng
14. BẠCH PHẤT THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chƣớng nạn ác bên thân, nên cầu nơi Tay cầm cây
Phất-Trần.”
Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]
Chơn-ngôn rằng: Án– bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh,
tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ
Khinh tảo số số chúng nan quyên
Kệ dịch:
Kiếp xƣa nghiệp sát nặng bằng non
Chắn bƣớc đƣờng tu đạo thánh nhân
Chổi trắng ai ngờ tâm lƣợng lớn
Quét đi vô số nghiệp khó trừ
15. HỒ BÌNH THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn tất cả ngƣời trong quyến-thuộc đƣợc hòa thuận nhau, nên
cầu nơi Tay cầm cái Hồ-Bình.”
Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì [49]
Chân-ngôn rằng: Án– yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Hồ-bình cam lộ nhuận quần manh
Cô mộc phùng xuân mậu hựu xương
Vạn bệnh kham trừ hiển đại dụng
Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương
Kệ dịch:
Bình vàng sƣơng ngọc nhuận quần sinh
Cây khô đơm nhánh giữa trời xuân
Hiển hiện kỳ công trừ bệnh tật
Sinh sinh hóa hóa diệu vô phƣơng
16. BÀNG BÀI THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi Tay
cầm cái Bàng-Bài.”
Thần-chú rằng: Phạt Xà Da Ðế [28]
Chơn-ngôn rằng: Án–dược các sam nẵng, na dã chiến nại-ra, đạt nậu bá rị-dã, bạt xá
bạt xá, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Sài lang hổ báo mạnh hựu hung
Sư tử hùng bi cánh tranh nanh
Bàng bài cao cử giai hồi tỵ
Tuy phùng hiểm lộ diệc khang bình
Kệ dịch:
Sài lang hổ báo đã ác hung
Uy phong sƣ tử lại bạo tàn
Đƣa cao bàng bài đều lẩn tránh
Gặp đƣờng nguy hiểm cũng bình an
17. PHỦ VIỆT THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên cầu
nơi Tay cầm cây Phủ-Việt.”
Thần-chú rằng: Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
Chơn-ngôn rằng: Án– vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Nghiêm hình bức cung khấp quỉ thần
Hàm oan linh ngữ lý nan thân
Nhược dục thoát ly luy tiết khổ
Thả tu phủ việt thủ an thân
Kệ dịch:
Quỷ khóc thần than bức bách thân
Ngục tù ngậm miệng khó minh oan
Nếu muốn thoát vòng dây trói buộc
Pháp tu phủ việt thủ bình an
18. NGỌC HOÀN THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi Tay cầm chiếc
Vòng-Ngọc.”
Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]
Chơn-ngôn rằng: Án– bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Kinh thiên động địa dịch quỉ thần
Hô phong hoán vũ đàm tiếu trung
Nam cung nữ kính đồng lễ bái
Tân chủ hòa hợp đạo đại hưng
Kệ dịch:
Khiến thần sai quỷ động đất trời
Gọi gió kêu mƣa lúc nói cƣời
Trai gái một lòng cung kính lạy
Hợp hòa chủ khách đạo vun bồi
19. BẠCH LIÊN HOA THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc các thứ công đức, nên cầu nơi Tay cầm Hoa-Sen-
Trắng.”
Thần-chú rằng: Kiết Mông [27]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Bạch sắc bạch quang bạch liên hoa
Thiện công mỹ đức đại vô nhai
Ư thử thủ nhãn cần tu tập
Hà sầu bất chí pháp vương gia
Kệ dịch:
Sắc trắng sáng trong một đóa sen
Đức lành công lớn khó so lƣờng
Đây pháp mắt tay năng tu tập
Lo gì chẳng đến cõi pháp vƣơng
20. THANH LIÊN HOA THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc sanh về mƣời phƣơng tịnh-độ, nên cầu nơi Tay
cầm Hoa-Sen-Xanh.”
Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]
Chơn-ngôn rằng: Án– chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung
Kệ dịch:
Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Sen nhƣ đèn báu tịnh mƣời phƣơng
Trên hoa Phật hiện viên thành đạo
Đến đi niệm niệm ứng thời cơ
21. BẢO KÍNH THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc trí huệ lớn, nên cầu nơi Tay cầm cái Kính-Báu.”
Thần-chú rằng: Thất Na Thất Na [37]
Chơn-ngôn rằng: Án– vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng
phấn tra.
Kệ tụng:
Đại viên kính trí cùng pháp nguyên
Chiếu yêu kính lý tróc quái tiên
Diêm vương kính trung ác nghiệp hiện
Pháp bảo kính thủ chủng trí viên
Kệ dịch:
Đại trí viên dung tận cội nguồn
Tróc nã yêu tinh phản chiếu hình
Giữa kính Diêm Vƣơng ác nghiệp hiện
Pháp bảo kính thủ chủng trí viên
22. TỬ LIÊN HOA THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc diện kiến 10 phƣơng tất cả chƣ Phật, nên cầu nơi Tay
cầm Hoa-Sen-Tím.”
Thần-chú rằng: Phật Ra Xá Da [40]
Chơn-ngôn rằng: Án– tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia
Kệ dịch:
Vi diệu đóa sen tím khó lƣờng
Mau chóng chứng giải thoát Bồ đề
Thấy đƣợc đất Phật khắp mƣời phƣơng
Sáu cõi thời thời chẳng lạc về
23. BẢO KHIẾP THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn lấy đƣợc kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi Tay cầm cái
Bảo-Kiếp.”
Thần-chú rằng: Tất Ðà Dũ Nghệ [57]
Thất Bàn Ra Dạ [58]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị, yết nẳng hàm, ra hồng.
Kệ tụng:
Thiên thượng chúng bảo diệu nghiêm
trang
Địa trung phục tạng hóa ngu manh
Hải lý long cung kỳ trân hiện
Bảo khiếp thủ nhãn phóng hào quang
Kệ dịch:
Thiên giới trang nghiêm lắm ngọc
ngà
Dấu trong lòng đất hóa thô sơ
Cung điện vua rồng trân bảo hiện
Hộp ngọc hào quang tỏa sáng lòa
24. NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc đạo tiên, nên cầu nơi Tay cầm hóa hiện Mây-Ngũ-Sắc.”
Thần-chú rằng: Ma Hê Ma Hê [26]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.
Kệ tụng:
Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng
Kệ dịch:
Vì đạo cầu tiên nguyện trƣờng sinh
Chẳng hề tăng giảm sánh trời xanh
Biến hóa rộng sâu nhƣ ý nguyện
Năm sắc mây lành quyện dƣới chân
25. QUÂN TRÌ THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn sanh lên cõi Phạm-Thiên, nên cầu nơi Tay cầm bình Quân-
Trì.”
Thần-chú rằng: Đà Ra Đà Ra [30]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-ra, thế khê rô, tra hàm tra.
Kệ tụng:
Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ thắng diệu lạc phúc báo toàn
Đản năng trì thử quân trì thủ
Thân thân sinh bỉ thọ như sơn
Kệ dịch:
Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ phúc báo thù thắng vẹn toàn
Chuyên cần trì pháp quân trì thủ
Thọ kiếp lâu dài nhƣ núi non
26. HỒNG LIÊN HOA THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc sanh lên các cung trời, nên cầu nơi Tay cầm Hoa-Sen-
Hồng.”
Thần-chú rằng: Ba Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]
Chơn-ngôn rằng: Án– thương yết lệ, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Chư thiên khoái lạc thắng nhơn gian
Phát nguyện vãng sanh đa trở nan
Đản tự thủ trì hồng liên hoa
Đàn chỉ vãng sanh phi đẳng gián
Kệ dịch:
Vui thú cõi trời hơn thế gian
Phát nguyện vãng sinh bao khó khăn
Hồng liên hoa thủ siêng tu tập
Búng tay tức khắc đã về nhà
27. BẢO KÍCH THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phƣơng khác đến, nên cầu nơi
Tay cầm cây Bảo-Kích.”
Thần-chú rằng: Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29]
Chơn-ngôn rằng: Án– thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Nhân Quý chinh liêu dũng vô địch
Nê hà cứu giá lập công kỳ
Cao ly đầu hàng triều thánh đế
Tha phương nghịch tặc tuyệt tông tích
Kệ dịch:
Viễn chinh Nhân Quý bậc anh hùng
Giúp nƣớc cứu vua lập đại công
Cao ly đầu hàng triều thánh đế
Nghịch tặc phƣơng nào lƣu dấu chân
28. BẢO LOA THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn triệu tất cả chư thiên, thiện-thần nên cầu nơi Tay cầm ống
Loa-Báu.”
Thần-chú rằng: Cu lô Cu lô [27]
Chơn-ngôn rằng: Án– thương yết-lệ, mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Pháp âm hưởng triệt chấn chư thiên
Nhất thiết thiện thần y triệu lệnh
Tứ phương kết giới thiên biến hóa
Long vương hộ vệ tại hậu tiền
Kệ dịch:
Pháp âm chấn động khắp chƣ thiên
Tất cả thần nhân y lệnh chầu
Phân định bốn phƣơng ngàn biến hóa
Vua rồng bảo vệ trƣớc và sau
29. ĐỘC LÂU TRƢỢNG THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ-thần, nên cầu nơi Tay cầm cây Gậy-
Đầu-Lâu.”
Thần-chú rằng: Y Hê Di Hê [36]
Chơn-ngôn rằng: Án– độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.
Kệ tụng:
Bạch cốt hoàn giao thổ vị mai
Hành nhân tu pháp thiết cung đài
Luyện thành quỷ-thần tuân hiệu lệnh
Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài
Kệ dịch:
Xƣơng trắng còn trên đất chƣa chôn
Ngƣời tu thánh pháp dựng đài cao
Luyện thành quỷ thần tuân hiệu lệnh
Chống gậy đầu lâu nguyện đại bi
30. SỔ CHÂU THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phƣơng chƣ Phật sớm đến đƣa tay tiếp dẫn, nên cầu
nơi Tay cầm xâu Chuỗi-Ngọc.”
Thần-chú rằng: Phật Ra Xá Lợi [38]
Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ– ra đát-nẳng, đát ra dạ dã. Án– a na bà đế vĩ nhá duệ, tất
địa tất đà lật thế, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Niệm tư tại tư vọng quy chơn
Thập phương chư Phật thọ thủ thân
Tốc chứng tam bối phẩm tư địa
Ma ha diệu pháp thắng linh văn
Kệ dịch:
Tâm thƣờng niệm Phật vọng hóa chân
Tay Phật mƣời phƣơng tự trao truyền
Chín phẩm ba tầng mau chứng đƣợc
Ma ha diệu pháp bản kinh huyền
31. BẢO ĐẠC THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn có đƣợc tất cả Phạm-âm-thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi
Tay cầm chiếc Linh-Báu.”
Thần-chú rằng: Giá Ra Giá Ra [33]
Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ– bát ra hàm bá noa duệ. Án– a mật lật đảm, nghiểm bệ
thất rị duệ, thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Phạm âm liệu lượng biến thái không
Khải lung chấn quý cảnh ngu mông
Huyền diệu biến hóa bảo đạc thủ
Văn thanh ly khổ giác hoa tông
Kệ dịch:
Phạm âm réo rắt một trời không
Đui, điếc, ngu si đƣợc tỏ thông
Chuông báu diệu huyền muôn biến hóa
Nghe chuông thoát khổ ngộ hoa tông
32. BẢO ẤN THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi Tay cầm
chiếc Ấn-Báu.”
Thần-chú rằng: Tát Bà Tát Bà [24]
Chơn-ngôn rằng: Án– phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Khẩu nhược huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng
Kệ dịch:
Mở miệng thao thao sức biện tài
Tiếng lời vang vọng diệu thanh âm
Lý sự gồm thu trong pháp tánh
Muôn một chung đồng ấn Phật tâm
33. CU THI THIẾT CÂU THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc Thiên-thần, Long-vƣơng thƣờng đến ủng hộ, nên cầu
nơi Tay cầm Cu-Thi-Thiết-Câu.”
Thần-chú rằng: Địa Rị Ni [31]
Chơn-ngôn rằng: Án– a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ. Nẳng mồ– tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang
Kệ dịch:
Cấp Tu, Khoái Độ, các vua rồng
Quả Vãng, Pháp Đại bậc hiền thần
Quy y tam bảo làm hộ pháp
Đi, đứng, ngồi, nằm thƣờng an nhiên
34. TÍCH TRƢỢNG THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu vì lòng Từ-bi muốn cho tất cả Chúng-sanh đƣợc nhờ sự che chở
giúp đỡ, nên cầu nơi Tay cầm cây Tích-Trƣợng.”
Thần-chú rằng: Di Đế Rị Dạ [48]
Chơn-ngôn rằng: Án– na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế na dạ bát
nảnh, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Đại từ đại bi cứu quần sinh
Đại hỷ đại xả ích hàm manh
Đại nguyện đại nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực Phật quả thành
Kệ dịch:
Đại từ đại bi cứu ngƣời ngƣời
Đại hỷ đại xả ích chúng sinh
Đại nguyện đại nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực Phật quả thành
35. HỢP CHƢỞNG THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thƣờng cung kính yêu mến nhau,
nên cầu nơi Tay Hiệp-Chƣởng.”
Thần-chú rằng: Tất Rị Tất Rị [44]
Chơn-ngôn rằng: Án– bát nạp mạng nhá lăng, hất rị.
(Theo trong tạng-bản, lại có chơn-ngôn: Án– vỉ tát ra, vỉ tát ra, hồng phấn tra.)
Kệ tụng:
Nhất tâm cung kính thiên trung thiên
Chúng sinh ái niệm các chân hư
Chủng nhân kết quả cầu chư kỷ
Lễ thượng vãng lai đạo bất thiên
Kệ dịch:
Một lòng cung kính Đức Nhƣ Lai
Ái dục chúng sinh chuỗi vọng hƣ
Ta chính là nhân sinh kết quả
Đến đi cung thỉnh đạo nhƣ nhƣ
36. CHƢỞNG THƢỢNG HÓA PHẬT THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thƣờng ở bên Phật, nên cầu nơi Tay hiện
Hóa-Phật.”
Thần-chú rằng: A Ra Sâm [38]
Chơn-ngôn rằng: Án– chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng
phấn tra.
Kệ tụng:
Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh
Kệ dịch:
Xƣa trồng cội đức hạt thiện lành
Vào nhà Bồ tát, Phật thọ sinh
Giác nhƣ trăng hiện trên dòng biếc
Trí lớn gƣơng tròn soi cổ kim
37. HÓA CUNG ĐIỆN THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thƣờng ở trong cung điện Phật, không
thọ sanh ở bào thai, nên cầu nơi Tay hiện Hóa-Cung-Điện.”
Thần-chú rằng: Phạt Ma Ra [34]
Chơn-ngôn rằng: Án– vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.
Kệ tụng:
Thế thế sinh sinh pháp vương gia
Cung điện lâu các diệu liên hoa
Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh
Tín giải hành chứng ma ha tát
Kệ dịch:
Kiếp kiếp thọ sinh nhà pháp vƣơng
Cung điện hoa sen thơm ngát hƣơng
Không thọ thai sinh, thân thanh thoát
Tin hiểu tu chứng đạo Bồ tát
38. BẢO KINH THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn đƣợc học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi Tay cầm quyển Kinh-
báu.”
Thần-chú rằng: Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha [53-56]
Chơn-ngôn rằng: Án– a hạ ra, tát ra phạ ni, nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền
Kệ dịch:
Nghe nhiều bậc nhất chính A Nan
Học rộng nhớ hay Khổng Nhan Uyên
Đọc tụng đại thừa sâu bát nhã
Nhƣ dòng suối cuộn trí mông mênh
39. BẤT THỐI KIM LUÂN THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, Tâm-bồ-đề thƣờng
không lui sụt, nên cầu nơi Tay cầm Bất-Thối-Kim-Luân.”
Thần-chú rằng: Bồ Đề Dạ [46]
Chơn-ngôn rằng: Án– thiết na di tả, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Thô tà hộ chánh kim cang luân
Ly mỵ vọng lượng câu độn hình
Bồ đề đạo tâm thường bất thoái
Kim thân nãi chí thành Phật thân
Kệ dịch:
Bỏ tà theo chánh chuyển pháp luân
Quỉ mị yêu tinh sợ ẩn mình
Bồ đề tâm đạo không thoái chuyển
Thân này thân Phật đƣợc viên thành
40. ĐẢNH THƢỢNG HÓA PHẬT THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phƣơng chƣ Phật mau đến xoa đầu Thọ-ký, nên cầu nơi
Tay Đảnh-Thƣợng-Hóa-Phật.”
Thần-chú rằng: Bồ Ðà Dạ [47]
Chân-ngôn rằng: Án– phạ nhựt-rị ni, phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Hóa Phật đảnh thượng pháp tối kỳ
Phổ cứu quần sinh xuất hãm ni
Công viên quả mãn siêu tam giới
Tức hoạch giác giả thọ thánh ký
Kệ dịch:
Hóa Phật đảnh thƣợng pháp diệu kỳ
Cứu độ quần sinh thoát bủa vây
Công quả viên thành qua ba cõi
Bồ đề thọ ký đắc thánh vị
41. BỒ ĐÀO THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn có đƣợc cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi Tay cầm chùm Bồ-
Đào.”
Thần-chú rằng: A Tất Ðà Dạ [66]
Chơn-ngôn rằng: Án– A-ma lã kiếm đế nể nảnh, Tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Viên phố quả qua đào lý tân
Hướng vinh chi diệp thậm tiên minh
Ngũ cốc phong thu thương doanh túc
Bách ban như ý khánh thăng bình
Kệ dịch:
Đào lý mƣớp dƣa trổ vƣờn rau
Cành tƣơi đơm nhánh lá non xanh
Bao thóc chứa đầy năm giống lúa
Trăm điều nhƣ ý cảnh thanh bình
42. CAM LỘ THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát đƣợc no đủ mát mẻ, nên cầu
nơi Tay hóa nƣớc Cam-Lộ.”
Thần-chú rằng: Tô Rô Tô Rô [45]
Chân-ngôn rằng: Án– tố rô tố rô, bác-ra tố rô, bác-ra tố rô, tố rô tố rô dã, tát-phạ hạ.
Kệ tụng:
Cơ khát hữu tình vọng thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo hóa
Cam lộ thiên lệ tế thập phương
Kệ dịch:
Chúng sinh đói khát vọng cầu an
Cây khô xanh lá tỏa hào quang
Đức hạnh đại bi muôn biến hóa
Cam lồ không dứt trải mƣời phƣơng
43. TỔNG NHIẾP THIÊN TÝ THỦ NHÃN
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi Đại-thiên, nên cầu nơi Tay Tổng-
Nhiếp-Thiên-Tý-Thủ.”
Thần-chú rằng: Ma Bà Lợi Thắng Yết Ra Dạ [74]
Chơn-ngôn rằng: Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã, tát bà đốt sắc, tra ô hạ
di dả, Sá-phạ hạ.
Kệ tụng:
Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên
Kệ dịch:
Biến hình tay mắt chẳng tận cùng
Cõi nƣớc ba ngàn an chúng ma
Khảo nghiệm chánh tà tu thiện pháp
Dùng lời há nói đƣợc ma ha
44. MARA MARA
25
MARA MARA is The As-You-Will Pearl Hand and Eye
MARA MARA is Sanskrit and has meaning
These two sentences of the mantra mean “increasing and
growing.” They also mean “as you will” and “according to your
will.” which increases blessings, fosters the growth of wisdom, and
makes everything auspicious, “as you will,” in accord with your
heart.
Hai câu Chú này là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “tăng trưởng”, cũng
gọi là “như ý”, cũng gọi là “tùy ý”. Tăng trưởng cái gì ? Tăng
trưởng phước huệ. Như ý về cái gì ? Tức là tùy tâm như ý, cát tường
như ý.
“Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng
Thủ Nhãn Châu Như Ý
Do you see how many advantages it has? This is why it is the first of
the Forty-two Hands and Eyes. The precious As-You-Will Pearl is
wonderful beyond words.
Quí vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp này không? Vì vậy nên
công năng ấn pháp này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ nhãn ấn
pháp.
Diệu dụng của Như ý Châu thủ nhãn vượt ngoài sự diễn tả bằng
ngôn ngữ. ( diệu không thể tả )
If you’d like to get rich, cultivate this Hand and Eye, for once you
perfect it, you’ll have everything you want, and you’ll need never
45. worry about being poor. You will always be wealthy and have
limitless and unbounded blessings.
Nếu bạn muốn phát tài thì bạn hãy tu Thủ Nhãn này. Nếu tu Thủ
Nhãn này thành công rồi thì bạn muốn dùng gì cũng có, chẳng còn
lo nghèo khổ nữa, luôn luôn đều giàu có.
Trí huệ của bạn vô lượng vô biên, phước báu của bạn cũng vô lượng
vô biên. Cho nên tăng trưởng phước huệ, cát tường như ý, tùy tâm
như ý, bạn thấy nhiều sự diệu dụng vô cùng!
Do đó trong 42 Thủ Nhãn thì Châu Như Ý liệt vào Thủ Nhãn hạng
nhất; bảo châu như ý diệu không thể tả.
(Nếu quí vị muốn giàu có, hãy hành trì theo thủ nhãn ấn pháp này.
Một khi đã thành tựu rồi, thì quí vị sẽ có được mọi thứ và không còn
bận tâm vì nghèo khổ nữa. Quí vị luôn luôn giàu có và được vô
lượng phước lạc).
The Sutra says: “For wealth, various gems, and valuables, use the
As-You-Will Pearl Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu Chúng-sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều
thứ châu báu đồ dùng, nên cầu nơi Tay cầm Châu-Như-Ý.”
Pure incense from the Jeweled censer transforms three thousand.
The tortoise of Golden Wishes swims through nine abysses.
Good Wealth and the Dragon Girl laugh aloud!
Hurry and investigate Buddhism’s wonderful Dharma.
Bảo châu như ý Như ý về cái gì ? Tức là tùy tâm như ý, cát tường như ý
Thanh hương bảo đỉnh hóa tam thiên
Như ý kim ngao du cửu uyên
Thiện Tài Long Nữ tiếu huyên huyên
Phật giáo diệu pháp nhữ yếu tham
46. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
47. PRANILA
62
PRANILA is The Lariat Hand and Eye
PRANILA is Sanskrit and has meanings
PRA means “as-you-will.”
NILA means “highly venerated.”
Ma ra. Hán dịch là “Như ý”
Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”.
This is the Lariat Hand and Eye
Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp
which can bring peace to all troubled situations, such as sickness,
mishaps, or obstacles.
nếu có chuyện gì không an thì có thể khiến cho bạn được bình an.
Không an là gì ? Ví như có bệnh, hoặc có chuyện gì không an, có
chướng ngại gì, đó là những chuyện không an.
Ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành
giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.
The Lariat Hand has many uses. You make a rope out of threads of
five colors, and when you have cultivated the Hand and Eye to
perfection all you have to do is throw the Lariat and lasso all the
strange demons, ghosts, monsters, 魑魅 LI MEI and 魍魎 WANG
LIANG ghosts. They won’t be able to get away because you’ve got
48. them tied up. Since they can’t get away, they will surrender. This is
a wonderful Dharma, although it looks very ordinary.
LY MỴ 魑魅 là loài yêu quái ở rừng núi, mặt người mình thú, hay
mê hoặc và làm hại người ta.
VỌNG LƯỢNG 魍魎 là giống yêu quái ở gỗ đá trong núi sông.
Quyến Sách Thủ Nhãn này có rất nhiều hữu dụng. Ở trong Phật giáo
gọi là Quyến Sách Thủ Nhãn, ở trong Ðạo giáo gọi là “khổn tiên
thừng” dùng chỉ ngũ sắc làm sợi dây thừng. (khổn tiên thằng)
(Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn
pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các
loài yêu ma quỷ quái, lỵ mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không
thể nào chạy thoát được).
Bạn tu Thủ Nhãn này thành công, bạn phóng dây thừng ra thì yêu
ma quỷ quái, lị mị vọng lượng đều bị trói chặt; bị trói không thể đi
được thì chúng phải đầu hàng bạn. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho
các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này.
Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó
lường.
The Sutra says: “For seeking peace and tranquility in all unrestful
situations, use the Lariat Hand.”
Kinh nói rằng: Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu
nơi Tay cầm dây Quyến-Sách.”
(bạn phóng dây thừng ra)
The Lariat Hand is a demon-binding cord.
Strange ghosts and externalists find it hard to disappear,
For Krakuchanda’s Dharma jewel has many transformations.
49. Drive out the deviant, support the proper.–These secret words are
magic.
Quyến sách thủ thị khổn ma thằng
Bàng môn quỉ quái nan độn hình
Câu lưu pháp bảo đa biến hóa
Trừ tà phù chánh bí văn linh.
(các việc khuấy rối, muốn được an ổn )
50. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
51. HULU HULU SHRI
42
HULU HULU SHRI is The Jeweled Bowl Hand and Eye
HULU HULU SHRI is Sanskrit and has many meanings
HULU HULU SHRI means “doing Dharma without thought,” and
also “doing Dharma with comfort.” The “as-you-will” of HULU
HULU PRA still retains “will” or “mind.” With HULU HULU
SHRI not even a thought exists while doing Dharma. If you have a
single thought, you have a false thought. If you have no thought,
you have no false thought, and because you have no false thought
you can “do Dharma with comfort,” and become the one
who “regards in comfort,” that is, the Bodhisattva Who Regards the
World‟s Sounds in Comfort.
“Hô Lô Hô Lô Hê Rị”: Câu Chú này cũng là tiếng Phạn, dịch ra
nghĩa là “tác pháp vô niệm”. Còn gọi là “tác pháp tự tại”. Ở trên là
tác pháp như ý, đây là tác pháp vô niệm. Như ý thì vẫn còn có một ý
niệm; bây giờ vô niệm thì dù một niệm cũng chẳng có, tác pháp thì
chẳng có bất cứ một niệm gì. Còn một niệm thì còn vọng tưởng, bạn
chẳng còn niệm thì chẳng còn vọng tưởng; chẳng còn vọng tưởng
cho nên tác pháp tự tại, biến thành Quán Tự Tại.
Hô Lô Hô Lô Hê Rị. Hán dịch là “tác pháp vô niệm” cũng dịch là
“tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô Lô Hô Lô Ma Ra đã
giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi tác pháp vẫn còn
khởi lên ý niệm. Còn trong câu chú Hô Lô Hô Lô Hê Rị thì vắng
bặt sự khởi niệm khi tác pháp. Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn
khởi niệm tức là còn vọng tưởng. Nếu hành giả không khởi niệm,
tức là không còn vọng tưởng nên đạt được khả năng “tác pháp
tự tại” và trở thành người có năng lực “Quán Tự Tại”. Đó chính là
52. vị Bồ tát thường quán sát âm thanh ở thế gian để cứu độ một cách
tự tại, Bồ tát Quán Thế Âm.
This sentence of the mantra is the Jeweled Bowl Hand, the third of
the Forty-two Hands. This Hand and Eye can relieve living beings
of the pain of illness.
Some people who have left home, seeing that someone is sick, will
mantra a cup of Great Compassion Water and give it to him to
drink. After it is drunk, sometimes the illness is cured and
sometimes it isn‟t. It depends on your causes and conditions. If the
conditions are right, when you drink the Great Compassion Water,
you may be cured and then come to believe in the Bodhisattva Who
Regards the World‟s Sounds. If you aren‟t cured, you may not come
to believe in him.
The truth is--and now I‟m transmitting a dharma to you--that in
empowering the Great Compassion Water, you don‟t need to recite
the Great Compassion Mantra all the way through. You need only
recite “HULU HULU SHRI”. Recite it five times and then blow
three puffs of air over the water. Give it to the sick person to
drink and his sickness will be cured. Sometimes he won‟t be
cured and other times he will get well right away. It all depends on
what your affinities with the sick person are. If you have an affinity
with him, when he drinks your Great compassion water he will be
cured. If you have no affinity, he may drink it, but he won‟t have
any faith in it, and he won‟t be cured.
In general, there are various conditions which make up the
foundation of your Dharma affinities.
53. Câu chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, là ấn pháp thứ ba trong
số bốn mươi hai (42) thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng
giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai ương bệnh hoạn.
Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì chú này vào trong ly nước,
cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh. Nếu bệnh không
lành, thì phải quán sát lại toàn bộ nhân duyên. Nếu gặp duyên lành,
khi quý vị uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được lành bệnh, là do
đã đặt hết niềm tin vào Bồ tát Quán Thế Âm. Nếu không được lành
bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin nơi Bồ tát.
Sự thực là như vậy, nay tôi sẽ truyền pháp này cho quý vị luôn.
Để cho ly nước có trì chú Đại Bi, có được năng lực như vậy, quý
vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng
câu “Hô Lô Hô Lô Hê Rị” năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần
búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống
sẽ được khỏi hẳn. Có khi bệnh không lành, có khi bệnh lành hẳn.
Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh.
Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống
xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người
bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì
chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh
họ không được lành hẳn.
(Quí vị chỉ cần trì tụng câu Hô Lô Hô Lô Hê Rị năm lần rồi thổi ba
luồng không khí lên trên mặt ly nước. Rồi trao cho người bệnh
uống sẽ được khỏi hẳn.
( You need only recite HULU HULU SHRI . Recite it five times
and then blow three puffs of air over the water. Give it to the sick
person to drink and his sickness will be cured.) )
54. Nói chung có vô lượng nhân duyên để tạo thành pháp duyên cơ bản
này.
Câu Chú này là “Bảo Bát Thủ”, là Thủ Nhãn thứ ba trong 42 Thủ
Nhãn. Bảo Bát Thủ có công năng gì? Hay giải trừ tất cả bệnh đau
của chúng sinh. Giống như bây giờ một số người xuất gia rất tin
Chú Ðại Bi, bèn gia trì “nước Chú Ðại Bi”. Nếu ai có bệnh thì gia trì
một ly “nước đại bi” cho họ uống. Uống vào có khi bệnh khỏi, có
khi bệnh không khỏi, đó là xem nhân duyên của bạn. Nhân duyên
của bạn uống “nước Chú Ðại Bi” khỏi bệnh thì bạn sinh niềm tin,
tin Bồ Tát Quán Thế Âm; có khi bệnh không khỏi thì bạn chẳng tin,
chẳng tin Bồ Tát Quán Thế Âm.
Kỳ thật, có khi cũng không khỏi, có khi mau khỏi, đó là xem nhân
duyên của bạn với bệnh nhân. Nếu bạn và y có duyên thì y uống
“nước đại bi” của bạn sẽ khỏi bệnh; nếu chẳng có duyên mà uống
„nước đại bi‟ thì y cũng chẳng có niềm tin, bệnh cũng chẳng khỏi.
Nói tóm lại, có đủ thứ nhân duyên mới có thể giúp thành pháp
duyên này. Nếu bạn có sự tu hành thì đối phương mới có tâm thành.
Song bạn có sự tu hành mà đối phương chẳng thành tâm uống „nước
đại bi‟, hoặc là không khỏi bệnh. Hoặc bạn chẳng có sự tu hành mà
đối phương có tâm thành, uống „nước đại bi‟ thì cũng sẽ khỏi bệnh.
Ở đây có đủ thứ quan hệ, có khi người này nghiệp chướng nặng, và
“nước đại bi” của bạn không có công lực lớn mấy, cho nên y uống
vào thì bệnh cũng chẳng hết. Có khi người đó nghiệp chướng nhẹ,
và „nước đại bi‟ của bạn rất có công phu. Gì gọi là có công phu ?
Tức là bạn luôn luôn trì Chú Ðại Bi thì có một sức lực cảm ứng đạo
giao, cho nên bệnh của người đó được lành. Do đó, bất cứ việc gì
cũng đều có đủ thứ nhân duyên ở trong đó để hỗ trợ, có đủ thứ trợ
duyên mới thành tựu.
Nếu bị nghiệp chướng mà bạn chữa khỏi thì chẳng có vấn đề gì, nếu
họ bệnh về ma chướng, có ma mà bạn nghĩ muốn cho họ hết bệnh,
thì con ma sẽ nghĩ muốn tìm bạn để đấu tranh. Nếu đạo lực của bạn
55. không đủ thì sẽ nhập vào cảnh giới ma vương. Dù bạn có đạo lực
cũng sẽ kết oán với con ma đó. Kết oán thì con ma sẽ muốn tìm cơ
hội để đấu tranh với bạn. Trong quá khứ, tôi rất thích trị bệnh cho
người, ai có bệnh thì tôi nhất định nghĩ cách trị cho khỏi, song về
sau tôi gặp ma chướng rất lớn.
Tôi đã từng nói qua, lúc tôi ở tại Ðông Bắc bên Trung Quốc thì quái
vật ở trong nước muốn dùng nước giết chết tôi, song chẳng giết chết
tôi được, chúng giết chết khoảng năm sáu chục người, nhà cửa bị
sập đổ khoảng tám chín trăm căn nhà.
The Sutra says: “For all internal illnesses, use the Jeweled Bowl
Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi
Tay cầm Bát-Báu.”
The Jeweled Bowl‟s sweet dew can extricate you from,
Entanglements with eighty four thousand sickness demons.
The Bodhisattva Who Contemplates in Comfort can,
With universal compassion, save all with whom he has conditions.
Tám mươi bốn ngàn bệnh ác “MA” lâm thân,
Nước “Cam-lộ” trong BÌNH “Bảo-bát” có khả năng tiêu trừ tất cả.
Quán-Tự-Tại Bồ-tát Ma-ha-tát,
Từ bi cứu độ người có duyên
Bát vạn tứ thiên bệnh ma triền
Bảo bát cam lộ khả ly thuyên
Bồ đề tát đỏa tự tại quán
Từ bi phổ độ hóa hữu duyên.
56. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
57. TRISA RANA
50
TRISA RANA is The Jeweled Sword Hand and Eye
TRISA RANA is Sanskrit and has many meanings
TRISA RANA means “solid and sharp.” It also means “sword.”
This is the Jeweled Sword Hand and Eye. Previously, when I
taught you the Forty-two Hands and Eyes, I told you that the
Jeweled Sword was used to subdue all 魑魅 LI MEI and 魍魎
WANG LIANG ghosts. When you have cultivated this Hand and Eye
successfully, all the heavenly demons and externalists and all
the 魑魅 LI MEI and 魍魎 WANG LIANG ghosts will be tamed and
conquered because they fear your Jeweled Sword. This Hand and
Eye is very fierce. If a heavenly demon or externalist refuse to obey
your instructions, you can cut him down with your Jeweled Sword!
“Địa Rị Sắc Ni Na”: Câu Chú này dịch ra nghĩa là “kiên lợi”, kiên
là kiên cố, lợi là phong lợi, rất mau vô cùng. Còn dịch ra nghĩa là
“kiếm”, tức là mật bảo kiếm rất bén nhọn.
Địa Rị Sắc Ni Na. Hán dịch là “Kiên lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”.
Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp. Trước đây khi giảng về bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp này có công
năng hàng phục mọi loài lỵ mỵ, vọng lượng. Khi quý vị tu tập thành
tựu ấn pháp này rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, lỵ mỵ, vọng
lượng đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp Bảo kiếm
này của hành giả. Ấn pháp này rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma
ngoại đạo nào không tuân phục ấn pháp, hành giả có thể trừng phạt
ngay bằng Bảo kiếm này.
58. Ðây là “Bảo Kiếm Thủ Nhãn”. Bảo Kiếm Thủ Nhãn này có tác
dụng gì? Trước kia khi tôi dạy Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn đã có nói
qua.
Bảo Kiếm Thủ Nhãn hàng phục được tất cả lị mị, vọng lượng, quỷ
thần, v.v… Bạn tu Thủ Nhãn này thành công thì tất cả thiên ma
ngọai đạo, lị mị, vọng lượng đều lão thực, vì chúng sợ bảo kiếm này
của bạn. Thủ Nhãn này rất là lợi hại, hay phá tan tất cả thiên ma
ngọai đạo, hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo. Bất cứ thiên ma
ngoại đạo nào nếu không nghe bạn giáo hóa thì bạn có thể dùng bảo
kiếm này chém chúng, cho nên Thủ Nhãn này lợi hại vô cùng.
(If a heavenly demon or externalist refuse to obey your instructions,
you can cut him down with your Jeweled Sword!)
The Sutra says: ”For subduing all wang liang ghosts and spitrits,
use the Jeweled Sword Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng,
nên cầu nơi Tay cầm Kiếm-Báu.”
The light from the flying Jeweled Sword penetrates three threes,
Li mei and wang liang all heed the command.
The Dharma Realm’s strange energies from this are put to rest.
Propagating the Proper teaching, one crosses over heaven and earth.
Bảo kiếm phi quang thấu tam tam
Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên
Pháp giới yêu khí tòng tư tức
Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn.
59. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
60. CHAKRA ASTAYA
68
CHAKRA ASTAYA is The Vajra Hand and Eye
CHAKRA ASTAYA is Sanskrit and has many meanings
CHAKRA ASTAYA means “vajra wheel.” Most vajras are round,
but this one is round in a different way from other vajras. The
sentence also means “conquering hateful demons.” Demons are
Demons because their hearts are always upset.
Giả kiết ra a tất đà dạ. Hán dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là
Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có hình tròn nhưng có
khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là
“Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và
bất bình thì gọi là ma.
“Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ”: Cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là
“kim cang luân”. Kim cang luân tức cũng là một thứ kim cang bạt
triết la hình tròn. Còn có một ý nghĩa là “hàng phục oán ma”, hay
hàng phục tất cả oán ma. Oán là có tâm oán hận. Tại sao họ phải
làm ma ? Vì trong tâm của họ có khí bất bình.
They are critical of everything. They say, “The Buddhas do things
incorrectly and so do the Budhisattvas, Arhats, gods and Yama!”
They violently object to everything and hate everything.
“Everything is wrong!”
They are like insane people who pay no attention to any laws at all.
They are odds with the entire world. Among people this is called
insanity; among the ghosts and spirits it‟s called “demonism.”
61. Hateful demons fill the skies with their hateful energies. “You‟re all
just too impolite to me,” they complain. “Buddha? I‟ll knock him
over. Bodhisattvas and Arhats, I‟ll do the same. People I‟ll eat them
all! Ghosts, I‟ll squash them beneath my feet. I‟ll grab them and
squeeze them to death!” Demons are violent!
Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm
những việc sai trái, cho đến hàng Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm
Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với
tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”.
Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn
xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này
là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là
Ma.
Nộ khí của loài ma oán này thường xông khắp cõi Trời. Nó thường
giận dữ: "Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta
sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài
người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta
sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê
rợn.
Tại sao họ phải làm ma ? Vì trong tâm của họ có khí bất bình, cho
rằng việc của Phật làm cũng không đúng, việc Bồ Tát làm cũng
không đúng, việc A La Hán làm cũng không đúng, việc của chư
Thiên làm cũng không đúng, việc vua Diêm Vương làm cũng không
đúng, việc gì chúng cũng đều phản đối, cũng đều oán hận, chúng
nhìn tất cả đều không đúng. Cho nên chúng giống như người bệnh
cuồng, cũng chẳng màng đến quốc pháp, gia pháp, thế gian pháp,
chẳng màng đến bất cứ những gì. Chúng ở thế gian chuyên môn
hoành hành, chẳng kiêng nể ai. Ở trong loài người gọi là người điên
cuồng, ở trong quỷ thần gọi là ma. Oán ma này có luồng oán khí
xung thiên :”Các vị đều khinh tôi, đối với tôi không tốt, cho nên tôi
62. phải đả đảo các ngươi. Phật tôi cũng đả đảo; Bồ Tát tôi cũng đả đảo,
La Hán tôi cũng đả đảo, tất cả mọi người tôi đều phải ăn họ”. Có
luồng oán khí :”Tất cả quỷ, tôi đều giết chết hết”. Gặp con quỷ nào
thì giết con quỷ đó. Cho nên thứ ma này lợi hại như thế.
With the Vajra Hand and Eye, the vajra wheel, you can smash to
smithereens all the heavenly demons externalists, and ghosts. No
matter what kind of demon they are, they all submit and are tamed
when you use this wheel and perform this dharma. They bow to you
and say, “I will reverently follow the rules. I won‟t ever break the
rules again.” They surrender.
Đây là Bạt chiết la thủ nhãn ấn pháp. Với Kim cang luân, hành
giả có thể đập tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần thành từng
mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma nào, nó đều bị thu phục và vâng
lời khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này. Ma
oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy
phục ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật, không dám xâm hủy”
(Pháp này gọi là “Bạt Chiết La Thủ”, Bạt Triết La Thủ Nhãn dùng
kim cang luân này hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo và lị
mị vọng lượng. Bất cứ ma quỷ gì, bạn dùng kim cang luân này tác
pháp thì chúng đều lão thực, đều cúi đầu đảnh lễ bạn, nói:” Hay lắm,
tôi sẽ giữ gìn quy cụ, tôi không dám phạm quy cụ nữa”, chúng sẽ
đầu hàng bạn.)
Not only can the Vajra Wheel destroy demons, but it also has a
roaring sound. In Taoism they speak of “five thunders which strike
your head.”
Thunder usually comes from the sky, but the Taoist Masters can
shoot thunder from the palm of their hand. The peal of thunder will
freeze the heavenly demons in their tracks and even blow the skin
right off their bodies.
63. I lectured on The Shurangama Sutra I mentioned that I had a friend
who could do this. When you have cultivated this Hand and Eye
successfully, thunder will sound when you practice this dharma and
will conquer all the hateful demonds.
Kim cang luân ấn pháp không những chỉ có công năng hàng phục
thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh chấn
động. Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”.
Sấm sét vốn thường phát sinh từ trên Trời, nhưng các Đạo sĩ Lão
giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng bàn tay khi họ kết một
loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi. Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên
ma bị chấn động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó bị tan tành
từng mảnh.
Khi giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một người bạn
thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này. Khi quý vị hành trì
thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm sét sẽ vang rền khi quý
vị sử dụng ấn pháp và tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất
cả các loài ma oán.
(Ðây là Bạt Chiết La Thủ, chẳng những hàng phục được mà còn có
âm thanh.
Ở trong Ðạo giáo thì có “ngũ lôi oanh đảnh”. Song trong Ðạo lão họ
có „chưởng tâm lôi‟.
Nếu chưởng tâm lôi, dùng tay để chưởng thì có thể có tiếng sấm
xuất hiện, tiếng sấm này có thể chấn giữ thiên ma ngoại đạo. Thậm
chí tiếng lôi này đến thân thể thì bổ nát thân thể ra.
Lúc tôi giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi có nói tôi có người bạn có
chưởng tâm lôi, chưởng tay này có tiếng sấm. Ðây là pháp thuật ở
trong Ðạo giáo. Trong Phật giáo cũng có, tức là Bạt Chiết La Thủ
Nhãn này, đây là chưởng tâm lôi của Phật giáo. Bạn tu thành Thủ
64. Nhãn này, tu pháp này thành công thì có tiếng sấm, hàng phục được
tất cả oán ma.)
ASTAYA means “incomparable accomplishment.”
Nothing compares with the great merits and virtue of this
accomplishment, and therefore it can conquer all the hateful
demons.
A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ thành tựu”.
Hành giả trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có
gì so sánh được, cho nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy
đầu phục thiện.
(“A Tất Ðà Dạ” dịch ra nghĩa là “vô tỷ thành tựu”, chẳng gì sánh
bằng, công đức thành tựu này quá lớn, cho nên mới hàng phục được
tất cả oán ma.)
The Sutra says: “For subduing all heavenly demons and spirits, use
the Vajra Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả thiên-ma và thần, nên
cầu nơi Tay cầm cây Bạt-Chiết-La.”
Held up high, the Dharma-thunder frightens the dull and the dark.
Beaten, beaten, the Dharma-drum shakes the blind and deaf.
Casting shade everywhere, the Dharma-cloud benefits all things.
Showering everywhere, the Dharma-rain gives moisture to all beings.
Pháp Bạt Chiết La như Sấm Sét thức tỉnh người ngu tối
Pháp Bạt Chiết La như Đánh Trống làm chấn động kẽ điếc mù
Pháp Bạt Chiết La như Mây Che trở che vạn vật được mát mẽ
Pháp Bạt Chiết La như Mưa rưới nước Cam Lồ mang lại sự
sống cho quần sanh.
65. Pháp lôi cao kình cảnh ngoan minh
Pháp cổ phủ xao chấn quý lung
Pháp vân phổ âm lợi vạn vật
Pháp vũ biến sái nhuận quần sinh.
66. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
67. SARA SARA
43
SARA SARA is The Vajra Pestle Hand and Eye
SARA SARA is Sanskrit and has many meanings
Do you hear the sound? SARA SARA! It’s very fierce! It means
“solid power.” This is power which is so solid nothing can harm it.
This solid power can destroy and conquer all heavenly demons and
externalists.
“Ta Ra Ta Ra”: Bạn nghe âm thanh này rất là lợi hại. Ðây là tiếng
Phạn, dịch ra nghĩa là “kiên cố lực”. Sức lực này đặc biệt kiên cố,
chẳng có ai phá hoại được. “Sức kiên cố” này có thể phá tan tất cả
thiên ma ngoại đạo, hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo.
Quý vị nghe âm vang của câu chú này rất hùng, phải không? Ta Ra
Ta Ra dịch là “Kiên cố lực”, là thần lực rất mạnh mẽ, không một
thứ gì có thể lay chuyển được.
Kiên cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma
ngoại đạo.
It is the Vajra Pestle Hand and Eye which is used to conquer and
defeat all hateful demons.
Đây là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp. Công năng của ấn pháp
này là hàng phục tất cả các loại ma oán.
Câu Chú này là “Kim Cang Xử Thủ”, tức cũng là “Bảo Xử Thủ”.
Bảo Xử Thủ này hay phá tan tất cả ma oán, cho nên gọi là “sức kiên
cố”.
68. The Sutra says: “ For conquering all hateful enemies, use the Vajra
Pestle Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi
Tay cầm Chày Kim-Cang.”
It conquers hateful demons, frightens spirits and ghosts.
With the universe auspicious, only proper energies remain.
It protects the Dharma and guards the Teaching and its merit everywhere pervades.
With the Sangha united in harmony, the Field of the Way will flourish.
Hàng phục Oán ma, kinh sợ các quỉ thần.
Chánh pháp còn trụ ở thế gian, thì Vũ-trụ sẽ không bị hủy diệt.
Bảo hộ chánh Pháp, thì công đức không cùng tận.
Tăng già hòa hiệp, thì đạo trường sẽ phát triển mạnh mẽ.
Hàng phục oán ma kinh quỉ thần
Vũ trụ cát tường chánh khí tồn
Hộ pháp vệ giáo công huân phổ
Tăng già hợp hòa đạo dịch hưng.
69. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
70. NILAKANTÉ PANTALAYA
72
NILAKANTÉ PANTALAYA is The Bestowing Fearlessness
Hand and Eye
NILAKANTÉ PANTALAYA is Sanskrit and has many meanings
In this sentence of the mantra, NILAKANTÉ means “worthy
protection.”
PANTALAYA means “regarding in comfort,” or “regarding the
world’s sounds.”
“Na Ra Cẩn Trì”: Dịch ra nghĩa là “Hiền thủ”. Hiền là Thánh Hiền.
Thủ là thủ hộ.
“Bàn Đà Ra Dạ”: Dịch ra là “Quán Tự Tại”, “Quán Thế Âm”, còn
gọi là “phóng quang”.
Na Ra Cẩn Trì. Hán dịch là “Hiền thủ”. Hiền là Thánh hiền. Thủ là
giữ gìn, canh giữ hộ trì.
Bàn Ðà Ra Dạ dịch nghĩa là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại.
Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà Bồ tát Quán Thế Âm
thường dùng để cứu độ chúng sanh, giúp cho mọi loài không còn
sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi.
This is the Bestowing Fearlessness Hand and Eye which the
Bodhisattva Who Regards the World’s Sounds uses to rescue all
living beings, so that they are never afraid in any situation. The
Bodhisattva relieves them of all their fears.
71. Thủ Nhãn này là “Thí Vô Úy Thủ Nhãn”. Thí Vô Úy Thủ Nhãn này
là Bồ Tát Quán Thế Âm dùng để cứu hộ tất cả chúng sinh, bất cứ
lúc nào, ở đâu cũng đều không sợ hãi, không sợ tất cả cảnh giới
khủng bố.
The Sutra says: “ For all situations where there is fear and unrest,
use the Bestowing Fearlessness Hand.”
Kinh nói rằng:” Nếu muốn trừ TÁNH ở tất cả chỗ sợ hãi không yên,
nên cầu nơi Tay Thí-Vô-Úy.”
The rare Dharma Jewel does away with heavenly demons.
Karmic obstacles melt away, so that one is destined for Bodhi.
The myriad illnesses return to Spring, and one’s blessings and lifespan increase.
The hand bestowing fearlessness, saves the lost multitudes.
Thật kỳ lạ Pháp bảo diệu kỳ, thiên ma “ Y LỆNH” không dám lại
gần.
Ai trì “ TAY THÍ-VÔ-ÚY” thì nghiệp chứng tiêu trừ, Bồ-đề Tâm
kiên cố.
Vạn-bệnh được lành, Phước-Thọ tăng trưởng.
Tay-mắt Vô-úy-thí, cứu độ chúng sanh không còn “TÁNH” sợ hãi
bất an.
Thu tận thiên ma pháp bảo kỳ
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Vạn bệnh hồi xuân tăng phước thọ
Thí vô úy thủ độ quần mê.
72. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
73. SHVARAYA
32
SHVARAYA is The Sun Essence Mani Hand and Eye
SHVARAYA is Sanskrit and has many meanings
SHVARAYA is Sanskrit. Recite it once and an electric flash goes
off throughout the whole universe.
Say, “SHVARAYA!” and there’s a lightning flash. The sentence
means “to emit light.” It also means “comfort,” that is, “ishvara,” as
in “Avalokiteshvara.” The meaning here is that you must “regard”
before you can attain “comfort.” If you don’t regard or contemplate,
you won’t gain comfort.
“Thất Phật Ra Da” là tiếng Phạn, bạn niệm một tiếng “Thất Phật
Ra Da” thì trong vũ trụ đều có một luồng điện sáng. Bạn niệm một
tiếng “Thất Phật Ra Da” thì giống như sẹt một ánh chớp, phóng
một luồng điện sáng. “Thất Phật Ra Da” dịch ra nghĩa là “phóng
quang”, còn gọi là “Quán Tự Tại”. “Thất Phật Ra Da” tôi tin rằng
là chữ Shvara của Avalokiteshvara, ý nghĩa là “tự tại”. Quán Tự Tại,
bạn phải quán thì mới có thể tự tại; bạn không quán thì chẳng tự tại.
(Mỗi khi quí vị niệm Thất Phật ra da thì toàn pháp giới này có một
luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm THẤT PHẬT RA DA là có
một luồng quang minh phóng ra bao trùm cả vũ trụ.
THẤT PHẬT RA DA được dịch là “phóng quang”. Còn dịch là
“tự tại”.
Phiên âm từ tiếng Phạn “ishvara” như trong
chữ “Avalokiteshvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”, vì có quán chiếu
74. thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu quí vị không có sức quán chiếu
thâm sâu, thì quí vị sẽ không đạt được năng lực tự tại.)
This contemplation is done inwardly, not outwardly. Contemplate
and ask yourself, “Am I here or not?” Is the “master” present within
you? Are you in control? Is the self-nature-master present? Is the
eternally dwelling true heart, the bright subtance of the pure nature,
present or not? If present, you gain mastery, you gain comfort. If it’s
not present, you do not.
Emitting light also carries the meaning of comfort. If you gain
comfort, you will emit light. If you don’t you won’t.
It may also be translated as “blazing fire light.” But it is not the fire
of a hot temper, or the heat of afflictions, which may cause you to
say, “I have too much temper.” It’s not blazing anger, it’s wisdom.
It’s just the water of wisdom which puts out the fire of ignorance,
genuine true wisdom manifesting from out of the fire of ignorance--
a “blazing fire light.”
Quán cái gì ? Chẳng phải hướng ra ngoài quán, mà là hướng vào
bên trong để quán; quán tự tại tức là quán sát chính bạn tại hay bất
tại. Bạn tự quán sát chủ nhân ông của bạn tại hay bất tại ? Bạn quán
sát tự tính của bạn tại hay bất tại? Bạn quán sát chân tâm của bạn tại
hay bất tại? Thường trụ chân tâm, tính tịnh minh thể này tại hay bất
tại? Nếu tại thì tự tại, nếu bất tại thì chẳng tự tại. Nếu chẳng tự tại,
đã chạy đi đâu thì bạn tự hỏi mình “bạn chạy đi đến đâu ?” tức là
quán tự tại.
Còn gọi là “phóng quang”, phóng quang tức nghĩa cũng là tự tại.
Nếu bạn tự tại thì sẽ phóng quang; nếu bạn chẳng tự tại thì không
thể phóng quang.
Còn có một ý nghĩa dịch ra nữa gọi là “hỏa diệm quang”. Hỏa diệm
quang cũng là hỏa quang. Hỏa quang là gì ? Hỏa này chẳng phải là
75. lửa giận dữ, chẳng phải sinh lửa phiền não, chẳng phải lửa “Oh, I
have too much temper”. Phải do nước trí huệ sinh ra để thu phục lửa
vô minh. Nước trí huệ hay hàng phục lửa vô minh, hiện ra trí huệ
chân chính, đây gọi là “hỏa diệm quang”.
(Quán chiếu nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà công phu
chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên ngoài. Nghĩa là hướng vào
bên trong mà quán chiếu không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta có hiện hữu
hay không?”. Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị hay
không? Quí vị có làm chủ được mình hay không? Mặt mũi xưa nay
của ông chủ có hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm thể tánh
thanh tịnh có hiện hữu hay không? Nếu những cái đó đều hiện hữu,
có nghĩa là quí vị đạt được tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có nghĩa
là quí vị không có được tự tại.
Sự phóng quang cũng mang ý nghĩa tự tại. Nếu quí vị đạt được năng
lực tự tại, thì quí vị có thể phóng quang. Nếu chưa có được năng lực
tự tại, thì không thể phóng quang được.
THẤT PHẬT RA DA cũng được dịch là “Hoả diệm quang”, cũng
gọi là Hỏa quang. Đó là lửa, nhưng không phải là lửa phát sinh
từ tập khí phiền não, như quí vị thường nói: “Tôi vừa nổi nóng
như lửa”. Đó cũng không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn
nộ, căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa trí huệ. Đó cũng chính là
nước từ trí huệ tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí huệ chân chính
hiển lộ khi lửa vô minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.)
When you recite SHVARAYA, you emit light, but you must first
have gained comfort. Without comfort, you won’t emit light.
Remember that.
76. This is the Sun Essence Mani Hand and Eye and it used to cure
sicknesses of the eyes. When the eyes are dim and cannot see, use
this Hand and Eye to cure them.
Bạn niệm “Thất Phật Ra Da” tức sẽ phóng quang. Song nếu tự tại
mới phóng quang, nếu bạn chẳng tự tại thì không thể phóng quang,
bạn nên nhớ ở điểm này.
Ðây là Thủ Nhãn gì ? Tức là Nhật Tinh Ma Ni Thủ Nhãn.
Thủ Nhãn này có thể trị bệnh. Trị bệnh gì ? Trị bệnh mù mắt, mắt
chẳng thấy được nữa, bạn có thể dùng Nhật Tinh Ma Ni Thủ Nhãn
để trị, cho nên đây gọi là phóng quang.
(Khi quí vị trì tụng THẤT PHẬT RA DA tức là quí vị đang phóng
quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có được năng lực tự tại. Không
có năng lực tự tại thì quí vị không thể nào phóng quang được. Hãy
nhớ kỹ điều này.
Đây là Nhật Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công
năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rõ. Dùng ấn pháp này khiến
cho mắt được sáng lại.)
The Sutra says: “For darkness and lack of light in the eyes, use the
Sun Essence Mani Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng,
nên cầu nơi Tay cầm châu Nhựt-Tinh-Ma-Ni.”
The mind-ground’s brilliant light illuminates the world.
The six roots purified, work in mysterious interchange.
When stupidity is reversed, true wisdom is attained.
The darkness transforms into a blazing flame.
77. Tâm địa quang minh chiếu thế gian
Lục căn thanh tịnh hỗ dụng huyền
Ngu si chuyển thành chân trí huệ
Hắc ám biến tác cự hỏa diệm.
Đất tâm trong sáng chiếu thế gian
Dùng thế cho nhau cả sáu căn
Ngu muội chuyển thành chân trí tuệ
Tối tăm đổi lấy lửa rực hồng
78. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
79. DHURU DHURU
28
DHURU DHURU is The Moon Essence Mani Hand and Eye
DHURU DHURU is Sanskrit and has many meanings
DHURU DHURU is Sanskrit and means “crossing over the sea,”
the bitter sea of birth and death. It also means “bright and pure.”
“Ðộ Lô Ðộ Lô” cũng là tiếng Phạn, dịch ra là “độ hải”. Ðộ hải là
gì? Tức là qua khỏi biển khổ sinh tử. Còn có lối dịch khác nữa nghĩa
là “minh tịnh”, quang minh mà thanh tịnh. Còn có lối dịch khác
nghĩa là “đến bờ “, tức là qua khỏi biển khổ sinh tử, đến được bờ
kia.
(Độ Lô Độ Lô. Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua biển khổ sinh
tử. Còn dịch nghĩa “minh tịnh”.)
Bạn có trí huệ quang minh thì đắc được bổn thể thanh tịnh, đến
được bờ Niết Bàn bên kia. “Ðộ Lô Ðộ Lô” tức là ý nghĩa này.
(Khi đã vượt qua biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ đạt được trí huệ sáng
suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh, đến được bờ bên kia, tức
thể nhập Niết Bàn.)
(Having crossed over the sea of birth and death, you gain the light of
wisdom and attain the clear, pure basic substance, arriving at the
other shore, which is Nirvana.)
Từ trong bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí huệ sẽ được lưu xuất,
quí vị sẽ hiểu rõ được tất cả mọi pháp môn, chắc chắn quí
vị sẽ chấm dứt được vòng sinh tử. Với đại định, tâm quí vị hoàn
80. toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi quí vị có được định lực chân
chánh thì có thể vãng sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới
Cực Lạc.
(In brightness you have wisdom, you understand all the Dharma-
doors, and you are certain to end birth and death. With samadhi, you
can pure. Samadhi power will enable you to be born in the clear,
pure Land of Ultimate Bliss.)
“Minh nhi năng quyết”. Minh là quang minh, tức bạn có trí huệ; tất
cả pháp môn bạn đều biết rõ thì quyết định được sinh tử.
“Ðịnh nhi năng tịnh”. Ðịnh là định lực, bạn có định lực thì mới sinh
về thế giới Cực Lạc thanh tịnh.
Which Hand and Eye is this? It’s the Moon Essence Mani hand,
and it is the Dharani spoken by Moonlight Bodhisattva. It causes
everyone to attain clarity and coolness.
Ðây là Thủ Nhãn gì? Ðây là Nguyệt Tinh Ma Ni Thủ, tức là Ðà La
Ni mà Bồ Tát Nguyệt Quang nói ra.
Nguyệt Tinh Ðà La Ni Thủ hay khiến cho tất cả mọi người đều được
mát mẻ.
Đây là Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu pháp Đà-ra-
ni do Bồ-tát Nguyệt Quang tuyên thuyết. Ấn pháp Nguyệt Tinh
thủ nhãn này có công năng đưa mọi người đến chỗ sáng suốt và an
lạc.
The Sutra says: “For sicknesses involving heat and poison, where
one seeks coolness, use the Moon Essence Mani Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bịnh,
nên cầu nơi Tay cầm châu Nguyệt-Tinh Ma-Ni.”
81. Afflicting one with fewer poisons, they harass one every day.
To be confined to bed is even more tragic.
The Moon Essence Mani Jewel’s refreshing medicine.
Averts disaster, lengthens life, and benefits women and men.
( BỆNH NHIỆT ĐỘC, LÀM CHO MÁT MẺ_ TÂM AN )
Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn
Triền miên sàng đệ bội thương thảm
Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán
Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn.
Một ít chất độc cũng quấy rối, làm khổ một người mỗi ngày.
Bệnh nằm trên giường còn bi thảm hơn là bị giam cầm.
Nguyệt-tinh Ma-ni Thủ Nhãn là “THUẦN-DƯỢC” trị được bịnh
nóng nải, buồn rầu.
Làm cho chúng sanh trong Trời-đất, được Tiêu tai họa, thêm tuổi
thọ.
82. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
83. BASHÁ BHASNIN
31
BASHÁ BHASNIN is The Jeweled Bow Hand and Eye
BASHÁ BHASNIN has three meanings
BASHÁ BHASNIN “joyful speech, joyful smiles,” that is, happy
to speak, very happy. It also means “great hero” and “unsurpassed
knight.” It has these three meanings.
“Phạt Sa Phạt Sâm” cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “hoan ngữ
hoan tiếu”, tức là thích nói, rất hoan hỉ nói. Còn có một ý nghĩa nữa,
dịch ra là “Ðại Trượng Phu”; còn có một ý nghĩa nữa, dịch ra là “Vô
Thượng Sĩ”, đó là ba ý nghĩa.
(“Hoan ngữ hoan tiếu”. (Khi nói vui tươi, Khi cười vui vẻ ))
rất hoan hỷ khi giảng nói
This is The Jeweled Bow Hand and Eye. When you cultivate it, if
you are one who dwells at home, you may become a high official; if
you are one who has left home, you may certify to the fruit of
Arhatship.
Câu Chú này thuộc về “Bảo Cung Thủ Nhãn”, ai tu Thủ Nhãn này,
nếu là người tại gia thì có thể làm quan lớn, nếu là người xuất gia thì
có thể chứng quả A La Hán.
(quan chức cao cấp)
The Sutra says: “For promotions in official positions, use the
Jeweled Bow Hand.”
84. Kinh nói rằng: “Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi
Tay cầm Cung-Báu.”
a high official
The brave and heroic general meets no opposition.
In his hand the Jeweled Bow shoots the crafty villains.
He returns triumphant amidst load song; the promotions in office are many.
With benefit to his office increased, happiness abounds.
Tướng quân anh dũng mạnh vô địch
Bảo cung tại thủ xạ gian di
Khải toàn cao xướng vinh quan bổng
Ích chức gia thăng lạc hữu dư.
Tướng quân vô địch, trăm trận trăm thắng, không có đối thủ.
Tay cầm Bảo-cung bắn những kẻ gian ác hại người, hại vật.
Ca khúc chiến thắng trở về rồi được làm quan, lên chức bổng lộc rất
nhiều.
Chức vị được gia tăng, thì có khả năng mang lại thái bình hạnh phúc cho
tổ quốc.
85. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
86. BHAYA MANE
51
BHAYA MANE is The Jeweled Arrow Hand and Eye
BHAYA MANE is Sanskrit and has many meanings
BHAYA MANE has three meanings. It means, “the name is heard,”
because the name has been heard throughout the worlds of the ten
directions. It also means “joyful praise,” for the Buddhas of the ten
directions take delight in praising the name. It also means
“accomplishing the name,” and “accomplishing all meaning,” that
is, all affairs are accomplished.
This is the Jeweled arrow Hand and Eye. If you cultivate it, you
can quickly meet good friends.
“Ba Dạ Ma Na”: Là tiếng Phạn, dịch ra có rất nhiều nghĩa. Nghĩa
thứ nhất là “danh văn”, vì tên của Ngài trong mười phương thế giới
đều nghe, đều biết. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “hỉ xưng”, vì
mười phương chư Phật đều hoan hỉ khen ngợi kêu tên của bạn. Còn
có một ý nghĩa nữa gọi là “thành danh”, thành tựu tên của bạn. Còn
có một ý nghĩa nữa gọi là “nhất thiết nghĩa thành tựu”, tất cả mọi
việc đều có thể thành tựu.
Thủ Nhãn này gọi là “Bảo Tiễn Thủ Nhãn”. Bạn tu Thủ Nhãn này
thì có thể khiến cho bạn mau gặp được tất cả bạn bè tốt.
Ba Dạ Ma Na có ba ý: Thứ nhất là “danh văn” nghĩa là tên của
hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế giới. Nghĩa thứ hai
là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều vui mừng khen ngợi
công đức của hành giả. Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết nghĩa
thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh tiếng, mọi công hạnh đều được
thành tựu thật nghĩa và rốt ráo.
87. Đây là Bảo tiễn thủ nhãn ấn pháp. Nếu quý vị hành trì ấn pháp
này thành tựu sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức.
The Sutra says: “For quickly meeting up with good friends, use the
Jeweled arrow Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi
Tay cầm Tên-Báu.”
He loosed his arrow at the mighty foes; a chill fell upon their boldness.
The enemy subdued, victory was certain.
General Jen Kuei thus levelled the Koreans.
With voices high in songs of triumph, their joy unites the realm.
Bảo-tiễn “THẦN LỰC KHÓ SUY LƯỜNG”, cường địch khiếp sợ
lạnh rung người.
Vì khiếp sợ mà qui hàng, nên “KHÔNG CẦN SÁT SANH”, cũng
dành được chiến công.
Tướng Quân Nhân Quý có tài thiện xạ, nên có công dẹp tan được
giặc phản loạn.
Đất nước an bình, họ vui mừng ca hát reo hò, như là “ĐẠI HỘI ÂM
NHẠC” ở trên Trời.
Tiễn xạ cường địch đảm lạc hàn
Khắc thù chí thắng thao tả khoán
Nhân Quý tướng quân bình liễu loạn
Khải ca cao xướng lạc quần thiên.
88. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
89. MUDHILI
35
MUDHILI is The Willow Branch Hand and Eye
MUDHILI is Sanskrit and has many meanings
MUDHILI is the Buddha’s Willow Branch Hand and Eye. It is
the branch you see the Bodhisattva Who Regards the World’s
Sounds carrying in one hand while in the other the Bodhisattva
carries the Pure Water Bottle. The Willow Branch is dipped into the
Pure Water Bottle and then sprinkled over all living beings. The
pure water is not like ordinary water. It’s sweet dew. Living beings
who are sprinkled with it obtain many benefits. It can relieve their
hunger and thirst and cause them to be clear and cool.
MUDHILI means “liberation,” that is liberation from all suffering
and hardship, from all sickness, and from all inauspicious
circumstances. The Bodhisattva uses the Willow Branch to liberate
all living beings from their illnesses and difficulties and unlucky
affairs. On the surface, the Hand and Eye may not seem to be very
important, but when you have cultivated it to perfection, you can use
it not only to liberate beings from their difficulties and sicknesses
and from inauspicious events, but you will also be able to overcome
all heavenly demons and externalist religions. When the heavenly
demons and externalists are sprinkled with the sweet dew, they will
naturally turn their thought to the good and offer up their conduct in
accord with the teaching. Thus, this Hand and Eye is endless,
inexhaustible, and inconceivable in its function.
“Mục Ðế Lệ” tức là Dƣơng Chi Thủ Nhãn của Phật. Dƣơng Chi
Thủ Nhãn là gì ? Tức là Bồ Tát Quán Thế Âm tay cầm nhành dƣơng
90. liễu. Bạn thấy Bồ Tát Quán Thế Âm một tay cầm nhành dƣơng liễu,
một tay cầm bình tịnh thủy, nhành dƣơng liễu nhúng nƣớc tịnh bình
để rƣới khắp tất cả chúng sinh. Nhúng nƣớc tịnh bình khác với nƣớc
thƣờng nhƣ thế nào ?
Nƣớc tịnh bình gọi là nƣớc cam lồ, nƣớc cam lồ mà rƣới lên tất cả
chúng sinh thì khiến cho chúng sinh đắc đƣợc rất nhiều lợi ích, có
thể giải trừ đói khát, đƣợc sự mát mẻ.
Mục đế lệ là Dương chi thủ nhãn ấn pháp của đức Phật. Đó là
nhánh cây mà quí vị thƣờng thấy Bồ-tát Quán Thế Âm cầm ở một
tay, còn tay kia Bồ-tát cầm một tịnh bình. Nhành dƣơng này đƣợc
Bồ-tát nhúng vào tịnh bình rồi rƣới lên cho tất cả mọi chúng sinh
bị đau khổ. Nƣớc này không nhƣ nƣớc thƣờng. Đó là nƣớc cam lồ.
Chúng sinh nào đƣợc nƣớc này tƣới nhuận sẽ có nhiều lợi lạc. Nƣớc
cam lồ có thể giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi khổ lụy đói khát
và bản tâm đạt đƣợc thanh lƣơng.
MỤC ĐẾ LỆ còn dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải thoát khỏi
mọi khổ nạn, bệnh tật và chƣớng ngại.
Nên Bồ-tát Quán Thế Âm thƣờng dùng DƢƠNG CHI
THỦ NHÃN ẤN PHÁP này để giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi
mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất nhƣ ý. Bề ngoài, chú này
dƣờng nhƣ không có gì quan trọng lắm, nhƣng một khi quí vị công
phu hành trì ấn pháp này thành tựu rồi, thì không những quí vị có
thể giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn
có thể hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma ngoại
đạo đƣợc thấm nhuận nƣớc cành dƣơng này, họ tự nhiên hồi tâm
hƣớng thiện, thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dƣơng chi
thủ nhãn có diệu dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn.
“Mục Ðế Lệ” cũng là tiếng Phạn,
91. dịch ra nghĩa là “giải thoát”. Giải thoát cái gì ? Giải thoát tất cả khổ
nạn, giải thoát tất cả bệnh tật, giải thoát tất cả việc bất nhƣ ý. Cho
nên Bồ Tát Quán Thế Âm dùng nhành dƣơng liễu để giải thoát mọi
bệnh tật của chúng sinh, giải thoát những hoạn nạn của chúng sinh,
giải thoát những việc bất nhƣ ý của chúng sinh.
Thủ Nhãn này, bên trong có vẻ giống nhƣ chẳng quan trọng lắm,
song nếu bạn tu thành công thì nhành dƣơng liễu này chẳng những
giải thoát đƣợc bệnh tật, hoạn nạn, việc bất nhƣ ý mà cũng có thể
hàng phục đƣợc thiên ma, khống chế các ngoại đạo.
Tất cả thiên ma ngoại đạo mà đắc đƣợc nƣớc cam lồ của bạn thì họ
tự nhiên sẽ hồi tâm hƣớng thiện, cũng đều y giáo phụng hành. Cho
nên Thủ Nhãn này nói ra thì vô cùng vô tận, cũng không thể nghĩ
bàn.
The sweet dew water of the Bodhisattva Who Regards the World’s
Sounds can not only liberate you from all hardships, cure all
illnesses, and free you of all inauspicious circumstances, but it can
even cause you to live when the time has come for you to die.
When dead plants and trees are sprinkled with sweet dew, they can
come back to life.
Although trees and plants are basically insentient, if they are
moistened by the sweet dew, they can grow again; they may grow
new branches and leaves, bloom, and bear fruit. Living beings who
obtain sweet dew gain even more inexhaustible, wonderful
advantages. That’s the Willow Branch Hand.
Nƣớc cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm
chẳng những giải trừ đƣợc hoạn nạn mà còn chữa khỏi tất cả bệnh
tật và giải thoát tất cả những việc bất nhƣ ý. Thậm chí lúc bạn sắp
chết, nếu bạn đắc đƣợc nƣớc cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm thì có
92. thể sống lại. Tất cả cây khô, nếu dùng nƣớc cam lồ rƣới lên thì có
thể sống lại.
Giọt nƣớc cam lồ từ bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm không những
chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn mà còn có một
diệu dụng khác, khi một ngƣời sắp chết, nếu có phƣớc duyên, đƣợc
Bồ – tát Quán Thế Âm rảy nƣớc cam lồ thì có thể sống lại.
Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo nếu đƣợc nƣớc cam
lồ tƣới xuống cũng đƣợc hồi sinh.
Cây cỏ là loài vô tình, mà khi đƣợc nƣớc cam lồ tƣới tẩm còn đƣợc
nảy mầm, đơm hoa, kết trái nhƣ vậy nên chúng sinh là loài hữu tình
sẽ đƣợc lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng của Dƣơng chi thủ nhãn ấn
pháp.
Cây cối vốn là vô tình đƣợc nƣớc cam lồ thấm nhuần còn có thể
sinh trƣởng đơm hoa kết trái, hà huống nếu tất cả chúng sinh đƣợc
nƣớc cam lồ, càng lợi ích vô cùng vô tận.
The Sutra says: “For various illnesses of the body, use the Willow
Branch Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi
Tay cầm cành Dƣơng-Liễu.”
The Willow Branch Hand and Eye ripens all the seeds.
The sick and suffering, fever-stricken, then find relief.
The withered branch encounters spring: chance to thrive renewed.
Mortal and yet undying: glorious eternal life.
Tay cầm cành dương liễu rưới nước cam-lồ làm cho các hạt giống
nảy mầm lên cây.
Người bệnh khổ vì sốt nặng cũng được mát mẻ.
93. Như cây khô héo gặp mùa xuân có cơ hội sống lại.
Chết mà không mất, thọ mạng được dài lâu.
Dương chi thủ nhãn độ quần manh
Phiền nhiệt bệnh khổ đắc thanh lương
Khô mộc phùng xuân trọng mậu thịnh
Tử nhi bất vong thọ vĩnh xương.
94. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
95. MÀMÀ
34
MÀMÀ is The White Whisk Hand and Eye
MÀMÀ is Sanskrit and has many meanings
MÀMÀ means “I, who accept and hold.” It is a kind of command,
a call to action.
It means, “Everything I do must certainly be successful!”
MẠ MẠ. Hán dịch là “ngã sở thọ trì” (Y GIÁO PHỤNG HÀNH).
Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc
tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.
“Mạ Mạ” cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “ngã sở”. Ở trên là
một thứ âm nhạc, có sự hành động, đây là ngã sở, việc của tôi làm
đều phải thành tựu.
MÀMÀ is the White Whisk Hand and Eye.
In China Taoist Masters Buddhist Monks usually carry a whisk
Buddhist High Masters usually carry a whisk when they take the
High Seat to speak the Dharma.
The White Whisk Hand and Eye is used to dispel all obstacles to the
body, all karmic obstructions and painful illnesses. A few
swats with the brush will cure you of your karmic obstacles or
demon-obstacle sicknesses.
The White Whisk Hand and Eye has many uses, but the people who
know how to use it are very few; I know that at present there are
very few.
96. MẠ MẠ là Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa, các đạo sĩ
và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất trần, các vị cao tăng
thường cầm phất trần khi đăng bảo tọa để thuyết pháp.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp
chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất
lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành
mọi ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người
biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người
sử dụng được ấn pháp này.
Thủ Nhãn này gọi là “Bạch Phất Thủ”. Ở Trung Quốc Ðạo lão và
các vị Hòa Thượng đều có cái phất trần, tức là vật dùng để đuổi
ruồi, song mỗi khi Pháp sư thượng đường thuyết pháp đều cầm. Tôi
cũng có một cái phất trần do họ mang đến tặng, cái phất trần này rất
là cổ xưa, có từ vào thời nhà Hán. Phất trần này dự bị để làm gì ?
Có thể trừ tất cả chướng nạn ở trên thân. Tất cả nghiệp chướng,
bệnh tật của bạn mà dùng phất trần quét một cái thì đều khỏi ngay.
Dụng đồ của phất trần rất lớn, song người biết dùng rất ít.
The Sutra says: “For getting rid of evil obstacles and difficulties, use
the White Whisk Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên
cầu nơi Tay cầm cây Phất-Trần.”
With karma of past killing heavy as a mountain,
You wish to practice the Sagely Way, but obstacles are unbounded.
How fortunate to have the Great compassion White Whisk Hand.
Again sweep lightly, and again so that piled-up hardships vanish.
97. Từ vô-luợng kiếp đến nay, Ta đã tạo “nghiệp-sát”, nên tội trọng
nặng như núi,
Nay muốn tu “thánh đạo”, lại bị vô-biên nghiệp-chướng ngăn cản,
rất khó tu hành.
Lành thay!!! Gặp được “Cây Phất-Trần” đại từ đại bi của Bồ-tát
Quán-Thế-Âm,
Quét sạch nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của Ta
đã tạo.
Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ
Khinh tảo số số chúng nan quyên
98. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
99. NILAKANSTA
49
NILAKANSTA is The HU Bottle Hand and Eye
NILAKANSTA is Sanskrit and has many meanings
NILAKANSTA means “worthy love, foremost worthy,” the
foremost leader of the worthies. It also means “good protection,
good crown.” The cultivator is able to protect all living beings and
be mindful of them and to deliver them to the very highest position
of enlightenment.
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền ái” hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch là
“Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người đứng đầu trong các bậc
Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc khéo tìm cách bảo bọc, che chở
cho chúng sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến quả vị tối cao.
ý nói là đứng đầu trong hàng Thánh Hiền.
ý nói là khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, khéo độ thoát chúng sinh
đến quả vị tối cao.
This is the Jeweled Bottle Hand and Eye, also called the HU Bottle
Hand and Eye. This bottle can get rid of all the world’s filth,
relieving living beings of all their illnesses. The Bodhisattva who
cultivates this Hand and Eye is fully able to protect and be mindful
of all living beings. When you have cultivated the Hand and Eye to
accomplishment, you will be able to help all beings and to prevent
all hardships and disasters.
Đây là Bảo Bình thủ nhãn ấn pháp. Cũng gọi là Hồ Bình ấn pháp.
Bình nước này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế gian, cứu giúp
100. chúng sanh thoát khỏi bệnh khổ. Bồ tát tu tập thành tựu ấn pháp này
sẽ có năng lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh.
Khi quý vị tu tập pháp ấn này thành tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng
cứu giúp mọi loài chúng sanh, giúp họ ngăn ngừa được mọi tai
ương, chướng nạn. Nên còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
Tịnh bình này có thể trừ khử tất cả ô uế của thế gian, vì trừ khử tất
cả ô uế nên cũng bao quát hay giải trừ tất cả bệnh tật của chúng
sinh, cho nên gọi là thiện hộ, thiện đảnh. Bồ Tát tu Thủ Nhãn này
cũng khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, cho nên nếu tu Bảo Bình Thủ
này thành công thì cũng có thể trợ giúp tất cả chúng sinh, giải trừ tai
nạn của tất cả chúng sinh.
The Sutra says: “For wholesome and harmonious retinues, use the
Hu Bottle Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn tất cả người trong quyến-thuộc được hòa
thuận nhau, nên cầu nơi Tay cầm cái Hồ-Bình.”
“Bảo Bình Thủ Nhãn”, còn gọi là “Tịnh Bình Thủ Nhãn”, còn gọi là
“Hồ Bình”.
Tịnh bình đựng nước cam lồ.
Sweet dew from the Precious Jug nourishes living things.
As dried up wood is touched by spring, it buds again and again.
Elixir for a myriad ills, its great function is revealed.
Infinite living transformations of incomparable wonder.
Thật là “Linh-Dược” có thể trừ được vạn bệnh
Hồ-bình cam lộ nhuận quần manh
Cô mộc phùng xuân mậu hựu xương
Vạn bệnh kham trừ hiển đại dụng
Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương.
101. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976
102. BHASHIYATI
28
BHASHIYATI is The Shield Hand and Eye
BHASHIYATI is also Sanskrit and means
BHASHIYATI is Sanskrit and means “vast and adorned.” It also
means “vast and great,” and “to cross over birth and death.”
“Phạt Xà Da Ðế” là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “quảng bác nghiêm
tịnh”, tức là vừa quảng bác vừa nghiêm tịnh. Còn có lối dịch khác
nghĩa là “quảng đại”. Lại có lối dịch khác nữa, nghĩa là “độ sinh tử”.
( QUẢNG BÁC TRANG NGHIÊM )- The Shield Hand and Eye
BÀNG BÀI THỦ NHÃN ẤN PHÁP
If you cultivate the Shield Hand and Eye, you can cross over the
sea of birth and death. If you don’t cultivate it, you can’t. With the
Shield Hand and Eye, you can cross over the bitter sea of birth and
death, through the massive flow of afflictions, and arrive at the other
shore--Nirvana.
Nếu quí vị tu tập hành trì Bàng Bài thủ nhãn ấn pháp này thì quí
vị có thể vượt qua biển khổ sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu quí
vị không công phu hành trì ấn pháp Bàng Bài thủ nhãn này, thì
không thể nào vượt thoát bể khổ sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn
được. ( xuyên qua dòng phiền não )
( Nếu bạn tu Bàng Bài Thủ thì có thể độ sinh tử; bạn chẳng tu Bàng
Bài Thủ thì không thể độ sinh tử. Cho nên có Bàng Bài Thủ thì bạn
có thể qua được biển khổ sinh tử, xuyên qua dòng phiền não, đạt
đến bờ Niết Bàn bên kia.)
103. The Sutra says: “For warding off tigers, wolves, and wildcats, and
all evil beasts, use the Shield Hand.”
Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác
thú, nên cầu nơi Tay cầm cái Bàng-Bài.”
Wolves, tigers, and wildcats are savage and cruel.
Lions and bears are even fiercer yet.
When the shield is held up high, all of them take flight;
And though walking a dangerous road, one remains at ease.
Xua đuổi ác thú- bình an vô sự- tu cái bàng bài
Sài lang hổ báo mạnh hựu hung
Sư tử hùng bi cánh tranh nanh
Bàng bài cao cử giai hồi tỵ
Tuy phùng hiểm lộ diệc khang bình.
Hổ, Sói và Beo mạnh lại còn hung ác.
Sư-tử, Gấu và “BI” thậm chí còn dữ tợn hơn.
Khi Bàng-bài giơ lên cao, thì chúng lẩn tránh xa, mất cả oai phong
thường ngày.
Cho nên, dù “Ta” đi trên con đường hiểm nạn, vẫn cảm thấy bình an
vô-sự.
104. with the commentary of
THE VENERABLE TRIPITAKA MASTER HSUAN HUA
Translated into English by
BHIKSHUNI HENG YIN
THE BUDDHISH TEXT TRANSLATION SOCIETY
SAN FRANCISCO
1976