Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cộng đồng người thống nhất, có chung một nhà nước, một lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - xã hội, có ngôn ngữ và văn hoá chung, thống nhất[55]. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc là nói tới quốc gia. Sự hình thành dân tộc gắn liền với sự ra đời của nhà nƣớc, đó là nhà nƣớc dân tộc. Nhà nƣớc dân tộc có thể là một tộc ngƣời, là dân tộc đơn nhất nhƣ Nhật Bản, Triều Tiên; cũng có thể là nhiều tộc ngƣời, là dân tộc đa tộc ngƣời nhƣ Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nƣớc khác. Nhà nƣớc dân tộc phải là nhà nƣớc độc lập, có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền. Dân tộc không chỉ là một cộng đồng ngƣời hay cộng đồng đa tộc ngƣời mà còn là một cộng đồng kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá gắn với nhà nƣớc và những điều kiện lịch sử nhất định.
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cộng đồng người thống nhất, có chung một nhà nước, một lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - xã hội, có ngôn ngữ và văn hoá chung, thống nhất[55]. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc là nói tới quốc gia. Sự hình thành dân tộc gắn liền với sự ra đời của nhà nƣớc, đó là nhà nƣớc dân tộc. Nhà nƣớc dân tộc có thể là một tộc ngƣời, là dân tộc đơn nhất nhƣ Nhật Bản, Triều Tiên; cũng có thể là nhiều tộc ngƣời, là dân tộc đa tộc ngƣời nhƣ Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nƣớc khác. Nhà nƣớc dân tộc phải là nhà nƣớc độc lập, có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền. Dân tộc không chỉ là một cộng đồng ngƣời hay cộng đồng đa tộc ngƣời mà còn là một cộng đồng kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá gắn với nhà nƣớc và những điều kiện lịch sử nhất định.
1. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - lực lượng toàn dân
- Dân và nhân dân là “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu
Tiên”, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, “già, trẻ, gái, trai, giàu,
nghèo, quý, tiện”. Như vậy, dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa
được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp
đông đảo quần chúng nhân dân, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc nên đại đoàn kết toàn dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
- Do đó, đại đoàn kết toàn dân tộc là phải tập hợp được mọi người dân vào một
khối trong cuộc đấu tranh chung. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết của ta
không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thông nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước
nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân
thì ta đoàn kết với họ”. “Ta” ở đây vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa là mọi
người dân Việt Nam.
- Trong quá trình xây dựng khốiđại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên
lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân
tộc để tập hợp lực lượng, không bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng
đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không
phản bội lại quyền lợi của dân chúng.